Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 5 tháng 5, 2016

Thủy điện trên sông Hồng: Nếu bán dự án cho nước ngoài...


>> Ruộng lúa chín vàng óng trong văn phòng công ty Nhật

Thành Luân

Đất Việt - Nếu chủ đầu tư tư nhân chuyển nhượng dự án cho nước ngoài mà lại đúng vào tay Trung Quốc thì coi vô cùng nguy hiểm.

Đó là cảnh báo của GS.TS Vũ Trọng Hồng, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT về dự án giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng kết hợp thủy điện.

Trước đó, Bộ Kế hoạch và đầu tư vừa có văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, thông qua chủ trương đầu tư dự án giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng kết hợp thủy điện theo hình thức BOO (xây dựng - sở hữu - vận hành). Dự án do Công ty TNHH Xuân Thiện thuộc Tập đoàn kinh tế Xuân Thành đề xuất.

Dự án có mục tiêu là nâng cấp tuyến vận tải đường thủy dọc sông Hồng trên cơ sở kết nối 2 tuyến vận tải thủy lớn là Hải Phòng – Việt Trì và Hà Nội – Lạch Giang; cung cấp lượng điện năng lên tới 0,91 tỷ Kwh/năm.

Để thực hiện mục tiêu trên, nhà đầu tư sẽ xây dựng 6 đập dâng nước và âu tàu, nạo vét 288 km luồng sông Hồng đoạn từ Việt Trì lên Lào Cai đạt tiêu chuẩn sông cấp III; kết hợp xây dựng 6 nhà máy thủy điện nhỏ (cấp II), kiểu tuabin trục ngang cột nước thấp với tổng công suất thiết kế khoảng 228 MW; xây dựng 7 cảng dọc tuyến từ Hà Nội lên tới Lào Cai.

Tính toán sơ bộ của Xuân Thiện cho thấy, dự án này cần tới 24.510 tỷ đồng, trong đó 30% tổng mức đầu tư do nhà đầu tư góp bằng vốn chủ sở hữu; phần còn lại sẽ được huy động vốn vay thương mại.

Mất vựa lúa ĐBSH

Trao đổi về dự án, GS.TS Vũ Trọng Hồng, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết, với tổng công suất thiết kế 228 MW các nhà máy thủy điện trên không gọi là  thủy điện nhỏ được và tuổi thọ của các thủy điện này phải 100 năm. Mục tiêu đầu tiên của chủ đầu tư là kinh tế nhưng họ chưa nói đến sinh thái môi trường.

Vị chuyên gia phân tích, trước hết, dòng sông Hồng sẽ tụt xuống, không phải 1m như hiện nay mà là 2m. Hệ quả là nước biển dâng vào, đất của ĐBSH lún xuống. Khi ấy, các tỉnh ven biển như Thái Bình, Nam Định sẽ gặp hiểm họa trước tiên, cả vựa lúa ĐBSH sẽ bị mất.

Thứ hai, hai bờ sông Hồng sẽ bị phá rộng ra vì hết bùn cát, làm cho tất cả diện mạo của ĐBSH, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội bị xâm phạm, thậm chí biến mất. Liệu ta có đủ tiền đầu tư để làm các đê chống?

Thứ ba, các nhà máy thủy điện sẽ không phục vụ gì cho nông nghiệp bởi chúng chỉ mở nước khi phát điện. Miền Tây, Tây Nguyên vừa qua bị hạn, xâm nhập mặn nặng nề, chúng ta đã yêu cầu các thủy điện xả nước nhưng họ không làm được. Ngay cả đập Cảnh Hồng của Trung Quốc cũng thông báo khi nào phát điện họ mới xả nước.

Thứ tư, mục tiêu của chúng ta hiện nay là nông nghiệp, đời sống người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp, một khi mất sông Hồng chúng ta sẽ mất nông nghiệp.

"Sông Hồng là mạch máu, là tài sản quốc gia nhưng nó không chỉ có một dòng sông mà cả hệ thống sông Đuống, sông Luộc, sông Thái Bình và nhiều nhánh khác. Nếu sông Hồng bị khống chế nước thì toàn bộ các dòng sông nhánh sẽ chết. Theo nghiên cứu địa chất, khi ấy ĐBSH sẽ bị tụt xuống, cộng với nước biển dâng, Việt Nam sẽ mất hẳn ĐBSH.

Chúng ta tự hào về văn minh lúa nước sông Hồng, mất sông Hồng là mất đi nền văn mình đời Hùng Vương để lại, liệu cháu con đời đời có nhắc đến chuyện này không?", GS Hồng trăn trở.

Nguy cơ chuyển nhượng cho nước ngoài

Xét về khía cạnh kinh tế, theo GS.TS Vũ Trọng Hồng, Xuân Thiện cho hay, dự án này cần tới 24.510 tỷ đồng, trong đó 30% tổng mức đầu tư do nhà đầu tư góp bằng vốn chủ sở hữu; phần còn lại sẽ được huy động vốn vay thương mại.

"Xuân Thiện muốn vay được 70% vốn thương mại thì phải có vốn điều lệ lên tới 7.300 tỷ đồng trong khi vốn pháp định của doanh nghiệp chỉ có khoảng 1.200 tỷ đồng, liệu tổ chức nào cho họ vay? Nếu phá sản, không loại trừ khả năng họ bán dự án nước ngoài. Cho nên chủ đầu tư nói sẽ vay bằng nhiều nguồn, nhưng về kinh tế, rõ ràng họ không đủ năng lực", ông Hồng nói.

Chính vì thế, một trong những nguy cơ nghiêm trọng nhất và cũng khiến GS.TS Vũ Trọng Hồng lo lắng nhất, chính là nguy cơ chủ đầu tư có thể chuyển giao dự án cho nước ngoài.

"Về an ninh chính trị, khi giao cho Công ty TNHH Xuân Thiện làm, tức là giao cho tư nhân, việc mở nước là phải do Xuân Thiện quyết định, chứ không hề dễ dàng như đập Hòa Bình. Kinh nghiệm thủy điện trên sông Vu Gia, Thu Bồn giữ nước khiến hạ du khát vẫn còn đó. Khi ấy (năm 2010 - PV), Phó Thủ tướng chỉ đạo chủ đầu tư công trình thủy điện phải mở nước 25m3/s để trả nguồn nước về sông Vu Gia nhưng họ "cãi lệnh" và cho rằng như thế thì mất phát điện, khi nào cần mới mở nước. 6 đập thủy điện trên sông Hồng sẽ không phục vụ cho nông nghiệp mà phục vụ cho GTVT để nối với Trung Quốc. Liệu các tỉnh ĐBSH ở hạ lưu có chịu được áp lực này không?

Đáng lo ngại hơn, nếu thủy điện này vào tay tư nhân và họ chuyển nhượng nó cho tập đoàn nước ngoài (họ có quyền làm việc này) mà lại đúng vào doanh nghiệp Trung Quốc thì vô cùng nguy hiểm. Khi chúng ta muốn xả nước là phải nói chuyện doanh nghiệp Trung Quốc.

Tại sao lại để tư nhân quản lý một nguồn nước lớn như sông Hồng, trong lúc đập Hòa Bình, Sơn La đều là của Nhà nước? Nguy cơ an ninh chính trị là rất lớn, trong nước sẽ mất ổn định giữa thượng lưu và hạ lưu, thượng lưu thừa nước mà hạ lưu không có nước vì họ sẽ chỉ làm thủy điện ở phía Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, mà nông nghiệp của ta là ở dưới Thái Bình, Nam Định...", GS.TS Vũ Trọng Hồng lo ngại.

Một vấn đề khác được Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam đề cập, đó là khi dự án giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng kết hợp thủy điện hoàn thành, chủ đầu tư sẽ tiến hành thu phí. Điều đó có nghĩa tất cả tàu thuyền lâu nay vận chuyển hàng hóa miễn phí trên sông Hồng giờ phải đóng phí, phí ấy sẽ được tính vào giá thành sản phẩm và người tiêu dùng tự nhiên phải mua hàng với giá đắt hơn.

Vì thế, vị chuyên gia khẳng định quan điểm, không nên ủng hộ đầu tư dự án này.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyên nhân suy tàn của Kinh đô Angkor

Angkor Thiêng Liêng Sau khi vươn lên những chiều cao hùng vĩ, có lẽ thành phố thánh đã thiết kế sự suy sụp cho chính nó. (Divining Angkor After rising to sublime heights, the sacred city may have engineered its own downfall)

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/f/f5/Buddhist_monks_in_front_of_the_Angkor_Wat.jpg
Angkor-Wat
Từ không trung, ngôi đền cũ từ hàng nhiều thế kỷ xuất hiện và biến mất như một ảo ảnh. Thoạt tiên, nó không hơn gì một vết nhòe nâu sậm trong vòm rừng phía Bắc Cambodia. Bên dưới chúng tôi là thành phố tiêu vongAngkor, hiện tại bị tàn phế và cư dân hầu hết là nông dân làm ruộng lúa. Từng khóm nhà Khmer, dựng đứng trên những cây cọc để đối phó với lũ lụt trong vụ gió mùa hè – chấm phá thành một phong cảnh từ hồ Tonle Sap, một “hồ vĩ đại” của vùng Đông Nam Á châu, khoảng 20 dặm về hướng Nam, đến dãy đồi núi Kulen – một chỏm nhô ra từ miền đồng bằng đất lụt trong một khoảng cách tương đương về hướng Bắc. Rồi, trong khi Donald Cooney lái chiếc máy bay rất nhỏ lượn trên đầu những ngọn cây, ngôi đền hùng tráng hiện ra trong tầm mắt.

Khôi phục vào thập niên 1940s, ngôi đền Banteay Samre, cất vào thế kỷ thứ 12, dâng hiến cho vị thần Ấn Độ giáo Vishnu, gợi lại một Đế Quốc Khmer hưng thịnh vào thời Trung Cổ. Ngôi đền được bao quanh bởi hai hành lang có vách tường vuông và đồng tâm. Có lẽ đã có lúc những vách tường này được bao bọc bởi một hào nước tượng trưng cho đại dương bao tròn ngọn núi Tu Di [i], tức là nơi cư trú huyền thoại của các vị thần Ấn Độ giáo. Banteay Samre chỉ là một trong hơn một ngàn ngôi đền mà người Khmer dựng lên tại thành phố Angkor trong một giai đoạn kiến thiết thoải mái trong quy mô và tham vọng trở nên đối thủ với các kim tự tháp của Ai Cập. Sau khi chúng tôi bay qua, tôi thò cổ ra nhìn lần chót. Ngôi đền đã biến mất trong rừng.

Angkor là cảnh của một trong những hoạt động lớn nhất bị biến mất từ xưa đến nay. Vương quốc Khmer tồn tại từ thế kỷ thứ 9 đến 15, và vào lúc cực thịnh, đã chế ngự trên một lằn cắt rộng lớn ở Đông Nam Á châu, từ Miến Điện ở hướng Tây đến Việt Nam ở hướng Đông. Có tới 750,000 người sống tại Angkor, tức thủ đô của vương quốc, trải dài qua một khu vực bằng cỡ năm thị xã của thành phố New York, biến nó thành một quần thể đô thị lớn nhất của thế giới thời tiền kỹ nghệ. Vào cuối thế kỷ thứ 16, khi các giáo sĩ Bồ Đào Nha xông vào các tháp có dáng hoa sen của đền Angkor Wat – một đền trau chuốt nhất trong các ngôi đền của thành phố và là cổ tích tôn giáo lớn nhất thế giới – thì thủ đô một thời huy hoàng của đế quốc đã lặng chết trong đau đớn.

Angkor-Wat-Map
Hình minh họa
Các học giả đưa ra một danh sách dài những nguyên nhân được nghi ngờ là lý do khiến Angkor Wat bị tàn phế, chẳng hạn như do kẻ xâm lược tham tàn, do chủ ý thay đổi tôn giáo, hoặc do chuyển qua việc mậu dịch đường biển nên thành phố trong đất liền bị hủy bỏ. Hầu hết đều là phỏng đoán: Khoảng 1,300 chữ khắc hãy còn trên những cột cửa và bia đá dựng riêng rẽ, nhưng người Angkor đã không lưu lại một chữ nào để giải thích sự sụp đổ của vương quốc họ.

Các vụ khai quật gần đây, không phải khai quật các đền mà là hạ tầng kiến trúc của thành phố rộng lớn này, cùng đưa đến một câu trả lời mới. Số phận Angkor, như nó xuất hiện, đã được phán quyết bởi ngay chính sự tinh xảo của nó, mà mục tiêu ban đầu là nhằm cải biến một tập hợp những lãnh địa nhỏ thành một đế quốc. Nền văn minh Angkor đã học cách khống chế những cơn lũ lụt của vùng Đông Nam Á châu, sau đó phai mờ vì việc quản trị nước – một nguồn tài nguyên tối quan trọng tại đây – bị vuột mất.

Một câu chuyện hấp dẫn, viết ngay tại chỗ, kể lại sinh hoạt vào lúc cực thịnh của thành phố. Vào cuối thế kỷ thứ 13, Chu Đạt Quan [ii], một sứ thần Trung quốc, đã sống gần một năm tại thủ đô. Ông sống một cách khiêm tốn như một người khách của một gia đình trung lưu, ăn cơm với muỗng làm bằng vỏ dừa và uống rượu làm từ mật ong, lá cây, hoặc gạo. Ông mô tả một tập quán ghê tởm – đã được từ bỏ không bao lâu trước khi ông đến viếng – đó là tập quán thu thập lá mật từ những người còn sống biếu tặng để dùng làm chất bổ tăng can đảm. Các hội hè tôn giáo mang đặc điểm đốt pháo và đấu heo rừng. Cảnh bắt mắt nhất xảy ra khi vua mạo hiểm xuất cung với đoàn tùy tùng và đồ vật. Đám ruớc hoàng gia gồm có voi và ngựa được trang hoàng bằng vàng, và hàng trăm cung nữ trang sức với bông hoa.

Tiết tấu sinh hoạt hàng ngày của Angkor cũng sống lại qua các điêu khắc đã tồn tại qua nhiều thế kỷ mục nát và, gần đây nhất là chiến tranh. Những phù điêu chạm trổ thấp tại mặt tiền của đền vẽ cảnh sinh hoạt hàng ngày – thí dụ, hai người đàn ông khom người xuống một bàn cờ, và một người đàn bà đang sinh con dưới mái đình phủ bóng mát – và cảnh sùng kính đối với thế giới thần linh, trong đó có những sinh vật như apsaras cư trú, tức là những vũ nữ trên thiên đàng, đẹp một cách quyến rũ và phục vụ như là những sứ giả giữa con người và thần linh.

Những phù điêu chạm trổ thấp cũng bộc lộ phiền nhiễu trên thiên đàng. Xen kẽ với nhãn quan của sự hài hòa nhân gian và sự khai sáng đáng phục là những cảnh chiến tranh. Tại một phù điêu chạm trổ thấp, các chiến sĩ mang giáo, của vương quốc Chiêm Thành lân cận, đứng đầy từ đầu thuyền đến cuối thuyền và đang vượt qua hồ Tonle Sap. Đương nhiên, cảnh đó bất tử trên đá bởi vì người Khmer chiến thắng cuộc chiến này.

Mặc dù Angkor thắng trận xung đột đó, thành phố đã bị tan hoang bởi cuộc cạnh tranh, gia tăng mạnh mẽ tính chất dễ bị tổn thương của nó bởi các vụ tấn công từ Chiêm Thành về hướng Đông và vương quốc đáng sợ Ayutthaya [iii] về hướng Tây. Các vua Khmer thường có vài vợ khiến dòng con thừa kế bị mập mờ và hậu quả là luôn luôn có âm mưu vì các vương tử tranh đoạt quyền lực. Roland Fletcher, một khảo cổ gia tại Đại Học Sydney và là đồng giám đốc của một nỗ lực nghiên cứu được gọi là Dự án Angkor Vĩ Đại Hơn (Greater Angkor Project) nói rằng, “Qua nhiều thế kỷ, nó giống như trận chiến tranh hoa hồng [iv]. Vương quốc Khmer thường xuyên bất ổn định.”

Vài học giả tin rằng Angkor tử vong do chính phong cách sinh hoạt của nó: sử dụng kiếm thương. Bộ biên niên sử của vương quốc Ayutthaya ghi rằng chiến sĩ của vương quốc đó “chiếm” Angkor vào năm 1431. Rõ ràng thành phố Khmer phồn vinh là một giải thưởng sung túc: chữ khắc trên đá khoe rằng các tháp đền được bọc bằng vàng, như câu chuyện đáng kinh ngạc của Chu Đạt Quan đã xác nhận. Để giải thích những câu chuyện về sự giàu có của Angkor cùng những phế tích mục nát mà du khách Tây phương gặp phải thì cách nay một thế kỷ, các sử gia Pháp quốc kết luận rằng do cám dỗ ngấm ngầm đó mà vương quốc Ayutthaya cướp phá Angkor.

Fletcher nói ám ảnh của ông là “nghĩ cho ra điều gì khiến các vụ định cư phát triển và tàn lụi,” hãy còn mơ hồ. Ông nói rằng vài học giả trước đã nhìn Angkor qua lăng kính của các vụ bao vây và chiến thắng trong lịch sử Âu châu. Fletcher nói, “Trong thực tế, nhà cai trị Ayutthaya nói rằng ông chiếm Angkor, và ông có thể chiếm vài biểu tượng và y phục chính thức của quốc vương để mang về Ayutthaya.” Nhưng sau khi Angkor bị chiếm, nhà cai trịAyutthaya thiết lập con của ông ta lên ngai vàng. “Hầu chắc ông sẽ không tàn phá Angkor trước khi giao Angkorcho con trai ông.” [v]

Có lẽ âm mưu của triều đình không gây lo nghĩ cho hầu hết các chủ đề về Angkor, nhưng tôn giáo là trung tâm điểm đối với đời sống hàng ngày. Những nhân chủng học gia gọi Angkor là một thành phố của lễ nghi vua chúa. Những quốc vương của nó tự xưng là hoàng đế trên thế giới của kho tàng Ấn Độ giáo và xây dựng miếu đền cho chính họ. Nhưng vì Phật giáo Tiểu Thừa dần dần làm lu mờ Ấn Độ giáo trong thế kỷ thứ 13 và 14, tôn chỉ của Phật giáo Tiểu Thừa về sự bình đẳng xã hội có lẽ đã uy hiếp giai cấp tinh hoa của Angkor. Fletcher nói, “Phật giáo Tiểu Thừa làm suy yếu rất nhiều, giống như Cơ Đốc giáo làm suy yếu đế quốc La Mã. Cực kỳ khó khăn để chặn đứng Phật giáo Tiểu Thừa.”

Một chuyển biến tôn giáo như thế sẽ xói mòn quyền uy của triều đình. Thành phố của lễ nghi vua chúa vận hành trên một nền kinh tế không dùng tiền tệ, nương tựa vào cống vật và thu thuế. Tiền tệ thực tế của vương quốc là gạo, tức là sản phẩm của những người lao động bị trưng dụng – những người xây dựng đền miếu và nhóm hàng ngàn người điều khiển họ. Một bảng khắc chữ trên đá tại khu đền Ta Prohm ghi rằng 12,640 người đã chỉ phục vụ cho đền đó. Bảng khắc chữ cũng ghi rằng hơn 66,000 nông dân sản xuất gần 3,000 tấn gạo mỗi năm để nuôi ăn tập thể sư sãi, vũ nữ, và công nhân xây đền này. Chỉ cần cộng ba ngôi đền lớn với phương trình giống như thế – Preah Khan và khu quần thể lớn Angkor Wat và Bayon – và số lao động nông dân cần thiết sẽ bộc lên tới 300,000 người. Đó là bằng gần phân nửa dân số được ước tính cho thành phố Angkor Vĩ Đại Hơn. Có lẽ một tôn giáo bình đẳng, mới như Phật giáo Tiểu Thừa đã dẫn đến nổi loạn.

Hoặc giả chỉ đơn giản là triều đình hoàng gia từ bỏ Angkor. Những người thừa kế cai trị có tập quán xây dựng các quần thể miếu đền mới và để cho các quần thể miếu đền cũ mục nát, và cái sở thích xây dựng miếu đền mới đó có lẽ đã kết liễu thành phố khi mậu dịch hàng hải bắt đầu bộc phát giữa Đông Nam Á châu và Trung quốc. Có lẽ chủ nghĩa cơ hội kinh tế đơn giản, vào thế kỷ thứ 16, đã khiến trung tâm quyền lực Khmer di chuyển đến một địa điểm gần sông Mekong hơn, gần với thủ đô Cambodia ngày nay là Phnom Penh, để giúp sự đi vào Biển Đông dễ dàng hơn.

Động loạn tôn giáo và kinh tế có lẽ đã thúc đẩy Angkor suy sụp nhanh hơn, nhưng những người cai trị nó đã bị tấn công bất ngờ bởi một kẻ thù khác. Angkor trở thành một nhà máy nước thời Trung Cổ nhờ vào một hệ thống tinh xảo gồm những kinh đào và hồ chứa nước để giúp cho thành phố tích trữ nước khan hiếm trong các tháng hạn và phân phát nước thừa trong mùa mưa. Những lực lượng nằm ngoài vòng kiểm soát của Angkor đã quăng bộ máy được điều chỉnh sắc sảo này vào tình huống hỗn loạn.

Một trong những địa điểm thần thánh nhất của Angkor nằm cao trên dãy núi đồi Kulen, tại đầu nguồn của hai dòng sông Puok và Siem Reap. Dưới bóng những cây sung sần sùi, chìm dưới làn nước trong lững lờ trôi của một con lạch, là hàng hàng những khối u hình trụ tròn, mỗi khối rộng khoảng sáu inches [vi], khắc vào nền sa thạch đậm màu của đáy sông. Đó là những lingams [vii] sờn mòn, tức là những điêu khắc đá có hình khối trụ tròn tượng trưng cho bản chất của vị thần Ấn Độ giáo Shiva. Những hàng lingams dẫn dắt giống như một con đường đến một điêu khắc khác ở đáy sông: một khoảnh vuông vách tường dầy, rộng một yard [viii], với một lỗ vào nhỏ. Đó là một yoni, một tượng trưng cho nguồn gốc của đời sống trong Ấn Độ giáo.

Những đại sư Angkor đến đây để cảm tạ thần linh đã cung cấp dòng máu sinh mệnh cho vương quốc. Đi bộ một khoảng ngắn lên phía thượng nguồn là một cây cầu thiên nhiên bằng sa thạch, chia sẻ cho khu thánh địa này danh xưng Kbal Spean – tiếng Khmer nghĩa là “đầu cầu hoặc vùng yếu địa.” Nước chảy xiết qua một cái khe, văng tung tóe vào một tảng đá kế cận, đập vào nơi mà thần Vishnu [ix], tréo chân, trầm tư mặc tưởng trên một đại dương đang phẫn nộ; nổi ra từ rốn của thần là trục tròn hoa sen Brahma. Tại đây, dãy núi đồi Kulen, các thần thời xưa vui hưởng rượu dâng vĩnh cửu từ dòng nước chảy đầy.

Bằng cách khai thác thủy triều gió mùa tuôn ra từ đồi núi Kulen, Angkor và những nhà cai trị của nó bộc phát mạnh mẽ. Từ kỷ nguyên Jayavarman II, tức là người đặt cơ sở cho vương quốc vào đầu những năm 800, sự tăng trưởng của đế quốc tùy thuộc vào những vụ gặt lúa bội thu. Trên toàn vùng Nam Á châu, có lẽ chỉ có các thành phố xưa của các tỉnh Anuradhapura và Polonnaruwa ở Sri Lanka và các hồ chứa nước trứ danh của họ là có thể so sánh với khả năng của Angkor để bảo đảm một nguồn cung cấp nước ổn định.

Mức tin cậy đó đòi hỏi các thành quả kỹ thuật vẹn toàn, bao gồm một hồ chứa nước gọi là hồ Tây dài năm dặm và rộng 1.5 dặm. Để xây cất cái hồ chứa nước này, đứng hàng thứ ba và tinh xảo nhất Angkor cách nay cả ngàn năm, có lẽ đã cần đến 200,000 công nhân Khmer để dồn gần 16 triệu thước khối đất trong các đê chắn rộng 300 feet và cao ba tầng. Cho đến nay, cái hồ hình chữ nhật này, hay baray, được tiếp nước bị chuyển hướng từ sông Siem Reap.

Vị học giả đầu tiên tán thưởng quy mô các công trình nước của Angkor là Bernard-Philippe Groslier, một khảo cổ học gia của French School of Asian Studies (EFEO) [x]. Trong một luận văn có ý nghĩa khám phá vào năm 1979, ông hình dung Angkor như là một “thành phố thủy lực.” Ông lý luận rằng các hồ vĩ đại phục vụ cho hai mục đích: để tượng trưng cho đại dương nguyên thủy của vũ trụ Ấn Độ giáo và để dẫn thủy nhập điền. Thật không may là Groslier đã không thể theo đuổi quan điểm này xa hơn nữa. Trận nội chiến Cambodia, chế độ tàn khốc Khmer Rouge, và vụ đánh đuổi chế độ này bởi quân đội Việt Nam vào năm 1979 biến Angkor thành một cấm khu trong hai thập niên. Sau khi quân đội Việt Nam triệt thoái, bọn cướp cạn đổ về Angkor, ăn cắp các pho tượng và thậm chí đục mất các phù điêu chạm trổ thấp.

Khi Christophe Pottier, một kiến trúc sư và khảo cổ học gia, mở lại trạm nghiên cứu của EFEO tại Angkor vào năm 1992, ưu tiên trước hết là giúp Cambodia khôi phục những đền miếu bị mục nát và cướp phá. Nhưng Pottier bị lôi cuốn vào chốn hoang dã nằm bên ngoài những vách tường đền miếu. Ông bỏ ra nhiều tháng bôn ba một nửa vùng hướng Nam của Angkor Vĩ Đại Hơn bằng xe gắn máy và đi bộ, vẽ bản đồ những mô đất nhà cửa và thánh địa ẩn tàng gần các ao nhân tạo, được gọi là bồn nước. (Tình trạng vô luật pháp dây dưa đã ngăn cản Pottier khảo sát một nửa vùng hướng Bắc.) Rồi, vào năm 2000, Fletcher và đồng nghiệp Damian Evans nhúng tay vào các hình ảnhAngkor chụp bằng radar của NASA. Các hình này là một khám phá: đội thuộc đại học Sydney, làm việc với EFEO và APSARA, một cơ quan Cambodia quản trị Angkor, đã tìm ra nhiều di tích hơn của các vụ định cư, kinh đào, và bồn nước, đặc biệt là tại những địa khu không thể đi vào được của Angkor. Những chuyến bay nhỏ của Donald Cooney đã giúp Fletcher và Pottier, hiện nay là một đồng giám đốc của Dự Án Angkor Vĩ Đại Hơn, xem xét những đặc điểm này trong chi tiết tinh tế hơn. Một cách tối quan trọng, họ đã tìm ra các lối nước vào và lối nước ra của các hồ, kết thúc vụ tranh luận tác động bởi công việc của Groslier về việc liệu rằng các hồ chứa nước đồ sộ chỉ được sử dụng cho các lễ nghi tôn giáo hay chỉ cho việc dẫn thủy nhập điền. Câu trả lời rõ ràng là cho cả hai.

Các nhà nghiên cứu kinh ngạc trước tham vọng của các kỹ sư Angkor. Fletcher nói, “Chúng tôi nhận thức ra rằng toàn thể phong cảnh của Angkor Vĩ Đại Hơn là nhân tạo.” Trải qua vài thế kỷ, những đội công nhân xây cất hàng trăm dặm kinh đào và đê điều dựa trên các khác biệt nhỏ trong khuynh hướng tự nhiên của đất để đổi hướng nước chảy từ Puok, Roluos, và sông Siem Reap Rivers vào các hồ. Trong các tháng gió mùa mùa hè, các kênh tràn nước thải giảm phần nước thặng dư. Sau khi mưa thưa dần trong tháng 10 hoặc 11, các kênh dẫn nước tháo nước tồn trữ ra. Có lẽ các hồ cũng giúp bổ sung độ ẩm cho đất bằng cách để cho nước ướt đẫm vào đất. Trên mặt các cánh đồng chung quanh, hơi nước sẽ rút nước ở dưới đất lên để cung ứng cho mùa màng. Fletcher nói, “Đó là một hệ thống thông minh một cách khó tin.”

Hệ thống nước thông minh đó có lẽ đã tạo sự khác biệt giữa tầm thường và vĩ đại. Hầu hết gạo của vương quốc được gieo trồng tại những cánh đồng có đê chắn, nếu không thì phải dựa vào các trận mưa gió mùa hoặc thủy triều lên xuống theo mùa và lưu lượng nước trên vùng đồng bằng đất lụt của hồ Tonle Sap. Sự dẫn thủy thúc đẩy mạnh thu hoạch. Fletcher nói rằng hệ thống cũng có thể cung cấp khẩu phần lương thực để sống còn trong một mùa gió mùa tệ hại. Và khả năng chuyển hướng dòng nước và tồn trữ nước là một phương cách bảo vệ khỏi tai họa lũ lụt. Ông nói trong khi các vương quốc khác ở vùng Đông Nam Á châu vật vã đối phó với tình trạng ít nước quá hoặc nhiều nước quá thì các công trình nước của Angkor sẽ là “một tài sản chiến lược có giá trị sâu sắc.”

Vì vậy Fletcher bị điên đầu khi đội của ông khai quật một trong các mảnh đặc thù của kỹ năng Angkor – một cấu trúc rộng lớn trong các công trình nước – và tìm thấy rằng nó đã bị phá hủy, rõ ràng bởi chính các kỹ sư của Angkor.

Lúc này là lúc gần trưa vào một ngày tháng Sáu, khoảng 10 dặm về hướng Bắc của đền Angkor Wat, và ngay cả ở dưới đáy của một vũng bùn, một đường mương dài 14-foot, thời tiết không dễ chịu chút nào dưới ánh nắng cháy da. Fletcher dở cái nón xanh đậm ra và lau trán. Trông giống như là nhà nghiên cứu điềm tĩnh và tự tin này sẽ phóng vào một giải thích chính xác về các khối đá đỏ xám mà đội của ông, cùng với Chhay Rachna thuộc cơ quan APSARA, đã khai quật. Thay vào đó, ông thở ra và nói, “Cái này đơn giản là tuyệt vời!”

Các khối đá dính sát với nhau, được đẽo từ đất đỏ (đá ong), tức là một loại đất xốp mềm, đầy chất sắt, trở nên cứng khi phô ra trong không khí. Khi Fletcher và Pottier tìm thấy lần đầu tiên một phần của cấu trúc cách nay vài năm, họ nghĩ đó là các phần còn lại của một cửa cống nhỏ.



Ông nói, “Nó trở nên một quái vật.” Các khối đá là tàn tích của một đường thoát nước xuyên qua một cái đập nằm nghiêng mà chiều dài có thể kéo ra bằng một sân chơi football. Khoảng cuối thế kỷ thứ 9, với việc nở rộ của Angkor, các kỹ sư đào một con kinh dài để thay đổi dòng chảy của sông Siem Reap, tái định hướng nó chảy về hướng Nam, đổ vào hồ Đông mới được xây cất – một hồ chứa nước lớn gần bằng như hồ Tây. Cái đập, vị trí đặt ở sông, chuyển hướng nước để cung cấp cho kinh. Nhưng có lẽ một phần của cấu trúc đồ sộ này cũng vận hành như là một đường thoát nước khi gió mùa nổi lên, tức là khi mà nước sẽ phủ ngập cấu trúc thấp và chảy xuống đường sông trước đây.

Các đổ nát của đường thoát nước là một bằng cớ quan trọng đối với một cuộc chiến đấu hào hùng, bộc lộ sự kiện nhiều thế hệ kỹ sư Khmer đã ứng phó với một hệ thống nước trở nên phức tạp và bất quy củ hơn. Fletcher nói, “Có thể họ đã bỏ một phần rất lớn đời sống của họ để tu sửa nó.” Vài khối đá của đập nằm lộn xộn; đại bộ phận của nề hồ bị mất đi. Fletcher nói, “Sự giải thích hợp lý nhất là đập đã thất bại.” Có lẽ con sông đã ăn vào đập, dần dần làm nó suy yếu. Có thể nó bị cuốn trôi đi bởi một vụ lũ lụt hồng thủy bất thường, loại lũ lụt xuất hiện mỗi một thế kỷ hay ngay cả mỗi 500 năm. Sau đó, người Khmer phá tung công trình đá còn sót lại, để dành các khối đá cho mục đích khác.

Một bằng chứng khác về việc thất bại của hệ thống nước, xuất phát từ một cái ao ở đền Tây Mebon, một ngôi đền trên đảo, ở giữa hồ Tây. Hạt phấn hoa bảo tồn trong đất vụn cho thấy hoa sen và các thực vật sống trong nuớc khác đã phát triển mạnh mẽ trong hồ mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 13. Rồi một loại phấn hoa mới xuất hiện, từ những chủng loại như dương xỉ ưa chuộng sình lầy hay đất khô. Ngay vào điểm cực thịnh của Angkor, một trong các hồ chứa nước của nó hiển nhiên có lúc bị khô cạn. Daniel Penny, một chuyên viên về hạt phấn hoa và là đồng giám đốc của Dự Án Angkor Vĩ Đại Hơn, nói “Một điều nào đó đã sai lầm sớm hơn rất nhiều khoảng thời gian mà chúng tôi dự kiến.”

Bất cứ hư hỏng nào của công trình nước sẽ khiến Angkor dễ bị tổn thương do hiện tượng tự nhiên mà không có người kỹ sư nào vào thời đó có thể tiên liệu. Bắt đầu vào những năm 1300s, Âu châu chịu đựng một vài thế kỷ có khí hậu bất khả tiên đoán, đánh dấu bởi các mùa đông khắc nghiệt và mùa hè lạnh lẽo. Cho đến gần đây, chỉ có các tin tức sơ sài về các phần khác của thế giới đã biểu hiện như thế nào trong thời kỳ đó, được gọi là Thời Kỳ Băng Tuyết Nhỏ. Rõ ràng là Đông Nam Á châu cũng trải qua biến động đột ngột về khí hậu.

Chung quanh Angkor, vụ gió mùa mùa hè kéo dài từ khoảng tháng 5 cho tới tháng 10 và cung cấp gần 90% lượng nước mưa hàng năm cho khu vực. Một vụ gió mùa đều đặn là tối quan trọng cho mọi hình thức đời sống, kể cả cho con người. Để lật ra những khuôn mẫu gió mùa của thời xưa, Brendan Buckley thuộc Đài Thiên Văn Địa Cầu Lamont-Doherty tại Palisades, New York, mạo hiểm đi vào những cánh rừng Đông Nam Á châu để tìm kiếm những loại cây có những vành tròn tăng trưởng mỗi năm. Ông và đội của ông biết sẽ không dễ dàng: hầu hết các chủng vật tại khu vực này khiếm khuyết những vành tròn tăng trưởng có thể phân biệt được hoặc có những cây không sinh vành từ năm này qua năm nọ. Vài vụ tàn phá cho kết quả tốt với các chủng loại sống lâu, bao gồm cây gỗ teak và po mu, một loại cây bách hiếm. Vài cây po mu mà họ lập danh mục đã sống tới 9 thế kỷ, sống sót qua cả hai thời kỳ cực thịnh và tan rã của Angkor.

Những cây po mu kể lại một câu chuyện đáng kinh ngạc. Các bộ vành tròn tăng trưởng bị thu hẹp lại cho thấy rằng cây đã chịu đựng những vụ hạn hán cực lớn, lặp đi lặp lại, từ năm 1362 đến năm 1392 và từ năm 1415 đến năm 1440. Trong các thời kỳ này, vụ gió mùa bị yếu hoặc trì hoãn, và có vài năm, có lẽ vụ gió mùa hoàn toàn không xảy ra. Trong những năm khác, những vụ gió mùa cực lớn tập kích khu vực này.

Đối với một vương quốc chao đảo thì tình huống khí hậu thái quá có thể đã là một phát súng ân huệ. Hàng nhiều thập niên trước, các công trình nước của Angkor vốn đã bệnh hoạn, phán xét từ hồ Tây không vận hành. Penny nói, “Chúng tôi không biết tại sao hệ thống nước vận hành dưới khả năng của nó – đó là một nan đề. Nhưng điều đó có nghĩa là Angkor thực sự không có dư mỡ để đốt. Thành phố bị phơi ra cho sự đe dọa hạn hán nhiều hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử.” Những vụ hạn hán kéo dài và nghiêm trọng, thỉnh thoảng bị mưa như thác đổ, Fletcher nói “sẽ hủy hoại hệ thống nước.”

Tuy nhiên, Penny nói, “chúng tôi không nói rằng địa điểm này trở thành sa mạc.” Dân chúng tại vùng đồng bằng đất lụt Tonle Sap, ở hướng Nam của những đền miếu chính sẽ được che chở từ những hậu quả tệ hại nhất. Hồ Tonle Sap được nuôi dưỡng bởi sông Mekong, có thượng nguồn ở những cánh đồng băng tuyết tại Tây Tạng, sẽ hầu như không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của vụ gió mùa. Nhưng các kỹ sư Khmer, với kỹ năng như họ có, không thể làm giảm bớt điều kiện khô cằn ở phía Bắc bằng cách dời nước hồ Tonle Sap áp vào đất đai. Trọng lực là cái bơm duy nhất của họ.

Nếu cư dân vùng phía Bắc Angkor bị đói trong khi các phía khác của thành phố tích trữ gạo thì khung cảnh này sẽ tạo nên lo âu nghiêm trọng. Nhân chủng gia Michael Coethe thuộc đại học Yales nói, “Khi dân số tại các nước nhiệt đới vượt quá khả năng cưu mang của đất đai thì phiền nhiễu thực sự sẽ bắt đầu. Điều này tất nhiên dẫn đến sụp đổ về văn hóa.” Một quân đội bị kém dinh dưỡng, bị bận tâm bận trí vì xung đột nội bộ, sẽ phơi bày thành phố ra cho bị tấn công. Thực vậy, sự xâm lăng của Ayutthaya và trục xuất vua Khmer đã xảy ra vào lúc gần cuối vụ hạn hán cực lớn lần thứ nhì.

Fletcher nói, “Cộng thêm vào những vụ lộn xộn về khí hậu là các phong trào chuyển đổi về tôn giáo và chính trị vốn đã đang nện mạnh vương quốc, và số phận của Angkor đã được khẳng định. Thế giới chung quanh Angkor đang thay đổi. Xã hội đang tiến triển. Sẽ là một ngạc nhiên nếu như Angkor tồn tại được.”

Đế quốc Khmer không phải là nền văn minh đầu tiên bị tai họa khí hậu đánh ngã. Nhiều thế kỷ trước, trong khi Angkor vươn lên thì ở một nửa vòng trái đất, một tổn thất tương tự – liên quan đến sự thăng bằng môi trường – đã nện búa vào các thành phố tại Mexico và Trung Mỹ. Ngày nay, nhiều học giả tin rằng Maya bị ngã sụm vì thặng dư dân số và vì sự thoái hóa môi trường, tiếp theo sau một loạt ba vụ hạn hán tàn bạo vào thế kỷ thứ 9. Coe, người đầu tiên vào thập niên 1950s đã nhận thức rất rõ những điểm tương đồng giữa hai nền văn minh Khmer và Maya, nói “Một cách tất yếu, điều tương tự như vậy đã xảy ra cho Angkor.”

Có lẽ các xã hội hiện đại cần chuẩn bị cho những thử thách khí hậu. Theo Buckley, phát lảy cò súng tương tự như những vụ hạn hán cực lớn của Angkor hầu chắc là El Niño [xi] kịch liệt và dai dẳng đang hâm nóng mặt nước ở vùng trung tâm và nhiệt đới phía Đông của Thái Bình dương. Các khoa học gia tranh luận sự thay đổi khí hậu do con người gây ra sẽ hay không sẽ dẫn đến các El Niños rõ rệt, nhưng các vành cây ở Việt Nam cho thấy ngay cả những dao động tự nhiên ở Thái Bình dương cũng có thể phát ra tai họa.

Sự kết thúc của Angkor là một bài học có chừng mực trong giới hạn của tài trí thông minh của con người. Người Khmer cải biến thế giới của họ – một sự đầu tư đền miếu sẽ bạc đãi những người cai trị vương quốc để tiến đến từ bỏ nó. Fletcher nói, “Hệ thống thủy lực của Angkor là một bộ máy đáng ngạc nhiên, một cơ chế kỳ diệu để điều hành thế giới. Các kỹ sư của nó sắp xếp để bảo trì thành quả trọng đại của một nền văn minh đã vận hành trong sáu thế kỷ – mãi đến khi một lực lượng mạnh hơn áp đảo họ.

Tác giả: Richard Stone

Dịch và chú thích: Phạm Văn Bân

* Tác giả Richard Stone, làm việc tại Beijing, là biên tập viên đặc trách Á châu cho tạp chí Khoa Học. Robert Clark đã chụp cả tá hình bìa cho tạp chí Geographic.

Nguyên tác: Angkor, by Richard Stone

------------------
Chú thích

[i] Núi Tu Di 鬚彌山: theo huyền thoại cổ Ấn Độ, núi Tu Di là ngọn núi của trung tâm thế giới, về sau Phật giáo gọi đó là trung ương của tiểu thiên thế giới, tức là dãy núi Hy Mã Lạp Sơn. Theo kinh Trường A Hàm thì núi Tu Di có 4 đại bộ châu (Bắc Câu Lô châu, Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hóa châu, và Nam Thiệm Bộ châu) và 8 tiểu bộ châu, và theo Câu Xá Luận thì Tu Di do bốn thứ quý tạo thành: mặt hướng Đông bằng bạc trắng, mặt hướng Bắc bằng vàng, mặt hướng Tây bằng ngọc pha lê, và mặt hướng Nam bằng ngọc lưu ly. Tu Di cao 84,000 Yojanas (vài ngàn dặm), đỉnh núi là Đế Thích thiên, bốn mặt là tứ thiên vương. Theo truyền thuyết, Tu Di là một ngọn núi ở đâu đó về phía Tây của Tây Tạng, nhưng đó chỉ là huyền thoại mà thôi. Nói cách khác, không bao giờ có người nào xác định được vị trí của núi Tu Di. Vài học giả tin rằng đó là núi Pamirs, nằm hướng Đông Bắc của Kashmir.

[ii] Nếu muốn biết thêm chi tiết, xin tìm đọc bài ký sự Ba ngày ở Siem Reap do tôi viết, và cuốn Chân Lạp phong thổ kýcủa Chu Đạt Quan do tôi dịch; cả hai đã đăng tại vài diễn đàn email vào năm 2008.

[iii] Vương quốc Ayutthaya do vua U Thong thành lập vào năm 1350 tại tỉnh Ayutthaya, Thái Lan. Ngày nay, tàn tích của thành phố này trở thành công viên lịch sử Ayutthaya, và được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

[iv] chiến tranh hoa hồng: tên gọi cho một loạt trận chiến giữa gia tộc House of Lancaster và gia tộc House of York trong suốt một thời gian từ năm 1455 đến 1487 để tranh dành ngôi vua Anh quốc. Cuối cùng gia tộc Lancaster thắng, Henry Tudor lên ngôi vua và thiết lập một triều đình kéo dài được 116 năm cai trị Anh quốc. Danh xưng “Wars of the Roses” không dùng trong thời gian xảy ra các trận chiến; nhưng trở nên phổ biến vào thế kỷ thứ 19. Trung quốc dịch là Mân Côi chiến tranh (玫瑰戰爭)

[v] Fletcher nói như thế là để bác bỏ kết luận của các sử gia Pháp được nêu ở đoạn trên đó: do cám dỗ ngấm ngầm đó mà vương quốc Ayutthaya cướp phá Angkor.

[vi] 1 inch bằng 2.54 cm

[vii] lingam biểu tượng cho sinh thực khí của nam giới (林伽是男性生殖器像 lâm già thị nam tính sinh thực khí tượng) vàyoni biểu tượng cho sinh thực khí của nữ giới (約尼是女性生殖器像 ước ni thị nữ tính sinh thực khí tượng). Lingam có hình khối trụ, đặt lên trên yoni có hình khối vuông. Ấn Độ giáo xem đó là hai đại biểu cho sinh mệnh, khai sáng ra thần lực siêu tự nhiên, là nguồn gốc của vũ trụ và tượng trưng cho lực lượng tối cao (印度教林伽認為它代表生命, 象徵 生殖, 創造的超自然神力, 是宇宙之源 和最高 力量的象徵: Ấn độ giáo lâm già nhận vi tha đại biểu sinh mệnh, tượng trưng sanh thực, sáng tạo đích siêu tự nhiên thần lực, thị vũ trụ chi nguyên và tối cao lực lượng đích tượng trưng.)

[viii] 1 yard bằng .91 m

[ix] Các đền đài Angkor luôn luôn được cất theo một biểu tượng để tôn vinh tín ngưỡng, hoặc Ấn Độ giáo, hoặc Phật giáo. Đối với Ấn Độ giáo, họ tôn thờ hai vị thần: Thần Bảo Tồn Vishnu và Thần Phá Hủy Shiva, còn Thần Sáng Tạo Brahma không thấy nhắc đến. Tuy nhiên, Thần Shiva chỉ được thờ cúng đến khoảng cuối thế kỷ XI mà thôi, sau đó Thần Vishnu chiếm vị thế độc tôn, trong ý nghĩa Thần Vishnu là người bảo vệ vũ trụ và các thần, có một mặt và bốn tay. Đền thờ Thần Vishnu có khuôn mẫu của một vũ trụ thu nhỏ, trong đó thành quách tượng trưng cho các dãy núi, hào nước tượng trưng cho các đại dương (trong thực tế là một phương cách phòng thủ hữu hiệu) và ở giữa là núi Tu Di được xem là nơi cư trú của Thần Vishnu. Cả ba vị thần này hợp thành một bộ tam thần Trimurty.

[x] EFEO: École Française d’Extrême-Orient: Học Viện Pháp quốc về Viễn Đông, thường gọi là Trường Viễn Đông Bác Cổ.

[xi] El Nino là sự dao động nhiệt độ bất thường trên mặt nước của vùng Thái Bình dương, thường gọi là dao động vùng phía Nam (Southern Oscillation). Dao động này như một chiếc ghế xích đu giữa vùng phía Đông và vùng phía Tây của Thái Bình dương: khi áp suất không khí cao ở phía Đông thì ở phía Tây lại thấp, và ngược lại. Bởi vì việc nóng biển và đảo ngược áp suất ngay cùng một lúc nên các khoa học gia gọi hiện tượng này là El Nino/dao động vùng phía Nam (El Nino/Southern Oscillation hay gọi tắt là ENSO). Những ngư dân Nam Mỹ cho hiện tượng này cái tên El Nino, nghĩa là “đứa con của Chúa” bởi vì nó xảy ra vào lúc mừng Chúa giáng sinh (Christ Child-Christmas).

(Nghiên cứu Lịch sử)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

SOS:

 TRUNG QUỐC PHÁT LỆNH XẢ ĐỘC VÀO BIỂN

Ảnh cá chết trên bờ biển quanh đảo Pag-asa (Thị Tứ)

Trung Quốc phát lệnh xả độc vào biển
 
Khanh Tuan Nguyen

Chỉ cần một chút tinh ý, bạn sẽ nhìn thấy đất nước Việt Nam đang lâm vào cuộc bao vây nào, cũng như sự im lặng của nhiều quan chức Việt Nam là hoàn toàn có thể phỏng đoán được vì sao.

Đầu tháng 5/2016, tương tự như người dân ở 4 tỉnh miền Trung việt Nam, những người dân Phi Luật Tân sống ở gần đảo Pag-asa (Thị Tứ), một hòn đảo ở gần vùng biển phía Tây Phi Luật Tân, cho biết họ kinh hoàng nhìn thấy hàng hàng lớp lớp các loài sinh vật biển chết, trôi dạt đầy các bờ. Thủ phạm cũng không khó tìm: chính các tàu cá giả dạng của chính quyền Trung Quốc đã đến gần, đổ hàng tấn hóa chất độc xuống nhằm hủy diệt môi trường, nhằm triệt hạ đường sống của ngư dân ở đây.

Lời tố cáo chính thức, phát đi trên trang Elitereaders, cho biết hành động hủy diệt này của Trung Quốc là có chủ ý rõ ràng. Khi môi trường của khu vực này bị hủy diệt, tức đời sống và nền kinh tế của dân cư chung quanh đó tê liệt và sợ hãi, sẽ khiến họ rời bỏ ngư trường. Đảo và biển sẽ bị bỏ hoang. Sau đó, Trung Quốc sẽ bất ngờ tiến vào kiểm soát, và thiết lập căn cứ quân sự ở đó.

Trung Quốc đẩy mạnh việc xả độc vào các vùng biển mà họ đang tranh chấp hay nhắm tới, nơi mà họ dùng ngư dân hoặc giả dạng ngư dân làm lá chắn để gây hấn. Đặc biệt, chiến dịch xả độc và gây hấn sẽ tăng mạnn trong mùa đi biển của ngư dân các nước.

"Tháng Ba, bà già đi biển", mùa làm ăn Bính Thân 2016 của ngư dân Việt vừa khởi động đã vấp phải sự cố xả độc chất ra biển của Formosa Hà tĩnh, Vũng Áng. Toàn bộ 4 tỉnh miền Trung hoàn toàn tê liệt trước thảm cảnh thủy sinh vật chết tràn ngập các bờ biển. Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn tàu cá Trung Quốc ra khơi được trang bị vũ khí là một tín hiệu đe dọa cho bất kỳ tàu cá nào của Việt Nam muốn vượt xa ngoài 20 hải lý - đánh bắt dài ngày - để tìm nguồn cá sạch mang về đất liền. Hàng trăm cây số bờ biển Việt Nam bị cô lập.

Cùng thời điểm mà Formosa Hà Tĩnh bất ngờ đẩy mạnh việc xả hàng tấn độc chất ra biển, cũng là lúc nhiều tàu cá Trung Quốc nhận nhiệm vụ âm thầm xâm nhập sâu bờ biển Việt Nam. Nhiệm vụ của họ không phải là đánh cá. Ngày 8 tháng 4, lực lượng tuần tra biên phòng Quảng Bình chận bắt 6 tàu cá như vậy mà chỉ còn cách cửa Nhật Lệ (TP Đồng Hới) khoảng 19 hải lý về phía Đông, cách cửa Gianh khoảng 24 hải lý về phía Đông Đông Nam. Hồ sơ của biên phòng biển Quảng Bình ghi nhận rằng các ngư dân này bất hợp tác, nhiều phần là tàu trinh sát giả dạng.

6 chiếc tàu nói trên chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Có thể hình dung rằng ngoài việc Formosa "vô tình" ồ ạt xả độc ra biển vào thời điểm cụ thể, thì những chiếc tàu Trung Quốc như vậy cũng thực hiện nhiệm vụ thả các thùng độc chất dọc bờ biển không khác gì họ đã làm trên đảo Pag-asa mà người Phi Luật Tân báo động. Biển nhiễm độc kéo dài không điểm dừng tạo nên nỗi sợ hãi của người dân Việt, đồng thời gây hoang mang, tạo cớ cho những thành phần thông đồng với Formosa, núp bóng trong chính quyền hiện hành, lên tiếng chạy chữa, hoặc im lặng né tránh cho tội ác của khu tự trị Vũng Áng.

Nhiều ngày sau khi Formosa Hà Tĩnh ngưng xả độc và bất hợp tác với chính quyền sở tại trong việc cung cấp các dữ liệu MSDS (Material Safety Data Sheets), tức các thành tố minh chứng an toàn trong việc xả độc của họ, cá vẫn chết dọc miền Trung. Ngày 1/5, ngư dân vùng biển Quảng Bình, Quảng Trị cách bờ 20 hải lý cho biết lặn sâu dưới mặt biển 5m vẫn thấy hàng đàn cá lờ đờ nhiễm độc và chết dần. Nước biển thì loang màu đỏ nâu.

Cho đến ngày 4/5 thì nước biển màu đỏ nâu này nổi rõ, xuất hiện dài đến 1,5km ở Bố Trạch Quảng Bình. Dân chúng hoảng sợ, các quan chức thì chết lặng với hiện tượng mới này, không tìm ra cách đối phó. Đồng thời ở Thừa Thiên Huế, cá nuôi nước biển cũng chết dần hàng loạt, bí ẩn. Có phải những thùng độc chất được đục thủng và cho chảy dần, thả dưới lòng biển, tương tự như ở đảo Pag-asa đã bắt đầu có tác dụng?

Ngày 4/5, ông Lê Hữu Phước, Phó Chủ Tịch UBND huyện Hải Lăng, Quảng Trị bàng hoàng trước tình trạng cá chình chết trôi lạ lùng. “Cá chình hết sức khó bắt vì nó sống ở tầng nước sâu, trong kẽ san hô nhưng giờ phải ngoi lên mặt nước là chuyện hết sức lạ thường” – ông Phước nhấn mạnh.

Đến lúc này, mọi chuyện không chỉ nên dừng ở Formosa, mà đó có thể là một nghi vấn về sự liên kết chặt chẽ trong cuộc bao vây đường biển và ngư dân Việt. Một sách lược rất quen thuộc mà ai cũng có thể biết, nếu đã từng tham chiếu phương thức lấn đất, công thành của người Trung Quốc qua các thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc: bỏ độc và bao vây.

Những ngày cá chết rộ lên, độc chất lộ ra... cũng là những ngày mà dân biển Thừa Thiên Huế nói họ nhìn thấy nhiều tàu cá Trung Quốc im lặng xâm nhập sâu. Ngày nước biển Quảng Trị bốc lên mùi hôi thối kỳ lạ, cũng là ngày mà đại tá Hồ Ngọc Hoàng, Phó Chính ủy Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Quảng Trị cho biết tàu cá Trung Quốc bất ngờ xâm phạm hải phận của tỉnh, chỉ còn cách đảo Cồn Cỏ từ 8-10 hải lý.

Chiến thuật bao vây biển cũng chặt chẽ hơn khi ngư dân Việt muốn thoát khỏi sự cùng quẫn của thảm họa gần bờ, họ đi xa hơn 20 hải lý thì luôn bị rượt đuổi, đâm tàu bởi các nhóm đi biển Trung Quốc, hơn nữa, các nhóm tàu cá Trung quốc hung dữ này giờ lại được phát súng.

Câu chuyện cá chết hôm nay, hoàn toàn khác với 15-20 ngày trước. Bên cạnh thảm họa về môi trường còn là một cảnh báo về an nguy của Việt Nam trước Trung Quốc. Viễn tượng thù trong giặc ngoài đang mỗi lúc một hiện rõ, mà nhân dân là người gánh chịu đau thương. Câu chuyện cá chết, biển nhiễm độc hôm nay chính là giờ phút đòi hỏi các nhà lãnh đạo Việt Nam cần phải chứng minh mạnh mẽ lời thề của mình khi nhậm chức, chứng minh sự dứt khoát chọn lựa thế đứng của mình thuộc về đâu, trước hiện thực đã quá rõ của thời cuộc.
 
Tuấn Khanh
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thủ tướng: Sẽ xóa bỏ cơ chế "xin - cho"



Bích Diệp
Dân Trí - Thủ tướng khẳng định, Chính phủ chuyển phương thức chỉ đạo điều hành từ mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ. Song song với việc phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng thị trường, hạn chế và tiến tới xóa bỏ cơ chế xin - cho, Chính phủ sẽ tập trung lo xây dựng thể chế, cơ chế chính sách cho đầu tư, phát triển.

Thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho hay, trong phiên làm việc đầu tiên của phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 4/2016 diễn ra ngày 4/5, Chính phủ đã thảo luận tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2016.

Quyết không điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế

Sau khi nghe 28 ý kiến phát biểu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kết luận: "Chính phủ mới kiện toàn chuyển phương thức chỉ đạo điều hành từ mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ". Đồng thời Thủ tướng cũng khẳng định, song song với việc phải phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng thị trường, hạn chế và tiến tới xóa bỏ cơ chế xin - cho, Chính phủ sẽ tập trung lo xây dựng thể chế, cơ chế chính sách cho đầu tư, phát triển.

Thủ tướng đánh giá, kinh tế Việt Nam đang đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên, Chính phủ sẽ không điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2016, quyết tâm phấn đấu đạt tăng trưởng GDP 6,7%, kiểm soát tốt lạm phát, giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Trên tinh thần này, Thủ tướng chỉ đạo, trong điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng phải linh hoạt, hiệu quả; giảm dần lãi suất cho vay; bảo đảm tăng trưởng tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên gắn với nâng cao chất lượng tín dụng.

Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước đánh giá tình hình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu 2011-2015 và xây dựng Đề án cho giai đoạn 2016-2020, trong đó chú trọng xử lý nợ xấu thực chất qua VAMC.

Về chính sách tài khóa, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ tăng cường chống thất thu, chuyển giá, giảm nợ đọng thuế; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; cơ cấu lại chi ngân sách gắn với đẩy mạnh xã hội hóa đơn vị sự nghiệp công lập; tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả nợ công, không để vượt trần. Quản lý chặt chẽ, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế đấu thầu và mua sắm công tập trung, có giải pháp huy động hiệu quả nguồn lực từ tài sản công; xử lý nghiêm các vi phạm.

Người đứng đầu Chính phủ cũng yêu cầu các cơ quan, bộ ngành sớm hoàn thiện phương án phân bổ kế hoạch đầu tư trung hạn; rà soát quy trình và các dự án tài trợ từ nguồn ODA và vay ưu đãi, xem xét chuyển từ cơ chế cấp phát cho các địa phương sang cho địa phương vay lại nguồn vốn này.

Trước tình hình lạm phát có dấu hiệu quay trở lại, Thủ tướng cũng lưu ý, công tác điều chỉnh giá dịch vụ giáo dục, y tế phải được thực hiện với mức độ và thời điểm phù hợp, không để tác động đến lạm phát.

Cam kết cụ thể về cắt giảm thủ tục hành chính

Tại phiên họp này, Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, VCCI đôn đốc, theo dõi, giám sát, đánh giá kết quả giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp vừa qua và báo cáo kết quả với Thủ tướng Chính phủ.

Thủ tướng nêu rõ, các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan và Chủ tịch UBND các địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, thực hiện kế hoạch, lộ trình cụ thể triển khai ngay Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP và Nghị quyết của Chính phủ về phát triển doanh nghiệp.

Theo đó, phải tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bức xúc; đơn giản và công khai thủ tục hành chính; loại bỏ giấy phép con không phù hợp; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, khuyến khích khởi nghiệp, phát huy tự do sáng tạo, huy động mọi nguồn lực cho phát triển theo tinh thần của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp mới; có cam kết cụ thể về cắt giảm thủ tục hành chính và hoàn thiện bộ chỉ số để doanh nghiệp, người dân chấm điểm chính quyền...

Liên quan đến hiện tượng cá chết tại một số vùng biển miền Trung, Thủ tướng cho biết các cơ quan chức năng đang tích cực điều tra, xác định nguyên nhân.

Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương triển khai kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc làm việc với các địa phương liên quan ngày 01/5/2016 để sớm có kết luận khách quan, khoa học nguyên nhân hải sản chết bất thường và công bố công khai. Đồng thời rà soát tất cả cơ sở sản xuất có xả thải; khôi phục, ổn định sản xuất; hỗ trợ bằng gạo, tiền, lãi suất cho người dân bị ảnh hưởng; xử lý nghiêm các đối tượng gây rối an ninh trật tự.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hạnh phúc nhìn từ vụ cá chết



>> Không cấm nhà báo viết trái ý cơ quan trên mạng xã hội
>> Hồ sơ Panama tiết lộ: Thành Long với những người siêu giàu Trung Quốc


FB Đỗ Khánh
Cho đến hôm nay, biết bao nhà khoa học chìm đắm trong công việc tìm kiếm nguyên nhân vụ cá chết của miền kinh tế biển Hà Tĩnh. Cá chết ban đầu còn là "hiện tượng", giờ người ta gọi là "thảm họa môi trường" bởi sự xâm thực đến các vùng biển lân cận, trải dài: Quảng Bình, Huế, Đà Nẵng... Môi trường sống của miền Trung đang báo động thực sự về mức độ an sinh. Mặc dù nguyên nhân cá chết được cơ quan có thẩm quyền đưa ra ban đầu không liên quan đến Formosa nhưng người dân địa phương vẫn tụ hội về khu Vũng Áng, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh như để tìm ra câu trả lời!

Việt Nam đi lên từ một đất nước nghèo, lạc hậu sau chiến tranh kéo dài nhiều thập kỷ. Công cuộc đổi mới đất nước bắt đầu bùng nổ ở thập kỷ của những năm 90 với mục tiêu "công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" thành công và nâng cao mức tăng trưởng GDP trên trường Thế giới.

Năm nay và lúc này, nhìn lại đã thấy Việt Nam đã hoàn toàn lột xác, đất nước phát triển toàn diện, GDP được thông báo hàng năm tăng trưởng không ngừng... nhưng không ai dám khẳng định đó là sự phát triển và tăng trưởng bền vững!

Sau những gì đang diễn ra ở Trung Quốc, với các cuộc khủng bố có quy mô từ các khu tự trị, mục tiêu xóa bỏ tham nhũng của Chính phủ, giảm khí thải công nghiệp, tăng đầu tư ngoại quốc, làn sóng di dân của những người Hoa giàu có... đã cho thấy người ta rời bỏ tất cả chỉ để có được một xã hội an sinh thực sự.

Thực tế Việt Nam cũng không khác là bao, một bộ phận lớn những thanh niên trí thức, tuổi trẻ tài cao, "con ông cháu cha" đều du học nước ngoài, số rất ít trở về với điều kiện đảm bảo về chỗ đứng vững chắc trong xã hội, còn lại hầu hết đã ở lại nước ngoài, gắn bó với quê hương ngoại lai.

Vì sao nhỉ?

Vì chúng ta lỗi thời rồi bởi trên Thế giới bây giờ không chạy đua về GDP mà người ta chạy đua với nhau bằng chỉ số hạnh phúc, hài lòng của người dân hướng đến mục tiêu tìm ra những điều gì làm đời sống này đáng sống.

Khái niệm luật học gọi đó là mức độ an sinh (well-being), bao gồm không chỉ thu nhập mà còn có các chỉ tiêu khác toàn diện hơn như: môi trường, sức khỏe, giáo dục, an ninh, chất lượng dịch vụ công cũng như sự tham gia của dân chúng vào đời sống cộng đồng xã hội.

Nếu chỉ tính sự thành công trên phương diện tăng GDP có nghĩa là cuộc chạy đua bị lạc đường, trật lối. Đồng ý rằng công nghiệp hiện đại đẩy nhanh sự phát triển của quốc gia, thậm chí nhanh đến "chóng mặt". Song, phát triển chóng vánh không bao giờ là bền vững.

Thực tế cho thấy những nước nghèo, cộng đồng yếu thế trong những thập kỷ gần đây dễ trở thành trung tâm tụ hội các bãi xả thải công nghiệp của hành tinh này, cho nên văn hóa, y tế, môi trường thường phải trả giá cho các dự án phát triển kinh tế đất nước. GDP ở các nơi đó tăng đều hàng năm nhưng thay vào đó là là sự đánh đổi về sự cố môi trường, văn hóa mất bản sắc, giáo dục mất nguồn nhân lực như người tâ vẫn gọi là "chảy máu chất xám"...

Ở tầm vĩ mô toàn cầu, đối mặt với những tác động thiếu bền vững, từ những năm 2012 - 2013 Liên hiệp quốc đã đưa ra các chương trình phát triển hướng dẫn cho các quốc gia thành viên cách đánh giá và đo lường mức độ an sinh "chủ quan" của người dân, theo đó tập trung vào đánh giá tinh thần, cảm xúc, nhận thức của người dân về đời sống cá nhân trong cộng đồng xã hội.

Thế rồi có những quốc gia lý tưởng trên Thế giới đã đưa ra tuyên bố mục tiêu phát triển của mình không phải chạy đua tăng trưởng GDP mà là tăng trưởng "Tổng Hạnh Phúc Quốc nội" (gọi tắt là GNH) như Brutan. các nhà lãnh đạo quốc gia này cho rằng để có được tăng trường GNH, họ vẫn coi trọng hiệu quả tăng trưởng của việc làm, thu nhập, giáo dục, y tế, môi trường; song đặc biệt chú trọng đến hệ thống quản trị và chất lượng dịch vụ công cũng như sự tham gia của dân chúng trong phát triển cộng đồng, bảo tồn văn hóa, cân bằng sinh thái, thời giờ nghỉ ngơi... Như vậy, GDP có tăng nhưng GNH ngày càng tụt thì mục tiêu của cơ quan quản lý Nhà nước thất bại, được coi là lạc hướng, sai đường. Bởi vậy, các thành phố của Mỹ, Anh, Canada, Hà Lan...ngày nay đều coi trọng chỉ số an sinh, đẩy mạnh các dự án đo lường mức độ hạnh phúc của người dân, tạo ra "ngày hành động vì Hạnh phúc"...

Trở lại với vấn đề cá chết và Formasa, trên bình diện không nhỏ, liên tục cập nhật thông tin đăng tải của báo chí, phát thanh, truyền hình, các diễn đàn trang mạng xã hội về cá chết vô biên, môi trường sống ô nhiễm, nguyên nhân chưa tìm thấy những ngày qua trở thành tâm điểm của toàn xã hội. Một bộ phận lớn người dân nuối tiếc về việc mất đi mùa khai biển sôi nổi, đông đúc vào mỗi dịp 30/4 - 1/5 năm nào, người dân du lịch lại đưa nhau lên núi với tâm trạng nhớ thương về một bờ biển miền Trung. Một bộ phận đang nỗ lực khắc phục sự cố trên diện rộng để giúp đỡ bà con ngư dân, song ngày trở lại đời sống đánh bắt thường nhật chắc cũng còn xa...

Ai cũng mong đất nước phát triển, giàu đẹp nhưng nếu không có tính bền vững, cốt làm giàu trước, tính toán dọn dẹp sau thì chúng ta sẽ phải trả giá cho những hệ lụy như Vũng Áng hôm nay, nghiêm trọng hơn là nỗi lòng dân chúng.

Thế nên, triết lý phát triển bền vững có lẽ không còn là kỳ tích tăng GDP mà phải là sự hài lòng của người dân trong xã hội. Liệu họ có còn tin?

Luật sư Trần Hồng Phúc

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 4 tháng 5, 2016

Sốc trước một loạt âm mưu khủng khiếp nhằm vào nước Nga


(VnMedia) - Nga vừa phá tan một loạt âm mưu khủng khiếp nhằm vào nước này do “các tổ chức khủng bố quốc tế” ở Syria và Thổ Nhĩ Kỳ chỉ đạo, cơ quan tình báo FSB của Nga hôm qua (4/5) cho biết. Nhiều kẻ tình nghi đã bị bắt.
Trụ sở cơ quan FSB của Nga
Trụ sở cơ quan FSB của Nga
"Một nhóm những người nhập cư từ các nước Trung Á có âm mưu tiến hành một loạt hành động khủng bố ở khu vực Moscow” đã bị bắt giữ, hãng tin Ria Novosti dẫn lời cơ quan FSB cho biết.
FSB cũng cung cấp thêm thông tin rằng, các cuộc tấn công khủng bố mà lực lượng trên định tiến hành nhằm vào nước Nga trong những ngày đầu tháng Năm này đã được chỉ đạo bởi “giới cầm đầu của những tổ chức khủng bố quốc tế đang hoạt động ở Syria và Thổ Nhĩ Kỳ".
Rất nhiều hoạt động văn hoá, chính trị quy mô lớn diễn ra ở Nga vào những ngày đầu tháng 5 và lực lượng khủng bố định thực hiện các cuộc tấn công vào dịp này.
Theo tuyên bố của FSB, các vụ bắt giữ đã được tiến hành ở thủ đô Moscow nhưng ngày bắt giữ không được cung cấp. “Một số lượng lớn vũ khí và chất nổ” cũng đã bị tịch thu. Những tên khủng bố bị bắt giữ “đang dần nhận tội”.
Thông tin về việc Nga phá tan một loạt âm mưu khủng bố kinh khủng được đưa ra trong bối cảnh Moscow đang tham gia tích cực vào chiến dịch diệt trừ tổ chức khủng bố khét tiếng thế giới mang tên Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Syria.
Kiệt Linh (tổng hợp)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

CHUYỆN NHÂN QUẢ LIÊN QUAN TỚI LỊCH SỬ HỌ NGÔ ĐÌNH


Việc này, tôi nghe biết tới đâu ghi lại tới đó như một bài đức dục chứ không như chuyện chính sự.

***


Ông nội của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Dinh [có sách chép là Ngô Đình Niệm]. Ông Dinh quê gốc ở đâu không rõ, cuối thế kỷ XIX đời vua Tự Đức di cư tới làng Đợi [tức làng An Xá] tổng Đại Phong, huyện Phong Lộc [sau đổi thành huyện Lệ Thủy], tỉnh Quảng Bình, sống bằng nghề làm mướn, vợ chết sớm, chỉ có một trai 6 tuổi. Trong một cơn bệnh, ông qua đời, làng đưa thi hài an táng lại Bến Đẻ một vùng núi ngược dòng Kiến Giang cách làng Đợi 3km. Vì là dân ngụ cư, không thân thuộc lại nghèo, nên việc mai táng đơn sơ, dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông đến Bến Đẻ thì trời đã về chiều, đang khiêng thi hài vào núi thì có tiếng hổ, dân đinh đào vội một huyệt cạnh đường, đặt thi hài lấp đất qua loa rồi chạy. Hôm sau, họ trở lại muốn sửa sang ngôi mộ, thì lạ thay, nấm đất chiều hôm trước lấp qua loa, nay đã hóa thành một mả mối đùn to như cái gò. Người đời hay tin, đều cho là mả thiên táng.
Về phương diện phong thủy, ngôi mộ kể trên đã vào vị trí trung điểm của núi sông Lệ Thủy: 
- Phía Nam có núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ. 
- phía Tây có núi Đầu Mâu hướng về biển Hạc Hải. 
- phía Đông Bắc long mạch theo sông Kiến Giang lên Tróc Vực. Ngôi mộ được kết phát nhưng không có người viếng thăm.

Thủa xa xưa, năm 1530, nhà Mạc có 4 vị quan đầu triều thì 3 vị là người tổng Đại Phong. Mạc Đăng Dung sai thầy địa lý xem thế đất Đại Phong thấy hình dáng chim phượng hoàng, là đất phát đế vương, nếu không kịp yểm thì có cơ lấn át cả triều đình. Mạc Đăng Dung cho đào một con mương cạn dài từ Mũi Viết để “mổ diều” cho phụng chết. Đến thời nhà Lê, thầy địa lý lại phán, phụng bị nhà Mạc mổ diều nhưng chưa chết, đình Đại Phong dựng nơi đầu phụng nên làng này vẫn có khí đế vương. Đất ấy từ xưa đến nay đã có nhiều quan to văn võ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp quê Lộc Thủy nằm trong vùng cánh phượng.
Ngô Đình Dinh/Niệm sinh ra Ngô Đình Khả [1850-1925 có sách nói 1857 tôi cho là chưa chính xác]. Khả được 6 tuổi thì bố mất, Linh mục Caspar [tên Việt là cha Lộc] ở giáo xứ Mỹ Phước nhận nuôi, năm 1870 Michael Ngô Đình Khả được gửi đi học tại Đại chủng viện dòng Thừa sai Paris ở đảo Penang xứ Malaysia [thời đó còn có Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài sang học. Ông Bài sinh năm 1863 mồ côi cha từ lúc 10 tuổi, Linh mục Gioan Châu bảo trợ vào Tiểu chủng viện An Ninh. Sau này, con gái của Bài là Nguyễn Thị Giang, kết hôn với Ngô Đình Khôi con trai trưởng của Khả].
Michael Ngô Đình Khả trở về nước được phân dạy môn triết tại Đại chủng viện Huế, thử thách để lên chức Linh mục, nhưng năm 1878, Ngô Đình Khả rời chủng viện lấy vợ. Người vợ đầu là bà Madeleine Chĩu mất sớm có 1 con trai là Ngô Đình Khôi (1885-1945), sau làm quan triều Nguyễn đến chức Tổng đốc Quảng Nam.
Năm 1889 Ngô Đình Khả tục huyền với bà Anna Phạm Thị Thân sinh được 7 con:
- Ngô Đình Thị Giao (?-1944), tục gọi là bà Thừa Tùng.
- Ngô Đình Diệm còn có bí danh Nguyễn Bá Chinh, sinh ngày 27/7/1897 tại tại lệ Thủy. Sau này đổi ngày sinh thành 03/01/1901. Việc này là do ông Diệm không phải con đẻ bà Thân, đổi như vậy để hợp thức hóa vai “em” của Diệm bởi ông Thục là con vợ chính. [Xem các sách Chính Ðạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963, 2000, tr. 110. Xem tiểu sử Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125; Chính Ðạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng, 2004, I:464-65.]
- Ngô Đình Thục (1897-1984) sau thành Giám mục. Cha Thục sinh ngày 6/10/1897 tại Phước Quả, Thừa Thiên, sinh sau ông Diệm hơn hai tháng.
- Ngô Đình Thị Hiệp, tục gọi bà Ấm, lấy chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
- Ngô Đình Thị Hoàng, tục gọi là bà Lễ.
- Ngô Đình Nhu (1910-1963) Cố vấn Tổng thống VNCH
- Ngô Đình Cẩn (1912-1964) Cố vấn Cao nguyên Trung phần VNCH
- Ngô Đình Luyện (1914-1990) Luật sư và Đại sứ VNCH tại Anh, Hà Lan, Bỉ.

Do có khả năng ngoại ngữ nên Khả được Linh mục chính xứ Phú Cam là Cha Eugène Marie giới thiệu công việc thông dịch tiếng Latinh và tiếng Pháp, rồi chuyển sang làm cho Nam triều. Năm 1885, Ngô Đình Khả giữ chức An phủ sứ Quảng Bình lo việc bình định nghĩa quân của phong trào Cần Vương. Tháng 6/1895 được Nguyễn Thân chọn làm phụ tá trong chiến dịch tiễu trừ phong trào Cần Vương và quan Ngự sử Phan Đình Phùng. Khả làm Phó tướng cho Nguyễn Thân đàn áp các sỹ phu văn thân yêu nước hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi. Ngày 28/12/1895 quan Ngự sử Phan Đình Phùng từ trần, 12 ngày sau Khả cho đào mộ Phan Đình Phùng ở chân núi Quạt, đốt xác, trộn thuốc súng bắn xuống sông. Trước đó, 1894 họ đã khai quật mồ mả gia tộc họ Phùng ở làng Đông Thái và bắt giam hết thân quyến Phan Đình Phùng nhưng không khuất phục được ông. Không những vậy, Ngô Đình Khả còn chịu trách nhiệm chính trong việc biến khu vực Đài Trấn Bình của triều Nguyễn thành nhà thờ công giáo [việc này trong một chủ đề khác]. Với thành tích trên Nguyễn Thân được chính phủ Pháp tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh hạng ba, sau bị điên mà chết. Ngô Đình Khả được phong tước Thái thường Tự khanh (chính tam phẩm) và chức Thương biện thuộc Viện Cơ mật.
Ngày 23/10/1896, trường Quốc học Huế, tên gốc là "Pháp tự Quốc học Trường môn" thành lâp theo Chỉ dụ của vua Thành Thái. Đây là trường đầu tiên ở Trung Kỳ dạy từ tiểu học đến bậc tú tài chuyên khoa. Ngày 18/11/1896 Toàn quyền Đông dương Paul Armand Rosseau ký quyết định thành lập. Trước đó, ngày 21/8/1896, Viện Cơ Mật quyết định chọn Ngô Đình Khả làm Chưởng giáo nhưng sau thì Khả làm Phó Giám đốc, đặc trách quản trị hành chính. Với kiến thức được học tập tại nước ngoài Ngô Đình Khả đã có công xây dựng trường Quốc học Huế trong những năm đầu tiên.
Năm 1898 vua Thành Thái phong Ngô Đình Khả làm Thượng thư Phụ đạo Đại thần.
Năm 1902, vua Thành Thái lại tiếp tục thăng hàm Hiệp tá Đại học sỹ. Từ đây, Ngô Đình Khả thôi chức vụ ở Quốc học Huế.
Năm 1905 Ngô Đình Khả làm nhiệm vụ Tổng quản Cấm thành, chuyên theo dõi vua Thành Thái. Khả nuôi tham vọng biến Thành Thái thành một vua theo Ki-tô giáo đầu tiên [Xem Vũ Ngự Chiêu “Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945” 3 tập, Houston: Văn Hóa, 1999-2000).
Trong cuộc họp tại Tòa Khâm sứ Pháp vào lúc 4:15 chiều ngày 14/8/1906, có mời các Thượng thư Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình, Bộ Công của triều đình nhà Nguyễn, tài liệu của Pháp ghi: “... S.E. le Ministre de l'Intérieur fait renseigner que M. NGO DINH KHA, Chef des Thi Ve chargé de la haute direction du Palais devra être invité et fournir tous renseignements concernant ces personnages qu'il connait mieux que tout autre. APPROUVÉ.” Tạm dịch: “Ngài Thượng thư Bộ Lại mật báo là ông Ngô Đình Khả, chỉ huy Thị Vệ, đảm trách tổng cai quản Hoàng cung, sẽ phải được mời tham dự, để ông ấy cung cấp tất cả các tin tức tài liệu liên quan đến các nhân vật kia, mà ông ta hiểu biết tận tường hơn bất cứ người nào khác... (Lời mật-báo ấy) ĐÃ ĐƯỢC CHẤP THUẬN.”
Năm 1907, vua Thành Thái có hành vi chống Pháp nên Khâm sứ Ferdinand Lévecque bày việc các Đại thần triều đình ký thỉnh nguyện thư yêu cầu viện Cơ mật truất quyền và đày vua Thành Thái sang châu Phi vì nhà vua bị “bệnh tâm thần”. Hầu hết các đại thần đều ký, Ngô Đình Khả không ký nhưng trong lá thư ngày 15/8/1907, Khả vận động 154 học sinh gởi Khâm sứ Levecque tỏ lộ rằng: “Yêu cầu Pháp ban cho họ một ông vua mà chỉ nguyên sự hiện diện đủ trấn an tinh thần binh sĩ và các liệt thần của đế quốc.” [Xem Vũ Ngự Chiêu, “Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945” tập 2, trang 585, việc phản đối “phế ngôi, đày vua”, không phải vì ông Khả lo cho sơn hà xã tắc nước Nam, mà mưu đồ hợp tung giữa Nguyễn Hữu Bài và Khả xem có được lòng Giáo hội và khả năng khuynh loát triều chính hay không.]
Ngày 03/9/1907, Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài, cùng Phủ Phụ Chính (trong đó có Khả) chấp nhận giải pháp của CP Bảo hộ, một tháng sau 17/10/1907, Vĩnh San, hoàng tử thứ hai mới 10 tuổi, lên ngôi. Thành thái phải rời Huế đi Bà rịa, mở đầu cho cuộc đời lưu đày viễn xứ. Sau biến cố này, Ngô Đình Khả lại bị người Pháp nghi ngờ đứng sau vua Thành Thái để ủng hộ cho Kỳ Ngoại hầu Cường Để nên chính quyền Bảo hộ đã tạo cớ buộc Ngô Đình Khả nghỉ hưu. [Xem “Lịch Sử Phật Giáo Huế” trang 357: “Mấy chữ sau đây của ông Nguyễn Đình Hòe nói về ông Ngô Đình Khả, mà Louis Sogny trích lại trong bài viết của ông ở BAVH (Bulletin des Amis du Vieux de Hue), tưởng là quá đủ: “...un grand serviteur de la France...” Cho nên đối với nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, nhất là dân Huế, thì ông Ngô Đình Khả đã “tombé dans l’oubli depuis longtemps” như lời ông Nguyễn Đình Hòe nói vào đầu thế kỷ 20 là điều hiển nhiên vậy.”]
Ngô Đình Khả sau được phục hàm và mất 1925 vì bệnh phổi. Bà Phạm Thị Thân qua đời tại Sài Gòn ngày 02/01/1964 sau khi chứng kiến cái chết thảm của hai con và một bị giam ở Chí Hòa.

NĂM THÁNG QUA ĐI

Động mả kỳ thứ nhất là năm 1939. Nhà tư sản lúa gạo người Đồng Hới, tên là Paul Ngọc, đã mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An Mã để canh tác. Ba Canh không phải vùng màu mỡ thuận lợi để sản xuất lúa gạo nên Paul Ngọc đã cho đào mương dẫn thủy làm chấn động mạch khí. Mặc dầu việc thủy lợi dở dang nhưng liền đó Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức Thượng thư Bộ Lại thu hồi tất cả phẩm trật huy chương vì trái mệnh triều đình chống đối Hoàng đế. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi đang làm Tổng đốc Quảng Nam bị viên Phó Toàn quyền Nouailletas gây khó.

Động mả kỳ thứ hai là năm 1944. Paul Ngọc mời được một kỹ sư canh nông Nhật và tiếp tục công trình dang dở. Liền đó, ông Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị thủ tiêu năm 1945. Khi đó việc thủy lợi của Paul Ngọc lại dang dở lần nữa do Đồng minh đánh Nhật, mọi việc đều đình đốn, các kênh dẫn thủy nhờ thời gian yên ắng đã được đất bồi lại, long mạch được hàn gắn phần nào. Ông Võ Nguyên Giáp [đồng hương với họ Ngô] Bộ trưởng Nội vụ và Vũ Đình Hòe Bộ trưởng Giáo dục CP Lâm Thời, ký sắc lệnh số 21 ngày 08/9/1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Ông Nhu từ chối. Năm 1951, ông Diệm sang Mỹ, ở New Jesey vận động cho những mục tiêu chính trị riêng.
Động mả kỳ thứ ba là năm 1961. HTX Đại Phong xây dựng lá cờ đầu nông nghiệp, khai hoang Bến Tiến, đào kênh đẫn thủy, đào hầm hào ở chân đồi An Mã. Việc hành quyết ông Diệm, ông Nhu thì ai cũng rõ. Ngô Đình Cẩn đang ở Huế, nghe tin anh bị đảo chính tá túc vào nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế ngày 02/11/1963 nhưng không thoát, tới ngày 16/4/1964 bị xử bắn. Ông Ngô Đình Luyện thoát vì đang ở London. Ông Ngô Đình Thục phải lưu vong, sau đó ông đã vi phạm việc tấn phong Giám mục bất hợp thức, được giải vạ năm 1984 trước khi mất vài tháng. Các phần mộ gia đình họ Ngô ở Sài Gòn cũng không được yên, phải di dời tới nơi mới như hiện nay.
Tích sử còn dài, nhưng tới đây đủ dãy bày nhân quả.

Phần nhận xét hiển thị trên trang