Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016

Chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế


Tác giả: Thái Văn Cầu
 Trong chuyến thăm cấp nhà nước của lãnh đạo Trung Quốc đến Mỹ vào cuối tháng 9 năm 2015, tại cuộc họp báo chung với Barack Obama ở khuôn viên Toà Nhà trắng, Tập Cận Bình tuyên bố các đảo (thuộc hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa) là lãnh thổ của Trung Quốc từ ngàn xưa. Sau khi khẳng định Mỹ sẽ tiếp tục những hoạt động trên Biển Đông, như luật pháp quốc tế cho phép, Tổng thống Obama khuyến khích các bên tranh chấp tìm kiếm giải pháp.[1]
Bài sau đây, trong loạt bài nghiên cứu Biển Đông của người viết, trước hết, trình bày phản biện cho một số lập luận, ý kiến hiện thời, liên hệ tới chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế, kế đến, bàn về yếu tố ảnh hưởng quá trình hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Pháp trong nửa đầu thế kỷ XX, và phương án khả thi cho tranh chấp biển, đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc.[2]
1. Đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, và chủ quyền quốc gia
Đảo Phú Lâm, thuộc nhóm đảo An Vĩnh, nằm ở phía Đông Bắc quần đảo Hoàng Sa, có tên quốc tế là Woody Island. Nó còn được biết với tên Ile Boisée dưới thời Pháp thuộc. Bộ đại từ điển do nhà địa dư học Hà Lan Jacobus Van Wijk Roelandszoon biên soạn, xuất bản năm 1821, là tư liệu phương Tây ghi rõ đảo Phú Lâm là của Việt Nam.[3]
Khoảng đầu thập niên 1920, chính quyền Pháp ở Đông Dương thường xuyên cho tàu tuần hành khu vực Hoàng Sa, từng khám xét tàu Nhật chuyên chở phốt phát, khai thác từ đảo Phú Lâm. Tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa. Từ giữa đến cuối thập niên 1920, nhiều đoàn khảo sát người Pháp thực hiện nghiên cứu khoa học ở Hoàng Sa-Trường Sa, bao gồm đảo Phú Lâm.
Tháng 9 năm 1930, chính quyền Pháp chính thức thông báo chủ quyền Trường Sa đến các siêu cường. Tháng 2 năm 1932: Bộ Ngoại giao Pháp yêu cầu Bộ Quốc phòng Pháp chiếm hữu đảo ở Trường Sa. Tháng 3 năm 1932: Bộ Quốc phòng thông báo cho Bộ Ngoại giao kế hoạch chiếm hữu đảo tại khu vực không nguy hiểm, có thể tạm thời trú đóng. Do tình hình thời tiết, kế hoạch không xảy ra trước tháng 4 năm 1933, Kế hoạch bao gồm cả bản thảo cho tuyên bố sử dụng khi chiếm hữu đảo. Monique Chemillier-Gendreau, chuyên gia Pháp về luật pháp quốc tế, nhận định thông báo này có mục đích chính thức chiếm hữu toàn bộ quần đảo Trường Sa.[4]
Tháng 4 năm 1933: Bộ Quốc phòng hoàn thành kế hoạch chiếm hữu 6 đảo ở Trường Sa.
Tháng 7 năm 1933: Sự chính thức chiếm hữu đăng trên Công báo (Journal officiel) Pháp. Anh công nhận chủ quyền của Pháp dù tàu Anh đã đến Trường Sa năm 1877. Tháng 8 năm 1940: Bộ Ngoại giao nêu lên sự thông báo chủ quyền Trường Sa đến các nước, sự chính thức chiếm hữu ở Trường Sa đăng trên Công báo, sự sáp nhập Trường Sa vào đơn vị hành chính ở Trung phần Việt Nam, sự công nhận của Anh, và cho biết Nhật là nước duy nhất phản đối hành xử chủ quyền của Pháp.[5]
Trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp tiếp tục quản lý đảo Phú Lâm nói riêng và Hoàng Sa nói chung, cho đến khi bị quân đội Nhật ngăn chặn vào tháng 3 năm 1945. Pháp không có quân trú đóng ở Trường Sa nhưng khi hải quân Nhật gia tăng hoạt động tại Trường Sa, Pháp phản đối. Một lần nữa, Anh công nhận chủ quyền của Pháp. Để đánh dấu sự hiện diện, chính quyền Pháp đưa lực lượng dân vệ người Việt đến Trường Sa, trú đóng cạnh dân vệ của Nhật.[6]
Hội nghị quốc tế ở Cairo năm 1943 và Potsdam năm 1945 quyết định Nhật phải hoàn trả các vùng đất của Trung Hoa, bị Nhật chiếm đóng trong chiến tranh, cụ thể là Formosa, Pescadores, Manchuria. Dù tham dự cả hai hội nghị, Tưởng Giới Thạch không đòi chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa. Cuối năm 1946, quân đội Tưởng Giới Thạch bất ngờ đổ bộ lên Hoàng Sa-Trường Sa. Khi phát hiện sự hiện diện của quân Tưởng ở đảo Phú Lâm, Pháp phản đối. Chính quyền Tưởng bác bỏ đề nghị của Pháp đưa tranh chấp ra quốc tế giải quyết. Đầu năm 1950, sau khi nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa (CHNDTH) thành lập, quân Tưởng rút khỏi đảo Phú Lâm. Trong khi quân đội Pháp ở Đông Dương duy trì sự hiện diện ở đảo Hoàng Sa (tên quốc tế là Pattle Island), Pháp không gửi quân đến đảo Phú Lâm.[7]
Tháng 10 năm 1950, lễ bàn giao quyền kiểm soát Hoàng Sa giữa Pháp và Việt Nam xảy ra. Tổng trấn Trung phần Việt Nam Phan Văn Giáo chủ trì lễ bàn giao. Không có lễ bàn giao quyền kiểm soát Trường Sa giữa Pháp và Việt Nam vì không có chứng cứ quân đội Pháp hiện diện ở Trường Sa vào thời điểm đấy.[8]
Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa ở nửa đầu thế kỷ XX:
  • Nhật Bản:
Là cường quốc châu Á, Nhật theo đuổi chủ trương bành trướng từ thập niên 1890, gây chiến tranh với Trung Hoa năm 1894, với Nga năm 1905, chiếm đóng Formosa, Pescadores, đảo Sakhalin. Trong thập niên 1920, phe quân sự Nhật, có tinh thần cực đoan, thắng thế. Nhật dùng vũ lực chiếm đóng Manchuria năm 1931, xâm lược miền Đông Trung Hoa năm 1937-1938, tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai cuối năm 1940. Nhật tuyên bố đầu hàng khối đồng minh tháng 8 năm 1945 sau khi bị Mỹ ném hai quả bom nguyên tử.[9]
  • Chiến tranh Đông Dương:
Vào đầu thập niên 1950, cuộc chiến tranh chống Pháp ở Việt Nam đi vào thời kỳ mới. Pháp cần Mỹ giúp đỡ sau khi có sự thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Âu, sự gia tăng nguồn viện trợ từ khối cộng sản, sự lớn mạnh trong phong trào chống chiến tranh Đông Dương ở Pháp, sự thất bại quân sự của Pháp trong Chiến dịch Biên giới, v.v. Vào tháng 5 năm 1950, lần đầu tiên Mỹ gửi 23,3 triệu dollars viện trợ cho Pháp. Đến năm 1954, Mỹ hỗ trợ khoảng 75% ngân sách chiến tranh Đông Dương của Pháp.[10]
Từ đầu thập niên 1920, đối diện với tham vọng bành trướng của Nhật ở châu Á, Pháp hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa để ngăn chặn bước tiến của Nhật. Từ cuối thập niên 1940 đến giữa thập niên 1950, do mối đe dọa của Nhật không còn, do mức độ khốc liệt trong chiến tranh Đông Dương gia tăng, do thiếu hụt ngân sách, Pháp giảm thiểu quan tâm về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa.
Tháng 9 năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam (QGVN) Trần Văn Hữu tuyên bố Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Việt Nam. Các nước tham dự hội nghị không phản đối tuyên bố của Việt Nam. QGVN, cùng 47 nước khác, bao gồm Mỹ, Pháp, Anh, Nhật, v.v. ký Hiệp ước Hoà bình. Theo Hiệp ước, Nhật từ bỏ mọi quyền và yêu sách chủ quyền của Nhật ở Hoàng Sa-Trường Sa.[11]
Tháng 7 năm 1954, Hội nghị Geneva kết thúc, chính thức công nhận nền độc lập của Việt Nam. Việt Nam chia đôi. QGVN (sau là Việt Nam Cộng hoà) được quyền quản lý Hoàng Sa-Trường Sa. Nỗ lực củng cố quyền hành của chính quyền Ngô Đình Diệm và mở rộng vai trò của Mỹ đưa đến áp lực khiến quân đội Pháp phải rời khỏi Việt Nam cuối tháng 4 năm 1956, trước thời hạn quy định trong Hiệp ước Geneva.[12]
Dù Mỹ cho Pháp biết quan tâm của họ về vị thế chiến lược của Hoàng Sa, chính quyền Pháp không có phản ứng thích hợp. Nắm lấy thời cơ, tháng 12 năm 1955, Trung Quốc bắt đầu gửi quân xâm nhập đảo Phú Lâm. Cuối tháng 2 năm 1956, tàu tuần tra Pháp đi gần đảo Phú Lâm, phát hiện quân Trung Quốc đang xây dựng công sự, thiết lập sự chiếm đóng bất hợp pháp.[13]
Trước đòi hỏi chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Trung Quốc, vào đầu tháng 6 năm 1956, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao QGVN lên tiếng khẳng định Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam, như thông báo ở Hội nghị San Francisco năm 1951. Cho đến thời điểm bị quân đội Trung Quốc chiếm đóng vào nửa đầu năm 1956, Việt Nam hành xử chủ quyền ở đảo Phú Lâm nói riêng và ở Hoàng Sa-Trường Sa nói chung, theo đúng Định ước Berlin năm 1885 và luật pháp quốc tế.
Không ngừng ở khu vực đảo Phú Lâm, lần lượt vào tháng 1 năm 1974 và tháng 3 năm 1988, Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng phần đảo còn lại của Hoàng Sa và 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa, khiến 74 chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng hòa và 64 chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh.[14]
2. Chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế
Trong hơn 10 năm nay, có những lập luận, ý kiến được đưa ra khi nói về nỗ lực bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa-Trường. Sau đây là phản biện của người viết cho một số luận điểm, trên góc độ luật pháp quốc tế.
2.1 Qua phản đối hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam và qua khẳng định Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam, Việt Nam đã và đang bảo vệ chủ quyền ở hai quần đảo này.
Theo Nguyễn Quốc Định, chuyên gia Pháp gốc Việt về luật pháp quốc tế, phản đối ngoại giao và khẳng định chủ quyền trước hành động xâm phạm của nước khác là điều không thể thiếu. Nuno Sergio Marques Antunes, chuyên gia Bồ Đào Nha về tranh chấp hàng hải quốc tế, cũng nhấn mạnh vai trò của phương thức này trong nghiên cứu của ông.[15]
Tuy nhiên, phản đối ngoại giao, khẳng định chủ quyền sẽ không có giá trị nếu nó không được nối tiếp với các phương thức khác, như tích cực giải quyết tranh chấp qua đàm phán hoà bình, hay qua sử dụng hệ thống toà án quốc tế.
Trong hai vụ kiện, giữa Pháp và Anh năm 1953, giữa Nicaragua và Honduras năm 2007, Toà án Quốc tế (ICJ) phán xét rằng, do xem khẳng định chủ quyền, phản đối ngoại giao của Pháp, Nicaragua là không đầy đủ, ICJ đưa quyết định thuận lợi cho Anh, Honduras.[16]
Trong tranh chấp quần đảo Falklands giữa Argentina và Anh, phản đối ngoại giao, khẳng định chủ quyền của Argentina không bảo vệ được chủ quyền quần đảo Falklands khi Argentina không tiến hành kiện Anh ra ICJ.[17]
2.2 Do tính chất phức tạp của nó, tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc nên được gác lại cho các thế hệ sau tìm phương thức giải quyết.
Có ý kiến cho rằng giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa là vấn đề lâu dài, kéo đến đời con, đời cháu, hay ngay cả hàng trăm năm.
Trước hết, như đã đề cập ở trên, phản đối ngoại giao, khẳng định chủ quyền có giới hạn thời gian của nó. Kế đến, trong giải quyết tranh chấp giữa hai nước, khi cần thiết, ICJ sử dụng nguyên tắc “quieta non movere” hay “không làm xáo trộn sự ổn định”. ICJ có thể đưa quyết định thuận lợi cho nước đang chiếm giữ một vùng đất, vùng biển, mặc dù chủ quyền ban đầu không thiết lập rõ ràng, nhưng có hành xử thích hợp sau đấy.
Trong hai vụ kiện, giữa Norway và Sweden năm 1909, giữa Qatar và Bahrain năm 2001, nguyên tắc này là một trong những yếu tố khiến Sweden, Bahrain nhận được quyết định thuận lợi.[18]
Theo M. Taylor Fravel, chuyên gia Mỹ về quan hệ quốc tế, từ khi CHNDTH thành lập năm 1949 cho đến nay, trong tổng số 23 cuộc tranh chấp lãnh thổ hay lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, Trung Quốc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán 17 lần và sử dụng vũ lực 6 lần. Trong đó, 3 lần sử dụng vũ lực là với Việt Nam: Tại Hoàng Sa năm 1974, khu vực biên giới cực Bắc năm 1979, và Trường Sa năm 1988. Ba lần còn lại là với Đài Loan, Ấn Độ và Liên Xô.[19]
Hiến chương Liên hiệp quốc có Chương I, Điều 2, Khoản 4, ngăn cấm thành viên của tổ chức Liên hiệp quốc đe doạ hay sử dụng vũ lực chống toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của thành viên khác. Hiến chương Liên hiệp quốc cũng có Chương VII, Điều 51, đề cập đến quyền tự vệ cá nhân hay quyền tự vệ tập thể khi thành viên bị tấn công vũ trang.[20]
Trong hơn 30 năm nay, học giả Trung Quốc và học giả phương Tây, như Wu Shicun, Marwyn Samuels, Greg Austin, v.v., trực tiếp hay gián tiếp, bóp méo hay làm lu mờ sự thật, khi đưa lập luận Trung Quốc thực hiện “quyền tự vệ” hay bảo vệ “toàn vẹn lãnh thổ” trong xung đột biển đảo với Việt Nam.[21]
Dù chưa có nghiên cứu khoa học, nghiêm túc, về nguyên tắc “quieta non movere” và sự sử dụng vũ lực trong chiếm đóng, các quyết định của Toà án Quốc tế, dựa trên cơ sở thời gian và tình trạng ổn định, và sự kiện Trung Quốc tích cực tạo hoả mù trong chứng cứ lịch sử và trong hành động chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa-Trường Sa, cho thấy sự bất lợi cho Việt Nam, sự thuận lợi cho Trung Quốc gia tăng, khi Việt Nam gác lại giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, để cho các thế hệ sau tìm giải pháp.[22]
2.3 Để giảm thiểu căng thẳng trong tranh chấp quần đảo Trường Sa với Philippines và Malaysia, Việt Nam nên công khai từ bỏ đòi hỏi chủ quyền tất cả đảo, đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines và Malaysia.
Khái niệm EEZ trong Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển (UNCLOS), được công nhận năm 1982, và có hiệu lực từ năm 1994, là về “quyền chủ quyền” của nước tiếp cận biển, không phải về công nhận chủ quyền của đảo, đá nằm trong EEZ của một nước.
Đảo, đá #123 nằm trong EEZ của nước A có thể thuộc chủ quyền của nước B hay thuộc tranh chấp chủ quyền giữa hai nước B và C. Nếu chứng cứ chủ quyền của A yếu hơn B và C, và nếu B đơn phương từ bỏ đòi hỏi chủ quyền đảo, đá #123, trong khi C tiếp tục đòi hỏi, khi có phán xét, ICJ sẽ trao chủ quyền đảo, đá #123 cho C, không phải cho A.
Việt Nam hành xử chủ quyền ở Trường Sa trước Philippines và Malaysia. Do Trung Quốc cũng đòi chủ quyền Trường Sa, tranh chấp xảy ra. Từ hành xử chủ quyền trên 6 đảo, đá ở quần đảo Trường Sa đầu thập niên 1930, Việt Nam hiện hành xử chủ quyền ở 21 đảo, không kể 7 bãi đá ngầm bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng năm 1988. So với các nước có tranh chấp ở Trường Sa, Việt Nam có con số đảo, đá lớn nhất.[23]
Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines, và với Malaysia, trong bối cảnh Biển Đông, tiến triển tốt đẹp trong nhiều năm qua. Việt Nam và Malaysia nộp báo cáo chung về khu vực giữa EEZ của hai nước cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS)), theo đúng quy định của UNCLOS, năm 2009; Việt Nam và Philippines hỗ trợ cho nhau trong tranh chấp với Trung Quốc, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước vào tháng 11 năm 2015.[24]
Do đó, nếu được thực hiện, luận điểm này có khả năng gây thiệt hại không chỉ cho Việt Nam mà còn cho Philippines và Malaysia.
2.4 Việt Nam không thể kiện Trung Quốc ra Toà án Quốc tế được vì Trung Quốc không hợp tác.
Cơ chế quốc tế để giải quyết tranh chấp trên đất liền hay trên biển giữa các nước là Toà án Quốc tế (ICJ), Toà án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS), Toà án Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Toà án Trọng tài Đặc biệt theo Phụ lục VIII của UNCLOS.
ICJ hiện hữu từ năm 1946; ba Toà án còn lại hình thành sau khi UNCLOS có hiệu lực năm 1994. ICJ và ITLOS đòi hỏi mọi bên trong tranh chấp đồng ý tham gia vào quá trình thưa kiện.
Tuy nhiên, Điều 53 trong Quy chế của ICJ có nói rằng:
  1. Bất cứ khi nào một trong các bên không trình diện trước Tòa án, hoặc không bảo vệ trường hợp của họ, bên kia có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định theo hướng có lợi cho mình.
  2. Trước khi thực hiện yêu cầu, Tòa án phải biết, không những là Toà án có thẩm quyền theo quy định ở các Điều 36 và 37, mà còn là vụ kiện có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý.[25]
Trong gần 70 năm qua, ICJ phán xét hơn 160 vụ kiện; Điều 53 được ICJ sử dụng 7 lần.[26]
Do tính chất quan trọng của vụ kiện và phạm vi giới hạn của bài, người viết tập trung vào một trong 7 trường hợp: Vụ kiện về “Những hoạt động quân sự và bán quân sự ở trong và chống Nicaragua” giữa Nicaragua và Mỹ, bắt đầu từ tháng 4 năm 1984.
Viện dẫn lý do là ICJ có khả năng vượt quá giới hạn và bị chính trị hoá, Mỹ từ chối tham gia. Dựa trên Điều 53, ICJ tiến hành vụ kiện và có quyết định thuận lợi cho Nicaragua cuối tháng 6 năm 1986.[27]
Trong hơn 20 năm qua, vụ kiện đưa đến những tác động tích cực, không chỉ cho Nicaragua và Mỹ mà còn cho các nước khác.
Đối với Nicaragua:
Mặc dù không được Mỹ trực tiếp bồi thường thiệt hại quy định trong phán xét của ICJ, Nicaragua nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ, có giá trị hàng trăm triệu dollars, khi quan hệ giữa hai nước cải thiện từ đầu thập niên 1990.[28]
Đối với Mỹ:
Mỹ nhận thức đuợc mối lo ngại, khi từ chối tham gia vụ kiện, là ICJ sẽ bị chính trị hoá, không trở thành hiện thực. Dự đoán của Mỹ không chính xác. Phán xét trong vụ kiện khiến Mỹ phải thực hiện thay đổi trong chính sách và trong quyết định liên quan đến giải quyết tranh chấp.[29]
Đối với những nước khác:
Trong hai thập niên 1960-1970, phán xét của ICJ trong các vụ kiện giữa Ethiopia-Nam Phi, Liberia-Nam Phi năm 1966, Namibia-Nam Phi năm 1971, v.v., khiến những nước đang phát triển ở châu Phi và châu Á nhận định ICJ chưa đủ mạnh, chưa sẳn sàng để có quyết định đúng đắn, không thiên vị, về hành động sai trái của một số nước ở phương Tây hay thân phương Tây.
Phán xét trong vụ kiện giữa Nicaragua-Mỹ cho thấy ICJ có thể đưa quyết định thuận lợi cho một nước nhỏ, yếu kém, chống một nước lớn, hùng mạnh hàng đầu thế giới. Kết quả là số nước đưa tranh chấp ra ICJ giải quyết gia tăng từ sau vụ kiện của Nicaragua.[30]
3. Giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc
3.1 Phương án giải quyết tranh chấp của Philippines
Sau gần 20 năm theo đuổi đàm phán hoà bình để giải quyết tranh chấp Trường Sa nhưng đối diện với lập trường ngang ngược của Trung Quốc, vào đầu năm 2013, Philippines khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS. Viện dẫn lý do về thẩm quyền của Toà án Trọng tài, Trung Quốc từ chối tham gia.
Vào cuối tháng 10 năm 2015, Toà án Trọng tài khẳng định thẩm quyền của Toà án cho 7 trong 15 điểm trong hồ sơ kiện của Philippines và xem xét những điểm còn lại trong thời gian sau. Phán xét của Toà án đánh dấu thắng lợi đầu tiên cho Phillipines trong vụ kiện Trung Quốc.[31]
3.2 Nỗ lực thúc đẩy đàm phán hoà bình của Việt Nam
Vào cuối tháng 9 năm 1975, trong cuộc họp với lãnh đạo Trung Quốc, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa-Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thừa nhận có tranh chấp và đề nghị hai nước thảo luận sau.[32]
Trong hơn ba tháng qua, tuyên bố của Tập Cận Bình về chủ quyền trên Biển Đông trong các chuyến thăm từ châu Mỹ sang châu Á cho thấy rất rõ một thực tế là, kể từ cuộc họp giữa lãnh đạo hai nước Việt-Trung năm 1975 cho đến nay, Trung Quốc dứt khoát gạt bỏ mọi thiện chí của Việt Nam để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa. Trung Quốc chủ trương duy trì một lập trường nhất quán trong hơn 40 năm: không đàm phán hoà bình với Việt Nam về Hoàng Sa-Trường Sa.[33]
3.3 Phương án giải quyết tranh chấp của Việt Nam
Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia của Việt Nam khi chiếm đóng bất hợp pháp đảo Phú Lâm năm 1956, sử dụng vũ lực ở Hoàng Sa năm 1974, ở Trường Sa năm 1988, hàng năm ngang nhiên tuyên bố lệnh cấm đánh cá trên vùng biển của Việt Nam, liên tục gây thiệt hại tài sản và ngay cả thiệt hại nhân mạng cho ngư dân Việt Nam.
Trong 5 năm qua, Trung Quốc tích cực hoàn thiện hay xây dựng mới tổ chức hành chính, sân bay quân sự, quân cảng, hải đăng, v.v., ở Hoàng Sa-Trường Sa, cải tạo và tăng diện tích các bãi đá ngầm chiếm đóng bất hợp pháp ở Trường Sa thành đảo nhân tạo, ở tốc độ kỷ lục chưa từng có trong lịch sử.[34]
Kể từ khi Trung Quốc chính thức chiếm đóng đảo Phú Lâm năm 1956 cho đến nay, tranh chấp Biển Đông hiện ở mức độ khẩn trương cao nhất. So với các nước có tranh chấp trên Biển Đông, với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp, Việt Nam là nước bị thiệt hại lâu dài nhất, nặng nề nhất, trong tham vọng bành trướng của Trung Quốc.
Cuối năm 2011, lần đầu tiên lãnh đạo Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh trước Quốc hội sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa của Việt Nam,“… năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974 Trung Quốc tiếp tục dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự đang quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn – chính quyền Việt Nam cộng hòa. Chính quyền Sài Gòn – chính quyền Việt Nam cộng hòa lúc đó đã lên án hành động xâm chiếm này và đã đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp.”
Vào tháng 5 năm 2014, trong chuyến thăm Philippines, Thủ tướng khẳng định, “Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông … Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế.”[35]
Vào tháng 11 năm 2015, khi gặp gỡ kiều bào Đức, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhắc lại lời dạy của vua Lê Thánh Tông, ““Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.”
Ông cha chúng ta như thế, đến đời chúng ta cũng phải thế.”
Vào cùng tháng 11 năm 2015, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho biết là cử tri cả nước “đề nghị sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý để khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế”.[36]
Sự kết hợp giữa ý chí, quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia của nhân dân Việt Nam, của Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ, với thực tế tình hình Biển Đông, và với các nghiên cứu về luật pháp quốc tế, cho thấy Việt Nam đang ở ngưỡng cửa của phương án: Kiện Trung Quốc ra hệ thống toà án quốc tế.
Khi sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề chủ quyền giữa hai nước, mà còn giúp tạo tin tưởng từ các nước phụ thuộc vào giao thông hàng hải ngang qua một khu vực với hơn 5.300 tỷ dollars mậu dịch quốc tế hàng năm. Cách hành xử như trên sẽ chứng minh mạnh mẽ rằng Việt Nam là nước tôn trọng luật pháp, và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh là cường quốc kinh tế hàng thứ hai và cường quốc quân sự hàng thứ ba trên toàn cầu, Trung Quốc có quan toà đại diện trong Toà án Quốc tế và Toà án Quốc tế về Luật Biển. Trung Quốc luôn luôn khẳng định trước dư luận thế giới là họ có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý hậu thuẫn cho đòi hỏi chủ quyền đảo, đá trên Biển Đông.
Nếu Trung Quốc muốn chứng minh họ tôn trọng luật pháp, có trách nhiệm, tương xứng với vị thế của nước họ, nếu Trung Quốc muốn thuyết phục quốc tế tin tưởng vào chứng cứ chủ quyền của họ, phủ nhận vai trò mà Toà án Quốc tế hành xử hữu hiệu trong hơn 60 năm nay sẽ là hành động phản tác dụng nhất của Trung Quốc. Khi Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện, Điều 53 trong Quy chế của Toà án Quốc tế cho phép vụ kiện tiến hành khi có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý. Quyết định không thuận lợi cho Trung Quốc đưa đến cái giá phải trả có khả năng vượt khỏi mọi dự đoán của Trung Quốc.
Trong hơn 40 năm qua, do tham vọng bành trướng và lập trường ngang ngược cố hữu của Trung Quốc, tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc không được giải quyết qua đàm phán hoà bình. Trái ngược với một số lập luận, ý kiến thường được nêu lên, nghiên cứu của người viết, dựa trên phán xét của Toà án Quốc tế, cho thấy cánh cửa sử dụng biện pháp pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ hoà bình trong khu vực quan trọng hàng đầu thế giới, không mở ra cho Việt Nam mãi mãi.
Khi kiện Trung Quốc ra Toà án Quốc tế, thế hệ hôm nay không những làm theo lời dạy của tiền nhân, đền đáp sự hy sinh to lớn của bao thế hệ đi trước, mà còn góp phần tạo nên một bước ngoặt trong lịch sử của đất nước.
Thái Văn Cầu
Tác giả gửi đến Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————-
Chú thích:
1. Obama, Xi, “Remarks by President Obama and President Xi of the People’s Republic of China in Joint Press Conference”, 2015
2. Thái Văn Cầu, “Quyền kế thừa của nhà nước và chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa”, 2014
Cùng tác giả, “VN chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền ở Hoàng Sa”, 2014
“Tự do hàng hải và Chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa”, 2014
“Luật pháp Quốc tế và Chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa”, 2014
“Hai Nhà nước Việt Nam và Chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa”, 2013
3. Bộ đại từ điển của nhà địa dư học Hà Lan Jacobus Van Wijk Roelandszoon gồm 11 cuốn, xuất bản trong hơn 20 năm, 1821-1842. Khi viết về Paracells (Hoàng Sa) trong phần chữ P, trang 862, có danh sách các đảo, bao gồm đảo Phú Lâm, tọa độ quần đảo Hoàng Sa, và nói rõ là Hoàng Sa thuộc Việt Nam.
4. Monique Chemillier-Gendreau, “La souverainete sur les archipels Paracels et Spratleys”, 1996, tr. 105-106, 244-246
5. Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 247-249
6. John E. Dreifort, “Myopic Grandeur The Ambivalence of French Foreign Policy Toward the Far East, 1919-1945”, 1991, tr. 149-152
Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 250
7. Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 43
8. Chính Đạo, “Việt Nam Niên Biểu (1939-1975), (Tập B: 1947-1954), 1997, tr. 196
Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 111
9. Timo Kivimäki, “War or Peace in the South China Sea?”, 2002, tr. 9-10
James Bowen, “Japan’s territorial expansion in East Asia 1875-1930”, 2010
10. Fredrik Logevall, “Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America’s Vietnam”, 2012, tr. 231
Bruce Palmer, “The 25-Year War: America’s Military Role in Vietnam”, 1984, tr. 6
11. “Conference for the Conclusion and Signature of the Treaty of Peace with Japan”, (I&II), 1951&1952, tr. I-261-263
12. Fredrik Logevall, sđd, tr. 224-229
13. Stein Tonnesson, “The South China Sea in the Age of European Decline”, 2006, tr. 29-30
Theo Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 45, Trung Quốc thiết lập sự chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm vào tháng 4 năm 1956, trong giai đoạn cuối của quân đội Pháp rời khỏi Việt Nam. Xem thêm Fredrik Logevall, sđd, tr. 650.
14. Special Vietnam Presse, No. 830, 2 Juin 1956
Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 119
Hong Thao Nguyen, “Vietnam’s Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claim”, 2012, tr. 188
15. Nguyen Quoc Dinh, “Droit international public”, 1975, tr. 331
Nguyễn Quốc Định là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam trong chính quyền
Bửu Lộc năm 1954, là chủ tịch và phó chủ tịch của UNCLOS I (1956) và UNCLOS II (1960)
Epsey Cooke Farrell, “The Socialist Republic of Vietnam and the Law of the Sea: An Analysis of Vietnamese Behavior within the Emerging International Oceans Regime”, 1998, tr. 43
Nuno Sergio Marques Antunes, “Estoppel, Acquiescence and Recognition in Boundary Dispute Settlement”, 2000
16. Yong Zhou, “International Relations and Legal Cooperation in
General Diplomacy and Consular Relations”, 2014, tr. 322
Toà án Quốc tế, “Minquiers and Ecrehos (France/United Kingdom)”, 1953
Toà án Quốc tế, “Territorial and Maritime Dispute between Nicaragua and Honduras in the Caribbean Sea (Nicaragua v. Honduras)”, 2007
17. Daniel K. Gibran, “The Falklands War: Britain versus the Past in the South Atlantic”, 2008, tr. 42-43
18. Toà án Trọng tài Thường trực, “The Grisbadarna Case between Norway and Sweden Decided October 23, 1909”, 1909, tr. 130-132
Toà án Quốc tế, “Maritime Delimitation and Territorial Questions between Qatar and Bahrain (Qatar v. Bahrain)”, 2001, tr. 70-75
19. M. Taylor Fravel, “Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China’s Territorial Disputes”, 2008, tr. 46-47
20. “Charter of the United Nations”, 1945
“Hiến chương Liên hiệp quốc”, 1945
21. Marwyn S. Samuels, “Contest for the South China Sea”, 1982, tr. 100-101
Greg Austin, “China’s Ocean Frontier: International Law, Military Force and National Development”, 1998, tr. 73-77
Wu Shicun, “Solving Disputes for Regional Cooperation and Development in the South China Sea: A Chinese Perspective”, 2013, tr. 60
22. Toà án Quốc tế, “Dissenting Opinion of Judge Torres Bernárdez”, 2001, tr. 267-269
23. Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 155-156
24. “Việt Nam – Philippines lập quan hệ đối tác chiến lược”, 2015
25. Statute of the Court, International Court of Justice
26. Andreas Zimmermann, Karin Oellers-Frahm, Christian Tomuschat, Christian J. Tams, “The Statute of the International Court of Justice: A Commentary”, 2006, tr. 1335
27. “Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua v. United States of America)”, 1986
28. “House OKs $720 Million in Aid to Nicaragua, Panama: Congress: Senate Democrats are threatening to delay some funds. Bush wants action by Thursday.”, 1990
“U.S. Foreign Assistance to Latin America and the Caribbean: Recent Trends and FY2013 Appropriations”, 2012
29. Lori Damrosch, “The Impact of the Nicaragua Case on the Court and Its Role: Harmful, Helpful, or In Between?”, 2012
30. Lori Damrosch, sđd, tr. 140-143
31. Truong-Minh Vu & Trang Pham, “Who Will ‘Win’ in the Philippines’ South China Sea Case Against China?”, 2015
Trưởng đoàn luật sư của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc là luật sư Mỹ Paul Reichler. Năm 1986, luật sư Reichler, ở tuổi 38, là luật sư chính trong vụ kiện về “Những hoạt động quân sự và bán quân sự ở trong và chống Nicaragua” giữa Nicaragua và Mỹ”. Toà án Quốc tế xử Nicaragua thắng kiện, như đã nêu trong phần 2.4.
“Dũng sĩ giúp Philippines trong vụ kiện ‘đường lưỡi bò’”
“PH lawyer vs China: ‘Giant slayer’ who defeated US”, 2015
“Companero Paul, of Harvard Law”, 1988
32. Bộ Ngoại giao CHXHCNVN, “La Souverainete du Viet Nam sur les archipels Hoang Sa et Truong Sa”, 1979, tr. 55
33. “Sang Singapore, ông Tập Cận Bình: ‘Các đảo ở Biển Đông là của Trung Quốc từ thời cổ đại’”, 2015
“Xi Again Defends China’s Claim to South China Sea Islands”, 2015
34. “Trung Quốc xây dựng trái phép ở Hoàng Sa ra sao?”, 2015
“Trung Quốc xây gì ở Trường Sa một năm qua”, 2015
“Tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam tại Hoàng Sa”, 2015
“Trung Quốc đơn phương cấm đánh bắt cá trên Biển Đông”, 2015
“TQ xây đường băng tại Gạc Ma: Phải kiện ra tòa quốc tế!”, 2014
“Không thể có cái gọi là “thành phố Tam Sa”, 2012
“Tàu Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam”, 2005
35. “Toàn văn báo cáo giải trình và trả lời chất vấn trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng”, 2011
“Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn các hãng thông tấn quốc tế”, 2014
36. “Chủ tịch nước xúc động với “tàu biển Đông” của kiều bào Đức”, 2015
“Cử tri đề nghị sớm khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế”, 2015
Giới nghiên cứu và nguyên lãnh đạo quân sự cũng có ý kiến về vấn đề kiện Trung Quốc trong tranh chấp trên Biển Đông, điển hình như:
Trung tuớng Nguyễn Quốc Thước, “TQ xây đường băng tại Gạc Ma: Phải kiện ra tòa quốc tế!”, 2014
Đinh Kim Phúc, “Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm: Gặp nhau thì nói tốt, hết gặp lại cho làm bậy”, 2015
Hoàng Việt, “Biển Đông – Từ sự ngụy tạo chủ quyền đến vai trò của công pháp quốc tế”, 2015
Ngô Vĩnh Long, “Việt Nam nên kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế”, 2014
Dương Danh Huy, “Việt Nam cần kiện ra tòa quốc tế”, 2014
Thái Văn Cầu, “Hướng đi tới cho tranh chấp HS-TS”, 2011
Các bài viết đăng tải trên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông thể hiện quan điểm cá nhân của các tác giả, không nhất thiết là quan điểm của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tương lai của vật lý học hiện đại đã khởi nguồn từ hôm nay



Giới khoa học thế giới đang chao đảo với đầy sự phấn khích bởi người ta đã tìm thấy sóng hấp dẫn, "tận tai nghe được âm thanh từ vụ va chạm của 2 lỗ đen", vật lý học lại bước sang một trang mới và phát hiện này được ví như tầm quan trọng của tia X đối với ngành y học vậy. Nhân đây, xin kể câu chuyện thú vị về quá trình các nhà khoa học tìm ra nhân tố bí ẩn của vũ trụ này, từ đó phần nào hiểu được những khó khăn mà họ phải trải qua, những kỳ diệu của tạo hóa và cả bộ não tiên tri đi trước thời đại hàng trăm năm của thiên tài Albert Einstein.

Bài có vẻ khá dài nên mình tóm tắt lại bằng mindmap bên dưới đây cho các bạn tiện theo dõi, tuy nhiên nếu đã đọc thì nhiều cái thú vị lắm :D.


Tóm tắt chuyện sóng hấp dẫn.

Chiến tranh giữa các lỗ đen: cách đây rất lâu, ở nơi rất xa trong vũ trụ,...

song_hap_dan_Tinhte_2.

Cách đây chỉ khoảng vài tỷ năm, nhiều triệu thiên hà đã có mặt, một cặp lỗ đen không biết vì hiềm khích gì đã lao đầu vào nhau, mở đầu cho một trong những câu chuyện hấp dẫn nhưng đầy thách thức của vật lý học hiện đại. Khi đó chúng cuộn xoắn, ngày càng tiến vào nhau trong khoảng một tỷ năm với vũ điệu có thể nói là dữ dội nhưng cũng lãng mạn nhất vũ trụ. Tại thời điểm chỉ còn cách nhau khoảng vài trăm kilomet, chúng đột ngột đảo ngược với tốc độ gần như của ánh sáng, đồng thời "rùng mình" phát ra năng lượng hấp dẫn. Không gian và thời gian khi đó đã bị bóp méo tương tự như bọt nước lăn tăn khi đun sôi lên.

Trong khoảng khắc sắp phải sáp nhập với nhau, chúng phát xạ ra lượng năng lượng lớn hơn bất kỳ ngôi sao nào trong vũ trụ. Một lỗ đen mới được hình thành, nặng hơn Mặt Trời của chúng ta 62 lần và gần như chỉ rộng bằng một tiểu bang Maine của Mỹ. Sau đó, dường như nó có thể tự đánh bóng bôi trơn, tạo thành hình cầu hơi phẳng và bắt đầu thu lấy năng lượng đã trốn thoát. Sau đó, không gian và thời gian lại tiếp tục im lặng một cách đáng sợ như chưa có chuyện gì xảy ra.

song_hap_dan_Tinhte_4.
Ảnh render mô phỏng khối lượng bẻ cong không thời gian theo giả thuyết của Einstein

Những gợn sóng hấp dẫn được đẩy đi ra mọi hướng và càng đi xa càng suy yếu dần. Khi đó trên Trái Đất, khủng long đã phát sinh, đã phát triển và đã tuyệt chủng nhưng rồi những con sóng ấy vẫn tiếp tục được duy trì dù ngày càng yếu đi. Khoảng 50 ngàn năm trước đây, những con sóng hấp dẫn này đã đi vào thiên hà Milky Way của chúng ta, cũng trong khoảng thời gian đó, Homo sapiens bắt đầu lên thống trị hành tinh mang tên Trái Đất. Và rồi loài người cứ phát triển, xây dựng nền văn minh của họ cho tới cách đây khoảng 100 năm, Albert Einstein, một trong những thành viên cao cấp của Homo sapiens, đã dự đoán sự tồn tại của những con sóng hấp dẫn này và từ đó, ông đã truyền cảm hứng cho những suy đoán và tìm kiếm trong vô vọng suốt nhiều thập kỷ nay.

Lần đầu phát hiện ra sóng hấp dẫn, thế giới rúng động với sự phấn khích và hoài nghi của chính người phát hiện

song_hap_dan_Tinhte_9.
Macro Drago - người đầu tiên quan sát được tín hiệu của sóng hấp dẫn

Lại nói tới chuyện cách đây 22 năm, người ta bắt đầu xây dựng Đài quan sát sóng hấp dẫn giao thoa kế ( LIGO). Sau đó tới 14/9/2015, một con sóng hấp dẫn đã đi tới Trái Đất và khi đó, Marco Drago, một nghiên cứu sinh tiến sĩ người Ý 32 tuổi đã trở thành người đâu tiên thông báo điều này. Khi đó, ông đang ngồi trước màn hình máy tính tại học viện Albert Einstein ở Hannover, Đức và theo dõi dữ liệu từ LIGO.

Những con sóng khi đó xuất hiện trên màn hình như sóng bị nén lại, nhưng với đôi tai thính nhất mà con người tạo ra của LIGO, những rung động tinh tế chưa tới 1 phần ngàn tỷ cm đã được nghe bởi các nhà khoa học và họ gọi đây là tiếng hót mờ nhạt của vũ trụ. Hôm nay, tại một cuộc họp báo tại Mỹ, nhóm nghiên cứu LIGO chính thức tuyên bố đó thật sự chính là tín hiệu của sóng hấp dẫn - lần đầu tiên trong lịch sử nó được quan sát trực tiếp, nghe tận tai.

Khi Drago nhìn thấy tín hiệu này, ông đã không khỏi choáng váng: "Thật là khó để biết tôi phải làm gì tiếp theo khi chứng kiến điều đó." Khi đó ông đã thông báo với một đồng sự, người đã nhanh trí gọi điện cho phòng vận hành LIGO ở Livingston, Louisiana. Giới khoa học bắt đầu lan truyền với nhau và ngày càng có nhiều người tham gia vào dự án. Tại California, Mỹ, David Reitze, giám đốc điều hành của LIGO cho biết: "Tôi không nhớ là lúc đó đã nói gì nữa. Hình như là chết tiệt, cái quái gì đây".

Vicky Kalogera, giáo sư vật lý và thiên văn học tại Đại học Northwestern cho biết: "Chồng tôi gọi nhưng tôi bỏ mặc. Tôi hoàn toàn lờ đi và chỉ chạy tới lướt qua hàng loạt các email lạ và nghĩ rằng, điều gì đang xảy ra vậy." Trong khi đó, Rainer Weiss, nhà vật lý học đã lần đầu tiên đề xuất xây dựng LIGO vào năm 1972 lúc đó đang đi nghỉ mát nhận được tin đã đăng nhập vào hệ thống, nhìn thấy tín hiệu và hét lên "Chúa ơi". Tiếng hét đủ lớn để con trai và vợ của ông phải chạy đến hỏi xem có chuyện gì khủng khiếp đã xảy ra. Thật sự quá khủng khiếp.

Một phát hiện phi thường cần những bằng chứng phi thường

song_hap_dan_Tinhte_10.

Vui đủ rồi, đội ngũ phòng thí nghiệm bắt đầu tiến hành một quá trình gian khổ để kiểm tra dữ liệu, không chỉ 1 lần mà 2 lần, 3 lần, 4 lần,... Reitze cho biết: "Chúng tôi thường nói với nhau rằng Chúng ta đã thực hiện những phép đo chỉ bằng 1 phần nhiều ngàn đường kính của một proton và điều đó sẽ kể với chúng ta câu chuyện về 2 lỗ đen sáp nhập với nhau cách đây hàng tỷ năm. Đây là một tuyên bố phi thường và nó cần phải có những bằng chứng phi thường để xác thực."

Cùng lúc đó, các nhà khoa học tại LIGO đã tuyên thệ tuyệt đối giữ bí mật quá trình nghiên cứu của họ. Tuy nhiên, không tránh khỏi những tin đồn lan rộng ra trong giới khoa học từ tháng 9 năm ngoái cho tới mới đây, các phương tiện truyền thông, các báo khoa học cứ lâu lâu lại đưa tin và có khi, người ta còn dự đoán về một giải Nobel được trao cho nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu vẫn tiếp tục âm thầm làm việc và nếu có ai hỏi thì câu trả lời cứ là "vẫn đang phân tích dữ liệu, chưa có gì để thông báo." Thậm chí, các nhà nghiên cứu còn không được nói với chồng hoặc vợ của họ.

Sơ qua một chút về LIGO

song_hap_dan_Tinhte_7.
Ảnh chụp đài quan sát LIGO nhìn từ trên cao

LIGO bao gồm 2 cơ sở cách nhau gần 3000 km, khoảng 3,5 giờ bay bằng máy bay chở khách nhưng đối với sóng hấp dẫn, nó chỉ mấy khoảng 10 phần vài nghìn giây để bay tới. Một máy dò được đặt ở Livingston, Louisiana, nằm trong một khu đầm lầy ở phía đông Baton Rouge, bao quanh là những từng thông. Cái còn lại đặt ở Hanford, Washington, nằm ở rìa phía tây nam của một trong những khu vực sa mạc bị ô nhiễm hạt nhân cao nhất ở Hoa Kỳ mặc dù các lò phản ứng ở đây đã ngừng hoạt động.

song_hap_dan_Tinhte_16.song_hap_dan_Tinhte_17.
Ảnh chụp từ Google Map khu vực đặt 2 máy dò LIGO

Ở cả 2 khu vực, một cặp ống bê tông cao 3,6 mét kéo dài về 2 phía gần như vuông góc với nhau, do đó nhìn từ trên cao xuống trông như một cái eke mà chúng ta hay dùng để vẽ góc vuông. Mỗi đường ống dài khoảng 4 km và phải được nâng lên khỏi mặt đất khoảng 1 mét ở mỗi đầu để giữ cho chúng nằm thẳng trên mặt đất vốn dĩ cong ở bên dưới. Xây ra công trình lớn và đầy tốn kém như thế nhưng mục đích cuối cùng là khám phá ra thêm bằng chứng về thuyết tương đối phổ quát của Einstein. Lý thuyết được Einstein đưa ra một cách đơn giản nhưng ông nào biết quá trình chứng minh nó khó khăn đến thế. Theo ông thì không thời gian sẽ bị bẻ cong khi có sự hiện diện của khối lượng và độ cong này sẽ tạo ra một hiệu ứng gọi là sự hấp dẫn.

Khi 2 lỗ đen đi vào quỹ đạo của nhau, chúng sẽ kéo căng và siết chặt không thời gian giống như trẻ em đang chạy chơi trên một tấm đệm lò xo, hình thành nên những rung động rất mạnh và những rung động này được gọi là sóng hấp dẫn. Các sóng này luôn du hành từ nguồn phát tới khắp vũ trụ, tới cả chúng ta và về cơ bản thì nó yếu hơn rất nhiều so với các lực cơ bản khác, do đó chúng ta không bao giờ cảm nhận được chúng. Chính Einstein còn nghĩ rằng gần như không bao giờ phát hiện ra được sóng hấp dẫn. Thậm chí có 2 lần Einstein còn cho rằng nó không tồn tại, sau đó lại đổi ý và cho rằng nó tồn tại. Nói vậy chứ chỉ riêng thiết kế và xây dựng nên LIGO cũng mất của các nhà khoa học vài thập kỷ gian khổ chứ chẳng chơi.

Thất bại của Joe Weber và thành công của những người đi sau ông

song_hap_dan_Tinhte_3.
Thiết bị dò sóng hấp dẫn của Joe Weber

Gần 5 thập kỷ sau tuyên bố của Einstein, chưa có ai nghĩ tới chuyện sẽ xây dựng một công cụ để phát hiện sóng hấp dẫn. Người đầu tiên nghĩ tới chuyện đó là giáo sư Joe Weber tại Đại học Maryland. Ông đã đặt tên cho thiết bị này ăng ten cộng hưởng. Đó là một ống bằng nhôm, về cơ bản hoạt động như một cái chuông và ông tin rằng nó sẽ giúp khuếch đại tín hiệu yếu ớt của sóng hấp dẫn. Khi sóng hấp dẫn chạm vào ống này, nó sẽ rung động rất nhẹ và bằng cách sử dụng những cảm biến xung quanh nó để chuyển thành tín hiệu điện để quan sát được.

Nhằm đảm bảo triệt tiêu hết những dao động khác như xe chạy, động đất nhẹ,... có thể gây nhiễu kết quả, Weber đã phát triển một số biện pháp bảo vệ: ông đặt các ăng ten vào trong chân không, đồng thời chế ra 2 cái để cùng nhau chạy ở 2 vị trí riêng biệt. Nếu cả 2 cùng có phản ứng giống nhau trong gần như cùng một thời điểm thì ông sẽ kết luận rằng đó có thể là sóng hấp dẫn. Vào tháng 6/1969, Weber tuyên bố rằng ăng ten của ông đã có một phát hiện gì đó. Khi đó giới vật lý và báo chí tưởng chừng như Weber đã thành ông. Tờ Time giật tít "một chương mới trong quá trình quan sát vũ trụ của con người đã mở ra".

Sau đó, Weber công bố những tín hiệu mà ông thu thập được. Tuy nhiên, những nghi ngờ bắt đầu xuất hiện khi mà các phòng thí nghiệm khác cũng chế tạo thiết bị dò giống như Weber nhưng không đạt được kết quả như ông. Vào năm 1974, nhiều người kết luận rằng Weber đã sai lầm. Mặc dù vậy, ông tin rằng mình vẫn đúng và vẫn tiếp tục các thử nghiệm cho tới khi qua đời hồi năm 2000. Mặc dù thất bại, nhưng Weber đã để lại một di sản cho những nghiên cứu đi sau ông. Nó cung cấp một lời cảnh báo cho những "thợ săn sóng hấp dẫn" sau này rằng "tất cả chỉ là lừa dối, hãy cẩn thận và chỉ có Chúa mới biết điều gì đã xảy ra."

Và quên kể với các bạn rằng mặc dù mặc dù các nhà khoa học đã không thu được kết quả khi thử chế tạo ra thiết bị giống như của Weber nhưng họ đã được kích thích phải làm cái khác tốt hơn. Một trong số đó chính là nhà vật lý học tại MIT Rainer Weiss và ông chính là người đã bắt đầu thiết kế cái mà bây giờ chúng ta gọi là LIGO. Ông cho biết: "Tôi không thể hiểu những gì Weber đã đạt được. Tôi không nghĩ là nó đúng. Do đó tôi quyết định tự làm một cái khác."

Cách hoạt động của LIGO - thiết bị khổng lồ có hình chữ L

cau_tao_LIGO.
Sơ lược cấu tạo của máy dò LIGO

Theo nhà nghiên cứu Fred Raab, lãnh đạo phòng thí nghiệm tại LIGO tại Hanford thì trong quá trình tìm kiếm sóng hấp dẫn"hầu hết các hoạt động diễn ra bằng điện thoại." Hàng tuần có một cuộc họp để thảo luận dữ liệu và mỗi 2 tuần có thêm một cuộc họp để phối hợp dữ liệu thu được từ 2 máy dò với sự cộng tác của các nhà nghiên cứu đến từ Úc, Ấn Độ, Đức, Anh,... Raab cho biết: "Khi thức dậy vào lúc nửa đêm, cái chúng ta tôi mơ đều là máy dò. Các bạn có thể hiểu được sự thân quen của nó đối với chúng tôi."

Và cách dò của Weiss đề xuất hoàn toàn khác với cách của Weber và nói nôm na chính là một đài quan sát dạng chữ L. Có thể hình dung rằng nó giống như 2 người đang nằm trên sàn nhà, đầu chụm lại và phần cơ thể mở ra để hình thành nên một góc. Khi sóng hấp dẫn chạm vào, một người sẽ được nâng cao lên và người kia sẽ bị nhấn xuống. Một lát sau, điều ngược lại sẽ xảy ra. Và dựa theo ý tưởng này, Weiss đã phát triển nên một thiết bị với kích cỡ cực lớn để theo dõi sự chênh lệch độ cao giữa 2 nhánh của chữ L.

Để đảm bảo độ chính xác của LIGO, Weiss đã sử dụng ánh sáng như một chiếc thước đo. Weiss đã cho đặt bộ tia laser vào trong chỗ gấp khúc của chữ L và nó sẽ phát ra tia laser chạy dọc theo chiều dài của mỗi ống. Tia laser này sẽ chiếu vào một cái gương đặt ở cuối đầu ống, sau đó phản xạ lại máy dò. Tốc độ của ánh sáng di chuyển trong lòng ống là cố định nên không cần biết là nó dài bao nhiêu, chỉ cần đảm bảo không có không khí lọt vào bên trong thì ở điều kiện bình thường, 2 tia phản xạ lại sẽ cùng gập nhau ở góc chữ L. Khi có sóng hấp dẫn bước vào, chiếc gương và tia laser sẽ bị xô lệch đi một chút, dẫn tới sự mất đồng bộ khi phản xạ lại và đây chính là tín hiệu mà người ta tìm kiếm.

Tuy nhiên, trên đây chỉ là ý tưởng mà Weiss đã viết trong một báo cáo vào mùa xuân năm 1972 và thật sự nó chưa bao giờ được công bố rộng rãi. Tuy nhiên, theo Kip Thorne, giáo sư danh dự tại Caltech thì đây là một trong những tờ giấy vĩ đại nhất từng được viết ra. Tuy nhiên, ban đầu Thorne đã xem nhẹ thiết kế của Weiss và thậm chí ông còn từng ra bài tập cho sinh viên của ông, yêu cầu chứng minh rằng việc đo lường sóng hấp dẫn bằng laser kế là phi lý.

2 người đàn ông trong cùng một phòng khách sạn - cuộc nói chuyện định mệnh giữa đêm khuya

song_hap_dan_Tinhte_1.
Nhà vật lý học Rainer Weiss và giáo sư Kip Thorne, 2 người có công lớn trong quá trình phát triển LIGO

Dù vậy, Thorne đã nhanh chóng thay đổi quan điểm khi ông có cuộc gặp gỡ với Weiss vào năm 1975, khi 2 người cùng được mới tới một cuộc trao đổi do NASA tổ chức. Vào đêm đó, 2 người đàn ông đã nói chuyện với nhau. Weiss hồi tưởng lại: "Tôi không nhớ nó đã xảy ra như thế nào nhưng chúng tôi đã ở chung phòng vào đêm đó. Chúng tôi đã ngồi với nhau trên một chiếc bàn nhỏ, cùng nhau viết nên những tờ phác thảo và các phương trình. Không có nhiều người trên thế giới này có thể nói chuyện như Thorne, nói về cái mà cả 2 đều suy nghĩ trong nhiều năm nay."

Và sau cuộc nói chuyện định mệnh đó, Weiss đã trở về MIT và chế tạo nên một phiên bản nhỏ của máy dò với mỗi đường ống dài 1,5 mét để thử nghiệm. Tuy nhiên, lãnh đạo tại MIT và một số đồng nghiệp của ông lại không đánh giá cao nghiên cứu của ông. Trong đó có cả Phillip Morrison, một nhà vậy lý thiên văn vốn có sức ảnh hưởng lớn trong giới vốn cho rằng lỗ đen không tồn tại, cũng tỏ ra không chú ý tới Weiss. Thật ra vào thời điểm đó thì đa số ý kiến cũng không tin là lỗ đen tồn tại bởi đó cũng chỉ là một hiện tượng giả thuyết, đồng thời nếu có thì sóng hấp dẫn do nó phát ra cũng rất yếu nên Morrison không tin rằng thiết bị của Weiss có thể phát hiện được.

Tuy nhiên, Thorne đã bị Weiss dụ thành công. Vào năm 1981, một nguyên mẫu thiết bị dò đã được Thorne chế tạo ở Caltech với 2 ống dò dài tới 40 mét. Đồng thời, một nhà vật lý người Scotland đã theo dõi toàn bộ quá trình và ông tiến hành cải thiện thiết kế ban đầu của Weiss.

Vào năm 1990, sau 1 năm nghiên cứu, nhóm 3 người là Weiss, Thorne và Drever đã cùng nhau thuyết phục quỹ khoa học quốc gia (NSF) để tài trợ xây dựng LIGO. Tổng chi phí ước tính của dự án là khoảng 272 triệu đô la, số tiền nhiều hơn bất cứ nghiên cứu nào được tài trợ bởi quỹ này. Và điều này lại tiếp tục là một cuộc chiến khi mà nhiều nhà khoa học cho rằng dự án LIGO rồi cũng chẳng đi tới đâu và cuối cùng chỉ là phí tiền. Khi đó giám đốc của NSF là Rich Isaacson đã rất đắn đó xem có nên tài trợ cho dự án hay không.

Rich Isaacson cho biết: "Nó không nên được xây dựng. Một vài thiết bị điên khùng chạy xung quanh nhưng không có tín hiệu nào được phát hiện, đồng thời nó còn phải sử dụng những thiết bị tạo chân không, triệt tiêu xung động địa chấn, hệ thống phản hồi... và có những thứ mà chưa bao giờ được phát minh ra." Tuy nhiên, may mắn là Isaacson đã từng viết một nghiên cứu về bức xạ hấp dẫn và ông tin rằng LIGO có thể là chìa khóa của vấn đề. Sau quá trình thuyết phục day dẳn, cuối cùng thì dự án cũng được chấp nhận và khởi công vào năm 1994.

Xây LIGO: ống chân không tinh khiết nhất thế giới, thiết bị đo nhạy nhất thế giới và còn nhiều cái nhất nữa,...

song_hap_dan_Tinhte_13.
Các nhà khoa học đang làm việc bên trong đường ống dẫn của LIGO

Thật ra chuyện chưa dừng lại ở đó và người ta phải mất nhiều năm tiếp theo để phát triển đầy đủ những thiết bị dò nhạy nhất trong lịch sử nhân loại với khả năng không bắt được bất cứ thứ gì khác ngoài sóng hấp dẫn. Đơn cử việc rút không khí ra khỏi ống đã mất hết 40 ngày và kết quả là một ống chân không tinh khiết nhất từng được tạo ra trên Trái Đất. Chưa hết, người ta còn phải tìm cách loại bỏ ảnh hưởng của gió, của sóng biển, biến động trong lưới điện, nhiễu jitter của bản thân các nguyên tử, các cơn bão, sấm sét từ rất xa,... vốn có thể làm sai lệch kết quả đo, gây nhầm lẫn với sóng hấp dẫn.

song_hap_dan_Tinhte_5.
Các thiết bị đều được kiểm tra cẩn thận trong điều kiện tuyệt đối vô trùng

Tất cả mọi thứ đều được loại bỏ hoặc kiểm soát tuyệt đối. Một hệ thống giảm sốc cực nhạy được trang bị cho gương phản chiếu để triệt tiêu các chấn động địa chấn. Các hệ thống cảm biến nhận diện chuyển động gây nhiễu của xe cộ, máy bay, động vật,... cũng được trang bị để tạo nên thứ tinh khiết nhất trên hành tinh này. Nếu được lựa chọn thì có lẽ đây là một trong những nơi yên tĩnh nhất hành tinh chúng ta.

Weiss chia sẻ: "Có hàng chục ngàn thứ, tôi nhấn mạnh là hàng chục ngàn thứ cần phải được kiểm soát. Mọi thứ đều phải được thực hiện một cách hoàn hảo nhất để không gì có thể gây nhiễu tín hiệu. Khi cần tiến hành tinh chỉnh, chúng tôi phải làm việc trong một căn phòng cực kỳ sạch sẽ, khử trùng tất cả mọi thứ, mặc những bộ đồ đảm bảo kín 100% bởi dù một tế bào da hoặc một hạt bụi nhỏ cũng vô tình phá hủy thí nghiệm."

song_hap_dan_Tinhte_12.
Bên trong khu vực điều hành của LIGO

Cuối cùng vào năm 2001, phiên bản đầu tiên của LIGO đã chính thức đi vào hoạt động. Và trong 9 năm tiếp theo đó, các nhà khoa học liên tục theo dõi hiệu suất hoạt động của các thiết bị, đồng thời không ngừng cải thiện thuật toán phân tích dữ liệu của họ. Bên cạnh đó, 2 phòng thí nghiệm tại Caltech và cơ sở ở Đức liên tục phát triển những thiết bị mới, nâng cao độ nhạy của gương, laser, các công nghệ loại bỏ địa chấn, khử nhiễu,... để ngày càng hoàn thiên LIGO. Tới năm 2010, LIGO tạm dừng hoạt động để nâng cấp trong 5 năm với tổng chi phí 200 triệu đô la. Sau lần nâng cấp này, khả năng của LIGO đã được nâng lên gấp hàng nghìn lần so với trước đó.

song_hap_dan_Tinhte_11.

Kiểm tra chất lượng quang học của thấu kính trong LIGO, giá mỗi cái chỉ có nửa triệu đô la

Tính riêng cái gương thôi đã rất kỳ công rồi. Mỗi bộ phận gương chỉ rộng khoảng 30 cm, nặng gần 40 kg và mỗi inch vuông trên đó được đánh bóng hàng trăm triệu lần để đảm bảo tạo ra một chiếc gương cầu hoàn hảo. Tiết lộ nhỏ thôi, mỗi chiếc có giá khoảng nửa triệu đô la để hoàn thành. Ban đầu thì những chiếc gương này được treo lên bằng dây thép nên mặc dù đã được xử lý giảm chấn nhưng vẫn chưa hoàn hảo. Sau lần cập nhật, người ta đính nó vào một hệ thống con lắc để hoàn toàn cách ly nó khỏi các chấn động.

Thành công

song_hap_dan_Tinhte_8.

Vào ngày 13/9, các nhà khoa học vẫn còn dành ra suốt một ngày để tiến hành các bài test thiết bị trong LIGO. Gần như tất cả mọi bài test đều hoàn thành nhưng muộn hơn dự kiến, vẫn còn bài kiểm tra mô phỏng một chiếc xe tải nhấn phanh ở gần máy dò chưa làm, tuy nhiên vào 4 giờ sáng, nhóm vận hành quyết định đóng máy đi về, để cho LIGO tiếp tục tự thu thập dữ liệu. Không lâu sau đó, vào 4:50 theo giờ địa phương, một tín hiệu đã chạy qua 2 máy dò trong khoảng thời gian chưa tới 7 mili giây mỗi cái. Đó là thời điểm chỉ 4 ngày sau khi LIGO chính thức vận hành trở lại.

Giáo sư Reitze cho biết: "Thật sự thì việc kết quả đến sớm như vậy sẽ dẫn tới không ít hoài nghi bởi máy mới vừa được hoạt động trở lại không lâu. Tôi từng nói với mọi người rằng chúng ta sẽ không tìm thấy gì cho tới năm 2017 hoặc 2018 đâu."Nhưng rồi sau khi kiểm tra lại, kết quả đó thật sự là thật. Janna Levin, một giáo sư vật lý thiên văn tại Đại học Columbia, người không thuộc nhóm LIGO nhưng đã ngạc nhiên chia sẻ: "Khi tin đồn bắt đầu loan đi, tôi đã nhủ rằng Đến đi nào. Tín hiệu gần như quá hoàn hảo. Phần lớn chúng ta đều tin rằng nó là hoàn hảo khi mà đã có rất, rất nhiều máy tính, rất nhiều tính toán được tiến hành để tách nó ra khỏi nhiễu âm."

song_hap_dan_Tinhte_6.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tại LIGO đã lập hẳn một đội ngũ khách quan kiểm chứng lại kết quả này. Mặc dù rất tin tưởng vào kết quả, nhưng nhóm 4 thành viên này phải xem như mù, độc lập kiểm tra lại rất nhiều lần kết quả thu được và cuối cùng, họ xác nhận rằng các sóng hấp dẫn này đến từ đâu đó ở chòm sao Đại Khuyển (Canis Major). Dù vậy, họ vẫn chưa công bố vội và vẫn tiếp tục củng cố bằng chứng. Thậm chí, họ tự đặt ra câu hỏi rằng "có phải ai đó trong nhóm đã làm giả tín hiệu mà chúng ta không biết?". Và công tác kiểm chứng cứ tiếp tục cho tới khi các nhà khoa học đều tin rằng không một ai có thể qua mặt được các tính toán thực hiện bởi các hệ thống mạnh mẽ và những thuật toán chính xác thuộc hàng nhất thế giới này.

Nhóm quyết định lập hồ sơ tuyên bố kết quả, bao gồm cả nêu rõ cách họ canh chỉnh thiết bị, chia sẻ mã nguồn phần mềm họ sử dụng, lên danh sách những nhiễu loạn và cách loại bỏ chúng, bao gồm cả những cơn bão ở Thái Bình Dương, các dao động ở tầng điện ly, một trận bão sét lớn ở châu Phi,.... Cuối cùng, họ tuyên bố rằng loại bỏ các yếu tố gây nhiễu thì phát hiện lần này đạt ngưỡng 5 sigma (một tiêu chuẩn vàng khi tuyên bố một khám phá vật lý).

song_hap_dan_Tinhte_14.

Quan trọng hơn nữa, họ khẳng định đây chính là sóng hấp dẫn đến từ một cặp lỗ đen va vào nhau. Bằng cách khai thác thêm thông tin từ sóng hấp dẫn, họ biết được thêm về kích thước, khối lượng của lỗ đen, tốc độ quỹ đạo của nó, thời điểm chính xác mà chúng va vào nhau và một lần nữa, khẳng định rằng lỗ đen có tồn tại 100%, không còn bất cứ nghi ngờ nào nữa. Phát hiện lần này đã chứng minh rằng Einstein đã đúng khi nó về khía cạnh vật chất của vũ trụ.

Mặc dù lý thuyết của Einstein nói về lực hấp dẫn nhưng trước giờ người ta mới kiểm chứng được trong khuôn khổ của Hệ Mặt Trời, bây giờ người ta mở rộng ra tính đúng đắn của nó trên phạm vi toàn vũ trụ. Weiss cho biết: "Bạn nghĩ rằng lực hấp dẫn của Trái Đất là cái khiến bạn mệt khi leo cầu thang. Chưa đâu! Khi mà vật lý ngày càng phát triển, đó chỉ là một hiệu ứng nhỏ, vô cùng nhỏ, cực kỳ nhỏ của lực hấp dẫn mà thôi." Vậy làm thế nào hồi năm 1916 Einstein có thể nghĩ ra được điều này, điều mà mãi 100 năm sau người ta mới thật sự quan sát được. Tưởng tượng gương mặt của Einstein sẽ ra sao khi ông biết được mình đã đúng sau 100 năm? Có lẽ ông đang mỉm cười dưới ngôi mộ kia.

Vật lý sẽ không chết, tương lai của vật lý học hiện đại đã khởi đi từ hôm nay

cv_song_hap_dan_Tinhte.

Gõ đã khá mỏi tay nhưng mình thật sự phấn khích với phát hiện lần này. Nếu các nhà khoa học này đến Việt Nam mình sẽ khui hẳn một chai rượu ngon để uống mừng cùng với họ bởi lẽ đây là một thành công vượt bậc, một thành công mà suốt 100 năm qua, nhiều người cho tới lúc nhắm mắt vẫn mong muốn một lần chứng kiến. Cách đây không lâu mình đọc một bài phân tích rằng vật lý học rồi sẽ chết bởi nó đã đạt tới ngưỡng không thể giải thích được các lý thuyết. Phát hiện lần này đã phủ nhận hoàn toàn điều đó.

Kể từ thời của Galileo, người ta cho tới nay vẫn dựa vào ánh sáng để khám phá vũ trụ. Tuy nhiên, thành công lần này của LIGO đã cung cấp thêm một công cụ mới, vẫn đảm bảo tính sờ tận tay, nghe tận tai, thấy tận mắt của khoa học và đưa con người tiến xa hơn vào những bí ẩn của vũ trụ. Con người sẽ bớt sợ vũ trụ hơn, nhiều khám phá khác sẽ được thực hiện trong tương lai. Còn lần này, một điều mà khám phá lần này đã dẫn tới chính là chuyện du hành thời gian, mình sẽ nói với các bạn trong bài viết tới. Cám ơn các bạn đã đọc câu chuyện dài hơi này. Chúc vui vẻ.

Tham khảo Komar, SM (1), (2), (3), PhysuflUMDForbesNaureNYWikiLavin

Phần nhận xét hiển thị trên trang