Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016

Bài này ông Dy đã nhầm khi nói:"Dù cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-ASEAN sắp tới tại Sunnylands (15-16/2/2016) có bàn về Biển Đông thì vai trò của Việt Nam có thể mờ nhạt, vì thủ tướng (lameduck) sẽ không tham dự mà chỉ có một phó thủ tướng đi thay"

Gót chân Asin của Trung Quốc: Cơ hội để thoát Trung
Nguyễn Quang Dy
 “Trung Quốc là một gã khổng lồ đang ngủ. Hãy để cho nó ngủ, bởi vì khi nó tỉnh dậy, nó lẽ làm đảo lộn thế giới” (Napoleon Bonaparte)
Mỗi khi đề cập đến tình hình kinh tế hay chính trị của Việt Nam (như dịp Đại hội Đảng vừa qua), yếu tố Trung Quốc lại nổi cộm lên ám ảnh như một đám mây đen (hay nghiệp chướng của địa lý và lịch sử). Đã nhiều lần trong lich sử, người Việt dũng cảm đấu tranh để “thoát Trung”. Nhưng từ sau thỏa thuận Thành Đô (1990), Việt Nam lại bị đám mây đen Trung Quốc bao phủ như cái vòng kim cô (hay cái bẫy ý thức hệ). Vì vậy, muốn “thoát Trung”, chúng ta cần lý giải gót chân Asin của Trung Quốc, xem Trung Quốc thực sự mạnh hay yếu, để Việt Nam tìm cơ hội “thoát Trung”.  
Có những cách lý giải khác nhau, nhưng trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần 3 điều kiện cơ bản để “thoát Trung”. Thứ nhất, cần nội lực mạnh: Trên dưới một lòng, trong ngoài hợp tác, quyết tâm đổi mới thể chế và ý thức hệ, để cường thịnh kinh tế và độc lập chính trị (không lệ thuộc vào Trung Quốc). Thứ hai, cần ngoại lực mạnh: Việt Nam và Mỹ cùng xoay trục, trở thành đối tác chiến lược, trên cơ sở hợp tác TPP để tái cân bằng (chứ không phải để chống Trung Quốc). Thứ ba, mỗi khi Trung Quốc khủng hoảng nội bộ, họ thường gây ra khủng hoảng bên ngoài (như tại Biển Đông) để làm giảm sức ép trong nước. Có thể đây là cơ hội cho Việt Nam “thoát Trung” (như một hệ quả không định trước). 


Trung Quốc mạnh hay yếu?

Nhiều người cho rằng Trung Quốc đang ở đỉnh cao quyền lực. Đúng là Trung Quốc đã trỗi dậy với kỳ tích phát triển kinh tế, có tốc độ tăng trưởng hai con số trong gần ba thập kỷ. Trung Quốc đã trở thành công xưởng của thế giới, xuất khẩu hàng hóa khắp toàn cầu. Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ sau Mỹ), và đang cạnh tranh với Mỹ về kinh tế và quân sự, với tham vọng sẽ vượt Mỹ. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2015 là 144 tỷ USD (chỉ đứng sau Mỹ). Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, với 1.300 tỷ USD tài sản (chủ yếu là trái phiếu). Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đứng đầu thế giới, với 3.300 tỷ USD (năm 2015). Hai trăm triệu người Trung Quốc đã trở thành trung lưu. Đồng Nhân dân Tệ đã trở thành ngoại tệ mạnh (trong giỏ SDR).     

Nhưng đó là quyền lực cứng, còn quyền lực mềm thì sao? Trung Quốc đã ý thức được tầm quan trọng của quyền lực mềm và đã đầu tư gần 10 tỷ USD cho chương trình tuyên truyền “quyến rũ thế giới” (Charm Offensive). Nhưng Trung Quốc không thành công vì ngộ nhận quyền lực mềm giống như công tác tuyên huấn, hoặc “giống như làm đường sắt cao tốc” (David Shambaugh). Đây là một điểm yếu cơ bản của Trung Quốc không thể nào khắc phục được, chừng nào Trung Quốc không chịu cải cách chính trị và dân chủ hóa để phát triển xã hội dân sự (là tiền đề cho quyền lực mềm).Dù Trung Quốc có bỏ ra kinh phí khổng lồ cho “Charm Offensive” để tuyên truyền về “Giấc mộng Trung Hoa” (China Dream), hay tính ưu việt của CNXH “mang Màu sắc Trung Quốc”, thì cũng không thể nào thuyết phục được thế giới (hay người dân Trung Quốc) tin vào chế độ hiện nay, nếu họ tiếp tục chính sách cực đoan đầy tham vọng,nhằm duy trì nguyên trạng (trong nước), hay thay đổi nguyên trạng (ngoài nước). 

Trong quá trình phát triển nóng, Trung Quốc đã bộc lộ nhiều điểm yếu cơ bản mang tính quy luật và hệ thống, không thể khắc phục được. Đó là môi trường ô nhiễm và ngộ độc thực phẩm ngày càng tăng, mỗi năm làm 1,6 triệu người chết vì ô nhiễm không khí (trung bình mỗi ngày có hơn 4000 người chết). Vì vậy, khi 3 chiến hạm của Hải quân Trung quốc (PLAN) ghé thăm hữu nghị cảng Brisbane gần đây (2/1/2016), người dân Úc thấy hầu hết thủy thủ tàu 152 đã đổ xô đi mua gom loại sữa bột trẻ em “Aptamil 3”, là loại sữa bột được người dân Trung Quốc ưa chuộng. 

Đó là khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn (đứng đầu thế giới) với hệ số Gini là 0,61% (mức báo động có thể dẫn đến bất ổn xã hội). Ví dụ, 70 người giàu nhất Quốc Hội Trung Quốc có tài sản trung bình 1 tỷ USD (cao hơn cả Mỹ). 

Đó là quy mô đô thị hóa khổng lồ để gia tăng thị trường trong nước (đối phó với giảm xuất khẩu). Nhưng làn sóng di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị đã bắt đầu đảo ngược, giảm 5,68 triệu người (năm 2015).  Tết 2016 là bước ngoặt với hàng chục triệu người dân trở về quê mà không quay lại thành phố (nơi cuộc sống đắt đỏ, môi trường ô nhiễm, đe dọa thất nghiệp). Kế hoạch di dân khổng lồ ra thành phố để thực hiện chương trình cải cách 10 năm đầy tham vọng của thủ tướng Lý Khắc Cường có thể thất bại.

Trong khi người nghèo Trung Quốc đang bỏ thành phố trở về quê (di dân ngược), thì người giàu Trung Quốc bỏ đất nước di cư ồ ạt ra nước ngoài. Theo Hurun Report (August 2014), 64% người giàu (có trên 1,6 triệu USD) đã hoặc định di cư khỏi Trung Quốc. (Andrew Browne, The Great Chinese exodus, the Wall Street Journal, August 15, 2014). Việc di cư ồ ạt đồng nghĩa với chuyển tiền ổ ạt ra nước ngoài. Theo Bloomberg intelligence, 1.000 tỷ USD đã tháo chạy khỏi Trung Quốc năm 2015, tăng gấp 7 lần so với 2014. Đây là hệ quả của khủng hoảng lòng tin không thể kiểm soát được, dù có xây vạn lý trường thành xung quanh Trung Quốc cũng không ngăn cản được. Theo luật thì mỗi người dân Trung Quốc được phép chuyển ra nước ngoài 50.000 USD (mỗi năm). Chỉ cần 5% dân số Trung Quốc (1,3 tỷ người) chuyển tiền ra nước ngoài (hợp lệ) thì dự trữ ngoại hối của Trung Quốc hiện nay sẽ biến mất. 

Bức tranh kinh tế vĩ mô của Trung Quốc đáng lo ngại. Trong khi GDP tăng ở mức khoảng 7%, trong 7 tháng đầu năm 2015, tổng kim ngạch thương mại đã giảm 7,3% (xuất khẩu giảm 8,8% và nhập khẩu giảm 8,6%). Chỉ số PPI đã giảm 42 tháng liên tiếp, xuống mức thấp kỷ lục là -5,4% trong tháng 7/2015.  Đồng Nhân dân Tệ bị phá giá liên tiếp và thị trường chứng khoán tiếp tục lao dốc (thậm chí phải đóng cửa) gây hoang mang và hỗn loạn trên thị trường. Dự trữ ngoại hối giảm xuống mức 3.650 tỷ USD vào tháng 7/2015, từ mức đỉnh cao là 3.990 tỷ USD (cách đây một năm). Tính đến cuối năm 2015 dự trữ ngoại hối đã giảm 513 tỷ, còn 3.300 tỷ USD; Riêng trong 1/2016 dự trữ ngoại hối giảm 99,5 tỷ USD, còn 3.230 tỷ USD. Dự kiến 2016, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc có thể giảm 300 tỷ, chỉ còn 3.000 tỷ USD. 

Các chuyên gia nói gì?

Sau ba thập kỷ phát triển kinh tế với tốc độ hai con số, được cả thế giới ngưỡng mộ như một hiện tượng thần kỳ, “mô hình Trung Quốc” đã bộc lộ những điểm yếu cơ bản có tính hệ thống, trong đó cải cách kinh tế mà  không cải cách chính trị là một tử huyệt trong chương trình “Bốn Hiện đại Hóa” (nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, khoa học công nghệ) để biến Trung Quốc thành một cường quốc hiện đại. “Bốn Hiện đại Hóa” mà không dân chủ hóa (đàn áp dã man “Pháp Luân công”), tôn vinh làm giàu và sức mạnh cứng mà không biết cách xây dựng “sức mạnh mềm” (vô cảm), phát triển nóng bất chấp cái giá phải trả về hủy hoại môi trường sống (gây ô nhiễm nặng nề), thì phát triển không thể bền vững. Trước khi nghỉ hưu, thủ tướng Ôn Gia Bảo và các nhà cải cách khác đã kêu gọi cải cách chính trị để cứu vãn thành quả cải cách kinh tế, nhưng lãnh đạo Đảng CSTQ vẫn duy trì chế độ độc tài, độc đảng.

Ngày càng nhiều chuyên gia về Trung Quốc (và các nhà đầu tư) mất lòng tin vào “Mô hình trung Quốc” và cảnh báo về những nguy cơ tiềm ẩn. Không phải họ ghét hay chống Trung Quốc nên “độc mồm độc miệng”, mà nhiều người trong số họ đã từng ủng hộ các chương trình cải cách của Trung Quốc. Hãy điểm lại một số ví dụ điển hình xem các chuyên gia đó nói gì.

Trước hết là luật sư Gordon Chang (một học giả về Trung Quốc) ngay từ năm 2001 đã cảnh báo Trung Quốc sẽ sụp đổ “trong vòng năm đến mười năm tới” (Gordon Chang, “the Coming Collapse of China”, Random House, 2001). Theo Gordon Chang, dưới cái vỏ hiện đại, Trung Quốc là “con hổ giấy” với nhiều dấu hiệu đồi bại vì cải cách nửa vời đã làm cho quốc gia này “mắc kẹt giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản”. Nhiều người chỉ trích quan điểm quá bi quan của Gordon Chang vì sau 10 năm Trung Quốc vẫn tồn tại và phát triển. Năm 2011 Gordon Chang thừa nhận mình đã dự báo “sai mất một năm”, nhưng vẫn giữ quan điểm cũ, và còn cược là Trung Quốc sẽ sụp đổ vào năm 2012. (Gordon Chang, “the Coming Collapse of China: 2012 Edition”, Foreign Policy, December 29, 2011). 

Tại sao Trung Quốc không sụp đổ (như các nước Đông Âu)? Andrew Nathan (một học giả về Trung Quốc tại Đại học Columbia) giải thích bằng thuyết “sức bật của chuyên quyền” (Andrew Nathan, “Authoritarian Resilience”, Journal of Democracy, January 2003).  Theo Nathan, sự trỗi dậy của nền độc tài (Trung Quốc) phản ánh sự suy yếu của nền dân chủ (Mỹ). Muốn đối phó với thách thức hiện nay (Trung Quốc nổi lên và lấn sân Mỹ), các nước dân chủ phải quản trị tốt hơn (Andrew Nathan, “China’s Challenge”, Journal of Democracy”, January 2015). Francis Fukuama (Đại học Johns Hopkins) cũng chia sẻ quan điểm tương tụ  trong cuốn sách phân tích thực trạng suy thoái của nền dân chủ Mỹ và Châu Âu (Francis Fukuama, “Political Order and Political Decay”, Farrar Straus Giroux, 2014). 

Giáo sư Minxin Pei (một học giả về Trung quốc, giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Đại học Claremont McKenna) đã nghiên cứu về chiến lược cải cách của Trung Quốc trong bối cảnh đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo, và đi đến kết luận là thay vì tiến đến một nền kinh tế thị trường thực sự thì Trung Quốc “bị mắc kẹt trong quá trình chuyển đổi do những cải cách kinh tế và chính trị nửa vời”. (Minxin Pei, “China’s Trapped Transition: The Limits of Development Autocracy”, Harvard University Press, 2006). Theo Minxin Pei, quá trình chuyển đổi kinh tế tiệm tiến có thể thành công trong giai đoạn đầu, nhưng “Chủ nghĩa Tiệm tiến” (Gradualism) cuối cùng sẽ thất bại.  

Dưới thời Tập Cận Bình, xã hội Trung Quốc lại một lần nữa chìm trong nỗi lo sợ vì chiến dịch “Đả hổ Diệt ruồi” đang tiếp diễn, với 146 con hổ to đã bị sa bẫy chống tham nhũng. (Minxin Pei, “China’s Rule of fear”, Project Syndicate, February 8, 2016). Theo Minxin Pei, chính sách cai trị bằng sợ hãi (rule of fear) đang làm cho không những bộ máy chính quyền và xã hội Trung Quốc hầu như bị tê liệt vì lo sợ, mà cộng đồng kinh doanh, cộng đồng trí thức, giới truyền thông, và cả người nước ngoài, cũng đang “sống trong sợ hãi” như bị khủng bố tinh thần (giống như thời Cách mạng Văn hóa).

Hiện nay, Trung Quốc đang rơi vào cái bẫy do chính họ tạo ra, trong đó “bẫy thu nhập trung bình” là rất khó thoát. Theo World Bank, trong tổng số 35 nền kinh tế trên thế giới bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình, chỉ có 13 nền kinh tế đã vượt qua được. Mô hình Trung Quốc là một nền kinh tế bong bóng lớn nhất thế giới (và cũng cực đoan nhất thế giới), đặc biệt là bong bóng bất động sản, không thể nào chỉnh sửa được, và cũng không thể nào “hạ cánh nhẹ nhàng” (soft landing) được. Sớm muộn thì cái bong bóng khổng lồ đó sẽ phải nổ như một vụ nổ lớn trong vũ trụ, tạo ra khủng hoảng tài chính (như một cái “hố đen”) hay bị vỡ nợ (như một trận lở tuyết). Không phải ngẫu nhiên mà tỷ phú Lý Gia Thành (giàu nhất Trung Quốc với tài sản gần 40 tỷ USD) đã nhanh chân bán tài sản tại lục địa (trị giá 3 tỷ USD) để chạy khỏi thị trường Trung Quốc. Cũng không phải vô cớ mà 64% người giàu Trung Quốc đã và đang di cư ra nước ngoài, đồng thời tìm mọi cách chuyển tiền ra nước ngoài để tránh rủi ro trong nước.

Sau Gordon Chang và Minxin Pei (hai học giả người Mỹ gốc Hoa) là Paul Krugman (một nhà kinh tế học Mỹ tại Đại học Princeton) đã được giải thưởng Nobel về Kinh tế năm 2008. Năm 2013, trong một bài báo, Paul Krugman đã đưa ra những cảnh báo về Trung Quốc làm chấn động dư luận, “Trung Quốc đang gặp rắc rối to. Không phải là những thất bại nhỏ dọc đường, mà là những vấn đề cơ bản. Toàn bộ cách thức kinh doanh và hệ thống kinh tế đã từng thúc đẩy ba thập kỷ phát triển không thể tưởng tượng được, thì nay đã đến điểm dừng. Có thể nói Mô hình Trung Quốc sắp đụng phải Vạn lý Trường thành, và câu hỏi duy nhất lúc này là sự sụp đổ sẽ tồi tệ đến mức nào… Các biện pháp trì hoãn ngày phán quyết chỉ làm cho ngày đó càng thêm tồi tệ hơn khi cuối cùng nó phải xảy ra. Và ngày đó đang tới. Ngày hôm trước chúng ta còn sợ người Trung Quốc, thì bây giờ chúng ta lo ngại cho họ”… (Paul Krugman, “Hitting China’s Wall”, the New York Times, July 18, 2013). Chắc Paul Krugman không nói đùa!  

Chưa đầy hai năm sau, David Shambaugh (một chuyên gia về Trung Quốc có uy tín tại Đại học George Washington) có những nhận xét tương tự, nhưng còn mạnh hơn nữa (như một “quả bom tấn”). Năm 2008, David shambaugh xuất bản một cuốn sách về Trung Quốc, đánh giá cao năng lực của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc để thích ứng với các thách thức mới trong thập niên đầu của thế kỷ 21 (được Bắc Kinh đánh giá cao). Vì vậy, phát ngôn mới của Shambaugh về Trung Quốc đã gây sốc, “Màn chót của chế độ cộng sản ở Trung Quốc đã bắt đầu, và những biện pháp mạnh tay của Tập Cận Bình đang đưa đất nước đến gần hơn sự sụp đổ… Chúng ta không thể đoán được khi nào thì Trung Cộng sụp đổ, nhưng không thể không kết luận rằng chúng ta đang chứng kiến giai đoạn chót của nó”. (David Shambaugh, “The Coming Chinese Crackup”, the Wall Street Journal, March 6, 2015).

Không biết động cơ thực sự của David Shambaugh là gì (qua bài báo nói trên), nhưng rõ ràng Shambaugh tỏ ra rất thất vọng trước thái độ bảo thủ và ngoan cố của lãnh đạo Trung Quốc không chịu triển khai những cải cách cơ bản để đối phó với những thách thức to lớn mà Trung Quốc đang đối mặt. Shambaugh lập luận rằng Tập Cận Bình càng cố gắng làm ngược lại với những gì Gorbachev đã làm, hòng duy trì chế độ cộng sản ở Trung Quốc, thì hệ quả của nó lại càng giống như Liên Xô. Nói cách khác, ngày càng nhiều người coi Trung Quốc như một gã khổng lồ tuy khỏe và giàu, nhưng đã mắc căn bệnh ung thư (di căn giai đoạn cuối), nên hóa xạ trị cũng không thể cứu được, nhưng lại từ chối giải phẫu.     

Gần đây, tỷ phú George Soros (nhà đầu cơ gây nhiều tranh cãi) đã dự đoán (tại Diễn đàn Kinh tế Davos tháng 1/2015) rằng, do biến động tỷ giá của đồng Nhân dân Tệ, kinh tế trung Quốc sẽ “hạ cánh cứng” (hard landing) và có khả năng Trung Quốc sẽ rơi vào khủng hoảng tài chính (như Nga năm 2014). Trong khi cả thế giới vẫn còn bán tín bán nghi trước nhận định gây sốc này của George Soros thì Chính phủ Trung Quốc lại tự biến nó thành một câu chuyện đáng tin. Mặc dù Trung Quốc phản ứng rất gay gắt đối với George Soros (“đừng bao giờ quay lại Trung Quốc nữa!”), nhưng dự đoán bi quan của George Soros về tương lai kinh tế Trung Quốc đang ngày càng có vẻ chính xác.

Còn nhớ năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã ồ ạt rút vốn khỏi thị trường Nga để chuyển về nước. Trong một thời gian ngắn, họ đã đẩy nước Nga rơi vào cảnh lạm phát phi mã, nền kinh tế đình đốn do quan hệ kinh tế với Mỹ và EU bị đứt đoạn, tiêu dùng giảm sút và tăng trưởng đình trệ. Hiện nay, Trung Quốc cũng đang trải qua một tình trạng tương tự. Theo thống kê, hơn 1000 tỷ USD đã được các nhà đầu tư rút khỏi thị trường Trung Quốc trong năm 2015. Việc một lượng quá lớn USD biến khỏi thị trường Trung Quốc chỉ trong vòng một năm đang đẩy nền kinh tế số hai thế giới lâm vào tình cảnh tương tự như Nga hồi cuối năm 2014. Áp lực tỷ giá đối với đồng Nhân dân Tệ tại thời điểm hiện nay lớn hơn bao giờ hết, khi nó liên tục bị mất giá kể từ khi được IMF cho vào giỏ tiền tệ SDR (12/2015).

Một số chuyên gia về Trung Quốc cho rằng Tập Cận Bình đang theo đuổi một chính sách đối ngoại và an ninh đầy tham vọng (nhưng cũng đầy rủi ro), thách thức trật tự an ninh của Mỹ tại Châu Á-TBD, bất chấp lời khuyên của Đặng Tiểu Bình (và có thể chôn vùi di sản cải cách của Đặng Tiểu Bình). Tại Châu Á, Trung Quốc đã cam kết hơn 100 tỷ USD góp vốn cho Ngân hàng Hạ tầng Châu Á (AIIB). Tại Châu Mỹ La tinh, Trung Quốc đã cho vay gần 120 tỷ USD (từ năm 2005). Tại Châu Phi, Trung Quốc cũng đã đầu tư và cho vay hơn 100 tỷ USD. Trong khi đầu tư khổng lồ vào các dự án lớn đầy phiêu lưu về kinh tế và quân sự, lãnh đạo Trung quốc đã trở nên kiêu ngạo và quá tự tin vào quyền lực cứng, mà không biết cách xây dựng quyền lực mềm (một tiêu chí cơ bản của siêu cường), trong khi thể chế kinh tế và chính trị của Trung quốc đang tiềm ẩn và bộc lộ những tử huyệt đe dọa sự sống còn của chế độ.  

Biển Đông sẽ ra sao?

Mỗi khi trong nước khủng hoảng nội bộ (sức ép lên cao) thì lãnh đạo Trung Quốc lại gây ra khủng hoảng với bên ngoài để “tháo ngòi nổ bên trong” (như một quy luật). Nhưng lần này có khác là lãnh đạo Trung Quốc tin rằng thời cơ đã tới và quân đội Trung Quốc (PLA) đã đủ sức mạnh để thách thức Nhật và Mỹ. Vì vậy, Trung Quốc đã chủ động gây ra khủng hoảng với Nhật, tranh chấp đảo Điếu Ngư (Senkaku) và áp đặt khu nhận diện phòng không (ADIZ) tại Biển Hoa Đông, nhằm: (1) kích động tinh thần dân tộc (cực đoan) của người Trung Quốc, (2) phô diễn sức mạnh mới để đòi thay đổi nguyên trạng (với Nhật) tại Đông Bắc Á, (3) nhân đó “rửa vết nhục lịch sử” (muốn người Nhật phải xin lỗi). Làn sóng chống Nhật tại Trung Quốc chứng tỏ lãnh đạo Trung Quốc hầu như đã đạt được mục tiêu nói trên.

Nhưng cái giá phải trả (và hệ quả không định trước) cũng rất lớn. Không những nhiều nhà đầu tư Nhật rút vốn khỏi thị trường Trung Quốc, mà Chính phủ Nhật còn có “cơ hội vàng” thay đổi Hiến pháp (điều 9) để tái vũ trang, một điều mà chưa chính phủ Nhật nào dám làm (sau chiến tranh).

Trong khi chưa ai có thể lường hết được hệ quả của việc “Nhật tái vũ trang” sẽ làm thay đổi cán cân chiến lược tại Đông Á như thế nào, thì Trung Quốc gây ra khủng hoảng tại Biển Đông, nhằm: (1) kích động tinh thần dân tộc (cực đoan) của người Trung Quốc, (2) phô diễn sức mạnh mới để đòi thay đổi nguyên trạng (với Mỹ) tại Đông Nam Á, (3) áp đặt chủ quyền tiến tới độc chiếm Biển Đông nơi giàu tài nguyên biển (dầu hỏa và hải sản), có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng (hơn cả Biển Hoa Đông), trong khi ASEAN còn yếu, dễ phân hóa, và cam kết của Mỹ tại đây còn lỏng lẻo (so với Nhật Bản và Hàn Quốc). Nhưng cái giá phải trả (và hệ quả không định trước) của việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào Biển Đông (5/2014), ráo riết san lấp các đảo nửa chìm nửa nổi và xây dựng sân bay và hạ tầng quân sự trên 7 đảo tại khu vực Hoàng Sa và Trường Sa, cũng rất lớn, chưa thể lường hết được.

Sự kiện dàn khoan HD981 đã tạo ra một bước ngoặt lớn (và khủng hoảng) trong quan hệ Trung-Việt, làm thay đổi cán cân tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Việt tại Đông Á. Muốn hay không, lãnh đạo Hà Nội (nhất là phái bảo thủ) đã bị sốc, buộc phải xem xét lại những cam kết với Trung Quốc (tại Thành Đô), phải “xoay trục” xích lại gần Mỹ hơn. Chuyến thăm Mỹ chính thức của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một dẫn chứng. Muốn hay không, Chính quyền Obama cũng buộc phải xem xét lại chính sách Trung Quốc, phải “xoay trục” mạnh hơn để “tái cân bằng” quyền lực với Trung Quốc tại Đông Á, thúc đẩy tiến trình ký kết thỏa thuận TPP, tăng cường cam kết an ninh và hợp tác quốc phòng với ASEAN (đặc biệt là với Philippines và Việt Nam) để “ngăn chặn” Trung Quốc. Washington đã quyết định điều tàu chiến tuần tra đảm bảo tự do hàng hải (FONOP) tại Biển Đông (2 lần với “innocent passage”) trong khu vực 12 hải lý quanh các đảo đang tranh chấp tại Trường Sa và Hoàng Sa, để thách thức Trung Quốc.     

Tuy nhiên, những tuyên bố và hành động để triển khai chính sách “tái cân bằng” của Chính quyền Obama (từ năm 2011) chưa phải là một chiến lược tổng thể rõ ràng, chặt chẽ và nhất quán cho khu vực Châu Á-TBD, đặc biệt là để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc đang hành xử một cách quyết đoán, cưỡng ép các nước khác tại Biển Đông. Điều này đòi hỏi Mỹ phải đánh giá lại chính sách đối với Trung Quốc, việc phối hợp với đồng minh và đối tác để duy trì trật tự và ổn định tại đây, nếu không Trung Quốc sẽ biến Biển Đông “thành cái ao nhà của họ vào năm 2030, giống như biển Caribbean hoặc vịnh Mexico đối với Mỹ”. (Asia-Pacific Rebalance 2025, CSIS Report, January 2016).

Việt Nam đang ở đâu?

Trong 124 nền kinh tế trên thế giới được World Bank đánh giá, có 52 nền kinh tế ở mức thu nhập trung bình, trong đó có 35 nước đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình, nhưng chỉ có 13 nước đã vượt qua được cái bẫy này để trở thành những nước có thu nhập cao. Ở khu vực Đông Á chỉ có 5 nền kinh tế là Nhật Bản, Hong Kong, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore nằm trong số đó.

Thường các nước bị sa vào bẫy thu nhập trung bình khi tốc độ tăng trưởng bị trì trệ kéo dài nhiều năm mà không vượt qua được mức thu nhập trung bình (khoảng từ 2000 đến 4000 USD/năm). Việt Nam thuộc nhóm nước thu nhập trung bình thấp, có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Trong khi tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2015 là 6,68%  thì thu nhập bình quân đầu người là 2.300 USD/năm. Theo con số của Tổng cục Thống kê (tại hội thảo “Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển giai đoan 2015-2035”) bình quân đầu người của Việt Nam đã bị tụt hậu sau Hàn Quốc 35 năm, sau Malaysia 25 năm, sau Thailand 20 năm, sau Indonesia và Philippines 5-7 năm. Năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam rất thấp (so với các nước khu vực Châu Á).

Nhưng điều còn đáng lo ngại hơn là chính phủ Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào chính phủ Trung Quốc cả về kinh tế lẫn chính trị (trong khi phong trào nhân quyền và dân chủ hóa tại hai nước chẳng liên kết gì với nhau). Chưa biết TPP có giúp tháo gỡ được vấn nạn này hay không, nhưng hiện nay tỷ trọng nguyên liệu đầu vào phải nhập của Trung Quốc là 60%. Cơ cấu này đang gây khó khăn rất lớn cho Việt Nam khi tham gia TPP, vì một điều kiện tiên quyết để tham gia TPP là Việt Nam phải chuyển đổi vùng nguyên liệu nhập từ các nước ngoài TPP (như Trung Quốc) sang các nước thành viên TPP. Một vấn nạn khác là các nhà thầu Trung Quốc là tổng thầu EPC của 77/106 dự án lớn tại Việt Nam, trong các lĩnh vực quan trọng như hóa chất, khai thác chế biến bauxite, xi măng và nhiệt điện.

Về thương mại, Việt Nam tiếp tục nhập siêu khổng lồ từ Trung Quốc: năm 2015 là 32,3 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014 và được coi là con số cao nhất từ trước đến nay. Nếu tính cả con số nhập lậu (theo “tiểu ngạch”) khoảng 20 tỷ USD thì tổng giá trị nhập siêu từ Trung Quốc năm 2015 là gần 52 tỷ USD. Về tài chính, Việt nam thâm hụt ngân sách quá lớn vì bội chi, dự trữ ngân sách chỉ đủ để trả nợ nước ngoài đến hạn. Trong khi nguồn vay ưu đãi ODA đang cạn dần, thì 33 tỷ USD đã chạy khỏi Việt Nam (năm 2015) bằng nhiều con đường bất hợp pháp (rất khó kiểm soát) như buôn lậu, hoán đổi, mua tài sản để rửa tiền, dùng đồng tiền ảo. (Theo chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt).

Nợ công của Việt Nam đã lên tới 93 tỷ USD (tính đến cuối 2015). Theo Bộ Tài chính, nợ công chiếm 61,3% GDP, riêng nợ nước ngoài là 65,46 tỷ USD (bằng 41,5% GDP). Các doanh ghiệp nhà nước vay đến 1,6 triệu tỷ VND, nhưng sử dụng vốn không hiệu quả, và mất khả năng thanh toán. Năm 2015, số doanh nghiệp phá sản tăng vọt, trong 7 tháng đầu năm cả nước có 32.373 doanh nghiệp ngừng hoạt động. Không thể hy vọng các nhà tài trợ xóa nợ cho Việt Nam (một đất nước “không chịu phát triển”). Việt Nam đang chịu sức ép rất lớn phải cải cách thể chế, nhưng vẫn tìm cách trì hoãn cải tổ, duy trì “định hướng XHCN”. Đã đến lúc Việt Nam không thể trì hoãn đổi mới thể chế, không thể coi thường sự hợp tác và sức ép của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nhà tài trợ. Giám đốc World Bank tại Việt Nam (Victoria Kwakwa) đã thẳng thắn hỏi thủ tướng, “Chính phủ Việt Nam lấy tiền đâu để phát triển nhanh và bền vững?”

Thay lời kết

Sau Đại hội Đảng, dàn lãnh đạo mới tại Hà Nội phải tiếp tục trả lời câu hỏi trớ trêu này, trong khi họ tiếp thu một di sản kinh tế và xã hội đầy bất ổn. Trong khi đó, vấn đề cải cách thể chế cấp bách mà Bộ trưởng KH & ĐT) Bùi Quang Vinh đặt ra tại Đại hội Đảng có thể bị bỏ qua. Nếu Việt Nam không chịu đổi mới thể chế chính trị thì khó thoát khỏi cái bóng đen của Trung Quốc đang đè nặng lên số phận của dân tộc này, và lối thoát tại cuối đường hầm ý thức hệ vẫn chưa tìm thấy.
Dù cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-ASEAN sắp tới tại Sunnylands (15-16/2/2016) có bàn về Biển Đông thì vai trò của Việt Nam có thể mờ nhạt, vì thủ tướng (lameduck) sẽ không tham dự mà chỉ có một phó thủ tướng đi thay, trong bối cảnh “hậu Đại hội Đảng”. Nếu Việt Nam không thay đổi thể chế, thì chuyến thăm cuối cùng của Tổng thống Obama (dự kiến vào 5/2016) có thể trở thành một chuyến thăm xã giao, và tầm nhìn chiến lược có thể trở thành nửa vời (vì hai nước vẫn chưa trở thành đối tác chiến lược). Việt Nam có thể nhỡ chuyến tàu một lần nữa, trong khi Trung Quốc mỉm cười đắc ý…


Tham khảo
1. Andrew Browne, “the Great Chinese exodus”, the Wall Street Journal, August 15, 2014
2. Gordon Chang, “the Coming Collapse of China”, Random House, 2001; Gordon Chang, “the Coming Collapse of China: 2012 Edition”, Foreign Policy, December 29, 2011
3. Andrew Nathan, “Authoritarian Resilience”, Journal of Democracy, January 2003; Andrew Nathan, “China’s Challenge”, Journal of Democracy”, January 2015
4. Francis Fukuama, “Political Order and Political Decay”, Farrar Straus Giroux, 2014
5. Minxin Pei, “China’s Trapped Transition: The Limits of Development Autocracy”, Harvard University Press, 2006; Minxin Pei, “China’s Rule of fear”, Project Syndicate, February 8, 2016
6. Paul Krugman, “Hitting China’s Wall”, the New York Times, July 18, 2013
7. David Shambaugh, “The Coming Chinese Crackup”, the Wall Street Journal, March 6, 2015).
8. “Asia-Pacific Rebalance 2025”, CSIS Report, January 2016.
NQD. 12/2/2016.       

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 12-2-16
http://www.viet-studies.info/kinhte/NQuangDy_CoHoiThoatTrung.htm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trực giác: Giác quan nằm bên ngoài thế giới thực tại

Liệu chúng ta có sở hữu giác quan thứ sáu? (Ảnh: Photo.com)
“Vui vẻ; tức giận; vui vẻ … chắc chắn vui vẻ”… chiếc máy theo dõi hoạt động não bộ của một bệnh nhân X, 52 tuổi liên tục ghi nhận lại phản ứng của người này khi ông ta được cho xem những bức ảnh chụp các khuôn mặt biểu lộ cảm xúc sợ hãi, hạnh phúc cùng các cảm xúc khác, mặc dù người này đã trải qua hai lần xuất huyết não – vốn đã gây nên những tổn thương nghiêm trọng đối với trung tâm xử lý hình ảnh trong não bộ.
Kết quả thu được từ thử nghiệm cho thấy bệnh nhân này có thể nhận biết cảm xúc biểu lộ trên các khuôn mặt trong bức ảnh một cách chuẩn xác, với một tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với mức xác suất ngẫu nhiên. Phải chăng đây là một cách thức “quan sát” nằm bên ngoài phạm vi thị giác? Hay đây chỉ đơn giản là một phương thức cảm thụ chúng ta chưa thể nhận thức được?
Tiến sĩ Alan Pegna từ trường Đại học New South Wales, Úc, và nhóm nghiên cứu của ông từ Geneva, Thụy Sĩ, đã rất chấn động trước các kết quả quan sát được trong cuộc nghiên cứu. Họ cho biết, trong quá trình chụp quét, não bộ của bệnh nhân X biểu lộ trạng thái hoạt động đáng kể ở hạch hạnh nhân bên phải, và kết quả này khá là tương đồng với kết quả thu được từ cuộc thử nghiệm với một đối tượng bình thường, không có vấn đề gì về não bộ.
Đối với rất nhiều nhà khoa học thần kinh khác, kinh nghiệm gần đây với bệnh nhân X đã hé lộ một khả năng thú vị của con người—thêm một giác quan thứ sáu vào năm giác quan đã được công nhận. Và có lẽ, đây mới chỉ là những bước đầu tiên của giới khoa học nhằm tiến hành thêm các nghiên cứu về một năng lực vốn đã được biết đến rộng rãi: trực giác.

“Trực giác là thứ duy nhất có giá trị thực sự”.—Albert Einstein

Tuy rằng trực giác đã được nền khoa học ngày nay ít nhiều công nhận, nhưng trong những năm gần đây, việc thừa nhận khả năng này đã trở nên phổ biến hơn trong ngành sinh lý học thần kinh. Cái năng lực có thể biết được những điều chưa xảy ra, các sự kiện xảy ra ở khoảng cách xa, hay những thay đổi sắp xảy ra trong môi trường xung quanh, chúng đều đã được hầu hết những người thổ dân trên khắp thế giới vận dụng trong cả thiên niên kỷ—dẫu rằng chúng vẫn luôn bị những người còn hoài nghi trong giới khoa học phản bác.

Quá mẫn cảm hay là giác quan thứ sáu?

Biển cả đã cuốn trôi hàng trăm người, nhưng không có đến một con voi bị chết, cũng không thể tìm thấy thậm chí một con mèo hay một con thỏ… thật kỳ lạ khi không có một loài động vật tử vong nào được ghi nhận”. Những quan sát đã được giới chức chính phủ Sri Lanka ghi nhận sau thảm họa sóng thần châu Á vào năm 2004 này đã làm dấy lên một số câu hỏi thú vị.
Cảnh tượng sóng thần đổ bộ vào vịnh Ao Nang, Thái Lan, năm 2004. (Ảnh: Wikimedia)
Cảnh tượng sóng thần đổ bộ vào vịnh Ao Nang, Thái Lan, năm 2004. (Ảnh: Wikimedia)
Điểm đáng chú ý là, liệu động vật có khả năng cảm nhận được mối nguy hiểm cận kề hay không? Chúng đã chạy thoát khỏi trận sóng thần như thế nào? Được biết, chỉ vài phút trước khi nước biển dâng lên và tàn phá hơn 3 km đất liền, các loài động vật đã bỏ chạy thục mạng tới các khu vực có địa hình cao hơn của hòn đảo.
Cùng lúc đó, các bộ lạc thổ dân trong khu vực, vốn đã có 60.000 năm sinh tồn trong môi trường tự nhiên, cũng bắt chước hành vi của các loài động vật là bỏ chạy tới những chỗ đất cao. Kết quả là hầu hết các thổ dân bản địa đều sống sót trước sự tàn phá nghiêm trọng của cơn đại hồng thủy.


Nhưng chính xác là làm thế nào những thổ dân bản địa và các loài động vật có thể nhận biết được mối nguy hiểm đang cận kề? Có hợp lý hay không khi cho rằng trực giác là nhân tố chịu trách nhiệm? Và nếu thực sự như vậy, thì cái cơ chế sinh học bí ẩn này hoạt động như thế nào?
Tất nhiên, không dễ mà đưa ra câu trả lời giống như khi đưa ra câu hỏi. Theo một số nhà nghiên cứu, trong nhiều năm, những thổ dân sinh sống trên đảo đã tích lũy được những bài học quan trọng nhờ sinh sống gần gũi với giới tự nhiên.
Lấy ví dụ, họ có thể cảm nhận được tiếng vọng từ những bước chân của các con voi hoang dã khi chúng hối hả chạy vào sâu bên trong khu vực đất liền của hòn đảo, họ cũng để ý tới những hành vi khác thường của loài cá heo, cự đà và sự tán loạn của những loài chim trên đảo. Bằng cách này, trên thực tế họ đã nhận biết được những hiện tượng mà ngay cả các hệ thống radar hiện đại, vốn không hoạt động vào ngày xảy ra sóng thần, không thể nhận biết.
Đàn chim bay tán loạn khi xảy ra trận động đất vừa qua ở Nepal hồi tháng 5 vừa qua. (Ảnh: Twitter)
Đàn chim bay tán loạn khi xảy ra trận động đất vừa qua ở Nepal hồi tháng 5 vừa qua. (Ảnh: Twitter)
Theo một bài viết trên tạp chí Science, các nhà nghiên cứu từ trường Đại học Washington, St. Louis, bang Missouri, Mỹ, cho rằng chìa khóa về khả năng dự đoán của những thổ dân bản địa nằm ở một khu vực trong não bộ được gọi là vùng não trước trán (anterior cingulate). Khu vực này của não bộ sẽ hoạt động tích cực hơn trong tình huống xảy ra các biến đổi môi trường mà chủ ý thức không có khả năng nhận biết, nhưng vẫn cần thiết cho sự sinh tồn của cá thể.
Dù vậy, để hiểu được cách thức các loài động vật đã nhận biết được các trận sóng thần sắp xảy đến ngay từ lúc đầu, có thể sẽ là một nhiệm vụ thậm chí còn khó khăn hơn. Một số nhà nghiên cứu động vật cho rằng, các dấu hiệu như sự thay đổi áp suất trong không khí, những dao động tinh tế phát ra từ dưới đất, hay những âm thanh mờ nhạt của sóng biển đang tiến đến—những tín hiệu nằm bên ngoài phạm vi nhận thức của các giác quan con người—có thể báo hiệu cho một số loài sinh vật về mối hiểm họa đang đến gần.
Tuy nhiên, rất nhiều nhà khoa học tin rằng, trong trường hợp này cũng như trong trường hợp của bệnh nhân X, hẳn phải tồn tại một phương pháp khác mà qua đó các loài sinh vật có thể nhận biết được môi trường xung quanh—một phương pháp khác ngoài âm thanh, sự dao động, mùi hương, hình ảnh, hoặc mùi vị. Theo đó, người ta đã ghi nhận được các trường hợp trong đó chim muông và các loài động vật khác đã tháo chạy khỏi khu vực ngay trước khi núi lửa phun trào.
Tương tự, các nhà sinh học ở Trung quốc đã tiến hành rất nhiều các cuộc nghiên cứu qua đó xác định được rằng, chỉ vài phút trước khi xảy ra một trận động đất, những con mèo, con chó và các loài gia súc, gia cầm khác trên một khu vực đã trở nên kích động, và trong một vài trường hợp, chúng thậm chí còn tru lên, cắn sủa hay kêu meo meo một cách không kiểm soát. Các nhà nghiên cứu cho rằng trong những tình huống như vậy, những con rắn sẽ rời bỏ hang ổ, những con chim bay loạn xạ trong lồng, còn những con chuột thì sẽ chạy tán loạn xung quanh.
Hàng nghìn con ếch tràn ngập trên đường phố vào ngày trước khi trận động đất kình hoàng ở Từ Xuyên, Trung Quốc xảy ra vào năm 2008. (Ảnh: Common Uses)
Hàng nghìn con ếch tràn ngập trên đường phố vào ngày trước khi trận động đất kình hoàng ở Từ Xuyên, Trung Quốc xảy ra vào năm 2008. (Ảnh: Common Uses)

Một khả năng tiềm tàng

Để xác định độ nhạy bén của trực giác, các nhà khoa học đã tiến hành một thí nghiệm khá đơn giản bao gồm 40 tình nguyện viên và hai nhiếp ảnh gia trong mỗi lần thí nghiệm. Người phụ trách thí nghiệm là Ronald Rensink – Phó giáo sư ngành Tâm lý học và Khoa học máy tính từ trường Đại học British Columbia, Canada, và ông sẽ bắt đầu thí nghiệm bằng việc miêu tả cách thức xảy ra các vụ tai nạn xe hơi, mà trong đó các tài xế gây tai nạn không nhìn thấy chiếc xe hơi mà họ đâm vào. Nghiên cứu này đã được đăng trên tạp chí Psychological Science.
Ban đầu, các tình nguyện viên được cho xem một bức ảnh chụp một con đường, vốn sẽ phát lại định kỳ với một hình ảnh tương tự. Tại một thời điểm bất kỳ trong quá trình phát lại bức ảnh, bức ảnh sẽ được thay đổi đôi chút—chẳng hạn, các vật thể được loại bỏ, thay đổi hoặc thêm vào—và những thay đổi này, ngay cả khi đáng kể, cũng thường khó có thể nhận biết.
Thí nghiệm yêu cầu các đối tượng bấm còi vào thời điểm họ phát hiện được một sự thay đổi trong trình tự các bức ảnh. Một sự ngạc nhiên lớn đã xuất hiện trong cuộc thí nghiệm khi một số tình nguyện viên viên hỏi P.GS Rensink rằng, liệu họ có nên bấm còi chỉ khi thực sự thấy rõ sự thay đổi, hay họ có thể bấm còi ngay khi họ trực cảm rằng một sự thay đổi có thể sẽ sắp xuất hiện.
Điều này đã thay đổi cuộc nghiên cứu một cách mạnh mẽ. P.GS Rensink đã nhận thấy rằng không chỉ phần lớn các tình nguyện viên đều có khả năng nhận thức ra được chính xác sự thay đổi vào đúng thời điểm nó xuất hiện, mà thêm vào đó, 1/3 các đối tượng đã có thể bấm còi ngay trước khi bức tranh có sự thay đổi xuất hiện.
Nghiên cứu này dường như đã cho thấy trực giác có thể là một phương thức ngoại cảm trong việc phát hiện những thay đổi cực nhỏ trong môi trường. Có ý kiến cho rằng con người có thể sở hữu khả năng cảm nhận các kích thích vốn không thể được phát hiện ngay cả với những công nghệ tiên tiến.
Vậy liệu chúng ta có thể sử dụng các biện pháp nào đó để cải thiện năng lực trực giác của chúng ta hay không? Những cải thiện như vậy đòi hỏi điều gì? Và tại sao các loài động vật dường như lại có trực giác tốt hơn con người chúng ta?
Một số người cho rằng, con người cổ đại, vốn có cuộc sống gắn liền với sự tuần hoàn của tự nhiên, đã rất tự tin với khả năng trực giác của mình. Còn con người hiện đại ngày nay thì lại ngày càng trở nên phụ thuộc hơn vào các công cụ hiện đại hóa của mình trong chặng đường khám phá thế giới, cho nên năng lực trực giác của họ sẽ ngày càng trở nên thoái hóa. Theo đó, trong nền văn minh hiện đại, các khái niệm liên hệ đến trực giác thường không được ủng hộ so với những điều có thể được xác thực dễ dàng hơn.
Khi khoa học cố gắng thừa nhận khả năng đáng kinh ngạc này của con người, phải chăng môi trường công nghệ hiện đại hóa ngày nay cũng đang góp phần kìm hãm món quà trực giác bẩm sinh của chính bản thân chúng ta?
Trong chuyên mục Khoa học huyền bí, Đại Kỷ Nguyên khám phá các nghiên cứu và các sự kiện liên quan tới các hiện tượng và giả thuyết đang thách đố hiểu biết của chúng ta hiên này. Chúng tôi sẽ đào sâu vào những ý tưởng có thể kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng mới. Hãy chia sẻ với chúng tôi suy nghĩ của bạn về những chủ đề có thể gây nhiều tranh luận trong phần bình luận bên dưới.
Tác giả: Leonardo Vintini, Đại Kỷ Nguyên tiếng AnhĐọc bản gốc ở đây.Ngọc Mai biên dịch

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bí mật sau chủ trương xuất binh đánh Việt Nam năm 1979 của ông Đặng Tiểu Bình

Ông Đặng Tiểu Bình khiến hàng ngàn học sinh đầu rơi máu chảy, hàng chục ngàn tinh anh xã hội rơi vào ngục tối, hàng triệu người dân vô tội bị bức hại. Ông ta chính là kẻ chủ mưu gây cuộc tàn sát ngày 4/6 tại Thiên An Môn, tên tuổi của ông đã bị đóng cây đinh kiên cố trên trụ cột ô nhục của dòng lịch sử. (Ảnh: internet)
Tháng 2/1979, ông Đặng Tiểu Bình điều động 200.000 quân đội Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) xâm phạm Việt Nam. Trong vòng một tháng, quân ĐCSTQ tử trận trên 20.000 người, bị thương thì vô số, chịu thảm bại nặng nề.
Nguyên nhân của cuộc chiến này là: Cộng sản Campuchia do ĐCSTQ xúi giục và dung túng (Khmer Đỏ), đã tàn sát 1/4 dân số Campuchia, trong đó có cả kiều bào Trung Quốc và Việt Nam. Việt Nam lấy lý do bảo vệ kiều bào đã đưa quân sang Campuchia để lật đổ Khmer Đỏ, cứu người dân Campuchia thoát khỏi địa ngục. ĐCSTQ xuất quân đánh Việt Nam để trả thù việc Việt Nam đã đánh Khmer Đỏ.
Đến nay, Khmer Đỏ đã tan rã từ lâu, dư đảng còn lại thì giao cho Tòa án Quốc tế xét xử. Cuộc chiến biên giới Việt – Trung do ông Đặng Tiểu Bình khởi xướng không chỉ đại bại về quân sự mà còn đại bại về chính trị.
Ông Đặng Tiểu Bình là kẻ chủ trương đánh Việt Nam, trên thực tế có mục đích cá nhân khác: Ông ta muốn thông qua điều binh khiển tướng để giành thế lực quân sự từ tay của ông Hoa Quốc Phong, sau đó lật đổ quyền lực của ông Hoa Quốc Phong để độc chiếm bá quyền, đây là chiêu dương đông kích tây, thủ đoạn thường thấy trong đấu đá quyền lực ở Trung Quốc.
Đáng tiếc là không biết tại sao ông Hoa Quốc Phong lại không phát hiện được, bỗng dưng rơi vào thòng lọng của ông Đặng Tiểu Bình. Sự xảo quyệt của ông Đặng Tiểu Bình không khác gì Tư Mã Ý thời Tam quốc, tội nghiệp là có vô số thanh niên trong sáng đã biến thành cái bia đỡ đạn cho ông ta.
Năm 1989, ông Đặng Tiểu Bình giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân sự, đã điều động 1/3 quân chủ lực với hơn 300.000 quân tiến vào Bắc Kinh để khai hỏa với đối thủ là học sinh và thị dân tay không tấc sắt, đợt trấn áp phong trào dân chủ với quy mô lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Dưới mệnh lệnh cực đoan của ông Đặng Tiểu Bình, quân đội ĐCSTQ đã máu lạnh dùng xe tăng nghiền nát không thương tiếc người dân, dùng súng máy bắn quét làm máu người dân nhuộm đỏ Quảng trường, thây người tràn ngập khắp nơi. Một cuộc tàn sát chấn động thế giới.
“Giết 200 ngàn người đổi lấy 20 năm ổn định”, một câu “danh ngôn” của ông Đặng Tiểu Bình đưa ra. Trên bề mặt thì câu “danh ngôn” này là vì ổn định quốc gia, nhưng trên thực tế là vì quyền lực chính trị. Còn ý nghĩa khác của câu “danh ngôn” đó là dục vọng cá nhân ích kỷ của ông: Ít nhất giúp ông ta sống yên ổn những năm tháng cuối đời. “Để ta được hưởng vinh hoa phú quý khi còn sống. Sau khi ta chết, làm sao còn biết chuyện tội ác tày trời!” Nội tâm của ông Đặng Tiểu Bình đúng là mê loạn bệnh hoạn.
Là chủ mưu gây cuộc tàn sát ngày 4/6 tại Thiên An Môn, cái tên Đặng Tiểu Bình bị đóng cây đinh kiên cố trên trụ cột ô nhục của dòng lịch sử.
Hàng ngàn học sinh đầu rơi máu chảy, hàng chục ngàn tinh anh rơi vào ngục tối, hàng triệu người dân vô tội bị bức hại
Hàng ngàn học sinh đầu rơi máu chảy, hàng chục ngàn tinh anh rơi vào ngục tối, hàng triệu người dân vô tội bị bức hại
Hàng ngàn học sinh đầu rơi máu chảy, hàng chục ngàn tinh anh rơi vào ngục tối, hàng triệu người dân vô tội bị bức hại
Hàng ngàn học sinh đầu rơi máu chảy, hàng chục ngàn tinh anh rơi vào ngục tối, hàng triệu người dân vô tội bị bức hại


Trước ngày 4/6, vào tháng 5/1989, Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương đã đến gặp ông Đặng Tiểu Bình và đề nghị cần đối thoại với học sinh để có thể tăng thêm gần gũi thông hiểu nhau hơn. Ông Đặng Tiểu Bình trả lời: Tôi đang cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tai ù, đầu óc không suy nghĩ gì được, lời nói của ông tôi cũng không nghe rõ. Ông Đặng Tiểu Bình diễn lại độc chiêu “Tư Mã Ý giả bệnh lừa Tào Sảng” trong thời Tam quốc. Trên thực tế, ông Đặng làm nên sự nghiệp dựa vào khởi nghĩa vũ trang, nhờ vào lực lượng vũ trang ĐCSTQ giành chính quyền, một khi gặp sự chống đối thì điều đầu tiên nghĩ tới chỉ là bạo lực.
Sau phong trào học sinh sinh viên mùa đông năm 1986, ông Đặng đã tuyên bố, ta không ngại cho máu chảy để phong trào học sinh sinh viên kia tự động phải chùn bước. Lời nói của Đặng thật khiến người ta lạnh người.
Sau đó, cứ khi nghe thấy tin học sinh ra đường là Đặng lập tức mưu tính giới nghiêm hoặc quản chế quân sự, trong tâm thức đã lăm lăm tay cầm báng súng, cuộc tàn sát ngày 4/6 đủ để thu lại toàn hình ảnh cuộc đời của ông ta. Khi sắp chết chỉ có thể dặn dò: “Không giữ lại tro xương, rắc hết xuống biển”. Hành động này của Đặng là bắt chước ông Chu Ân Lai, nhưng chắc hẳn cũng sợ chút tro tàn thi thể bị nhân dân làm nhục. Hành động của ông Chu là do sợ ông Mao Trạch Đông, còn hành động của ông Đặng là do sợ nhân dân.
Sau khi ông Mao Trạch Đông chết, ông Đặng Tiểu Bình vì gặp thế bất lợi mới dốc sức chối bỏ Cách mạng Văn hóa, nhưng mượn cớ chối bỏ Cách mạng Văn hóa, ông Đặng lại sửa chữa Hiến pháp, thủ tiêu “tứ đại tự do” của dân chúng, tiến đến thủ tiêu quyền bãi công của công nhân. Sự phản tư của ông Đặng về Cách mạng Văn hóa khiến ông kiên quyết tước đoạt quyền dân chủ của nhân dân.
Còn nhớ khi ĐCSTQ khởi nghiệp đã tuyên bố “giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo”, hở ra là phát động bãi công, chống lại chính phủ quốc dân đương thời, nhưng nào ngờ sau 30 năm ĐCSTQ nắm quyền thì chính họ lại “lập pháp” thủ tiêu quyền bãi công của công nhân. Điều này chứng minh chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyên chế, độc tài và phản động hơn bất cứ chính quyền nào trước đó.
Có người luôn hy vọng Trung Quốc dân chủ hóa, phó thác vào ông Đặng Tiểu Bình, còn cựu Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương đã gửi gắm lại lời nói thẳng thắn từ khi ông còn sống: Đặng Tiểu Bình nói dân chủ, chỉ là trò lừa đảo.
Có người bình luận: Ông Đặng Tiểu Bình mới là Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc. Trên thực tế, ông Hoa Quốc Phong đã kết thúc nền chính trị chuyên chế cực đoan kiểu Mao, bước đầu mở rộng dân chủ trong Đảng. Nhưng do hoàn cảnh bất thường, trong vài năm, ông Đặng Tiểu Bình dùng thủ đoạn bỉ ổi triệt tiêu ông Hoa Quốc Phong, ngang tàng phục hồi hình thức chính trị chuyên chế cực đoạn kiểu Mao. Ông Đặng tự xưng là trung tâm thứ hai kế tục sự nghiệp của Mao, tất cả tai họa do ông ta mà ra từ đây.
Mùa xuân năm 1992, ông Đặng Tiểu Bình 88 tuổi, bỗng nhiên noi theo ông Mao Trạch Đông trình diễn vở kịch tuần thú phía nam, lúc này ông ta bất mãn với việc ông Giang Trạch Dân và Lý Bằng nắm quyền chính trị, nhận thấy họ quá thiên tả nên đã xướng ra phe hữu, mục đích chính thực ra để phòng ngừa phe tả. Ông Đặng tuần tra Quảng Đông rộng lớn, vừa đi vừa chửi, buông ra những lời nặng nề: “Kẻ nào không cải cách, kẻ đó phải rút lui.”
Người hiểu tình hình từng tiết lộ: Khi đó ông Đặng Tiểu Bình có âm mưu hạ ông Giang Trạch Dân và Lý Bằng, muốn làm mới lại bằng trọng dụng ông Triệu Tử Dương; giống như Mao về cuối đời đã trọng dụng bản thân ông Đặng. Nhưng ông Giang và Lý đề phòng vô cùng kín kẽ, khi đó ông Đặng thì thân không quyền hành, đến chức Chủ tịch Quân ủy cũng không phải; thêm nữa sau khi ông đi tuần phía nam trở về Bắc Kinh thì bất ngờ cảm thấy cơ thể khó chịu, sức khỏe suy kiệt, dù muốn can dự vào cục diện chính trị cũng lực bất tòng tâm.
Tinh Vệ biên dịch

Nền cai trị khủng bố


image

Tháng 1 năm 2014, khi nhóm Nhà nước Hồi giáo chiếm quyền kiểm soát thành phố Raqqa của Syria, Adnan rời đi vì sợ công việc của anh là một nhà hoạt động chính trị sẽ khiến anh trở thành mục tiêu. Nhưng sau mấy tháng nhớ gia đình, anh quay trở lại để xem mình có thể chịu được cuộc sống dưới sự cai trị của những kẻ cực đoan hay không.

Adnan nhận thấy Raqqa, từng là một thành phố đầy màu sắc và đậm tính quốc tế, đã biến thành thủ đô trên thực tế của Nhà nước Hồi giáo. Phụ nữ mặc đồ đen trùm kín từ đầu đến chân rảo bước đến chợ trước khi hối hả về nhà, những nam thanh niên tránh những quán cà phê mà họ từng lui tới. Những chiến binh IS biến sân bóng đá của thành phố thành một nhà tù và trung tâm thẩm vấn, được gọi là "Điểm 11." Một trong những quảng trường ở trung tâm thành phố giờ được người dân gọi là Quảng trường "Jaheem" — Quảng trường Địa ngục.

Anh sớm hiểu được lý do vì sao. Một ngày nọ anh nghe tiếng súng ăn mừng và thấy thi thể của ba người đàn ông treo lủng lẳng trên những cây cột trên Quảng trường Địa ngục. Những thi thể này bị để ở đó ba ngày, anh vừa nói vừa phì phèo thuốc lá trong một quán cà phê ở Gaziantep, một thành phố ở vùng biên giới Thổ Nhĩ Kỳ đông người Syria sống lưu vong.

Nền cai trị khủng bố mà trước kia anh chạy lánh đã trở nên tồi tệ hơn, anh nói.

image
Mỗi lần nhóm Nhà nước Hồi giáo tràn vào một cộng đồng dân cư, mô thức cai trị mà họ áp dụng gần giống nhau, vừa quy củ lại vừa đẫm máu.

Đầu tiên là một đợt những vụ hành quyết cảnh sát và binh lính. Sau đó, những chiến binh thường tìm kiếm sự ủng hộ bằng cách nhanh chóng sửa chữa đường dây điện và đường ống nước. Họ kêu gọi công chức trở lại làm việc. Nhân viên chính phủ và bất kỳ cựu binh sĩ hay cựu cảnh sát viên nào đều ký giấy "sám hối" và phải giao nộp vũ khí của họ hoặc nộp tiền phạt đôi khi lên đến vài ngàn đôla.

Qua những thông báo trên loa phóng thanh, những bài giảng trong nhà thờ Hồi giáo và những tờ rơi, những quy định mới được đề ra: Cấm hút thuốc, cấm uống rượu, và cấm phụ nữ làm việc trừ khi là y tá hoặc trong những cửa hàng bán quần áo phụ nữ, nơi mà thậm chí những tượng ma-nơ-canh trong cửa sổ cũng phải che lại. Người dân cho biết họ bị bắt xây tường bên ngoài nhà của họ để người ta không bao giờ nhìn thấy phụ nữ ở bên trong.

image
Một người đàn ông nướng thịt trên đường phố ở Raqqa, ngày 18 tháng 9, 2014. Hàng chữ Ả-rập bảng màu đen bên phải nghĩa là: "Nhà nước Hồi giáo Iraq và Vùng Cận Đông, tỉnh Raqqa."

Ở mỗi một khu vực có một "emir" — thường là một phần tử chủ chiến địa phương — được bổ nhiệm để cai quản. Trường học đóng cửa, sau đó mở lại với chương trình giảng dạy do IS biên soạn. Những cơ sở kinh doanh bị đánh thuế. Những hiệu thuốc được cấp những loại thuốc theo luật Sharia và cấm bán thuốc ngừa thai. Ở hầu hết các nơi, những bộ tộc hay những gia đình tuyên bố trung thành với nhóm này và được giữ những chức vụ hay hưởng đặc quyền, theo lời kể của một số người được phỏng vấn.

Adnan ở Raqqa gần một năm, chứng kiến những kẻ cực đoan thâm nhập gần như mọi khía cạnh của cuộc sống. Nhà chức trách IS đến tiệm bán phụ tùng xe hơi của gia đình anh đòi tiền thuế — tương đương 5.000 đôla. Nhóm này rõ ràng thu về bộn tiền từ việc đánh thuế những cơ sở kinh doanh, tịch thu đất đai của những người bỏ đi và doanh thu từ những mỏ dầu chiếm giữ xa về phía đông ở Syria, Adnan cho biết.

Anh nói IS khuyến khích thương mại khắp "caliphate" — ví dụ nguồn xi măng và rau quả chuyển từ Thổ Nhĩ Kỳ qua Raqqa rồi đến Mosul, thành phố lớn thứ hai của Iraq.

child isis choice isis drowning video bomber
Rồi hoạt động tranh đấu một thời của Adnan ủng hộ phiến quân Syria bắt đầu khiến anh gặp rắc rối. Tháng 1 năm nay, một đội tuần tra đột kích nhà của gia đình anh, tịch thu máy tính laptop của anh và bắt giữ anh vì đăng lên mạng những bài viết mà họ nói là khuyến khích chủ nghĩa thế tục. "Nhà đẹp thế," một người trong đội tuần tra nói trước khi đập vỡ hai đường ống nước bằng thủy tinh. "Cái này làm ô nhiễm môi trường," người này nói với Adnan.

55 ngày tiếp theo, Adnan bị giam giữ tại Điểm 11, một sân bóng đá.

Anh bị thẩm vấn ba lần trong những ngày đầu tiên, bị đánh bằng một ống nhựa màu xanh lá cây. Sau đó, anh được đưa khỏi nơi cách ly vào buồng giam với những tù nhân khác.

Không lâu sau đó anh chứng kiến một khoảnh khắc khủng khiếp. Một trong những thẩm phán hàng đầu của Nhà nước Hồi giáo trong khu vực, một người đàn ông lấy tên giả là Abu Ali al-Sharei, ghé qua vào đầu tháng 2 để dạy một bài học khác trong luật Hồi giáo cho những tù nhân. Ông ta nói chuyện phiếm với những tù nhân trong phòng. Sau đó, ông ta cười tươi và nói: "Này, tôi chưa nói cho các người biết, nhưng hôm nay bọn tôi nướng giòn thằng al-Kaseasbeh."

image
Adnan nói ông ta rút một ổ cứng di động ra khỏi túi và trước nỗi kinh hãi của những tù nhân, ông ta mở video cho xem cảnh phi công Muath al-Kaseasbeh của Không quân Jordan bị IS thiêu sống trong một cái lồng.

Lời kể của Adnan chỉ là một ví dụ nữa về cách thức IS sử dụng những video hành quyết mà họ chiếu cho cả thế giới xem trên mạng cũng để hăm dọa người dân sống dưới nền cai trị của họ.

Trong tù ở Raqqa, Adnan làm công việc phân phát thực phẩm cho những tù nhân khác và việc này cho anh cái nhìn bao quát những hoạt động ở đây.

Anh nhìn thấy hai tù nhân người Kurd và nghe trộm những cai tù nói hai người này có thể sẽ được dùng trong những video tuyên truyền bằng tiếng Kurdish trước khi được thả ra. Adnan nói anh cũng nhìn thấy một số chiến binh nước ngoài của Nhà nước Hồi giáo bị giam cầm — ba người Thổ Nhĩ Kỳ, một người Uzbekistan, một người Nga và một người Yemen — dường như bị tình nghi làm gián điệp. Hai chiến binh IS khác bị giải vào vì đánh cắp chiến lợi phẩm cướp bóc từ thành phố Kobani của người Kurd ở Syria thay vì chia sẻ với những chiến binh khác. Kobani là nơi chứng kiến thất bại lớn nhất của IS ở Syria, khi lực lượng người Kurd được các cuộc không kích của Mỹ yểm trợ đánh bật những kẻ chủ chiến sau nhiều tháng giao tranh ác liệt.

image
Mẹ của Muhammad Musallam khóc bên bức hình của anh tại nhà của bà ở Đông Jerusalem, ngày 12 tháng 2, 2015.

"Bọn tao hy sinh 2.200 người tuẫn đạo ở Kobani, còn bọn mày đi ăn cắp à?" Adnan nói anh nghe thấy người thẩm vấn quát mắng hai chiến binh bị câu lưu.

Adnan gặp tù nhân người Palestine Muhammad Musallam, người bị cáo buộc làm gián điệp cho Israel. Musallam nói với Adnan những người giam cầm nhiều lần quay video cảnh hành quyết anh ta. Mỗi lần họ đều quay video cảnh một đứa trẻ bắn vào đầu anh ta – nhưng lần nào súng cũng không có đạn.

"Rồi một ngày, bọn họ hành quyết anh ta thật," Adnan nói.

blog flag fighters isis isis flag
Hồi tháng 3, nhóm Nhà nước Hồi giáo công bố một video cho thấy cái chết của Musallam. Quỳ trên cánh đồng, anh ta bị một cậu bé mặc đồ ngụy trang quân sự bắn vào đầu.

Adnan nói anh tin rằng đó là lý do tại sao rất nhiều nạn nhân trong những video có vẻ rất bình tĩnh. "Bọn họ làm đi làm lại như vậy 20 lần. Vì vậy khi hành quyết thật, tù nhân sẽ nghĩ đó chỉ là một vụ hành quyết giả khác mà thôi," anh nói.

footage isis propaganda
Phần nhận xét hiển thị trên trang