Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

.."Ta đang nhớ thuở sông dài núi rộng đường thênh thang của một gã giang hồ.."

Đặng Tiến
 
Văn thơ Miền Nam 1954-1975 được gọi là nền văn học bất hạnh. Vì nó đã bị xuyên tạc, tuyên án, thiêu hủy và bôi xóa; các tác giả đã bị tù đày, đọa đày và lưu đày.
Trong số đó, có nhà thơ Vũ Hữu Định (1941-1981), từ 1972 đã xem mình như một người lỡ vận:
Ta đã hát khúc hát đời lỡ vận
Hát âm u trong đêm tối một mình. (tr. 79)
Vũ Hữu Định (VHĐ) tên thật là Lê Quang Trung, sinh tại Thừa Thiên, sống nhiều nơi ở Tây Nguyên, lập gia đình tại Đà Nẵng và định cư tại đây. Làm thơ từ thập niên 1960, đăng báo rải rác. Năm 1975, đi học tập cải tạo thời gian ngắn vì là cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, rồi làm công nhân Nhà Đèn. Đầu năm 1981, tại làng An Hải, Đà Nẵng, anh qua đời vì say rượu té từ lầu một, cái chết còn gây nghi vấn. Sinh thời, anh không có tác phẩm xuất bản. Đến 1996 bạn bè mới đóng góp để nhà xuất bản Trẻ ấn hành thi tập Còn một chút gì để nhớ gồm 45 bài, lấy tên từ một bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc và thịnh hành một thời:
Phố núi cao phố núi đầy sương,
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. (tr. 13)
Hiện nay, sau khi tái bản thơ Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, truyện ngắn Y Uyên, nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn đã sưu tầm và in lại thơ VHĐ[1] để tặng biếu, không bán, trong tinh thần bảo lưu và truyền bá di sản văn học Miền Nam. Chúng tôi đã có lần đề cao thiện chí này; nay một lần nữa, xin công nhiên ca ngợi một việc làm tâm huyết.
Thơ Vũ Hữu Định lần này gồm 80 bài – chắc là còn thiếu – là một tập thơ hay, tài hoa, trong sáng, đáp ứng được sở thích đông đảo người đọc; một tác phẩm có giá trị cao về mặt tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật, lưu lại tấm lòng của nhà thơ quá cố, ghi tạc niềm thủy chung của bằng hữu, trong một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nghiệt ngã và bạc bẽo.
*
Thơ VHĐ quay chung quanh các chủ đề: quê nhà, tình bạn, tình yêu trong khát vọng một không gian rộng rãi. Trước khi đi vào các đề tài này, chúng ta nên biết qua thân thế tác giả, qua những bài thơ tâm sự, chủ yếu là Bài thơ năm bốn mươi, làm dịp tết Tân Dậu, 1981, trước khi qua đời, thơ “kiểm điểm” vô hình trung thành thơ tuyệt mệnh, như bài Di chúc của Nguyễn Khuyến :
Bốn mươi tuổi rồi đây
vợ năm con không no không đói
bốn mươi tuổi rồi
hai lăm năm uống đắng
(giỏi nghề rượu từ thuở mười lăm)
học hành thì lăng nhăng
thân tự lập thân từ năm bảy tuổi
không nhớ hết nghề đã trải
bán báo, đánh giày, ở đợ
đánh trống phòng trà, dạy học, làm thơ
phó giám đốc nuôi trẻ bơ vơ
còn cả chục nghề thôi không kể
ham đọc sách chẳng phải vì ham học
thần thánh trăm ông chẳng phục ông nào
ông nào cũng tốt
ông nào cũng tào lao
có lắm thánh nhân thì đời chỉ rối mù
nhiều triết học thêm tối mù đa sự
bốn mươi năm khoảng dăm lần tù… (tr.99)
Trong bài Ngựa hí đầu non, ta còn biết thêm:
Sinh nhằm tuổi Ngọ, đêm vừa hết..
Mới hai tháng đã biết mùi bom đạn
1942, thời chiến tranh Nhật-Đồng Minh. Lên bảy tuổi:
Đã theo mẹ đêm đêm qua xóm
xách đèn rao khoai sắn cầm hơi (tr.80)
Trong bài Cảm ơn người vợ, 1972, ta được biết anh cưới vợ khoảng 1965:
Bảy năm tình chồng vợ
bảy năm em hẩm hiu
lần nào em sinh nở
ta cũng phải vắng nhà
đứa đầu lòng tù tội
đứa thứ hai, đi xa. (tr.143)
chúng ta không biết rõ anh tù tội vì việc gì, làm gì đến nỗi dăm lần tù. Theo chứng từ của bạn bè, VHĐ là người cởi mở, vui chuyện, ưa rượu, ưa bạn, đàn giỏi hát hay, nhẹ trách nhiệm gia đình, vợ con đương nhiên là phải khó khăn. Và anh cũng thừa nhận điều đó:
Năm đứa con như năm hạt ngọc
Nếu không có em sao khỏi cát lầm
Còn anh thì cứ lông bông… (tr. 101)
Tháng 3/1973, nhà thơ Tường Linh có bài Gặp lại Vũ Hữu Định, ghi nhận hoàn cảnh của anh:
Thì ra ngươi chửa hết gian nan
Thôi hãy cầm như lửa thử vàng…
Chúng ta đã chấm phá được đôi nét chân dung VHĐ. Chân dung ấy sẽ rõ nét hơn khi quần tụ bạn bè, trên chiếu rượu:
Nợ nần chưa thoát nổi
càng nợ, càng hăng vay
thiếu cái danh, nhưng không thiếu bạn bè
đi đâu cũng có phần rượu tặng. (tr.99)
Trong mọi tình cảm, có lẽ tình bạn là mang nhiều âm sắc thời đại nhất. Đã xa rồi những “cố nhân” trong thơ Đường, thơ Tống. Xa rồi giọng u hoài, trầm mặc của Nguyễn Trãi
Bạn bè đất Việt ai thăm hỏi
nhờ nhắn: đời ta vẫn cỏ bồng
Hay giọng băn khoăn, xa xăm của Nguyễn Khuyến thăm hỏi bác Châu Cầu, lụt lội năm nay bác ở đâu, giọng nhẹ nhàng, thơ mộng của Huy Cận thương bạn chiều hôm sầu gối tay. Cũng đã xa rồi những Tống Biệt Hành, Vọng Nhân Hành của Thâm Tâm. Tao loạn, thì đất nước đã trăm lần tao loạn. Nhưng chiến cuộc 1960-1975 mang một sắc thái đặc biệt, và tình bạn sinh tử thời này ngân vọng một âm hao riêng, trong chất bi phẫn nặng phần phi lý:
Trên non may có tình bằng hữu
tuổi trẻ đau chung một khúc ca

ôm nhau thức với vầng trăng lạnh

vượt lá tìm sao định hướng nhà.
có những ngày đi trong núi thẳm
tuổi trẻ nhìn nhau, nhớ xóm thương làng
thở chung một tiếng nghe sầu cháy
tâm sự chuyền nhau điếu thuốc quan san
cám ơn điêu đứng rừng sinh tử
cạm bẫy người giăng để giết người
tuổi trẻ gần nhau trong gió lửa
giữ dùm nhau những tiếng chim cười. (tr.58)
Bài Chuyện người Tuổi Trẻ này, VHĐ làm tặng nhà thơ Trần Dzạ Lữ, cùng một bài khác, mang rõ nét thời sự:
….
Ngày Huế giải phóng
mày lang thang trong Nam
xa nhau càng nghĩ càng thương
thằng bạn thơ cuộc đời bầm dập
trốn lính, đi lính, rồi thì học tập
thương ơi câu nói “ở răng cho vừa đời”
nghe nói mày về quê đi bán bánh mì
vợ giặt mướn cho nhà thương đẻ
rồi nghe nói mày đi Nam trở lại

quê không dụng nổi đôi vợ chồng thơ

năm năm rồi mày sống xa quê
ôi cái làng quê Nam Phổ Hạ
thời chiến tranh mày quay quắt mong về (tr. 54)
Hòa bình, thống nhất mà lại làm nhiều người xa quê – và xa nhau – hơn là chiến tranh, chia cắt. Bài thơ này làm khoảng 1980, bắt đầu bằng câu ca dao quen thuộc:
Gió đưa cây cải về trời

Rau răm ở lại chịu lời đắng cay

Ai hiểu sao thì hiểu.
Tình bạn, bao giờ cũng mang tính cách thời đại, xã hội. Tình yêu có không gian rộng rãi hơn: tiếng sét ái tình có thể giáng xuống bất cứ lúc nào và nơi nào. Tình bạn có thuở, có thì, có nơi, có chốn. Yêu nhau rồi mới ngồi vào chiếu; ngồi vào chiếu rồi mới ra tình bạn. Bá Nha, Tử Kỳ cùng chiếu nhạc buổi Xuân Thu. Quản Trọng, Bảo Thúc cùng miếng đỉnh chung thời Chiến Quốc. Montaigne và La Boétie cùng phất áo giữa tòa án Bordeaux. Nguyễn Khuyến, Dương Khuê áo mão đồng khoa… Vũ Hữu Định, Trần Dzạ Lữ, Trần Hoài Thư, cùng nhiều bạn khác cùng gối đầu trên báng súng, tai nghe trực thăng, đại bác… Cơn binh lửa tạo ra và củng cố tình bạn. Cái quý là tình bạn còn lại sau cơn binh tàn, lửa tắt. Và quý hơn nữa, trong tình bạn ấy, sau khi chắt lọc tiếng trực thăng đại bác nhiễu nhương, còn lại tiếng đập cùng nhịp của những trái tim. Ấy là tình người. Tình yêu là định mệnh cá nhân; tình bạn là cơ duyên thời đại. Cao quý thay lòng chung thủy giữa những tâm hồn tự nguyện, trong tình yêu cũng như tình bạn.
Vũ Hữu Định, người đã ra đi, tình còn ở lại.
*
Nói đến thời đại là nói đến quê hương. VHĐ tha thiết với quê hương, dù anh sinh một nơi, sống một nơi và giữa hai nơi là những bước chân lang bạt kỳ hồ. Anh khẳng định:

Mùa lúa năm nay đòng đòng đã trổ

anh yêu mùa yêu đất yêu quê. (tr. 42)
Nhưng quê anh nơi nào?
Những con lạch anh chèo ghe thăm lúa
thả lưới giăng câu, mười mấy năm ròng
Cau với bưởi bây giờ thơm hương trái
em bên vườn da thịt có thơm không? (tr. 41)
VHĐ là “kẻ chợ”, dân thành phố; ở đây anh thác lời “kẻ quê”, một nông dân mười mấy năm cày sâu cuốc bẫm, nhà mới thay tranh mong đón em về… Lời không thật nhưng tình thì thật.
Tình quê nơi VHĐ, quyện với tình bạn và tình yêu là một khát vọng hạnh phúc trong nguồn cội. Quê hương của VHĐ không chính xác như trong những “bức tranh quê” mà ta đã gặp, những đồng chiêm trũng miền Vụ Bản, Nam Định của Nguyễn Bính, hoặc thôn làng sơn cước Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận, hay làng Trung Phước dưới chân núi Quảng Nam trong thơ Bùi Giáng, Tạ Ký, Tường Linh. Nơi VHĐ, quê hương làm tâm cảnh tượng trưng cho một giấc mơ. Giấc mơ Trở Về của đứa con biết mình lạc hướng, vì cơn lốc của lịch sử đã đành, nhưng cũng có phần cố tình lạc hướng. Phải hiểu như thế mới giải quyết được nhiều mâu thuẫn trong thơ anh.
Và hiểu rằng nỗi nhớ nhà thường xuyên ám ảnh anh, không giống với nỗi nhớ bất ngờ, bất chợt trong thơ Nguyễn Bắc Sơn đồng lứa:
Qua cầu Sông Lũy nhìn quanh quất
Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà
Tình quê, đề tài cho nhiều bài thơ, có thể là nền thơ VHĐ:
Mây còn bay nên đời còn mộng
tuổi trẻ ra đi sao lại nhớ nhà
ơi người tuổi trẻ sầu trong mắt
đêm trên rừng mộng gởi quê xa.
quê xa ta có em và mẹ,
nhớ ao bèo xanh bông tím thiết tha
nhớ người con gái bên hàng xóm
chiều thả thuyền vớt mộng nở hoa… (tr.57)
Cảnh mơ hồ nhưng tình tha thiết. Quê xa đây là mộng tưởng. VHĐ không được hạnh phúc có một làng chính xác để ca ngợi như Huy Cận, Bùi Giáng. Nhưng anh chẳng quan tâm đến điều đó:
nghĩ ra thì ở đâu cũng vậy
ta vẫn là ta khinh bạc đắng cay.
có lẽ ta là thằng bất sá
cớ sao ở đâu rồi cũng bằng lòng
thả trôi cái sống cho đời dạt
mẹ buồn ta tóc trắng lưng cong (tr.52)
Quê hương, nơi VHĐ là niềm u hoài khôn nguôi, hướng về cõi hạnh phúc đã mất hay chưa đến, trong nghĩa “quê hương và lưu đày” trong Kinh Thánh, hay Albert Camus.
U hoài bốc men cho những vần bay bướm:
Hoa dại ven đường gửi lại các em
Tiếng giã gạo gửi cho người mất ngủ
Trăng mười bốn gởi tâm hồn thiếu nữ
Trăng mười lăm gởi những kẻ yêu nhau
*
Tình sôi nổi, thiết tha nhất trong đời người có lẽ là tình yêu. Thơ tình yêu là lối thơ dễ làm và khó hay nhất. Một là vì đề tài lâu đời trở thành khuôn sáo, hai là người làm thơ tình khi thành thật thì chủ quan, đắc ý, tự nghĩ thơ mình là hay, hóa ra dễ dãi, trong khi người đọc bên ngoài, cho rằng lẩm cẩm. Thơ tình ngày nay, muốn thành công, phải giàu lượng trí tuệ và chất nghệ thuật; nhưng thơ hoa mỹ lại mất nét thành thực đơn sơ. Mà tình yêu chính là cảm xúc đơn sơ.
Thơ tình VHĐ gây cảm xúc vì chỗ tha thiết mà tự nhiên ấy:
Anh đang sống thiếu một phần thân thể
sống thiếu em nên anh thở không đều
thèm ngực trần, môi ngọt với tay yêu
đã trói chặt hồn trăm năm lãng tử
đã quen đau nên thấy được mặn mà
của tội lỗi mà anh kêu hạnh phúc
ôi vết chém đã qua thời đau nhức
đâm da non để thành sẹo muôn đời
anh thở đều để sống em ơi. (tr.44)
Hơi thở rạo rực đã phả vào bài Tiếng dội của sương chiều, 5 chữ nhẹ nhàng nhưng da diết, trong sáng mà hàm súc – một bài lý tưởng để phổ nhạc (câu này viết nhắn gửi Phạm Duy):
anh nằm đâu, ngồi đây
ngó nước nguồn reo vỡ
nước nguồn chảy bao năm
đá núi mòn dấu nhớ
anh nằm đây, ngồi đây
một mình anh vẫn thở
mười năm trong trắc trở
anh thở khác ngày xưa
nghe dội tiếng rừng mưa
nghe vang lời suối nhớ
anh nằm nghe lay động
đau của những nhánh cành
anh ngồi trong lá xanh
trên những hồn lá chết
tay anh nắm tha thiết
những chiếc lá còn tươi
thả xuống suối mà chơi
trôi đi còn tiếng dội… (tr. 46)
Nguồn thơ róc rách tuôn tuôn tự nhiên, u uẩn trong veo, thắm tươi đau đáu, trầm lặng ngân vang. Một bài thơ tình hiện đại, rõ nét nếu ta so sánh với Tình quê đồng dạng của Hàn Mạc Tử, nửa thế kỷ trước. Đâu đó, trong Thân phận làm người, André Malraux đã định nghĩa tình yêu là “cái phần mình thay đổi ở người kia”, nghe sâu sắc, nhưng trừu tượng. VHĐ nói anh thở khác ngày xưa có cường điệu nhưng cụ thể, và xúc động. Thể ngũ ngôn ngắn hơi, ít để lại tác phẩm hay. Bài Tiếng dội của Sương Chiều là một tác phẩm toàn bích.
Cùng một hơi thở – hơi thơ ấy còn có bài Rừng hương mật đắm đuối. Cảm hứng tuôn tràn một mạch, ào ạt, sung mãn mà âm trầm, tao nhã. Thao thao tình cảm, thao thiết ưu tư:
Anh đang sống – đang thở đều rất lạ
Thở yêu em yêu đau đớn của đời
Anh cảm được phút của mùa đang đổi
Giây của sông dừng lại đợi chiều trôi
Ở đâu đó rừng của Thu ảm đạm
Uống chút hương hoa của suối mà say
Mây của nghìn năm mây vẫn là mây
Nhưng một buổi lạ như vừa mới có
Một ngày nào mặt trời kia rét lạnh
Máu đỏ trùng dương một lần chết cuối cùng
Giấc lạnh vang lời gió nhắn với rừng
Anh hối hả trở về mau cho kịp. (tr. 95)
Nhịp thơ dập dồn, hình ảnh điệp điệp, ý tứ trùng trùng, tuôn tuôn từ một hồn ứ chứa bao nhiêu tình rừng thẳm. Do đó mà thơ tình VHĐ ngày nay còn gây hào hứng.
Thơ tình, chứ không huê tình kiểu “áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc”. Thơ tình xưa nay thường khệ nệ đèo thêm phần thuyết lý, dạy đời: thơ Pháp từ Ronsard đến Aragon, thơ Việt từ Nguyễn Trãi “đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng” đến Xuân Diệu “vội vàng lên với chứ”. Thơ VHĐ mang sắc phơi phới, hồn nhiên, đớn đau mà vẫn tin đời – có lẽ do niềm tin ở trời đất, mà anh diễn đạt rất mãnh liệt trong bài tứ tuyệt:
Sướng quá, nâng ly, khà một tiếng
Mừng rằng sắc núi vẫn màu xanh
Đám mây bay thấp ngang nhà cỏ
Hương rượu nồng hơn mọi thứ tình. (tr.14)
Tâm giới hào sảng trước sắc giới ưu ái như trong đoạn thơ trên, được định hình trong một thi giới bao la, biển rộng trời cao. Thơ VHĐ ít có giới hạn chật hẹp, nếu Pleiku phố xá không xa thì cũng được nấn rộng bằng sương mùcây xanh, núi cao – và nhất là có em!
Nơi VHĐ tình yêu, tình bạn, tình quê, quyện vào niềm nhớ đất thương trời mêng mang mênh mang mênh mang.
*
Hình ảnh tạo tính nhất quán cho tập thơ, xuyên suốt, tiếp dẫn các bài thơ, tự rừng núi đến thôn quê, ao bèo, thửa ruộng, lũy tre, mái nhà, là con chim.
Một mặt chim là tri âm, chia sẻ tâm sự và ước mơ:
Có lẽ con chim rừng bữa nọ
Hát với anh là chia sẻ ngọn nguồn. (tr. 18)
Chim là một ẩn dụ đa hiệu. Hình ảnh thị giác, nó là không gian gần mà xa, cảm nhận thính giác, tiếng chim là thời gian dội vào tim, có khi hẹn hò hoan lạc thủy chung:
Con chim bỏ đi có bận quay về
Cất tiếng hát chào niềm vui của gió. (tr. 121)
Có khi nhắc thân phận hiện thực trơ vơ:
Con chim lạ lùng năm nọ của tôi ơi
Hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy. (tr. 123)
*
Thơ VHĐ là điển hình cho thơ trữ tình hiện đại. Nó không gai góc, thách thức; ngược lại, nó kết thân, đằm thắm, quen thuộc. Lay động người đọc bằng tình cảm trong sáng và thiết tha, bằng nét tài hoa vô tội.
Đây là đọan cuối trong bài thơ “kiểm điểm”, VHĐ làm 1981, trước khi vĩnh biệt trần gian:
Ta đang nhớ thuở sông dài núi rộng
đường thênh thang của một gã giang hồ
ta đang thèm đi để học làm thơ
chờ ta đến xin nhớ phần rượu tặng. (tr.102)
Câu thơ tuyệt mệnh thu gọn không gian, cuộc đời, tâm tình, hoài bão văn chương và những khát vọng chưa nguôi của Vũ Hữu Định.
Trên chiếu rượu vui ít buồn nhiều hôm nay, bạn bè, trong và ngoài nước, luôn luôn giữ phần rượu tặng, cho Định.
Định ơi,
Orléans, ngày 25/2/2006

[1] Thơ Vũ Hữu Định, nxb Thư Ấn Quán, Hoa Kỳ, 2006
PO Box 58, South Bound Brook, NJ 08880, USA – E-mail tranhoaithu@yahoo.com.
Chúng tôi trích dẫn và đánh số trang từ sách này.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHAI KHẼ KẺO ĐỘC GIẢ NGHE THẤY!


Thời thực dân phong kiến nó "bóp nghẹt" tự do báo chí, đến nỗi NAQ, phải đưa hẳn điều tệ hại đó vào "bản án chế độ thực dân". Vậy mà Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng ra được tờ "An Nam tạp chí" nổi tiếng bản lĩnh và văn chương có hạng.
Một lần Nguyễn Bính đói mờ mắt mà trong túi sạch tiền, bèn mò đến tòa soạn An Nam tạp chí xem có nhuận bút để đổi lấy bữa cơm. Gặp hôm ấy Tản Đà cũng nhẵn túi mà báo thì mới ra, chưa bán được tờ nào.
Hai thi sĩ 1 trẻ, 1 trung niên mờ ảo nhìn nhau thở dài. Vừa lúc ấy, có khách vào mua 1 tờ tạp chí. Tản Đà bán xong, lập tức cầm tiền chạy ra phố mua 1 miếng thịt (bì lợn thì phải) đem về nướng giòn lên, thơm phức. Nguyễn Bính vồ lấy nhai công cốc. Hai thi sĩ đang mải miết nhai, bỗng lại có khách vào mua báo. Tản Đà vội vàng ngừng nhai, đoạn lấy tay che mồm Nguyễn Bính lại rồi ghé tai nói nhỏ:
"Nhai khẽ kẻo độc giả nghe thấy".
Mới hay các bậc tiền bối xưa tôn trọng độc giả tới mức nào, đến ăn cũng phải khẽ khàng, huống hồ nói...
Ngày nay bọn văn nô, bút nô nó ăn nhậu rầm rĩ, bốc thơm, nâng bi lãnh đạo hết cỡ, nào là "tuổi thơ vất vả...". nào là "từ kẻ chăn trâu đến ông..." Thật không còn biết ngượng... Thử hỏi độc giả là cái thá gì trong mắt họ?
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cư dân ở tổ dân phố của Nguyễn Cảnh Bình lên tiếng về hội nghị cử tri

(Giao blg)

Mình để ý chút xíu đến Nguyễn Cảnh Bình trong "phong trào tự ứng cử quốc hội 2016", rất đơn giản, vì anh là chủ nhân của Alpha Books nơi đã in bộ tiểu thuyết Đại Gia của Thiên Sơn (xem lại, ví dụ ở đây và ở đây).

Mình chưa gặp ông chủ của Alpha Books bao giờ.

Lá đơn của cư dân ở tổ dân phố dưới đây là do Nguyễn Cảnh Bình đưa lên Fb của anh. Cả bản cứng, và bản mềm (chế bản điện tử). 

Mình thì hơi thắc mắc ở điểm Nguyễn Cảnh Bình có bản mềm (nếu không phải là anh tự gõ lại từ bản cứng).


Từ đây trở xuống là chép nguyên về từ Fb Nguyễn Cảnh Bình.

---

"





Nguyễn Cảnh Bìnhさんが写真3件を追加しました。

Một hành trình dài với một kết thúc theo cách rất lãng xẹt.
Đây là đơn khiếu nại của các cử tri trong tổ dân phố của tôi. Mọi người đọc thì sẽ biết nội dung và các việc xảy ra trong buổi sáng chủ nhật ngày 10/4/2016 trong buổi lấy phiếu tín nhiệm ở tổ dân phố đối với tôi. Đơn kiến nghị này thay cho thông báo của tôi về kết quả của việc lấy phiếu tín nhiệm.
Rất mong các bạn hiểu và ủng hộ, và chia sẻ giùm thông tin. Hy vọng sẽ có thêm nhiều câu chuyện kể về hành trình này.
Cám ơn các bạn.
Nguyễn Cảnh Bình.
===
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
Hà Nội, ngày 11 tháng 4 năm 2016

ĐƠN KHIẾU NẠI
(Về kết quả lấy ý kiến cử tri tại nơi cư trú đối với ứng viên Đại biểu Quốc hội khóa 14 và Đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2016 - 2021)

Kính gửi: - ỦY BAN BẦU CỬ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chúng tôi là những cử tri của Tổ dân phố 25 phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội là những người tham dự hội nghị lấy phiếu tín nhiệm cử tri về người tham gia tự ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa 14 và Đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2016 – 2021 và được tổ chức lấy ý kiến cử tri tại nơi cư trú ngày 10/4/2016 đối với Ông Nguyễn Cảnh Bình, sinh ngày 18/8/1972, cư trú tại Phòng 303 B13 K14 khu tập thể Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội, cơ quan công tác tại Trung tâm hợp tác trí tuệ Việt Nam, địa chỉ tại 176 Thái Hà, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội.
Chúng tôi có ý kiến như sau:
Ngày 10/4/2016 tại trụ sở trường tiểu học Bế Văn Đàn địa chỉ tại số 2 ngõ 14 phố Hồ Đắc Di đã diễn ra hội nghị lấy ý kiến cử tri tại nơi cư trú đối với Ông Nguyễn Cảnh Bình.

Buổi lấy ý kiến cử tri được tổ chức bởi Ủy ban nhân dân phường Nam Đồng phối hợp với Mặt trận tổ quốc phường Nam Đồng. Chủ trì buổi hội nghị gồm ông Nguyễn Đức Thuận là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phường Nam Đồng và ông Ngô Tiến Ngọc là Chủ tịch UBND phường Nam Đồng, với sự tham dự của đại diện cơ quan là ông Võ Đại Lược, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng giám đốc trung tâm Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương. Theo thông báo của ban tổ chức thì có tổng cộng 59 cử tri tham dự buổi lấy ý kiến.
Diễn biến buổi lấy ý kiến cử tri sau phần phát biểu của Ban tổ chức có 4 ý kiến phát biểu của cử tri cả 4 ý kiến đều có nhận xét tốt về nhân thân, đánh giá cao quá trình công tác và tư cách ứng viên của ông Nguyễn Cảnh Bình và không có ý kiến nào phê phán phản đối. Hội nghị diễn ra thân thiện cởi mở và không khí chung là ủng hộ ông Nguyễn Cảnh Bình.

Nhưng khi đến lúc ban tổ chức công bố kết quả kiểm phiếu qua hình thức bỏ phiếu kín thì chỉ kết quả chỉ có 26/59 phiếu tín nhiệm ông Bình ứng cử Quốc hội và 16/59 phiếu tín nhiệm ông Bình ứng cử HDND Thành phố. Và không quá bán số phiếu ủng hộ trên tổng số phiếu.
Kết quả đó khiến chúng tôi rất bất ngờ và không hiểu sao kết quả kiểm phiếu lại phản ánh trái ngược diễn biến hội nghị như vậy, nên đã có 8 cử tri gồm Bà Nguyễn Thanh Mai; Ông Trần Quốc Phóng; Ông Nguyễn Văn Quế; Ông Vũ Anh Tuấn; Ông Nguyễn Trần Thịnh; Bà Đặng Thị Mai Liên; Ông Dương Vân Thái; Bà Hồ Thị Diệp đã kịp phát biểu bày tỏ ý kiến không đồng tình với kết quả kiểm phiếu và đề nghị bỏ phiếu lại. Trong khi đó, 5 năm trước, trong dịp bầu cử Quốc hội khóa 13, khi lấy phiếu tín nhiệm cử tri ở tổ dân phố, ông Bình đã đạt 46/69 phiếu, đạt tỷ lệ 67%.
Song vì lý do nào đó Ban tổ chức đã không chấp nhận ý kiến hợp lý chính đáng của các cử tri là cho bỏ phiếu lại. Các ý kiến thắc mắc phản đối kéo dài cả tiếng đồng hồ trong khi ông Ngô Tiến Ngọc là Chủ tịch UBND phường Nam Đồng gắng ép mọi người thông qua biên bản hội nghị. Song khi Ban tổ chức lập biên bản kết thúc hội nghị thì chỉ có 18 người đồng ý với nội dung biên bản. Việc Ban tổ chức từ chối tiến hành bỏ phiếu lại trong khi nhiều cử tri đề nghị đã làm giảm sút niềm tin của cử tri vào công tác tổ chức bầu cử của Ban tổ chức.
Kính thưa các Quý cơ quan!
Ông Nguyễn Cảnh Bình là một trí thức, một học giả nghiên cứu sâu và chuyên về xuất bản sách, ông hiện là Giám đốc Trung tâm hợp tác trí tuệ Việt Nam. Ông Bình tham gia tự ứng cử Đại biểu Quốc hội là nhằm mong muốn đóng góp kiến thức hiểu biết trí tuệ của mình cho hoạt động xây dựng chính sách pháp luật của nhà nước, góp phần cho sự tiến bộ phát triển chung của xã hội.

Là người xuất thân trong gia đình có truyền thống cách mạng, sống và làm việc lâu năm ở địa phương, quá trình học tập và công tác mọi người đều biết, cho nên các cử tri thấy ông Bình xứng đáng là ứng viên Đại biểu Quốc hội. Chúng tôi bằng sự công tâm khách quan của mình, muốn bày tỏ ý kiến trung thực xác đáng, để nhận định đánh giá về con người của ông Bình, giúp các cơ quan tổ chức cuộc bầu cử tìm ra được đúng người xứng đáng, góp phần vào thành công thắng lợi chung của cuộc bầu cử Quốc hội khóa 14.
Tuy vậy qua diễn biến kết quả của Hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi cư trú ngày 10/4/2016 đối với ông Bình, chúng tôi nghi ngờ kết quả kiểm phiếu có sai sót, vì đã phản ánh hoàn toàn trái ngược với không khí thân thiện ủng hộ ông Bình tại hội nghị.
Chúng tôi cũng thấy công tác tổ chức buổi lấy ý kiến cử tri là không đúng trình tự theo văn bản hướng dẫn số 11/HD-MTTQ-BTT ký ngày 07 tháng 03 năm 2016 của Ủy Ban MTTQ Việt Nam thành phố Hà Nội về việc Hướng dẫn Tổ chức Hội nghị lấy ý kiến nhận xét của cử tri nơi cư trú đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 ở mục 4 về Nội dung, thủ tục, trình tự: Ông Bình đã không được phát biểu trình bày giải đáp thắc mắc của cử tri, và đại diện cơ quan nơi làm việc cũng không được phát biểu ý kiến nhận xét về ông Bình trước khi tiến hành bỏ phiếu. Việc này đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến việc nắm bắt thông tin đầy đủ từ đó đưa ra nhận định đánh giá chính xác công tâm về ứng viên Đại biểu Quốc hội, làm giảm sút chất lượng của công tác bầu cử.
Đề nghị:
Nay chúng tôi đề nghị Ủy ban bầu cử Thành phố Hà Nội giải quyết khiếu nại này của chúng tôi theo như quy định của Luật bầu cử Đai biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp năm 2015 và xem xét việc tổ chức lại việc lấy ý kiến cử tri để đảm bảo khách quan, công bằng. Đề nghị giải đáp, giải thích, làm rõ và minh bạch về số phiếu và kết quả kiểm phiếu của Hội nghị lấy ý kiến cử tri đối với ông Nguyễn Cảnh Bình.

Kính mong được quan tâm giải quyết.
Xin trân trọng cảm ơn!
Những người làm đơn và tham gia buổi lấy ý kiến cử tri

(Tổng cộng có 36 người ký vào đơn khiếu nại, dù có thể thêm chữ ký song do thời gian không cho phép có thêm các chữ ký ủng hộ)
Nơi gửi:
- Như trên;
- Hội đồng bầu cử Quốc gia;
- Bí thư phường Nam Đồng;
- Chủ tịch UBND phường Nam Đồng;
- Chủ tịch Mặt trận tổ quốc phường Nam Đồng;
- Các cơ quan báo chí nhà nước;


"
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Biển Đông : Bắc Kinh "rất bất bình" về tuyên bố của G7


Thuymy Rfi tại Thụy My RFI
*Các ngoại trưởng G7 tại đền Itsukushima, 10/04/2016*. *Đăng ngày 12-04-2016 ** Sửa đổi ngày 12-04-2016 18:07* *Bắc Kinh « rất bất bình » về tuyên bố của khối G7 kêu gọi kiềm chế tại các vùng biển tranh chấp. Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/04/2016 cho biết như trên, trong bối cảnh châu Á đang quan ngại trước tham vọng lãnh thổ và quân sự của Trung Quốc.* Ông Lục Khảng (Lu Kang), phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc nói : *« Trung Quốc hết sức bất bình về cung cách làm việc của G7. Chúng tôi kêu gọi các quốc gia thành viên G7 thực hiện cam kết của mình là không đứng về bên nào ... thêm »
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lợi ích nhóm nguy cơ thành băng nhóm, đe dọa tồn vong của dân tộc


VietTimes -- "Trầm trọng nhất là hoạt động rửa tiền, câu kết lũng đoạn thị trường tiền tệ. Chính sách sử dụng cán bộ méo mó, phát triển nạn chạy chức, chạy quyền, “buôn quan”, “buôn vua”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở “quan hệ, tiền tệ, hậu duệ” chứ không sử dụng người có tài đức”, PGS.TS Lê Quốc Lý cảnh báo.
Lê Thọ Bình - Lê Anh 
PGS. TS Lê Quốc Lý, Phó giám đốc Học viện CTQG HCM
PGS. TS Lê Quốc Lý, Phó giám đốc Học viện CTQG HCM
"Lợi ích nhóm là nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần; nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất kỳ sự đe dọa nào, tác động chi phối chính làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo điều kiện cho các nguy cơ khác phát triển và gây tác hại" - PGS. TS Lê Quốc Lý, Phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định với VietTimes.
Lợi ích nhóm có nguy cơ thành băng nhóm tội phạm
Thưa ông, cụm từ “Lợi ích nhóm” lần đầu tiên được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc đến là vào năm 2012, khi triển khai Nghị quyết TƯ 4, Khóa IX và ông luôn nhấn mạnh đến việc phải loại trừ lợi ích nhóm. Vậy “Lợi ích nhóm” là gì? “Lợi ích nhóm” khác “Nhóm lợi ích” thế nào?
- Tôi có thể khẳng định rằng, sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân đến hiện tượng “lợi ích nhóm” là rất cao. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhiều bàn luận khoa học về vấn đề này. Thậm chí trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, cách hiểu về “lợi ích nhóm” cũng khá khác nhau. Thậm chí, còn có nhiều người sử dụng lẫn lộn giữa hai cụm từ “nhóm lợi ích” và “lợi ích nhóm”.
“Nhóm lợi ích” hàm nghĩa một tập thể gồm nhiều cá nhân, tổ chức cùng chia sẻ một mối quan tâm chung và cùng nhau thúc đẩy các mục tiêu đó bằng cách tác động vào các chính sách của Chính phủ để tạo ra hay thay đổi những luật lệ và cách thực thi có lợi cho nhóm mình, hoặc tạo dựng một vài đặc quyền, đặc lợi để nhóm thụ hưởng. Với cách hiểu như thế trong xã hội có nhiều nhóm lợi ích tồn tại một cách khách quan như các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức chính trị, xã hội, các nhóm dân cư chung một số lợi ích theo vùng, theo sở thích... Chúng có tác động hai mặt đến xã hội. Mặt tích cực của nhóm lợi ích là truyền tải thông tin giữa nhóm lợi ích và Chính phủ cũng như là đầu mối vận động ủng hộ các hoạt động, các chính sách của chính phủ. Mặt tiêu cực của nhóm lợi ích là vì mục tiêu cục bộ của nhóm có thể làm sai lệch chính sách của Chính phủ và làm tha hóa công chức quản lý nhà nước.
Còn “lợi ích nhóm” hàm nghĩa một nhóm người nào đó lấy lợi ích của nhóm mình làm trung tâm, làm mục tiêu duy nhất để hành động, xa rời lợi ích chung của đất nước, của xã hội, là chủ nghĩa ích kỷ, chỉ biết đến mình mà không đoái hoài đến lợi ích của những người liên quan. Khi nói đến việc chống “lợi ích nhóm”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng muốn nói đến việc chúng ta phải chống cách sống, cách suy nghĩ, cách hành động ích kỷ này.
Vậy lợi ích nhóm gây ra tác hại như thế nào đối với đất nước, thưa ông?
- Chúng ta cần phải nhận thức được rằng, lợi ích nhóm là nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát triển lành mạnh của đất nước và sự tồn vong của dân tộc, của chế độ XHCN. Nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất kỳ sự đe dọa nào, là nguy cơ chính làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo điều kiện cho các nguy cơ khác phát triển và gây tác hại. Đây là điểm lớn nhất, cốt lõi nhất của cuộc đấu tranh về quan điểm; là trọng tâm trong chống “tự diễn biến”.
Nếu Đảng và Nhà nước ta không kịp thời ngăn chặn được hoạt động của lợi ích nhóm, để nó tiếp tục phát triển, dẫn đến lũng đoạn ngày càng lớn hơn thì sự phát triển của đất nước bị nguy khốn và chế độ chính trị cũng biến chất, cũng thay đổi theo hướng xấu, chắc chắn không còn là con đường XHCN chân chính nữa. Mong muốn của hàng triệu đảng viên cộng sản và nhân dân đã chiến đấu và hi sinh xương máu sẽ trở nên xa vời và vô vọng, mong muốn thiết tha của Bác Hồ cũng không thực hiện được.
Lúc này, hơn lúc nào hết, cần phải nhận thức rõ nguy cơ và quyết tâm bảo vệ quyền lợi dân tộc, thành quả cách mạng và bảo vệ Đảng, không để Đảng bị lợi ích nhóm thao túng, làm hư hỏng, biến chất, dẫn đến đổ vỡ.
 Ông có thể nói cụ thể hơn mức độ trầm trọng của lợi ích nhóm và các biểu hiện của lợi ích nhóm ở nước ta hiện nay?
- Nếu lấy thước để đo và nói rằng mức độ trầm trọng của lợi ích nhóm đang ở đâu thì rất khó, nhưng những biểu hiện của nó trong xã hội thì rất trầm trọng. Nó len lỏi vào mọi góc cạnh của nền kinh tế. Trước hết là làm đất nước bị tổn thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư; làm cho nền kinh tế sẽ bị khiếm khuyết, dị tật; tạo điều kiện để kinh tế “ngầm”, thị trường “ảo”, chụp giật,…phát triển. Các doanh nghiệp móc ngoặc với quan chức nhà nước nhằm chuyển nguồn lực, tài sản, vốn đầu tư của nhà nước vào doanh nghiệp nhà nước để làm ăn, cái lợi thì chia nhau, khoản lỗ để lại cho nhà nước.
Thực chất “lợi ích nhóm” là đồng tiền chi phối quyền lực, tranh giành và chiếm giữ quyền lực, làm quyền lực không còn là của nhân dân. Thậm chí các nhóm lợi ích này còn hoạt động phổ biến, công khai bằng mọi thủ đoạn, kể cả bạo lực, giết người. Thậm chí lợi ích nhóm còn làm biến đổi, hoặc làm thay đổi mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của chúng ta. Vì lợi ích cá nhân, cục bộ một số sẵn sàng bán rẻ cả lợi ích quốc gia, quyền lợi dân tộc.
Một trong những biểu hiện của lợi ích nhóm lớn nhất và trầm trọng nhất đó là những hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, những hoạt động của các đại gia ngân hàng trong việc câu kết lũng đoạn thị trường tiền tệ. Biểu hiện của lợi ích nhóm còn thể hiện trong chính sách sử dụng cán bộ méo mó, phát triển nạn chạy chức, chạy quyền, “buôn quan”, “buôn vua”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở “quan hệ, tiền tệ, hậu duệ” chứ không phải sử dụng người có tài đức, làm hư hỏng đội ngũ cán bộ; phá vỡ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cầm quyền, từ đó dẫn đến đảng cầm quyền bị nhóm lợi ích thâu tóm không còn là đảng phục vụ nhân dân, và nhà nước cũng hư hỏng, biến chất, không còn là nhà nước của dân; làm xói mòn lòng tin của dân vào đảng cầm quyền.
Đừng vào dàn đồng ca để "hát nhép"
Để từng bước đẩy lùi lợi ích nhóm và tiến tới xóa bỏ lợi ích nhóm, chúng ta cần phải làm gì, thưa ông?
- Trước hết cần đẩy mạnh công khai hóa, minh bạch hóa các hoạt động của các bộ máy công quyền. Bởi lẽ, nếu trong hoạt động của bộ máy công quyền còn nhiều điểm tối, không rõ ràng, thì lợi ích nhóm còn có cơ hội hình thành. Do vậy, công khai, minh bạch các hoạt động của bộ máy công quyền là một trong những giải pháp làm cho lợi ích nhóm ít có cơ hội hình thành, phát triển. Kiểm tra thường xuyên, đặc biệt là phải tăng cường kiểm tra chéo các hoạt động công vụ nhằm ngăn chặn khả năng hình thành lợi ích nhóm.
Trên cơ sở đó, một mặt đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực; mặt khác xây dựng hành lang pháp lý về các nhóm lợi ích và hoạt động của các nhóm lợi ích theo những giá trị chuẩn chung, có sự điều chỉnh của luật pháp và đặc biệt là sự giám sát của xã hội. Vì vậy cần xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước.
Quyền hạn phải gắn liền với trách nhiệm một cách rõ ràng, minh bạch, không để trình trạng “cha chung không ai khóc”. Chúng ta lâu nay xây dựng xã hội mà ai cũng là chủ nhưng không ai chịu trách nhiệm. Lãnh đạo quyền hành thì to nhưng ít phải chịu trách nhiệm trước việc làm của mình. Vừa qua tôi cho rằng anh Thăng (Đinh La Thăng - PV) cách chức Tổng giám đốc Công ty vận tải Đường sắt Hà Nội về việc mua tàu cũ của Trung Quốc là đúng. “Anh” có quyền, khi làm sai “anh” phải chịu trách nhiệm chứ! Đã đến lúc phải lấy lại tinh thần, trách nhiệm của mỗi cá nhân trước vị trí của mình. Đã đến lúc từng cá nhân phải “hát” bằng giọng của mình, chứ đừng có đứng vào “dàn đồng ca” để mà “hát nhép”. Để làm được điều này, đi vào cụ thể thì có nhiều cơ chế như thông qua bầu cử, thông qua cơ chế bãi miễn của nhân dân, bảo đảm các quyền tự do của công dân đã được quy định trong Hiến pháp...
Ngoài ra cũng cần triển khai các giải pháp đồng bộ khác như kê khai và công khai tài sản của bản thân và của gia đình của cán bộ, công chức; kê khai thường xuyên hàng năm, bảo đảm minh bạch các nguồn thu nhập của mọi người. Nâng cao mức lương cho công chức. Lương của công chức thể hiện đủ để cán bộ có thể sống được bằng lương và thể hiện danh dự của người công chức sẵn sàng cống hiến cho Nhà nước và hết lòng phục vụ nhân dân. Phát huy vai trò giám sát của cộng đồng và xã hội, phát hiện những dấu hiệu bất thường nhằm ngăn chặn sự hình thành lợi ích nhóm.
Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu cơ chế và luật pháp về “vận động hành lang” ở các nước để từng bước áp dụng các chính sách phù hợp trong điều kiện nước ta.
Xin cám ơn ông!
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mắc tay bợm già!


>> Khối u ác tính
>> Từ 1-7, nghi can có quyền im lặng!
>> Trường hợp Đào Ngọc Dung cho thấy một tiền lệ tai hại...
>> Sau kiểm toán, lộ nhiều chủ nợ lớn của HAGL
>> Phanh phui chấn động về phở bò Hà Nội


FB Bổn Đình Nguyễn



























Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 sáng 26-3, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát nói: "Đến ngày 4-4, nước xả từ đập tại Trung Quốc sẽ về đến (đồng bằng sông Cửu Long) Việt Nam, nhờ đó diện tích ngập mặn sẽ lui về phía biển khoảng 20km”.

Không biết ông này căn cứ vào đâu mà lạc quan quá sớm, theo đó các báo đài đua nhau trích dẫn, các cán bộ nông nghiệp tại các tỉnh miền Tây tin ngay, và tác động đến người nông dân. Theo facebook của nhà báo Hoàng Linh, thì: "Những người bạn nông dân ở Bến Tre, Sóc Trăng nói: "Chúng tôi từ chỗ khốn khổ vì hạn mặn trở nên khốn nạn: vay tiền xuống giống cho kịp vụ hè thu vì nhà nước hứa đầu tháng tư nước sẽ về do TQ xả đập. Nhưng nước đâu không thấy, giống thì cũng đã xuống đồng rồi đâu hốt lại được…Hoặc là quan chức các anh ngu dốt không biết gì cứ tin theo lời TQ, hai là người nông dân chúng tôi bị lừa."

Và: "TQ xả đập cứu VN chỉ là cái bánh vẽ. Báo TT nêu: Nhà hoạt động môi trường, cô Margaret Zhou, đã viết trên báo The Diplomat ngày 23-3-2016 rằng “đừng có bị mắc lừa về tuyên bố của Trung Quốc về chuyện xả nước cứu hạn xuống sông Mekong”.

Nhớ một câu Kiều: "Xem gương trong bấy nhiêu ngày/ Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già". Cái gương này dân Việt đã xem mấy ngàn năm. Bợm già thì vẫn cứ là bợm già dù thể chế có thay đổi. Vậy nhưng chỉ có quan chức là tai điếc mắt đui, tin ngay miệng lưỡi bợm già, đem thêm khổ nạn cho dân nghèo!
Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Thăm dò” dầu khí hay “thăm dò” ý chí Việt Nam?




Bùi Hoàng Tám 
(Dân trí) - Việc Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào Việt Nam đúng vào thời điểm Quốc hội nước ta đang hoàn tất bộ máy Nhà nước có “ý tứ” gì? Nói một cách khác, có hay không “phép thử”, “thăm dò” đối với bộ máy lãnh đạo mới của Nhà nước Việt Nam?

Những ngày qua, Trung Quốc lại một lần nữa đưa giàn khoan 981 vào vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, nơi hai nước đang tiến hành đàm phán phân định.

“Theo thông tin từ các cơ quan chức năng Việt Nam, từ tối ngày 3/4/2016, giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã di chuyển đến vị trí có tọa độ 17º3’12 Bắc - 110º04’18 Đông để tác nghiệp. Đây là khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ mà Việt Nam và Trung Quốc đang tiến hành đàm phán phân định". Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cho biết.

Ngay lập tức, Chính phủ Việt Nam lên tiếng kiên quyết phản đối đồng thời yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi khu vực này.

Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để trao công hàm phản đối.

Việc tàu thuyền Trung Quốc ngang ngược xâm phạm chủ quyền Việt Nam là chuyện không mới. Riêng đối với giàn khoan Hải Dương 981, kể từ lần đầu tiên (tháng 5/2014), đây là lần thứ 3 Trung Quốc đưa “con ngáo ộp” Hải Dương 981 xâm phạm Biển Đông của nước ta.

Có một điều không khó nhận thấy, trong mỗi lần như vậy, phía Trung Quốc đều tính toán rất kỹ tính mục đích qua những âm mưu thâm hiểm.

Vậy việc Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào Việt Nam đúng vào thời điểm Quốc hội nước ta đang hoàn tất bộ máy Nhà nước có “ý tứ” gì? Nói một cách khác, có hay không “phép thử”, “thăm dò” đối với bộ máy lãnh đạo mới của Nhà nước Việt Nam?

Nếu có điều đó, xin họ không phải “thăm dò” mà đã có câu trả lời ngay lập tức.

Đó là triều chính hay thể chế có thể thay đổi nhưng lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của mỗi người dân Việt Nam là bất biến.

Không có bất cứ ai, từ người dân thường đến mỗi vị lãnh đạo cao nhất biết run sợ với ngoại xâm. Không một thể chế nào khiếp nhược với quân xâm lược.

Lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm đã trải dài hàng nghìn năm nay ở mảnh đất này.

Một khi bờ cõi bị xâm lăng thì muôn người như một, sẵn sàng hi sinh tài sản, tính mạng của mình để bảo vệ non sông, đất nước.

Tại kỳ họp 11, Quốc hội XIII này, nhiều ĐB đã lên tiếng yêu cầu có biện pháp mạnh mẽ.

Tại Berlin, ngày 9/4, nhiều người Việt tại CHLB Đức đã biểu tình phản đối các hành động phi pháp, hiếu chiến của Trung Quốc ở Biển Đông đã thu hút sự chú ý của các hãng truyền thông lớn tại Đức.

Trước đó ít ngày, kiều bào ta ở Nhật Bản, Hàn Quốc cũng xuống đường biểu tình phản đối hành động này của Trung Quốc.

Ngay ngày hôm qua (11/4), các ngoại trưởng của nhóm G7 cũng đã bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với các hành động khiêu khích ở Biển Đông và Hoa Đông, nơi Trung Quốc có các tranh chấp chủ quyền với một loạt quốc gia trong đó có Philippines, Việt Nam và Nhật Bản.

“Chúng tôi bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với bất kỳ hành động khiêu khích đơn phương hay ép buộc, hăm dọa nào, vốn có thể thay đổi nguyên trạng hoặc làm gia tăng căng thẳng”, Reuters dẫn tuyên bố của các ngoại trưởng G7.

Với dân tộc Việt Nam, Trung Quốc cần đọc lại những áng hùng văn trong lịch sử, từ Lý Thường Kiệt với “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn với “Nửa dêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…” đến Quang Trung Nguyễn Huệ “Đánh cho biết nước Nam ta có chủ”...

Những kẻ bán nước, hại dân như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống sẽ mãi mãi chịu sự nguyền rủa của cả non sông.

Vì thế, Trung Quốc phải “chấm dứt ngay các hoạt động vi phạm chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nghiêm túc tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không có thêm các hành động làm phức tạp tình hình ở Biển Đông" như yêu cầu Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam.

Còn nếu với “bài toán thăm dò”, hãy nhớ lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của người Việt Nam không có lúc nào cần “thăm dò” hay “phép thử”.
Phần nhận xét hiển thị trên trang