Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2015

Hồi kết của văn chương (phần 2)

Kôjin Karatan
1.     Trước khi trả lời cho câu hỏi “vì sao” và “ như thế nào” trước hiện tượng  suy giảm và  lụi tàn những ảnh hưởng của văn chương đối với xã hội, tôi muốn nhấn mạnh rằng hiện tượng này không chỉ giới hạn ở Nhật Bản. Tôi nhận thấy sự lùi bước của văn chương ở Pháp, ở Mỹ đã xẩy ra sớm hơn rất nhiều.Lý do : Văn hóa đại chúng, tiêu biểu là truyền hình đã phát triển  từ rất lâu (những năm 1950 ) ở đó. Chúng ta đều biết rằng ở Mỹ có rất nhiều các sắc tộc thiểu số,văn chương từ khá lâu cũng đã chuyển  hóa thành văn chương của các sắc tộc thiểu số ( hiện tượng ngoại biên hóa) .Từ những năm 1970 trên văn đàn đã xuất hiện những cây bút nữ da mầu hay các cây bút di dân châu Á, văn chương của họ đúng là một thứ văn chương sinh động đầy sức sống, nhưng nó lại không thể có tầm vóc bao trùm để ảnh hưởng tới toàn xã hội. Chúng ta cũng đã gặp một tình huống tương tự ở Nhật Bản vào những năm 1980 với các tên tuổi như Kenji Nakagami, Yangji Lee hay YûkoTsushima.
2.     Nước Mỹ đã tiến xa hơn Nhật Bản rất nhiều.Việc xuất hiện các khoa “ viết văn “ trong các trường Đại học Nhật xẩy ra sau nước Mỹ vài chục năm. Lúc còn sống  Faulkner đã có lần mỉa mai rằng theo ông,cách thức tốt nhất để trở thành một nhà văn là đi làm quản lý một nhà thổ! Nhưng người ta còn đi xa hơn thế nữa, hàng loạt giáo trình đại học dành cho “quy trình” viết văn được tung ra trong thời kỳ đó. Nhưng giờ đây khoa văn học không còn đắt hàng nữa, chúng tồn tại được là nhờ vào việc chuyển hướng sang giảng dậy/nghiên cứu về điện ảnh. Ở Nhật bản cũng vậy , giờ đây các khoa văn học cũng đang trôi về trạng thái hấp hối.
3.     Nơi mà tôi cảm nhận rõ rệt nhất về sự cáo chung của văn học là ở Hàn Quốc. Một cú sốc với tôi. Trong thập niên 90 tôi đã có nhiều dịp tham gia vào những cuộc gặp mặt giữa các nhà văn Nhật Bản và Hàn Quốc. Ở những cuộc họp đó, tôi có cảm tưởng rằng những gì xẩy ra với văn học Nhật Bản chưa hề chạm tới Hàn Quốc. Một thời gian sau đó, khoảng năm 2000,trong một cuộc họp báo ở Hàn Quốc, tôi đã tuyên bố rằng văn học đã chết tại Nhật Bản. Đương nhiên nền văn học Nhật Bản vẫn còn tiếp tục tạo ra những sản phẩm ăn khách, có sức lan tỏa và được đón nhận nồng nhiệt trong giới trẻ Hàn Quốc như trường hợp Haruki Murakami, nhưng ở Nhật Bản văn chương đã mất đi vai trò độc tôn, mất đi sức ảnh hưởng trong xã hội. Trong cuộc họp báo đó , tôi cũng bầy tỏ niềm lạc quan tin rằng văn học Hàn Quốc không phải chịu cùng số phận như văn học Nhật Bản.
4.      Nhưng rồi sự suy tàn của Văn học ở Hàn Quốc cũng bắt đầu hé lộ vào cuối thập kỷ 90. Jong Chul Kim, một nhà phê bình văn học danh tiếng, đã giã từ lĩnh vực phê bình văn học để sáng lập một phong trào bảo vệ sinh thái, ông xuất bản một tờ báo có tên gọi “ Phê bình xanh”. Mùa thu năm2002 , ông đã ngỏ ý mời tôi sang Hàn Quốc tổ chức một hội thảo vì ông cũng biết rằng tôi đã rời xa lĩnh vực phê bình văn học để lãnh đạo phong trào NAM.Để tránh mọi hiểu nhầm ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng Jong Chul Kim là người đã thú nhận đọc say mê tới bốn lần cuốn tiểu thuyết Mưa Tuyết ( Bruine de neige ) của Ichiro Tanizaki. Tôi đã hỏỉ lý do vì sao ông rời bỏ văn chương. Câu trả lời của ông là : khởi đầu ông lựa chọn văn chương vì tin rằng văn chương liên quan tới mọi mặt của xã hội, từ cái tôi thầm kín cho đến nền chính trị trên toàn thế giới, sau một thời gian ông nhận ra rằng văn chương giờ đây chỉ quan tâm đến những vấn đề quá ư hạn hẹp và vụn vặt, trong mắt của ông, nó không còn là văn chương nữa, đó là lý do ông đã rời bỏ nó.
5.     Một thời gian sau đó , tôi được biết rằng gần như tất cả những nhà phê bình văn học Hàn Quốc mà tôi đã từng có dịp gặp gỡ đều đã rút lui khỏi địa hạt văn chương. Đa phần trong số họ không chỉ làm phê bình văn học, họ còn xuất bản các tạp chí hay điều hành các nhà xuất bản. Những người đó gần như rời bỏ địa hạt văn chương ở cùng một thời điểm. Tôi không nghĩ rằng họ bị tụt hậu , không có khả năng tiếp cận , hiểu thấu những suy tư của giới trẻ. Lý do ở đây hoàn toàn khác, thứ văn chương mà họ đặt niềm tin vào đấy, thứ văn chương gợi hứng khởi cho các động lực của họ giờ đây đã kết thúc. Tôi cũng không dự đoán nổi sự đổi ngôi nhanh chóng đến thế của Văn chương Hàn Quốc. Những suy tư ấy một lần nữa lại thuyết phục tôi về một sự cáo chung của Văn chương.
(Còn tiếp)
—————————————————————————————————
Dương Thắng dịch từ tiếng Pháp. Nguồn: KôjinKaratani, « La fin de la littérature moderne », Fabula-LhT, n° 6,« Tombeaux de la littérature », mai 2009, URL :http://www.fabula.org/lht/6/karatani.html, page consultée le 20 août 2015. Bản đăng trên Phê bình văn học đã được sự đồng ý của dịch giả.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hồi kết của văn chương (phần 1)


( Những bài thuyết trình của GS Kôjin Karatani ở Trung Tâm Nghiên cứu Quốc Tế về Khoa Học Xã Hội, Đại Học Tổng Hợp Kinki, Nhật Bản)
1.     Ngày hôm nay tôi muốn nói về “ hồi kết của văn chương hiện đại”. Điều đó không hàm ý rằng , sau văn chương hiện đại thì đến văn chương hậu hiện đai. Điều đó cũng không có nghĩa là văn chương sẽ hoàn toàn biến mất.Cái mà tôi muốn đề cập đến , đó là cái vai trò đặc biệt mà văn chương đã từng gánh vác trong thời hiện đại, một vai trò quan trọng , một giá trị đặc biệt và sự kết thúc của cái hiện tượng này. Thực sự tôi chẳng cần phải loan báo thông tin này. Nó là một hiện thực hiển nhiên đang diễn ra, ngày nay chẳng còn mấy ai tin vào tầm quan trọng của văn chương nữa. Vì thế tôi chẳng muốn đóng vai người rao giảng hay truyền đi cái thông tin này. Nhưng lúc này là thời điểm cần nhắc lại rằng trong quá khứ đã có những lúc văn chương đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
2.     Trong cuộc đời mình, tôi đã gắn bó rất nhiều với văn chương, nhưng tôi không hề có ý định khuyến khích các bạn làm như tôi và tôi thấy rằng việc đó hoàn toàn không cần thiết. Tuy vậy chúng ta cần phải suy nghĩ về một thời kỳ mà văn chương có vẻ như là bất tử , suy nghĩ về những nguyên nhân đã dẫn đến sự tắt lịm của ánh hào quang đó , những suy nghĩ ấy sẽ giúp cái nhìn của chúng ta về thời đại của mình trở nên sáng tỏ  hơn.
3.     Khi tôi nói đến văn chương hiện đại, tôi nghĩ tới tiểu thuyết. Hiển nhiên rằng văn chương hiện đại không chỉ có tiểu thuyết. Nhưng tính đặc biệt của tiểu thuyết bắt nguồn từ cái vị trí số một của nó. “ Văn chương” đã tồn tại từ rất lâu trước thời kỳ hiện đại. Nó quan trọng đối với giai tầng lãnh đạo và các trí thức tinh hoa. Nhưng họ không quan tâm đến tiểu thuyết. Thi ca chẳng hạn, đã xuất hiện từ thời Aristole, được tôn sùng, được đưa vào sân khấu, nhưng tiểu thuyết chẳng bao giờ có may mắn đó. Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc cũng vậy, tiểu thuyết hay những câu chuyện kỳ ảo/ dã sử chỉ là một thứ văn chương hạng hai. Với sự ra đời và  lan tỏa của công nghệ in ấn,tiểu thuyết trở nên ngày càng quan trọng, là nguồn chủ lực  cho ra đời những tác phẩm tầm cỡ.
4.     Hồi kết của tiểu thuyết cũng đánh dấu sự kết thúc của một thời kỳ mà các tiểu thuyết gia giữ một địa vị thống trị trong văn chương. Ở đây tôi muốn nhắn đến Sartre. Người ta sẽ nhắc tôi rằng Sartre không chỉ là tiểu thuyết gia, ông còn là nhà triết học, kịch tác gia, nhà phê bình các loại hình nghệ thuật, tiểu luận gia, nhà báo, nhà hoạt động xã hội.. Nhưng với tôi và với nhiều người khác , Sartre – tiểu thuyết gia vẫn là nhân vật tầm vóc  nhất.
5.     Có một lần khi đọc lại những tác phẩm và các bài phỏng vấn của Deleuze, tôi bắt gặp một tuyên bố thú vị của ông rằng Sartre là người thầy duy nhất của mình. Deleuze phân biệt “ những người thầy xã hôi” và “ những người thầy cá nhân” và ông khẳng định rằng với ông, Sartre là“người thấy cá nhân” duy nhất,  ông cũng khẳng định rằng Sartre chỉ là một tiểu thuyết gia, Sartre chưa từng  bao giờ là một giáo sư triết học , giảng dạy ở một trường đại học. Bởi vì triết học của ông đậm chất văn chương, nói đúng hơn là một thứ gì đó rất gần với tiểu thuyết.
6.     Deleuze đã trích dẫn câu nói sau đây của Sartre “ Nói ngắn gọn, Văn chương tạo ra tính khách quan của một xã hội trong trạng thái cách mạng thường trực”. Nói cách khác, văn chương tự nhận về mình cái trách nhiệm tiến hành một cuộc cách mạng không ngừng mỗi khi mà nền chínhtrị cách mạng trở thành bảo thủ. Điều đáng chú ý là Sartre đã nhắc tới Văn chương chứ không phải là Triết học. Hiển nhiên rằng ông nói điều đó từ quan điểm của một nhà văn, một tiểu thuyết gia chứ không phải một nhà triết học.
7.     Sự hiện diện của Sartre như là một trái núi vĩ đại ngáng đường những người đến sau. Nhiều người trong số họ đã chọn cách châm chích hay giễu cợt cách suy tư của ông để ghi điểm cho mình, để bảo toàn chỗ đứng của mình, trong thực tế thực ra là họ rất ngưỡng mộ ông. Người ta xưng tụng phản tiểu thuyết để nói rằng Sartre – tiểu thuyết gia là kẻ lạc mốt, nhưng trên bình diện văn chương, Buồn nôn chính một phản- tiểu thuyết đích thực.
8.     Nhắc lại ở đây một quan niệm đã có được một tầm ảnh hưởng rất lớn lao trong những năm 60, quan niệm về Lối viết. Nó dùng để chỉ những tác phẩm không phải là tiểu thuyết mà cũng chẳng phải là triết học. Thành thật mà nói, các đại diện của trường phái này chẳng biết viết tiểu thuyết mà cũng không viết nổi các vở kịch ( giống như Sartre). Họ đành chọn cách khước từ hay phủ nhận  các thể loại này , tìm cách mặc một bộ quần áo mới ( theo quan niệm về Lối viết ) cho cái mà Sartre vẫn gọi là Văn chương. Điều này nói lên rằng, cái gọi là Lối viết  không hề là sự kết thúc của tiểu thuyết (kể cảTiểu Thuyết mới) và cái hy vọng tìm thấy ở đó cái khả năng tạo ra một thứ văn chương mới chỉ là một hy vọng hão huyền.
9.     Trong công việc làm phê bình văn học của mình ở Nhật Bản, tôi đã có một cảm nhận rõ ràng về hồi kết của văn chương hiện đại từ những năm 1980. Đó là thời kỳ của một nền kinh tế bong bóng, của một xã hội tiêu thụ, cái được định danh là Hậu hiện đại. Đa phần những người trẻ tuổi đổ xô đi tìm đọc các “ suy tư hiện đại”chứ không còn đọc tiểu thuyết. Nói cách khác văn chương không còn giữ vị trí tiên phong như trước nữa.Theo nghĩa đó, cái mà Sartre gọi là văn chương đã chuyển hóa thành phê bình văn học và nó cũng chẳng kéo dài được lâu. Khi tôi nói về“cái kết của văn chương” tôi đã gộp cả vào đó khái niệm lối viết với tư cách một thể loại phê bình văn học cũng như các thể loại phê bình giải cấu trúc
(Còn tiếp)
————————————————————————————————————————————————————————–
Dương Thắng dịch từ tiếng Pháp. Nguồn: KôjinKaratani, « La fin de la littérature moderne », Fabula-LhT, n° 6,« Tombeaux de la littérature », mai 2009, URL :http://www.fabula.org/lht/6/karatani.html, page consultée le 20 août 2015. Bản đăng trên Phê bình văn học đã có sự đồng ý của dịch giả.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cải cách Tập Cận Bình vấp phải kháng cự mãnh liệt



(GDVN) - Rõ ràng họ đã không đạt được bất kỳ đồng thuận nào trong các hoạt động chính trị tại Bắc Đới Hà.
Hình minh họa: AP/SCMP.
South China Morning Post ngày 21/8 cho biết, một bài xã luận ngắn trên website đài truyền hình trung ương Trung Quốc và tờ Quang Minh nhật báo ngày hôm qua 20/8 đã cảnh báo rằng, những hoạt động cải cách thể chế từ chính trị đến quân sự mà ông Tập Cận Bình thúc đẩy đang vấp phải kháng cự mãnh liệt, khó có thể tưởng tượng.
Với ngôn từ mạnh mẽ khác thường, bài báo nói rằng những cuộc cải cách của Tập Cận Bình đang ở trong giai đoạn quan trọng, nhưng lại vấp phải khó khăn to lớn, ảnh hưởng đến các nhóm lợi ích khác nhau: "Việc cải cách sâu rộng động chạm đến vẫn đề cơ bản là tái cơ cấu mạch máu khổng lồ của nền kinh tế nhằm mục đích cho nó khỏe mạnh. Nhưng quy mô của các trở lực chống đối lớn hơn nhiều những gì người ta có thể tưởng tượng".
Bài xã luận được ký tên Guoping, một bút danh thường xuyên được sử dụng trên các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc để bình luận về các chủ trương chính sách lớn. Các nhà quan sát cho rằng những bình luận này cho thấy hoạt động cải cách của Tập Cận Bình không đạt kết quả như mong muốn và vấp phải phản đối của các phe phái khác nhau.
Xu Yaotong, một giáo sư khoa học chính trị Học viện Quản trị Trung Quốc nhận định, bài xã luận này xuất hiện giữa lúc chiến dịch chống tham nhũng của ông Tập Cận BÌnh đã bắt đầu suy yếu và các cải cách thì bị phản đối. "Giọng điệu của bài xã luận này thể hiện sự tức giận. Tôi cảm thấy các nhà lãnh đạo trung ương bắt đầu lo lắng dựa vào thông điệp chỉ ra trong bài viết của Guoping."
Ông cho rằng phản đối cải cách của Tập Cận Bình đến từ 3 nhóm mạnh mẽ: Các quan chức cấp cao nghỉ hưu muốn gây ảnh hưởng, những quan chức quyền lực đã bị suy yếu và công chức không hài lòng với các quy định, chính sách thắt lưng buộc bụng của ông chủ Trung Nam Hải.
Bài xã luận xuất hiện sau khi Nhân Dân nhật báo tháng này chỉ trích quan chức cấp cao nghỉ hưu vẫn muốn can thiệp triều chính, nó cũng xuất hiện sau khi hội nghị Bắc Đới Hà vừa kết thúc. Trương Lập Phàm, một nhà quan sát từ Bắc Kinh nói với South China Morning Post, bài xã luận báo hiệu mọi việc đã không tiến triển tốt.
"Rõ ràng họ đã không đạt được bất kỳ đồng thuận nào trong các hoạt động chính trị tại Bắc Đới Hà. Các nhóm khác nhau đang theo đuổi những cách riêng của họ. Đây là một thử nghiệm về khả năng lãnh đạo thực hiện sứ mệnh của mình", ông Phàm bình luận.
"Cải cách kinh tế phải đi đôi với cải cách chính trị. Nếu hệ thống chính trị không thay đổi, sau đó quán tính của bộ máy quan liêu sẽ chỉ đưa cải cách vào vòng luẩn quẩn", ông Trương Lập Phàm bình luận.


Hồng Thủy

Những vụ thanh trừng của Trung Quốc có thể học được gì từ Liên Xô?


Bùi Mẫn Hân

Phạm Nguyên Trường dịch



Để đảm bảo rằng Trung Quốc đứng ở vị trí mạnh nhất có thể, Tập phải học một bài học nữa từ Liên Xô: những vụ thanh trừng dễ dàng trở thành thái quá. Stalin đã tiêu diệt hàng quân đoàn sĩ quan của Hồng quân ngay đêm trước cuộc xâm lược của Quốc xã. Tập không thể cho phép mình mắc những sai lầm tương tự như thế.


Chẳng có mấy niềm vui

Ngày 01 Tháng 8 vừa qua, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) tổ chức kỷ niệm 88 ngày thành lập. Nhưng 2,3 triệu binh sĩ của nước này chẳng có mấy niềm vui. Ngay đêm trước ngày kỷ niệm, Thượng tướng Quách Bá Hùng (Guo Boxiong), đã bị khai trừ đảng và được giao cho các công tố viên quân sự để trả lời những cáo buộc về tham nhũng, trong đó có những cáo buộc nói rằng ông ta đã nhận những khoản hối lộ lớn từ các sĩ quan PLA để được thăng quan tiến chức. Và Quách sẽ không phải là sĩ quan PLA cuối cùng phải đối mặt với những tội danh như thế.

Quách, là phó chủ tịch Quân uỷ trung ương, phụ trách công việc hàng ngày của quân đội từ năm 2002 đến năm 2012. Vụ bắt giữ ông này xảy ra sau vụ bắt giữ Tướng Từ Tài Hậu (Xu Caihou, Thượng thướng, nguyên uỷ viên Bộ chính trị, nguyên phó chủ tịch Quân uỷ trung ương– ND), đã làm trong Quân uỷ từ năm 2007 đến năm 2012, vào hồi tháng 6 năm ngoái.

Quách và Từ không phải là những sĩ quan cao cấp duy nhất bị lột lon kể từ chỉ huy tối cao của họ, Chủ tịch Tập Cận Bình, phát động cuộc chiến chống tham nhũng hồi cuối năm 2012. Dựa trên các số liệu chính thức, 39 viên tướng (kể cả con trai của Quách, đeo lon thiếu tướng ) đã bị bắt giữ. Và nếu những cáo buộc cho rằng nhiều viên tướng đã hối lộ Quách và Từ để được thăng quan tiến chức là đúng thì sẽ có lý khi giả định rằng những cuộc thanh trừng trên diện rộng các cán bộ cao cấp của PLA, kể từ sau Cách mạng văn hóa, sẽ còn tiếp tục.

Đấy chính là thông điệp Tập gửi cho quân đội trong diễn văn mà ông ta vừa đọc trước Tập đoàn quân 16, trong những năm 1990, Từ [Tài Hậu] từng là chính uỷ của tập đoàn này. Sau khi thề sẽ diệt trừ ảnh hưởng của Từ, “về tư tưởng, về chính trị, cũng như tổ chức và tác phong công tác”, Tập [Cận Bình] nhấn mạnh rằng không tuân theo sự lãnh đạo của Đảng sẽ bị trừng trị. Quân đội phải, Tập tuyên bố, “kiên quyết thực hiện mệnh lệnh của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Quân ủy trung ương”.

Học gì từ Liên Xô?

Ai đã từng theo dõi Tập trong hai năm rưỡi qua cũng đều có thể thấy rõ mục tiêu của ông ta là củng cố sự cai trị của đảng Cộng sản ở Trung Quốc bằng cách củng cố quyền lực của cá nhân mình, tăng cường đàn áp ở trong nước và theo đuổi chính sách đối ngoại quyết đoán. Để đạt được mục tiêu này, Tập cần lòng trung thành không suy suyển của PLA - và điều đó đòi hỏi phải thanh lọc những sĩ quan không đáng tin hoặc tham nhũng.

Ở tầm cá nhân, lòng trung thành của quân đội Trung Quốc là yếu tố quan trọng sống còn nhằm bù đắp cho việc Tập không có nền tảng quyền lực hợp hiến. Ngược lại, khi cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân trở thành Tổng bí thư đảng Cộng sản sau vụ đàn áp ở Thiên An Môn năm 1989, ông ta đã có thể dựa vào các quan chức có năng lực và trung thành ở Thượng Hải để vận hành bộ máy quản lý hành chính quan liêu; sau đó, trong những năm 1990, ông ta mới mở rộng cơ sở ủng hộ mình bằng cách thu nạp thêm những phe phái khác. Và người kế nhiệm Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, xuất thân từ đoàn Thanh niên Cộng sản, có các bạn thời sinh viên ở tất cả các cấp của bộ máy đảng-nhà nước.

Trong khi Tập phải xây dựng cơ sở quyền lực mạnh mẽ bằng cách bổ nhiệm dần dần những người ủng hộ ông ta vào các vị trí chủ chốt, tạm thời, ông ta cần PLA bảo vệ quyền lực chính trị của mình. Biện pháp có hiệu quả nhất nhằm bảo đảm lòng trung thành của PLA là thay những viên tướng cao cấp nhất - hầu hết đều được vị Chủ tịch trước đây thăng chức - bằng những người ủng hộ Tập.

Dường như Tập đã học được những bài học từ sự sụp đổ của nhà lãnh đạo Liên Xô, Nikita Khrushchev, vào năm 1964. Khrushchev bị lật đổ trong một cuộc đảo chính cung đình do KGB tài trợ và được quân đội đồng ý. Nếu Hồng quân hoàn toàn trung thành với Khrushchev thì những kẻ âm mưu đã không thể thành công.

Nhưng kế hoạch của Tập vượt quá thẩm quyền cá nhân của ông ta - những bài học từ Liên Xô thì cũng thế. Ngay sau khi nắm quyền, Tập đã than thở với các quan chức ở Quảng Đông rằng khi Liên Xô sụp đổ, giới tinh hoa đã đánh mất ý chí chiến đấu. Vào giai đoạn, khi độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc đang ngày càng bị thách thức, Tập sẽ không có sai lầm như thế.

Để tránh số phận của Liên Xô, Tập và các đồng nghiệp của ông ta phải tái áp đặt việc kiểm soát về tư tưởng và cắt bớt tự do dân sự. Trong khi, cho đến nay Đảng mới chỉ sử dụng cảnh sát và kiểm duyệt Internet (còn bây giờ muốn đưa cảnh sát mật vào tất cả các công ty Internet), không thể tưởng tượng sự tồn tại lâu dài của Đảng mà không có PLA trung thành, đặc biệt, nếu lại có những cuộc phản đối tương tự như những cuộc phản đối ở Quảng trường Thiên An Môn hồi năm 1989.

Cột trụ cuối cùng trong chiến lược của Tập nhằm củng cố quyền lực của Đảng Cộng sản là thay chính sách đối ngoại thận trọng của Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) bằng chính sách cơ bắp. Nếu Trung Quốc phải quay lại với chiến thuật gây hấn của mình, ví dụ, ở Biển Đông hoặc eo biển Đài Loan bằng vũ lực, thì lực lượng quân sự của nó không thể được dẫn dắt bởi những viên tướng dễ bị mua chuộc và gian manh.

Nếu những nỗ lực của Tập nhằm nhổ tận gốc trốc tận rễ nạn tham nhũng trong quân đội Trung Quốc có thể thực hiện được cùng một lúc ba mục tiêu, thì người ta buộc phải thừa nhận rằng đấy là bước đi của một thiên tài chính trị. Tuy nhiên, để đảm bảo rằng Trung Quốc đứng ở vị trí mạnh nhất có thể, Tập phải học một bài học nữa từ Liên Xô: những vụ thanh trừ dễ dàng trở thàng thái quá. Stalin đã tiêu diệt hàng quân đoàn sĩ quan của Hồng quân ngay đêm trước cuộc xâm lược của Quốc xã. Tập không thể cho phép mình mắc những sai lầm tương tự như thế.

Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) là Giáo sư về quản trị tại Claremont McKenna College và cộng tác viên tại German Marshall Fund của Hoa Kỳ.

Đã đăng trên http://www.ijavn.org/2015/08/vntb-nhung-vu-thanh-trung-cua-trung.html


Nguồn http://www.project-syndicate.org/commentary/china-military-arrests-by-minxin-pei-2015-08
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thơ thấp khớp:

châm cứu
đâm thẳng trên đường cao tốc 90 cây số giờ. 100 cây số giờ. 150 cây số giờ. nín thở. bầu khí quyển như bị tán xạ. mọi giác quan phún trào. từng vi bào té ngửa. nhấn. nhấn mạnh. tăng tốc độ. tăng nữa. 200 cây số giờ. một kim thẳng huyệt dũng tuyền. điếng.
 
 
chỉnh xương
vuốt / bẻ / xoa / nắn / kéo... từng thớ thịt rã rời / từng mấu xương cọ chạm / từng chùm gân co giãn / tiếng kêu rên của hệ thần kinh / tiếng rì rào trong màng nhĩ / đường tim như nghẽn mạch / trái tim như rời khỏi lồng ngực / chới với níu / sức bật ra càng căng / cảm giác không lực từ trường / chới với buông / cõi tôi văng vào u tịch / đau thấu kiếp sau.
 
 
bấm huyệt
ấn. ấn vào. ấn mạnh vào. mạnh nữa. cơn hứng tình tắt phụp. thơ tắt phụp. xương cổ xương lưng xương tay xương chân bị lôi ra hành quyết. những ngón tay bấm sâu vào [mộ] huyệt, từng mũi giáo đâm thấu thân rệu rã. ngàn ngàn sợi đau vạn vạn sợi sướng triệu triệu lỗ chân lông banh chành dựng đứng. mười ngàn ngày vác đao[u] hành [thân] xác kiếp tôi kiếp tôi kiếp kiếp tôi. đau.
 
*
 
thì thầm với cơn đau là cách vỗ về tim. ngồi như phật. nằm như chết. cuộn mình như thai nhi. tôi và thơ cùng thở.
 
(cuối tháng 3/2015)
 
 
 
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang
Bài giao hưởng trên sông

Bài giao hưởng trên sông
sơn dầu trên bố, 24"x30" (tháng 7-2015)
Trường Vũ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mật vụ Triều Tiên đồng loạt chuyển nghề vì... sợ trả thù


Rất nhiều mật vụ an ninh Triều Tiên, những người đóng vai trò là cảnh sát ngầm, đang tìm cách bỏ việc và tìm kiếm những vị trí khác an nhàn hơn, ví dụ như nhân viên siêu thị.
Theo báo cáo của tờ Daily North Korea, sở dĩ ngày càng nhiều mật vụ, nhân viên an ninh của chính quyền Bình Nhưỡng muốn bỏ việc là do lo sợ phải đối mặt với sự trả thù của những người dân từng bị lực lượng này bắt giữ và tra khảo trong quá trình điều tra, thẩm vấn.
Một nguồn tin ở tỉnh Bắc Hamkyuing cho Daily NK biết: “Ngày càng có nhiều cảnh sát ngầm cảm thấy không an tâm về tương lai, đặc biệt là những ai đã từng lợi dụng quyền hạn để ngược đãi người dân. Vì vậy, họ đang tính rời bỏ vị trí của mình. Họ nói rằng rất lo sợ người dân sẽ trả thù. Nhiều mật vụ cũng muốn đi tìm công việc mới, một công việc có thể đảm bảo thu nhập cho họ”.
Nhiều mật vụ Triều Tiên đang tìm cách bỏ việc vì lo sợ bị trả thù. Nguồn: Inquistir
Cũng theo nguồn tin này, so với thời lãnh đạo trước kia, hiện nay việc theo dõi và kiểm soát người dân ngày càng trở nên phổ biến, dẫn đến sự bất bình và tức giận trong công chúng. Điều này khiến cho các cảnh sát ngầm, lực lượng trực tiếp thực thi lệnh của chính quyền, muốn mau chóng tìm cách nghỉ hưu sớm.
Trong những năm trở lại đây, Triều Tiên thường xuyên xảy ra các vụ tấn công do những người dân tìm cách trả thù lực lượng mật vụ an ninh. “Riêng ở thành phố Chongjin, một vài năm trước, người đứng đầu cơ quan mật vụ một quận đã bị đánh tới tấp vào phần sau gáy, khiến người này tử vong tại chỗ”, nguồn tin của NK Daily nói.
Các nhân viên mật vụ ngầm cũng không phải là ngoại lệ. Một vài năm trước tại thành phố Kimchaek và Hoeryong, một số nhân viên an ninh ngầm đã bị đâm đến chết, khiến cho khu vực này trở nên náo loạn. 
“Theo điều tra, các vụ việc trên xuất phát từ hận thù cá nhân và trả thù cho một người thân trong gia đình”, nguồn tin giấu tên cho hay.
Người này cũng khẳng định: “Không mấy ai có thiện cảm với các cơ quan an ninh hay bảo vệ”. Mới đây, tại thành phố Rajin, một mật vụ trung niên đóng vai một nhân viên hải quan đã bị các tiểu thương đánh giữa ban ngày, ngay trước văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh. Theo đó, nhân viên này vốn đã nổi tiếng vì những hành động "không đẹp" của mình và thường xuyên gây khó dễ cho những người kinh doanh.
“Một số mật vụ an ninh cho biết họ không thể tiếp tục công việc thêm được nữa. Họ lo lắng rằng sau này tình thế có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Đó là lý do vì sao, dù đã muộn nhưng nhiều người vẫn muốn chọn một phương án an toàn hơn, tìm kiếm công việc tại các công ty thương mại hay trong các siêu thị”, nguồn tin nói.
Một người giấu tên khác cũng đến từ tỉnh phía Bắc Hamkyung cho biết, tình trạng tương tự cũng đang diễn ra trong bộ phận nhân viên đảng, chính quyền ở địa phương và trung ương Triều Tiên. Sau các vụ thanh trừng các quan chức cấp cao như Jang Song Thaek, những nhân viên công vụ giờ đây cảm thấy không còn tham vọng leo lên các vị trí cao hơn trong chính phủ nữa. Càng lên vị trí cao họ càng dễ trở thành đối tượng bị lãnh đạo và cả dân chúng “không vừa mắt”.
“Các mật vụ an ninh giờ đây thường xuyên nhắc đến những bài học xương máu như khi Trung Quốc tuyên bố mở cửa cải cách những năm 1980, người dân đã đồng loạt trả thù các lực lượng chính quyền nòng cốt cũ vốn đã đối xử tệ bạc với họ trước đó”, nguồn tin cho biết.
Nội dung được tham khảo từ nguồn tin Daily NK, một tờ báo điện tử có trụ sở tại Seoul, Hàn Quốc, chuyên khai thác các thông tin về CHDCND Triều Tiên. Tờ báo được thành lập năm 2004 và được phát hành với bốn thứ tiếng: Hàn Quốc, tiếng Anh, tiếng Nhật và tiếng Trung.
Tuệ Minh (Lược dịch) 

Phần nhận xét hiển thị trên trang