Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

Quan ngại, dân đếch ngại


BÁ TÂN
Lãnh hải Việt Nam bị Trung Quốc ngang nhiên xâm lấn. Sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia đứng trước nguy kịch như nước sôi lửa bỏng. 
  
Trước hiện trạng như vậy, khi phát ngôn tại diễn đàn quốc tế cũng như trong nước, quan chức Việt Nam chỉ bộc lộ thái độ với bọn bành trướng Trung Quốc bằng những từ ngữ trên mức trung dung: chúng tôi quan ngại.

Hành động của Trung Quốc gọi đúng tên là xâm lược Việt Nam. Hành động ấy phải bị tố cáo, phải được lên án.
  
Giới lãnh đạo Trung Quốc chắc hẳn luôn ăn ngon, ngủ yên và quyết liệt chỉ đạo xâm lấn lãnh hải Việt Nam khi quan chức Việt Nam chỉ bộc lộ thái độ ở mức: chúng tôi quan ngại.

 Philippines lôi Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Là nước nhỏ và yếu nhưng Phi chọn cách dựa vào luật pháp quốc tế để đối chọi với Trung Quốc.


 Thủ tướng Nhật Bản hơn 1 lần tuyên bố sẵn sàng đáp trả quyết liệt hành động xâm lấn của Trung Quốc. Nhật Bản huy động máy bay, tàu chiến xua đuổi các phương tiện quân sự hiện đại của Trung Quân ra khỏi lãnh hải Nhật Bản. 

 Nhiều nước trên thế giới cũng như trong khu vực, khi đề cập vấn đề biển Đông, lựa chọn cách thể hiện bằng từ ngữ mang tính đối ngoại: chúng tôi quan ngại. Vì tính chất đối ngoại, vì lý do tế nhị họ chỉ nói như vậy. Nói được như thế còn hơn im lặng. Nga và một số nước châu Âu ( nguyên là tiền đồn của phe XHCN ) chẳng đả động đến vấn đề biển Đông. Im lặng là đồng tình. Trung Quốc rất hài lòng trước sự im lặng có chủ định như vậy. 

 Quốc tế, nước ngoài có thể né tránh đụng độ bằng ngôn từ ngoại giao: chúng tôi quan ngại. 

 Nhưng là người Việt Nam, khi tổ quốc lâm nguy, không thể bày tỏ thái độ với kẻ thù xâm lược theo cái kiểu: chúng tôi quan ngại. 

 Quan ngại là quyền của quan. Quan ngại cho nên quan không dám lên án, quan không dám tố cáo hành động bành trướng xâm lấn của Trung Quốc. 

 Không chỉ hiện thời mà từ hàng ngàn năm trước, cộng đồng người Việt yêu nước đếch ngại bọn bành trướng xâm lược Trung Quốc. 

Quan ngại là sự lựa chọn của quan. Trung Quốc coi biển Đông như ao nhà khi cái đầu bành trướng của chúng nhiều lần nghe thông điệp: chúng tôi quan ngại. 

 Người dân đếch ngại và quyết chí đứng lên đánh bại bọn xâm lược Trung Quốc như đã nhiều lần xảy ra trong lịch sử.

Bá Tân
Phần nhận xét hiển thị trên trang

TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG


(ảnh minh họa: nguồn internet)

xin ông kể trận đánh cuối cùng
xảy ra ở đâu cho chúng tôi biết
đồng đội ông bao nhiêu người ngã xuống
bao nhiêu người cầm cự đứng lên

lúc ấy là ngày hay đêm
khi súng nổ họ ăn cơm chưa hay còn bụng đói
các mẹ có đùm theo mỗi người một gói
hay mỉm cười tiễn các anh đi

sao lặng im không nói thêm gì
trận đánh cuối cùng quân ta thua hay thắng
xin kể lại để ghi vào sử sách
tạc vào núi sông một thuở anh hùng

có đầu tiên ắt có cuối cùng
chúng tôi muốn nghe chính ông kể lại
là nhân chứng sống còn khí phách
sau trận thư hùng lịch sử mấy mươi năm

đôi mắt buồn băn bặt phía xa xăm
những tấm huy chương gắn đầy quân phục
bàn tay gầy áp lên ngực trái
trận đánh cuối cùng ông chỉ ở đây đây …

tháng 8.2015
bình địa mộc


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Rung đùi hơi bị sớm!

Campuchia “lo ngay ngáy” trước FTA Việt Nam – EU
THẢO MAI BizLIVE - Nhiều nhà phân tích tại Campuchia đã bày tỏ lo ngại về sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa tại thị trường châu Âu sau khi hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU đạt tiến triển.
EU là thị trường lớn nhất của hàng dệt may Campuchia. Ảnh: Newyorktimes
Tờ Khmer Times đưa tin ghi nhận sau hai năm rưỡi đàm phán, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã thống nhất về mặt nguyên tắc đối với thỏa thuận thương mại tự do. Bước tiến này sẽ dỡ bỏ nhiều rào cản về thuế và hạn ngạch đối với dòng hàng hóa luân chuyển giữa hai khu vực.

Ủy ban châu Âu cho biết Việt Nam là bạn hàng quan trọng thứ tư của EU tại ASEAN kể từ năm 2013. Năm 2014, Việt Nam xuất khẩu tới 24 tỷ USD giá trị hàng hóa vào EU.

Trên thực tế, Campuchia cũng là nước được hưởng chính sách ưu đãi thuế xuất 0% đối với mọi mặt hàng vào EU theo thỏa thuận hai bên, chỉ trừ vũ khí.

Nếu Việt Nam cũng được hưởng ưu đãi tương tự, các nhà nhập khẩu EU sẽ chuyển hướng sang làm ăn với Việt Nam, một số chuyên gia kinh tế tại Campuchia nhận xét.

“Đây là vấn đề đáng lo ngại đối với Campuchia, nhưng chúng ta buộc phải đối diện với thực tế và tìm cách xoay xở”, ông Mey Kalyan, cố vấn cấp cao của Hội đồng kinh tế quốc gia tối cao, thừa nhận.

Theo ông, Campuchia sẽ phải nâng cao sản lượng, giảm chi phí sản xuất và cải thiện chuỗi giá trị. Cùng lúc, nước này sẽ phải tính đến đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.

Thêm vào đó, đồng euro mất giá gây bất lợi cho hàng hóa đến từ một nền kinh tế được “dollar hóa” như Campuchia, đây cũng là một lý do để nước này tìm cách thoát li lệ thuộc vào thị trường EU, ông Kalyan cho hay.

Thêm một đối thủ xuất khẩu gạo

Campuchia là một nước xuất khẩu gạo. Trong 7 tháng đầu năm 2015, quốc gia này xuất đi hơn 312.000 tấn gạo, tăng 53% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, các nước châu Âu tiêu thụ tới 62% gạo xuất khẩu của Campuchia.



Người nông dân trồng lúa tại Campuchia phải đối mặt với nhiều chi phí sản xuất cao như: Phân bón, điện, nước...

Gạo của Việt Nam cực kỳ rẻ so với gạo của Campuchia. Nếu có thêm một đối thủ đáng gờm nhất châu Á như họ, thị phần của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng. Lợi nhuận cận biên cũng không còn lại là bao”, ông Song Saran, CEO công ty Amru Rice, một trong những doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn nhất của Campuchia, cho biết.

Mặc dù sở hữu thời tiết lý tưởng để trồng lúa, Campuchia cũng có những bất lợi riêng như giá phân bón cao, giá điện đắt đỏ gây khó khăn cho quá trình thu hoạch, chế biến. Chưa kể chi phí vận tải cao rút mòn lợi nhuận từ hạt gạo của người nông dân.

Ngành dệt may cũng gặp khó

Theo số liệu của Tổ chức lao động quốc tế, EU là thị trường lớn nhất của hàng dệt may Campuchia, trong bối cảnh kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đang co bóp.

Khi Việt Nam trỗi dậy như một đối thủ cạnh tranh, áp lực đè lên làn sóng đòi tăng lương tối thiểu trong ngành càng cao.

“Năng suất của Campuchia không thể bì với Việt Nam. Nếu không có hạn ngạch, chắc chắn các thương hiệu sẽ tràn vào đây”, ông Mickey Lam, lãnh đạo Hiệp hội sản xuất dệt may Campuchia, cảnh báo.

Lương tối thiểu của Việt Nam xấp xỉ bằng với Campuchia tại 100 – 145USD/tháng, tùy vùng miền. Tuy nhiên, ông William Conklin, giám đốc chi nhánh tại Campuchia của Trung tâm bảo vệ quyền lợi người lao động Solidarity Center, lưu ý con số này không phản ánh đúng thực tế. Một bộ phận lớn người lao động tại Việt Nam hưởng lương cao hơn lương tối thiểu.

Lao động Việt Nam cũng được đào tạo tốt hơn lao động tại Campuchia, từ đó nâng cao sản lượng, ông Lam chỉ ra. Ông không kỳ vọng nhiều vào việc chính phủ rót tiền để đào tạo nhân công, các công ty thì càng dè xẻn trong việc rút hầu bao.

“Nhiều khi công ty vừa đào tạo xong nhân công ngày hôm trước, khi ngày hôm sau anh ta đã bỏ đi làm ở chỗ khác”, ông nói.

THẢO MAI
http://bizlive.vn/the-gioi/campuchia-lo-ngay-ngay-truoc-fta-viet-nam-eu-1203928.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Học thuyết Brezhnev (Brezhnev Doctrine) Hay là cái cớ để can thiệp nội bộ nước khác?


Trong một bài diễn văn ở Đại hội lần thứ 5 của Đảng Cộng sản Ba Lan, Brezhnev đã khẳng định rằng “tòan thể cộng đồng xã hội chủ nghĩa” có quyền can thiệp vào lãnh thổ của bất cứ nước thành viên nào khi các thế lực thù địch của phe chủ nghĩa xã hội đe dọa. Đồng thuận về tư tưởng là nguyên tắc tối cao cho mọi sự can thiệp. Tuyên bố này về sau được coi như Học thuyết Brezhnev và được coi như là sự phê chuẩn chính thức lập trường của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lập trường ấy đã khẳng định “sự thống nhất về ý thức hệ của Đảng Cộng sản các nước trong khối xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí tối cao, vượt trên quyền lực pháp lý của mỗi quốc gia.Quyền được can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước là hợp pháp khi có sự đe doạ nhằm bảo đảm chủ quyền cho mỗi nước và tạo sự cân bằng trong khối”.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chính trường thế giới bị Chiến tranh Lạnh chi phối. Đến cuối năm 1949, hầu hết các quốc gia châu Âu đều gia nhập một trong hai liên minh thù địch với nhau, một bên là Mỹ với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và một bên là Liên Xô với khối Hiệp ước Vacsava. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bao gồm Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Bungari, Đông Đức, Rumani, Anbani (rút khỏi khối năm 1968).


Trong những thập niên 60-70 của thế kỷ 20, hệ thống này có những khủng hoảng nhất định. Điển hình là sự kiện nổi dậy ở Ba Lan tháng 10/1956, biểu tình và bạo động ở Hungary tháng 10-11/1956 khiến Liên Xô phải đưa quan đội vào can thiệp, thành lập chính phủ mới. Đến sự kiện “Mùa xuân Praha” năm 1968, quân đội của khối Hiệp ước Vacsava tràn vào Tiệp Khắc và thay đổi ban lãnh đạo nước này.

Trước xu thế đa nguyên của các nước thành viên, những quan điểm về “chủ quyền có giới hạn” của những quốc gia thành viên trong hệ thống chủ nghĩa xã hội và khái niệm về tính tối cao của “cộng đồng xã hội chủ nghĩa” đã được đưa ra. Vào tháng 11 năm 1968, những quan điểm này nhận được sự tán thành của Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev.


Trong một bài diễn văn ở Đại hội lần thứ 5 của Đảng Cộng sản Ba Lan, Brezhnev đã khẳng định rằng “tòan thể cộng đồng xã hội chủ nghĩa” có quyền can thiệp vào lãnh thổ của bất cứ nước thành viên nào khi các thế lực thù địch của phe chủ nghĩa xã hội đe dọa. Đồng thuận về tư tưởng là nguyên tắc tối cao cho mọi sự can thiệp. Tuyên bố này về sau được coi như Học thuyết Brezhnev và được coi như là sự phê chuẩn chính thức lập trường của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lập truờng ấy đã khẳng định “sự thống nhất về ý thức hệ của Đảng Cộng sản các nước trong khối xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí tối cao, vượt trên quyền lực pháp lý của mỗi quốc gia. Quyền được can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước là hợp pháp khi có sự đe doạ nhằm bảo đảm chủ quyền cho mỗi nước và tạo sự cân bằng trong khối”.

Sau khi Học thuyết Brezhnev được chính thức công bố, Liên Xô đã ký một loạt các hiệp ước với các nước Đông Âu nhằm tái khẳng định các nguyên tắc của Học thuyết và tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác giữa các quốc gia trong khối. Các nguyên tắc của Học thuyết cũng đã được mở rộng để biện minh cho sự can thiệp của Liên Xô ở các nước bên ngoài Khối Hiệp ước Vacsava, như trường hợp Liên Xô đưa quân vào Afghanistan tháng 12 năm 1979. Ka-man, lãnh tụ mới của Afghanistan, đã gọi chính sách của Liên Xô là “chủ nghĩa quốc tế vô sản trong hành động”.

Như vậy thực ra Học thuyết Brezhnev đơn giản chỉ là sự biện minh cho sự can thiệp của Liên Xô vào các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa, là một công cụ đối ngoại giúp nước này duy trì an ninh, ảnh hưởng và vị thế quốc tế của mình. Dựa vào việc phân tích những tài liệu của Liên Xô trong một thời kì dài, các học giả quan hệ quốc tế nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo chủ chốt của các Đảng cộng sản quyết tâm làm rõ sự khác nhau trong vấn đề liên kết giữa các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa với phần còn lại của thế giới. Họ làm vậy để thuyết phục rằng quan hệ quốc tế trong phạm vi của hai hệ thống (tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa) được cấu trúc một cách khác biệt. Hai minh chứng lịch sử của sự can thiệp đã cho chúng ta thấy rằng sự can thiệp chỉ xảy ra sau những cuộc tranh luận trong tập thể lãnh đạo chủ chốt. Nguyên tắc đồng thuận cao giữa các Đảng cộng sản thật sự là quyết định khôn ngoan. Nó đã thử thách tính thống nhất về ý thức hệ và từ đấy mới có thể thống nhất hành động một cách hiệu quả nhất.

Học thuyết Brezhnev có hiệu lực cho tới cuộc khủng hoảng chính trị ở Ba Lan năm 1980-1981 khi Liên Xô quyết định không can thiệp. Sau đó, chính quyền Mikhail Gorbachev tiếp tục duy trì chính sách không can thiệp vào tình hình chính trị nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa khác, dẫn tới việc Công đoàn Đoàn Kết giành chiến thắng trước Đảng Cộng sản trong cuộc bầu cử ở Ba Lan năm 1989 và sự sụp đổ lần lượt của một loạt chính quyền cộng sản ở Đông Âu sau đó.
Tác giả: Đào Minh Hồng
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

http://nghiencuuquocte.net/2015/08/01/hoc-thuyet-brezhnev-brezhnev-doctrine/#sthash.JKLTAjkP.dpuf
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đọc “Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng”


Trần Hữu Dũng -  theo nhiều tư liệu dẫn chứng của Short, Pol Pot và đồng bọn không chỉ muốn áp dụng chủ nghĩa Mác Lê ở Campuchia, họ còn muốn vượt qua (“đi tắt đón đầu”?) chủ nghĩa đó để khôi phục sự “vĩ đại” của Khờ-me, trên cả Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô, và mọi nước khác. Như vậy, có thể nói, Pol Pot và đồng bọn bị chi phối bởi hai tư tưởng trái ngược nhau: một bên là mặc cảm tự ti, và một bên là hội chứng vĩ cuồng, sô-vanh dân tộc.

Hầu như mọi người đều biết những nét chính của lịch sử Campuchia cận đại. Trong ba năm, tám tháng, hai mươi ngày (từ 17-4-1975 đến 7-1-1979), dưới quyền Pol Pot (tên cúng cơm là Saloth Sar, và còn nhiều biệt danh khác) chính quyền Khờ-me Đỏ đã thảm sát có thể đến 2 triệu trong tổng số 7,7 triệu đồng bào họ. Sự dã man quá sức tưởng tượng ấy đặt ra câu hỏi: Đó là tội ác của cá nhân Pol Pot và Khờ-me Đỏ, hay là hệ quả của Mác-xít, cụ thể là Mác-xít của một nhóm trí thức Khờ-me từng du học bên Pháp? Hoặc, phần nào, đó là một “đặc sản” của xã hội và văn hóa Khờ-me?

Philip Short, người Anh, nguyên là phóng viên đài BBC và Times of London, tuy không là sử gia như những tác giả đi truớc (như Chandler [1], Kiernan [2], [3]) cùng đề tài, nhưng có cái lợi là viết sau ngày Khờ-me Đỏ quy hàng (1998). Ông đã lặn lội hơn bốn năm ở Campuchia, phỏng vấn nhiều nạn nhân cũng như một số cựu thủ lãnh Khờ-me Đỏ hiện còn sống (như Khieu Samphan, Ieng Sary, Nuon Chea), và đặc biệt là Laurence Picq, một phụ nữ Pháp nhiệt tình tin tưởng ở Khờ-me Đỏ, theo chồng là Suong Sikoeun về Phnom Penh năm 1975. Quyển “Pol Pot” của Short là một tác phầm “lớn”, đầy ắp những chi tiết thú vị. Qua hơn 500 trang giấy, người đọc sẽ biết thêm rất nhiều chẳng những về Pol Pot mà còn về lịch sử Campuchia thế kỉ vừa qua, đặc biệt là những liên hệ với Việt Nam, qua con mắt của người Khờ-me.

Một trong vài ấn tượng mạnh nhất mà cuốn sách này để lại là, rõ ràng, những sự tàn ác hơn ba năm dưới quyền Khờ-me Đỏ không phải bắt đầu vào ngày họ bước chân vào Phnom Penh mà đã manh nha từ mấy mươi năm về trước, và dần dần leo thang. Short cho thấy tội ác của Pol Pot và đồng bọn có nguồn gốc sâu tận trong bản tính Khờ-me, chính sách của họ là phản ảnh bản tính ấy, uốn nắn bởi dòng lịch sử (và địa lí) Khờ-me. Nó không là một hiện tượng đột phát, dị thường. (Ở đa số các nước khác, Short nhận xét, những cuộc thanh trừng đẫm máu như thế thường xảy ra sau một biến cố chính trị nhất định nào đó — ở Nga, năm 1918, sau cuộc ám sát hụt Lênin chẳng hạn – hơn là kế thừa của một chuỗi biến cố xã hội và văn hóa lâu dài.)



Thật vậy, nhìn suốt dòng lịch sử theo lời kể của Short, khó tránh ấn tượng là Pol Pot và đồng bọn đã mưu tính từ lâu là sẽ thẳng tay tàn sát ngay từ ngày đầu của Campuchia dưới quyền họ. Cuộc viếng thăm năm 1965 của Pol Pot ở Hà Nội (làm việc với Lê Duẫn) và Bắc Kinh (vài tháng trước cách mạng văn hoá) là bước ngoặt quan trọng trong tư duy của cấp lãnh đạo Khờ-me Đỏ. Nhưng có lẽ quyết định tàn sát là rõ rệt nhất sau những năm đầu thập kỉ 1970, một phần là phản ứng các đợt giết chóc dã man của quân Lon Nol, một phần cũng là bị lan nhiễm “khí thế” “cáp Duồn” (giết người Việt) bừng bừng ở Campuchia lúc ấy. (Nhờ Short, độc giả sẽ nhớ lại, nếu đã quên, bản chất của Sihanouk: đằng sau bộ mặt bông lơn bốc đồng như tên hề của ông ta là một người tham ô, nham hiểm, và tàn ác không vừa!) Short cũng kể đến sự ngạc nhiên của Pol Pot vào tháng 3 năm 1971, khi thấy “thị trường” ở vùng họ giải phóng (cụ thể là Kratié) hồi sinh nhộn nhịp còn hơn truớc, với những con buôn dỡ lại mánh khóe lừa bịp, bốc lột dân chúng.

Về cuộc lùa dân khỏi thành thị sau ngày chiếm Phnom Penh, cấp lãnh đạo Khờ-me Đỏ khó biện hộ. Với các kí giả tây phương, Pol Pot giải thích sự di tản đó là cần thiết vì thành thị sắp cạn lương thực, và Mỹ sắp tấn công. (Song đó là nói láo vì lương thực ở thành thị lúc ấy thật ra còn đầy ắp, và không gì khó hơn tiếp vận hàng triệu người nhốn nháo di tản.) Với kí giả Trung Quốc thì Pol Pot có vẻ thành thực hơn, bảo rằng mục tiêu của di tản là nhằm phá vỡ các mạng gián điệp của địch.

Sự thực, cuộc di tản này là theo kế họach có từ lâu. Trong phỏng vấn với Short sau ngày quy hàng, Ieng Sary cho biết Pol Pot và đồng bọn rút kinh nghiệm của Công xã Paris vào thế kỉ 19. Theo họ, Công xã này sụp đổ là bởi giai cấp vô sản đã không hành quyền độc tài đối với giai cấp trưởng giả. Pol Pot muốn tránh sai lầm đó. Thêm nữa, theo tài liệu nội bộ của Trung ương đảng Cộng sản Khờ-me mà Short khám phá sau này thì mục đích “làm trống đô thị” là nhằm bảo tồn và củng cố địa vị của cán bộ và quân lính Khờ-me Đỏ. Pol Pot dự trù là chỉ sau 2-3 năm (khi dân di tản không còn vật dụng, tiền bạc mà họ mang theo) thì mọi người đều vô sản như nhau. Theo cách nói của Short, chiến dịch (lùa dân khỏi thành thị) ấy không phải là giai đoạn đầu trong kế họach tiêu diệt toàn thể một giai cấp (trí thức, hoặc thị dân) như nhiều tác giả khác đã phân tích, nhưng mục đích của nó là đưa Campuchia trở về cảnh hỗn mang, và từ đó một Campuchia mới sẽ xuất hiện.

Khác với Chandler và nhiều tác giả khác, Short cho rằng sự tàn ác của Khờ-me Đỏ không phải là hệ luận của chủ nghĩa Mác Lê (hoặc, chính xác hơn, của chủ nghĩa Stalin qua con mắt của nhóm trí thức Khờ-me Đỏ từng du học ở Pháp). (Theo Short, phần lớn sinh viên Khờ-me ở Pháp không giỏi tiếng Pháp, họ thú nhận là không hiểu nổi kinh điển Mác Lê. Đối với những người này thì Stalin dễ hiểu hơn, nhất là phần về “thanh trừng nội bộ đảng”!).

Cũng nên biết là lúc ở Pháp, bọn Pol Pot thường sang Nam Tư vào mùa hè để lao động ở các công trường tập thể ở nước ấy. Những kinh nghiệm này (và việc họ thán phục Nam Tư đã đứng lên chống lại Liên Xô mà họ ví như Campuchia sẽ chống lại Việt Nam) đã có ảnh hưởng đến những việc họ làm sau này ở Campuchia. Nhưng Short cũng nhận rằng về chính sách kinh tế (vấn đề huớng nội hay hướng ngọai, vai trò của công nghiệp, v.v.) thì Khờ-me Đỏ bị ảnh hưởng rất nhiều từ những gì họ học được trong sách vở Pháp thời kì này.

[Tưởng cũng nên nói thêm là không còn ai tin giả thuyết của William Shawcross [4], rằng Khờ-me Đỏ trở thành dã man như vậy cũng chỉ là hậu quả từ sự tàn ác của việc Mỹ dội bom Campuchia. Chính Shawcross cũng không còn tin, và sau này rất “bồ” Mỹ, ủng hộ chiến tranh xâm lược Iraq của Bush.]

Hơn nữa, theo nhiều tư liệu dẫn chứng của Short, Pol Pot và đồng bọn không chỉ muốn áp dụng chủ nghĩa Mác Lê ở Campuchia, họ còn muốn vượt qua (“đi tắt đón đầu”?) chủ nghĩa đó để khôi phục sự “vĩ đại” của Khờ-me, trên cả Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô, và mọi nước khác. Như vậy, có thể nói, Pol Pot và đồng bọn bị chi phối bởi hai tư tưởng trái ngược nhau: một bên là mặc cảm tự ti, và một bên là hội chứng vĩ cuồng, sô-vanh dân tộc.

Theo Short, sự tàn ác dã man chưa từng có của cộng sản Khờ-me sau này là do văn hóa Khờ-me, pha lẫn với mặc cảm hận thù (dồn nén qua nhiều thế kỉ) đối với các nước láng giềng, nhất là Việt Nam, mà đa số dân Khờ-me (cộng sản hay không) đều có. Bằng cớ là sự tàn ác của Khờ-me Issarak (tổ chức không cộng sản), hoặc của chính quyền Sihanouk, Lon Nol.

Theo Short, đa số người Khờ-me theo chủ nghĩa Mác Lê không vì những nhận định sâu sắc gì của chủ nghĩa ấy, nhưng để tìm cách đuổi Pháp ra khỏi nuớc họ, và để thay đổi một xã hội phong kiến mà chế độ thuộc địa đã giữ nguyên. Mấy người này (cũng như những người cộng sản nơi khác) nhìn chủ nghĩa Stalin qua lăng kính của văn hoá họ; trong trường hợp nhóm Pol Pot lúc đó, văn hóa ấy là Phật giáo tiểu thừa. Chủ nghĩa Stalin là biểu hiện của cái “tốt thắng xấu” (không phải là của giai cấp vô sản hay công nhân gì sất).

Theo Short, Khờ-me Đỏ chịu ảnh hưởng của Stalin, khác với Trung Quốc và Việt Nam, với truyền thống nho giáo, chịu ảnh huởng của Mác Lê. Đối với Short, văn hóa Khờ-me không có ý niệm “công lí” như những văn hóa khác. Văn hóa Khờ-me là một văn hoá “thống trị hoặc bị thống trị”, một văn hóa tránh đối đầu (confrontation). Trong một văn hoá như vậy, không thể giải quyết những tranh chấp bằng tranh cãi hay lí luận. Giữa hai thái cực phục tùng và vũ lực, không có “điểm giữa”. Một điều nữa (khá tế nhị) là tuy Short không nói thẳng rằng bản tính của dân Campuchia là lười biếng, nhưng rõ ràng là ông ám chỉ như thế.

Khác với những bạo chúa như Stalin (xem Deutscher [5]), hoặc Hitler (xem Bullock [6]) là những người tuy đời tư thì rất tầm thường song “nổi bật” trong địa vị bạo chúa, Pol Pot, qua cuốn của Short, cũng không có gì nổi bật như một bạo chúa cả. (Thậm chí, cho đến đầu thập kỉ 1950, không có dấu hiệu nào cho thấy Pol Pot sẽ tàn ác như sau này.) Pol Pot là một học trò tầm thường, một sinh viên tầm thường, một nhà chỉ huy quân sự tầm thường, một lãnh tụ tầm thường. Y chỉ đáng chú ý bởi một điều: mấy triệu người đã chết vì sự tàn ác và bất tài của y.

Cái kinh tởm nhất của chế độ Khờ-me Đỏ không phải là sự khắc nghiệt của nó (như tuồng nó có lí tưởng gì cao cả lắm!) mà là sự thô lậu tầm thuờng của một chế độ chuyên chế: tham ô, bè đảng, tranh giành tư lợi, đâm chém nội bộ … Chế độ ấy tan rã vì những thô lậu tầm thường ấy. Nếu không thì biết đâu nó đã chẳng thành công?

Tiếc là nhiều lí giải của Short có phần trái ngược nhau. Ví dụ, ông cho là Khờ me Đỏ giết tù binh không thương hại vì theo văn hóa Khờ-me thì con người không có khả năng cải tạo (và ông chua thêm, khác với nho giáo của Việt Nam và Trung Quốc). Song, trước đó, Short lại nói rằng theo chủ nghĩa cộng sản của Khờ-me Đỏ thì “ý thức vô sản” có thể được nung rèn ở mọi người, bất kì xuất thân từ giai cấp nào. Hai ý kiến này mâu thuẫn với nhau.

Nhiều chi tiết cũng cần xem lại: chẳng hạn như Short cho rằng sự giải tán của đảng Cộng sản Campuchia tháng 12 năm 1981 là có thật, trong lúc Chandler thì cho rằng đảng này vẫn còn tồn tại ít nhất đến năm 1985, và có lẽ sau đó nữa. Short cũng có nhiều phát biểu nghe rất kêu, nhưng hơi rỗng, ví dụ “người Khờ-me khẳng định nhân thân của họ qua một lưỡng phân: họ chống lại cái mà họ không là”. Nghĩa là gì? Và đâu là bằng cớ?

Short hay so sánh Campuchia với Việt Nam và Trung Quốc và cho rằng sự dã man của Khờ-me (khác với Việt Nam và Trung Quốc!) là phản ảnh sự khác biệt giữa nho giáo và Phật giáo tiểu thừa. Người viết này e rằng Short đã lí luận kiểu “post hoc ergo hoc”. Bởi lẽ, nếu thế thì hãy so sánh với Thái Lan và Miến Điện, những nước này cũng theo Phật giáo tiểu thừa như Campuchia nhưng sao họ không có bọn nào “dã man” như Khờ-me Đỏ?

Nhiều độc giả sẽ bất bình với Short khi ông cho rằng thảm họa ở Campuchia không thể gọi là “diệt chủng” vì, theo ông, chủ tâm của Khờ-me Đỏ là nô lệ hóa và thanh trừng kẻ thù hơn là tiêu diệt cả một giống dân. Cụ thể, theo Short, không thể so sánh (nhà tù nổi tiếng) Toul Sleng với các lò thiêu người của Đức trong Thế chiến II vì ở Toul Sleng tội nhân bị bắt buộc “cung khai”, “thú tội” trước khi bị thủ tiêu. Nhiều người cũng sẽ phản đối ý Short cho rằng văn hóa Khờ-me cũng là một phần lí do của sự tàn sát đó – họ trách Short đổ lỗi cho nạn nhân thay vì lên án thủ phạm.

Một người đọc Việt Nam, quen với bức xúc “sao nước mình chẳng may, lại nằm cận kề ông khổng lồ Trung Quốc?”, khi gấp cuốn sách này lại, không khỏi có phần ái ngại cho người bạn láng giềng của chúng ta. Ôi, nếu chúng ta khó một, thì họ khó hai, khó ba! Bởi vì chính chúng ta cũng là ông “khổng lồ” đối với họ! Nhưng biết làm sao? Chúng ta chỉ biết hi vọng, và cầu mong, rằng họ (cũng như chúng ta) sẽ có những lãnh tụ sáng suốt, tài ba, đầy lòng nhân ái, để lèo lái con thuyền quốc gia trong một thế giới luôn luôn thay đổi, nhưng nhu cầu sống chung trong hòa bình giữa các quốc gia, đúng hơn là giữa người và người, bao giờ cũng là căn bản nhất.

Đây là bài điểm cuốn sách Philip Short, 2005, Pol Pot: Anatomy of a Nightmare, New York: Henry Holt.

Tác giả: Trần Hữu Dũng
Nguồn: Viet-studies
(Nghiên Cứu Quốc Tế)
http://nghiencuuquocte.net/2014/11/08/pol-pot-mo-xe-mot-con-ac-mong/

Phần nhận xét hiển thị trên trang

QUÁI THÚ VIỆT NAM XUẤT HIỆN Ở MILAN VÀ NỖI NHỤC QUỐC THỂ


Quái thú Việt Nam xuất hiện ở Milan
NỖI NHỤC QUỐC THỂ Ở MILAN

Nguyen Thi Oanh

Tôi ít khi đặt tựa cho các bài viết trên FB của mình, vì quan niệm đó chỉ là những status ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ nhất thời chứ không phải là những bài báo. Nhưng lúc này thì thật sự thấy cần đặt một cái tên cho stt này để gọi đúng nỗi đau và nỗi nhục của người Việt chúng ta !


Sau gần chục ngày rong ruổi ở Ý, gia đình tôi quyết định dành lại ngày cuối cùng để đến Expo 2015 tại Milan, thay vì đi thăm Venice như kế hoạch đã định. Ý tưởng này xuất phát từ khi cả nhà nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng của VN chen vai cùng cờ của các quốc gia khác trên khắp các đường phố của Milan và các poster quảng bá cho Expo 2015. Expo Milan 2015 có chủ đề "Feeding the Planet - Energy for Life", quy tụ 145 quốc gia tham dự (chưa kể 17 tổ chức và khoảng 25 tập đoàn toàn cầu). Diễn ra từ 1/5 đến 31/10/2015, Expo Milan dự kiến sẽ đón khoảng 20 triệu lượt khách thăm viếng. Kể từ Expo Thượng Hải 2010, sau 5 năm hội chợ kinh tế toàn cầu quan trọng này mới trở lại. Đây là cơ hội lớn cho việc quảng bá ẩm thực, du lịch và giới thiệu hình ảnh quốc gia ra thế giới, vì thế, các nước đều chuẩn bị chăm chút rất kỹ cho việc tham gia. Chúng tôi tự cho mình may mắn khi đến Milan vào đúng dịp này và vừa đặt chân đến Hội chợ là tìm bằng được ngôi nhà Việt Nam để thăm trước tiên ! Nhưng ngay khi vừa tìm được "một góc quê hương" ở đây, lập tức chúng tôi đã phải hối tiếc về sự háo hức, hăm hở của mình ! Hơn cả thế, đó còn là cảm giác vô cùng thất vọng và xấu hổ cho đất nước ! Khu vực của VN giống như một gian hàng xén trong chợ ! Không có được một lá cờ cắm tại đây (ngoài lá cờ treo dọc của Ban tổ chức phía trước để giới thiệu khu vực của từng quốc gia theo quy định chung). Cũng không có được một tấm bảng nào để giới thiệu các thông tin tổng quan về đất nước. Tầng trệt trưng bày lèo tèo một vài sản phẩm được giới thiệu là gốm Bát Tràng và sơn mài của Từ Sơn (Bắc Ninh). Một số bình, lọ giả cổ, tượng nghê... với vài thông tin giới thiệu chung chung, không rõ nguồn gốc. Một sân khấu nhỏ trưng bày vài loại nhạc cụ dân tộc. Khu vực ẩm thực phía sau bán một vài món ăn không hề là đại diện cho ẩm thực VN và được chế biến dở chưa từng thấy ! Gia đình tôi gọi thử các món phở xào, miến xào, gỏi cuốn, bún thịt bò xào Nam Bộ, gà chiên tẩm bột, mỗi thứ một phần mà ăn không hết bởi các nguyên liệu đã kém phẩm chất mà hương vị thì như kiểu của các suất ăn công nghiệp ! Mà cái cách để đồ ăn chế biến sẵn vào quầy kính rồi múc cho khách như vậy cũng đã là kiểu công nghiệp rồi ! Thiếu vắng hẳn những "đại diện ẩm thực" tinh tế và hấp dẫn của VN như : Phở, bánh cuốn, bánh xèo, hủ tiếu, bánh canh, miến gà, chả lụa, bánh chưng, bánh giò, chè ba miền... Các con gái tôi cứ xuýt xoa tiếc, nói chỉ cần một cái xe bán bánh mì kẹp thịt kiểu VN cũng sẽ cực kỳ thu hút thực khách, vì bánh mì kẹp thịt của VN vốn đã nổi tiếng về hương vị rất riêng và từng được bình chọn là một trong những món ăn đường phố ngon nhất trên bản đồ ẩm thực quốc tế.

Đi lên tầng 1, cảm giác thất vọng và xấu hổ mới rõ nét ê chề ! Ngoài vài chiếc ti vi nhỏ xíu tua đi tua lại những đoạn phim quay sẵn về các thắng cảnh ở đất nước VN mà chẳng ai buồn xem, toàn bộ khu vực này tập trung bày bán đủ các loại hàng hoá tạp nham như quần áo, thiệp xếp tay, hũ, lọ sơn mài, nón lá, túi xách... Độ phong phú, tinh xảo của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ hay quần áo ở đây còn thua xa những sản phẩm ở một sạp hàng bình thường của bà con tiểu thương tại chợ Bến Thành ! Đáng ngạc nhiên là một vài bộ trang phục nam, nữ trưng bày trên các mannequin lại toàn là kiểu áo Tàu ! Có một bộ trang phục áo dài duy nhất thì cũng không phải là tà áo dài truyền thống của VN mà là kiểu áo dài cách tân với nút Tàu theo kiểu xường xám. Tôi hỏi một vài nhân viên phục vụ tại quầy ẩm thực cũng như tại khu bán hàng rằng các em đuợc Bộ Thương mại hay Tổng cục Du lịch cử đi, nhưng tất cả đều cho biết rằng các em đến từ các công ty tư nhân ! Chưa tin ở tai mình, tôi hỏi đi hỏi lại, các em đều trả lời rằng "công ty của chúng cháu tổ chức gian hàng này". Cậu thanh niên đứng bán nón lá còn tỏ vẻ bực bội, chắc vì thấy tôi hỏi nhiều nên khẽ gắt : "Ở đây là mấy công ty tư nhân cùng làm nhưng ai biết của người nấy, không liên quan gì đến nhau đâu mà cô hỏi !".

Ôi, ở một hội chợ kinh tế quốc tế đầy tiềm năng thế này mà đất nước ta lại xuất hiện một cách cẩu thả, sơ sài và rẻ tiền như vậy sao ? Tôi cùng cả gia đình thực sự phẫn nộ trong buổi chiều hôm nay ở Milan. Ai và vì sao lại cho phép "bán đứng" việc tham gia Expo Milan 2015 cho các công ty tư nhân tổ chức như thế này ? Càng đi tiếp tham quan gian trưng bày của các quốc gia khác, càng cảm thấy nhục nhã với sự xuất hiện của đất nước mình ở đây. Do tập trung để quảng bá và giới thiệu hình ảnh của đất nước mình nên chẳng có quốc gia nào lại lo đi bán đồ như ở gian hàng VN. Thứ phổ biến nhất họ bán là đồ ăn để giới thiệu đặc trưng ẩm thực của đất nước mình. Một số nước như Pháp thì cũng bán đồ lưu niệm, nhưng là những mặt hàng áo, mũ, huy hiệu... có in logo và khẩu hiệu của Expo Milan 2015, chủ yếu để khách làm kỷ niệm. Nói chung, gian hàng của tất cả các nước đều được chăm chút rất chu đáo để thể hiện bộ mặt quốc gia, vì thế, tôi chắc chắn rằng không một đất nước nào trong số 145 nước tham dự sự kiện Expo mà lại giao phó cho tư nhân làm như kiểu VN. Đáng nói là không chỉ các nước lớn (như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Đức, Nhật...), hoặc giàu có (như các quốc gia Trung Đông : Quata, Oman, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất...) có khu trưng bày hoành tráng, lộng lẫy mà ngay cả những nước "bằng hoặc dưới level" với Việt Nam trong khu vực ASEAN như Lào, Myanmar, Campuchia, Indonesia, Thái Lan... cũng thể hiện cực kỳ trang trọng và kiêu hãnh về bản sắc văn hoá cũng như các thế mạnh riêng của đất nước mình thông qua các gian trưng bày của họ. Càng đi xem, càng choáng ngợp với sự phô trương muôn vẻ về văn hoá, đất nước và con người của các quốc gia trong Expo 2015, và lại càng thấy đau cho Việt Nam của tôi ! Không biết ngân sách hàng năm cho xúc tiến thương mại, quảng bá du lịch đã được đổ vào đâu và sử dụng như thế nào mà để rồi chúng ta không thể làm nổi một gian trưng bày cho nó ra "thể diện quốc gia" ở một sự kiện kinh tế toàn cầu thế này ? Hay là mình không đủ tiền đầu tư nên phải khoán cho tư nhân làm ? Thật khó tin và không thể chấp nhận được điều này khi mà vẫn đang có những dự án hàng trăm, hàng nghìn tỷ đổ ra chỉ để xây các tượng đài !

Khi đến gian trưng bày của Mỹ, vừa bước vào cửa chính đã thấy đập ngay vào mắt hình ảnh Tổng thống Obama trên màn hình lớn đang giơ tay chào mọi người và giới thiệu về nước Mỹ, thấy phục họ quá ! Một nước lớn và giàu có như thế mà Chính phủ của họ vẫn phải đưa đích thân Tổng thống ra để quảng bá về đất nước họ như vậy, trong khi đó nước mình thì...

Chưa hết, các con gái tôi còn kể lại. Do trong Expo có bán các cuốn hộ chiếu (passport) để khách thăm viếng mua và khi đến "thăm" nước nào thì xin đóng dấu vào đó để làm kỷ niệm. Thấy các con thích thú, tôi cũng mua cho các cháu hai cuốn để đi xin dấu các nước. Sau một hồi quay về, các con khoe đã xin được 38 con dấu, nhưng phàn nàn là đến VN thì cô tiếp tân ngồi ở đó lạnh lùng nói với các con là tự cầm dấu đóng đi, trong khi đến nước nào các con cũng được nhân viên của họ vồn vã chào hỏi, đóng dấu và còn cám ơn nữa ! Trước đó ít phút, chính mắt tôi cũng đã nhìn thấy cô nhân viên này (mặc áo dài nhưng lại khoác một chiếc áo khoác to sụ bên ngoài giữa mùa hè, không hiểu vì sao ???) ngồi ở quầy tiếp tân nhưng cứ dí mắt vào máy laptop, chả
bận tâm gì đến xung quanh. Vài vị khách cầm passport ghé lại, thấy con dấu nằm chỏng chơ sẵn trên mặt quầy, đành tự lấy đóng vào cuốn hộ chiếu của mình luôn rồi đi ra !

Một ngày, không thể đủ để đi thăm hết 145 quốc gia trong cái khu triển lãm rộng tới 200 ha này của Milan. Nhưng chỉ bấy nhiêu đó cũng đã quá đủ cho chúng tôi thấy được thật nhiều sự khác biệt giữa nước mình với nước người, để hiểu rằng tại sao chúng ta không thể phát triển được!

Càng nghĩ, càng thấy đau. Và tức. Và nhục !

Ngày cuối cùng ở Ý hoá ra lại làm cho cả nhà cảm thấy thật nặng nề và buồn bã ! Biết vậy tới thăm Venice còn hơn ! Tự nhiên hăm hở đi cái Expo Milan 2015 làm chi để rồi bây giờ về ôm một cục tức mà đầu thì đau như bị ai vừa cầm búa nện vào :-(((

P/s: Tối về, bực mình vào google tìm xem báo chí ở nhà sao không thấy lên tiếng gì vụ này ? Hoá ra trước đây cũng đã có một vài báo đưa tin về việc VN tham gia Expo Milan 2015, nhưng chỉ toàn khen kiến trúc của cái nhà VN này rất đẹp, rất ấn tượng với thế giới ! (đọc mà thật sự suýt buột miệng dùng tiếng... Đan Mạch). Chỉ riêng có Thanh Niên online ngày 6/6/2015 có bài viết với tựa đề khá dài : "Ngôi nhà VN tại Expo 2015 "chẳng có gì để xem" : Đề án một đằng, làm một nẻo", cùng bức ảnh minh họa được chú thích là do Việt kiều ở Milan gửi về. Trong bài viết này, có ông Phó Giám đốc Trung tâm Hội chợ triển lãm Giảng Võ gì đó lý giải rằng với thời gian kéo dài tới 6 tháng như vậy và cả hàng nghìn lượt khách mỗi ngày như thế thì ý định mua hạt sen sang để đãi khách dùng với trà sẽ không thể thực hiện được vì số tiền mua hạt sen sẽ rất lớn ! Ngoài ra, cũng vì kéo dài lâu như thế nên cũng không thể in catalogue phát cho khách để xúc tiến du lịch vì sẽ rất tốn kém ! (Lại không thể không buột miệng chửi thề thêm một lần nữa - xin lỗi các bạn !).

Biết thêm : Việc tham dự Expo Milan 2015 đã được Chính phủ giao Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch cùng Trung tâm Hội chợ triển lãm VN thực hiện. Chỉ riêng kinh phí mang cái "nhà VN" sang đã mất 57 tỷ đồng !

Và nó như thế này đây...

.
*Tễu Blog chú thích: 
Bài viết kèm 40 ảnh và chú thích, đăng tải tại FB Oanh Nguyenthi.
Một số bức hình được sử dụng trên báo Thanh Niên, ở dưới đây:
____
Bài đọc thêm:
Khách Việt phẫn nộ, nhục nhã khi ghé 
'Ngôi nhà Việt Nam' tại Expo 2015 ở Milan

Thanh Niên
12/08/2015 09:49

Cứ tưởng mình may mắn khi tới Ý du lịch trùng với thời gian diễn ra Triển lãm Expo 2015 ở Milan với gần 200 quốc gia và tổ chức quốc tế tham gia. Nhưng khi tận mắt chứng kiến những gì diễn ra trong ''Ngôi nhà Việt Nam'' ở triển lãm bà N.T.O, Chủ tịch một hệ thống trường quốc tế ở TP.HCM, cảm thấy thất vọng khiến bà phải ví như ''nỗi nhục quốc thể ở Milan''.

>> Ngôi nhà VN tại Expo 2015 'chẳng có gì để xem': Đề án một đằng, làm một nẻo
>> Ngôi nhà VN tại Expo 2015 'chẳng có gì để xem'

Một "linh vật" được trưng bày tại gian hàng Việt Nam nhưng không ghi xuất xứ, ý nghĩa 
và không ai giải thích - Ảnh: Bà N.T.O cung cấp

Ẩm thực như suất ăn công nghiệp

Trao đổi với PV Thanh Niên Online chiều 11.8, bà O. cho biết gia đình bà đã thăm Ý gần 10 ngày. Trong ngày cuối cùng, thay vì đi thăm Venice như kế hoạch, gia đình bà đến Expo 2015 tại Milan. Ý tưởng này xuất phát khi gia đình bà nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam chen vai cùng cờ của các quốc gia khác trên khắp các đường phố của Milan và các poster quảng bá cho Expo 2015.

Bà O. cho hay khi vừa đặt chân đến triển lãm, gia đình bà tìm bằng được ''Ngôi nhà Việt Nam'' để thăm trước tiên. Nhưng ngay khi vừa tìm được "một góc quê hương" ở đây, lập tức bà và mọi người đã phải hối tiếc về sự háo hức, hăm hở của mình. Hơn cả thế, đó còn là cảm giác vô cùng thất vọng và xấu hổ cho đất nước.


Khu ẩm thực ở gian hàng Việt Nam giống như suất ăn công nghiệp và không thể hiện bản sắc, 
sự phong phú của ẩm thực Việt - Ảnh: Bà N.T.O cung cấp

Theo đó, khu vực của Việt Nam giống như một gian hàng xén trong chợ. Không có được một lá cờ cắm tại đây, ngoài lá cờ treo dọc của ban tổ chức phía trước để giới thiệu khu vực của từng quốc gia theo quy định chung. Cũng không có một tấm bảng nào để giới thiệu các thông tin tổng quan về đất nước.

Tầng trệt trưng bày lèo tèo một vài sản phẩm được giới thiệu là gốm Bát Tràng và sơn mài của Từ Sơn (Bắc Ninh). Một số bình, lọ giả cổ, tượng nghê... với vài thông tin giới thiệu chung chung, không rõ nguồn gốc. Một sân khấu nhỏ trưng bày vài loại nhạc cụ dân tộc.

Khu vực ẩm thực phía sau bán vài món ăn không phải là đại diện ẩm thực Việt Nam và chế biến dở chưa từng thấy. Gia đình bà O. gọi thử các món phở xào, miến xào, gỏi cuốn, bún thịt bò xào Nam bộ, gà chiên tẩm bột, mỗi thứ một phần mà ăn không hết bởi các nguyên liệu đã kém phẩm chất mà hương vị thì như kiểu của các suất ăn công nghiệp. Khu ẩm thực thiếu những "đại diện ẩm thực" tinh tế và hấp dẫn của Việt Nam như phở, bánh cuốn, bánh xèo, hủ tiếu, bánh canh, miến gà, chả lụa, bánh chưng, bánh giò, chè ba miền...


Trái cây nghèo nàn về chủng loại và trưng bày đơn điệu, không bắt mắt 
Ảnh: Bà N.T.O cung cấp

Nhân viên lãnh đạm, thờ ơ

Đi lên tầng một trong gian hàng Việt Nam, bà O. lại thêm cảm giác thất vọng và xấu hổ ê chề. Ngoài vài chiếc ti vi nhỏ xíu tua đi tua lại những đoạn phim quay sẵn về các thắng cảnh ở đất nước Việt Nam mà chẳng ai buồn xem, toàn bộ khu vực này tập trung bày bán đủ các loại hàng hóa tạp nham như quần áo, thiệp xếp tay, hũ, lọ sơn mài, nón lá, túi xách... Độ phong phú, tinh xảo của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ hay quần áo ở đây còn thua xa những sản phẩm ở một sạp hàng bình thường của bà con tiểu thương tại chợ Bến Thành (TP.HCM).

Đáng ngạc nhiên là một vài bộ trang phục nam, nữ trưng bày trên các mannequin (giống như người mẫu - PV) lại toàn là kiểu áo Tàu. Có một bộ trang phục áo dài duy nhất thì cũng không phải là tà áo dài truyền thống của Việt Nam mà là kiểu áo dài cách tân với nút Tàu theo kiểu xường xám.

Theo bà O., gian hàng của tất cả các nước đều được chăm chút rất chu đáo để thể hiện bộ mặt quốc gia. Các nước lớn như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Đức, Nhật có khu trưng bày hoành tráng, lộng lẫy. Những nước "bằng hoặc dưới level" với Việt Nam trong khu vực ASEAN như Lào, Myanmar, Campuchia, Indonesia, Thái Lan... thể hiện cực kỳ trang trọng và kiêu hãnh bản sắc văn hóa của đất nước mình thông qua các gian trưng bày. Càng đi xem, bà O. càng choáng ngợp với sự phô trương muôn vẻ về văn hóa, đất nước và con người của các quốc gia trong Expo 2015 và lại càng thấy thất vọng cho gian hàng Việt Nam.


Lầu 1 của khu triển lãm Việt Nam chỉ có vài màn hình ti vi nhỏ không thu hút khách xem 
Ảnh: Bà N.T.O cung cấp

Chưa hết, bà O. còn cảm nhận sự không nhiệt tình, thậm chí là thờ ơ của nhân viên Việt Nam tại Expo 2015. Trong Expo có bán các cuốn hộ chiếu (passport) để khách thăm viếng mua và khi đến "thăm" nước nào thì xin đóng dấu vào đó để làm kỷ niệm. Thấy các con thích thú, bà O. mua cho con hai cuốn để đi xin dấu các nước.

Các con bà khoe đã xin được 38 con dấu, nhưng phàn nàn là đến Việt Nam thì cô tiếp tân ngồi ở đó lạnh lùng nói với các cháu tự cầm dấu đóng đi. Trong khi đến nước nào, các con bà cũng được nhân viên vồn vã chào hỏi, đóng dấu và còn cảm ơn. Tận mắt bà O. còn chứng kiến vài vị khách nước ngoài cầm passport ghé lại gian hàng Việt Nam, thấy con dấu nằm chỏng chơ sẵn trên mặt quầy, đành tự lấy đóng vào cuốn hộ chiếu rồi đi ra.

“Ngày cuối cùng ở Ý hóa ra lại làm cho cả nhà cảm thấy thật nặng nề và buồn bã. Biết vậy tới thăm Venice còn hơn. Tự nhiên hăm hở đi cái Expo Milan 2015 làm chi để rồi bây giờ về ôm một cục tức mà đầu thì đau như bị ai vừa cầm búa nện vào. Càng nghĩ, càng thấy đau. Và tức. Và nhục”, bà O. chia sẻ với tâm trạng đầy sự thất vọng.


Gian hàng trưng bày trang phục khiến khách liên tưởng tới những bộ quần áo mua từ bên... Tàu - Ảnh: Bà N.T.O cung cấp

Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế: "Triển lãm Việt Nam đang làm rất tốt"

Sáng 12.8, trao đổi với PV Thanh Niên Online, ông Phan Đình Tân, Chánh văn phòng kiêm người phát ngôn của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, cho biết gian hàng triển lãm Việt Nam ở Expo 2015 được giao cho Cục Hợp tác quốc tế và Công ty cổ phần Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam (VEFAC) phối hợp thực hiện. Ông Tân đề nghị chúng tôi hỏi hai nơi này sẽ có thông tin đầy đủ, chính xác hơn.

Ông Vũ Ngoạn Hợp, Tổng giám đốc VEFAC, cho biết ông vừa về nhận công tác ở công ty hơn 1 tháng. Cho nên mọi thông tin về gian hàng triển lãm Việt Nam ở Expo 2015 hiện nay vẫn được giao cho ông Trần Văn Tân, nguyên Tổng giám đốc VEFAC. Ông Tân dù đã nghỉ hưu nhưng Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch vẫn ký thêm hợp đồng và giao nhiệm vụ làm trưởng đại diện Việt Nam ở Expo 2015 ở Milan. Đến tháng 10.2015, ông Tân mới chính thức nghỉ.

“Do VEFAC chỉ là đơn vị phối hợp thực hiện nên mọi thông tin ở Expo 2015 được báo có thẳng về Bộ. Tôi vẫn nhận được thông tin nhưng chỉ là báo cáo mang tính chất hành chính là hoạt động vẫn diễn ra bình thường”, ông Hợp nói.

Trao đổi với PV Thanh Niên Online, ông Nguyễn Trùng Khánh, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế, cho biết ông đang đi công tác nước ngoài nên mọi việc về nước trao đổi.

Trước câu hỏi có phản ánh về sự nhếch nhác, không chuyên nghiệp của gian hàng triển lãm Việt Nam ở Expo 2015, ông Khánh đáp ngắn gọn: “Tôi không biết đó là phản ánh của bạn đọc nào. Tôi chỉ biết triển lãm của Việt Nam ở Expo 2015 đang làm rất tốt”.

Sau đó PV Thanh Niên Online liên lạc lại với ông Tân để trao đổi thêm nhưng không được.
Báo Thanh Niên từng nêu sự yếu kém

Expo 2015 diễn ra tại Milan (Ý) từ ngày 1.5 đến 31.10.2015, với chủ đề “Nuôi sống hành tinh, năng lượng cho cuộc sống”. Do 5 năm mới được tổ chức một lần nên triển lãm lần này được tổ chức rất quy mô, hoành tráng, quy tụ gần 200 quốc gia và tổ chức quốc tế, tập đoàn tham dự. Đây được coi là cơ hội lớn cho việc quảng bá ẩm thực, du lịch và giới thiệu hình ảnh quốc gia ra thế giới.

Tuy nhiên với những gì đang diễn ra, có thể thấy đại diện Việt Nam ở Expo 2015 đã làm không tốt việc quảng bá văn hóa, ẩm thực Việt. Trước đó, ngày 6.6, khi triển lãm diễn ra hơn 1 tháng, báo Thanh Niên đã có bài viết “Ngôi nhà VN tại Expo 2015 'chẳng có gì để xem': Đề án một đằng, làm một nẻo”, trong đó nêu rõ nhược điểm của khâu ẩm thực, quảng bá của Việt Nam tại Expo 2015. Được biết, tổng kinh phí đầu tư cho việc quảng bá của Việt Nam tại Expo lần này lên tới 57 tỉ đồng.

Ngày 5.8, trên trang web của Hội Sinh viên Việt Nam ở Milan, tác giả Hoàng Phạm đã có bài viết cảm nhận về Expo 2015 sau 2 ngày tham quan. Tác giả cho biết trong khi tòa nhà triển lãm các nước Kazakhstan, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Hàn Quốc, Trung Quốc… tổ chức rất chuyên nghiệp thu hút nhiều khách tham quan thì tòa nhà Việt Nam đìu hiu khách do tổ chức thiếu chuyên nghiệp.

Đơn cử như cách sắp xếp khung giờ cao điểm phục vụ khách tham quan của tòa nhà Việt Nam. Nếu khách không đi vào trong ba khung giờ cao điểm là 11 giờ, 15 giờ, 18 giờ thì tham quan gian hàng Việt Nam như đang đi vào một hội chợ mua bán hàng thủ công mỹ nghệ vì không có chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc để xem.

Với việc xếp khung giờ như thế, nếu khách đi vào buổi tối thì không có gì để xem, may ra có thể mua đồ để ăn là hết. Chưa kể đồ ăn Việt Nam nghèo nàn, không thể hiện bản sắc phong phú của ẩm thực Việt. Thế nên không có hàng khách nào xếp ngoài cửa gian hàng Việt Nam.

“Một điều đáng phê bình mà mình chứng kiến là cô nhân viên nhà hàng tuy mặc áo dài nhưng với đôi dép vứt ngay giữa lối đi ngồi bệt xuống đất húp tô bún ăn xộp xoạp. Sao nó lại có thể diễn ra trong một dịp Expo trang trọng như vậy được cơ chứ. Xin cô hãy hành xử văn minh giữa xứ người vì hằng ngày có hàng ngàn con người tới tham quan các gian hàng và vô tình thăm gian hàng Việt Nam. Mình đi qua chỉ muốn cúi mặt thật thấp vì nhục nhã”, Hoàng Phạm viết.

Trung Hiếu

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Đường đến văn chương


BẢO NINH

Những người bạn cùng phố cùng trường với tôi thời học phổ thông, sau nhiều năm gặp lại, đều lấy làm lạ với cái sự giờ đây tôi làm nghề viết văn.  Sở dĩ thế là vì các bạn của tôi nhớ rằng hồi đang đi học ở tôi chẳng có một cái vẻ gì là tiềm năng đời văn chương như người ta vẫn thường nghiệm thấy trong thời niên thiếu của các nhà văn. Bản thân tôi tự ngẫm cũng thấy như vậy.

Tôi sinh năm 1952 ở vùng tự do Khu Tư, tới hòa bình 1954 theo cha mẹ ra Hà Nội. Ăn học tới hết phổ thông thì nhập ngũ. Cho nên tuổi học trò của tôi gần như là lọt gọn vào trong thời hòa bình mười năm giữa hai cuộc chiến.

Cái thời mười năm lưng chừng đó, ở miền Bắc, có thể xem là thời kì vàng son của công cuộc tập thể hóa, thời ai cũng như ai nấy, bình dị, đồng đều, chung hòa mức sống, thống nhất nghĩ ngợi. Một thời buổi ấm no vừa đủ và rất giàu niềm tin. Là như vậy, chí ít đối với lớp trẻ mới lớn, hoặc nói cho chính xác, đối với lớp trẻ thành phần “con nhà cán bộ hộ khẩu Hà Nội” mà tôi là một trong đó.

Nhờ sinh ra lớn lên trong một môi trường sống đại khái là thuận chiều như thế mà tôi có một tuổi thơ và một thời thanh thiếu niên có thể coi là êm ái so với bao người. Tuy nhiên, cũng bởi vì dễ chịu hơn người mà quãng đời ấy của tôi nó đơn giản và nhòa mờ, hầu như chẳng lưu lại được gì sắc nét trong kí ức.

Đời sống vật chất được đảm bảo bằng sự phân phối theo tiêu chuẩn, chỉ có học và chơi, không phải lo nghĩ gì, cho nên vô tư mà cũng là vị kỉ và vô tâm, chẳng thấy gì, chẳng biết gì, chẳng hiểu gì về cuộc sống có thật ở đời, hoặc là chỉ biết, chỉ hiểu một cách chung chung và ước lệ qua sự định hướng của sách vở. Chẳng hạn, nông thôn miền Bắc, với tôi đấy là những gì được trang trí trong các tác phẩm văn học thời đó viết về đề tài nông nghiệp mà chúng tôi được học ở trường. Chẳng biết con trâu nó thế nào nhưng thuộc nằm lòng rằng ai bảo chăn trâu là khổ. Phải tới khi chiến tranh bùng nổ, sơ tán về làng quê, nhất là khi vào bộ đội, từng trải hầu khắp mọi miền đất nước và sống chết bên nhau với anh em đồng đội hầu hết là nông dân mặc áo lính, tôi mới thấm thía ra rằng chăn trâu là khổ thật, rằng nông thôn và hợp tác xã không chỉ là như trong sách.

Cái sự học văn học trong nhà trường ở thời tôi, tôi nghĩ, nó xa cách với sự đời gần như là một trời một vực. Những năm cấp một cấp hai thì chẳng nhớ nữa, còn những năm cấp ba tôi nhớ điểm số môn văn của mình chẳng ra gì, thường chỉ là tàm tạm điểm 3 với lại 3 trừ (theo thang điểm 5).

Tuy nhiên, mặc dù không hứng khởi với môn văn, song nhờ môn học này mà tôi dần dà có được cái ham thú đọc sách văn học. Có lẽ ban đầu là do bắt buộc. Chẳng hạn khi học đến tác phẩmTắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, vì trong sách giáo khoa (gọi là sách trích giảng văn học) chỉ có đôi ba trích đoạn nên thầy giáo khuyên học trò gắng tìm đọc trọn vẹn cuốn đó. Đọc hết Tắt đèn rồi, do thấy hay, tôi đọc sang Việc làng  Lều chõng. Với các nhà văn Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Đình Thi, Hồ Phương, v.v… cũng vậy, ban đầu là từ các trích đoạn phải học rồi do sự hướng dẫn của thầy giáo mà tôi đọc thêm khá nhiều tác phẩm của các tác giả ấy.
Dần dà đạt được tới niềm ham thích sách văn học, tôi đọc ra cả những tác phẩm tác giả không có trong chương trình học. Mà hồi đó để có thể đọc “vượt tầm” như vậy chẳng phải chuyện dễ. Số đầu sách và lượng sách văn học được in ra chỉ như nửa giọt nước so với biển cả sách báo văn chương thời nay. Tôi có điều kiện đọc được tương đối nhiều hơn các bạn cùng lớp là nhờ vào tủ sách của cha tôi.

Cha tôi, giáo sư Hoàng Tuệ, là nhà ngôn ngữ học và là giảng viên đại học, ông trữ rất nhiều sách, tủ sách của ông khá là đồ sộ. Đa phần là sách chuyên môn bằng chữ ngoại hoặc chữ Nôm, song cũng không ít sách văn học tiếng Việt, nửa là sách dịch, nửa là của các nhà văn Việt Nam đương thời. Cha tôi cho phép tôi đọc lần lượt hầu hết các tác phẩm văn học có trong tủ sách gia đình (ngoại trừ Tự Lực văn đoàn, Tiểu thuyết thứ bảy và các ông Nhân Văn, phải mãi về sau, khi từ mặt trận trở về tôi mới được cha tôi cho đụng đến).     

Giải ngũ, trở về sau chiến tranh, tôi gần được với cha tôi hơn hẳn hồi còn đi học. Cha con hay trò chuyện, thường là chỉ hai cha con với nhau. Những câu chuyện, những suy nghĩ và những nỗi niềm khó lòng nói ra kể ra với ai, tôi thổ lộ với cha, đặc biệt là “đề tài” chiến tranh và quân ngũ. 

Bởi vì cha tôi hồi kháng chiến chín năm là bộ đội Vệ quốc đoàn nên ông thấu hiểu những tâm sự về đời lính của tôi. Ông lắng nghe, trao đổi và bàn luận với tôi, con trai của ông, một cách nghiêm túc, chân tình và bình đẳng, đàn ông người lớn với nhau.

Tuy chưa khi nào nói ra lời khuyên tôi cầm bút viết văn, nhưng qua những lần cha con tâm tình như vậy, cha tôi đã hướng tôi vào con đường văn học, trước nhất là khiến tôi đủ tự tin và mạnh dạn để dám viết dòng đầu tiên của truyện ngắn đầu tiên.

  
chieu thanh binh

Những năm hậu chiến bao cấp, khó khăn mọi bề, sách văn học cũng khan hiếm chẳng khác chi cơm áo, nhưng nhờ cha tôi mà tôi đọc được khá đầy đủ những tác phẩm tác giả có lẽ là không thể không đọc trong đời. Đa phần là văn học Việt Nam thời trước 1945 và văn học nước ngoài. Nhưng không chỉ những tác phẩm dịch và xuất bản ở miền Bắc, cả những tác phẩm hồi đó mới chỉ được dịch ở Sài Gòn từ trước 1975, cũng là nhờ cha tôi kiếm cho mà tôi có được để đọc. Ngay như Dostoevsky tôi cũng lần đầu được đọc là nhờ vào những ấn phẩm “chế độ cũ” của cha tôi.

Đặc biệt đáng nhớ với tôi là tiểu thuyết Cuộc đời và số phận, bản tiếng Pháp, của một nhà văn Xôviết tên là Grossman. Năm 1986 cha tôi qua Paris dự hội thảo, mua về. Vì cái năng lực ngoại ngữ suốt bao năm trời hoài công học mà chỉ zêro của tôi, cha tôi đã dành rất nhiều thời giờ và công sức dịch cho tôi nghe cái tuyệt tác rất dày ấy. Chọn nơi vắng người, hai cha con đi xe đạp ra vườn hoa Canh Nông, ngồi ghế đá, cha tôi đọc và dịch miệng ngay sang tiếng Việt cho tôi nghe từng trang. Cứ như thế, không biết là bao nhiêu buổi chiều của những tháng ngày ấy, hai cha con với nhau ngoài vườn hoa vắng lặng, tới trang cuối cùng.

Với tôi, cuốn Cuộc đời và số phận, dù nó không nổi tiếng và dù chỉ nghe cha dịch chứ không tự đọc được, thật sự là tác phẩm lay động tâm can, đến tận bây giờ.

Có vẻ như trái khoáy, song nếu không trải qua chiến tranh, không từng cầm súng, tôi sẽ không nghĩ tới chuyện một ngày nào đấy cầm bút viết văn. Nhưng chắc chẳng riêng tôi, tôi nghĩ nhiều nhà văn nhà thơ cùng lứa với tôi và cùng từng là bộ đội như Hoàng Nhuận Cầm, Trần Anh Thái, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Ngọc Tiến... cũng vậy, là nhà văn bởi đã trải qua chiến tranh.

Chiến tranh không chỉ theo nghĩa là đời lính và trận mạc mà là thời đại chiến tranh, mấy chục năm trời cảnh ngộ chung của cả nước, số phận của muôn người.

Bởi vì đất nước lâm cảnh chiến tranh nên đám trẻ thị thành như tôi mới đi sơ tán về làng quê. Không biết nông thôn chẳng thể thành nhà văn, đến nay tôi vẫn tin như vậy. Và vì thế tôi ngạc nhiên khi thấy có những nhà văn nhà thơ cả đời chỉ quẩn quanh đời sống phố phường mà vẫn có thể viết được, thậm chí viết hay.

Bản thân tôi thì thực sự là nhờ một thời chạy giặc sơ tán về nông thôn và sau đó là nhờ đời bộ đội mà cụ thể là nhờ Mặt trận Tây Nguyên, nhờ Sư đoàn 10, nhờ trung đoàn, tiểu đoàn, nhờ đại đội của mình, mà viết được truyện, mà thành nhà văn.

Cuộc chiến trường thiên ba chục năm, 1945 - 1975, là cuộc chiến toàn dân toàn diện và toàn bộ đời người, nên hồi đó là anh lính đối trận hay là ông thầy giáo dạy học ở hậu phương, ngay cả là anh sinh viên du học ở Đông Âu thì cũng đều có thể coi là đã tham chiến, và đều có thể viết về thời đại chiến tranh với góc nhìn cách nghĩ của riêng mình. Bởi vậy, các nhà văn Việt Nam sinh ra lớn lên trong nửa sau thế kỉ XX, tùy vào kinh nghiệm, sự hiểu biết, sự thấu cảm có được do hoàn cảnh và số phận của bản thân mình trong thời kì chiến tranh, đã tạo dựng nên mảng đề tài chiến tranh với vô vàn tác phẩm, phong phú, đa dạng đa chiều và cố nhiên là riêng biệt, mỗi nhà văn mỗi khác. Ngay cả nếu như vốn cùng là lính, có thể là cả cùng đơn vị, thì mỗi nhà văn cũng vẫn có suy nghĩ riêng, tâm trạng riêng, cách nhìn riêng về chiến tranh và rồi sẽ viết về chiến tranh không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Bởi vì, thế mới là văn chương. Mới là nhà văn. Mới là con người.

Trong chiến tranh, trừ phi là nhà văn nhà báo được cử vào chiến trường để viết văn viết báo, còn lính thường bộ đội chiến đấu chẳng ai nghĩ tới, có nghĩ tới cũng khó lòng mà viết lách văn chương chữ nghĩa gì nổi.  Chiến tranh chẳng phải trò đùa, chẳng phải ngày hội, thật sự là vậy.

Song, sau chiến tranh, còn sống, mà không hề nghĩ tới cái sự rằng rồi đây mình sẽ viết một cái gì đó về đồng đội, về trận mạc, về những thử thách đã qua thì lại là sự lạ.

Tại một trại viết văn do Quân đội mở hồi năm 1990, tướng quân Đặng Vũ Hiệp, nguyên Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên nói thế này, tôi nhớ đại ý: Ai đã từng là bộ đội trong chiến tranh thì đều có sẵn sàng ở trong con người mình một nhà văn, chỉ có điều, do những hoàn cảnh khác nhau của đời sống mỗi người trong thời bình, nên rốt cuộc người thì đã viết người thì không viết, hoặc chưa viết.

Tôi cùng đồng đội hành quân dọc Trường Sơn vào đến Mặt trận B3 đầu mùa mưa năm 1970. Đấy là thời kì “sau Mậu Thân”, những năm thoái trào nghiêm trọng của Quân Giải phóng. Chí ít là tại địa bàn Tây Nguyên. Hi sinh tổn thất khôn xiết kể và những người sống sót thì phải chịu đựng gian khổ đến cùng cực. Nhưng cũng chính do trải qua những năm nguy kịch đó mà tôi thấm thía hiểu được cái điều “không thể nào hiểu nổi” về sức mạnh tinh thần của bộ đội ta. Từ đáy cùng, tưởng chẳng còn nổi chút hơi tàn mà thở chứ đừng nói gượng lên chiến đấu, bộ đội Tây Nguyên đã dốc toàn lực bình sinh rũ bùn đen trỗi dậy làm nên Tổng công kích 1972, rồi Mùa xuân 1975, giáng đòn Buôn Ma Thuột, hành tiến đuổi địch dọc miền Trung, và làm mũi chủ công tốc chiến giải phóng Sài Gòn.

Sau ngày hòa bình, tôi rời Sài Gòn về lại Tây Nguyên, gần một năm làm công tác quy tập hài cốt anh em đồng đội. Chín tháng trời thực hiện cái nhiệm vụ bi thương ấy, tuy mới góp phần tìm kiếm và quy tập được một phần chưa đáng kể phần mộ của nhiều thế hệ bộ đội đã ngã xuống trên các ngả đường chiến tranh, vẫn đã khiến tôi trước ngày giải ngũ có “cơ hội hơn người” được nhìn vào tận lòng sâu đất thẳm của cuộc chiến, khơi lại và thấy lại một lần nữa hình hài và hình bóng của lớp lớp đồng đội đồng chí đã bỏ mình từ tận những ngày xa xưa đầu kháng chiến 1945 đến những giờ phút cuối cùng ngày 30 tháng Tư. Và không chỉ đồng đội, mà cả quân lính đối phương, không chỉ binh sĩ mà cả dân thường, cả phụ nữ, cả trẻ em, chúng tôi đã nhìn thấy họ nằm đó, hồn ẩn trong đất đá, trong lá cây, trong rừng, trong núi, bên bờ sông bờ suối, ven những lối mòn dọc ngang khắp thời loạn lạc.

Sáu năm quân ngũ không là mấy đối với tuổi tôi bây giờ 64, nhưng tôi viết văn chỉ bởi vì và chỉ bằng vào quãng đời sáu năm ấy.

Mặc dù không phải là một kẻ sống lạc thời trong cuộc sống thời bình bốn chục năm qua, cũng am tường thực trạng sự đời có lẽ chẳng kém ai, vậy nhưng ngoại trừ dăm ba bài báo, tôi chưa từng viết nổi một cái gì có tính văn chương mà lại chỉ thuần “cập nhật” sự đời hôm nay.

Tuy nhiên, mặc dù thường hay nói một cách thuận miệng là mình chỉ viết về “đề tài chiến tranh”, tôi thực sự quan niệm rằng chẳng có nhà văn nào đích thực là nhà văn lại “viết về chiến tranh”.

Hòa bình hay chiến tranh, đấy là thời gian và không gian sống rồi chết của những đời người. Nhà văn viết, suy ngẫm về đời người, số phận con người, mà chiến tranh hay hòa bình chỉ là ngoại cảnh. Ngay như tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình mặc dù tên như thế và mặc dù dày đặc những trang triết luận rất siêu hình về lịch sử, về chiến tranh, về hòa bình, nhưng về cơ bản và rốt cuộc thì đời người, số phận con người muôn vẻ mới là xác thịt và linh hồn của tác phẩm vĩ đại ấy. 

Theo tôi, những tác phẩm đúng nghĩa là tiểu thuyết chỉ có duy nhất một đề tài, ấy là “số phận con người”, và bất kể cách viết như thế nào, câu chuyện và nội dung của những tiểu thuyết ấy cũng chỉ là để thể hiện nội tâm và nỗi lòng của con người.

Song le, ngày nay, khi viết những tác phẩm mà trong đó có sự tái hiện khung cảnh chiến tranh, nhân vật bị đẩy lại vào không gian chiến hào, thì ngoài vấn đề viết như thế nào, nhà văn luôn phải tự đối diện với câu hỏi: Viết để làm gì? Tại sao? Viết, kể, khơi lại, dựng dậy những câu chuyện vừa cũ xưa lại vừa bi thảm như thế, để làm gì?

Khi còn đang học trường Viết văn Nguyễn Du, một lần trò chuyện với nhà văn Kim Lân, tôi được ông khuyên thế này, còn nhớ mãi: Anh là cựu chiến binh từng trực tiếp đánh trận vậy hãy dồn tâm sức viết về quãng đời đó, nhưng phải viết sao cho hay, và cần phải nhớ, viết về chiến tranh tức là viết về hòa bình, về tình yêu thương, lòng nhân ái, đức khoan dung...

Hòa bình, tình yêu, lòng nhân ái, sự khoan dung... Đấy là những phẩm chất có tính biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam, và được thể hiện rõ nhất trong những năm chiến tranh gian khổ.

Có một cuộc tranh luận văn học cuối những năm 30 thế kỉ trước khiến tôi vẫn thường nghĩ tới, mặc dù thật ra cũng không hiểu được kĩ lưỡng ngọn ngành. Đấy là cuộc bút chiến giữa Hoài Thanh - Hải Triều, giữa “nghệ thuật vị nghệ thuật” với “nghệ thuật vị nhân sinh”.

Tất nhiên cũng hiểu rằng nổ ra cuộc bút chiến ấy trước nhất là do những xung đối chính trị của thời kì đó, song tôi vẫn cứ ngạc nhiên, bởi về mặt văn chương thì tôi thấy tranh luận vậy có vẻ quá khiên cưỡng. Hơn thế, sự khiên cưỡng ấy tôi cho là còn tiếp tục đến tận ngày hôm nay trong suy nghĩ của không ít nhà văn và độc giả.

Một tác phẩm văn học không thể nào vị nghệ thuật nếu không vị nhân sinh, và ngược lại. Quan niệm đó của tôi, đến với tôi từ một lần kinh nghiệm trong quân ngũ.

Kể từ cuối năm 1973, khi tuyến vận tải Trường Sơn trở nên thông thoáng dễ dàng hơn thì ngoài đạn gạo dồi dào, bộ đội B3 còn được tiếp tế sách, cả sách văn học. Khi đó tôi được chính trị viên giao nhiệm vụ làm “thủ thư đại đội”, nghĩa là ngoài ba lô và khẩu súng tôi còn phải nhận thêm một ba lô sách. Rất khổ, vì nặng không thua gì cái bàn đế súng cối. Mà lẽ ra thì không nặng thế, vì lẽ ra là anh em trong đơn vị sẽ mượn đọc và sẽ làm vơi đi cái tủ sách di động trên lưng tôi. Nhưng chỉ mấy tờ tạp chí Văn nghệ Quân đội là lính tráng chịu đọc, còn hơn chục cuốn tiểu thuyết dày ự nặng trịch thì vẫn nguyên đấy chẳng ai đụng. Bấy giờ đang trú quân ở hậu cứ nên không phải là không có thì giờ đọc, và hầu hết anh em trong đơn vị trình độ văn hóa cấp ba, thậm chí có cả sinh viên, lại cả sinh viên văn khoa nữa. Mà các tiểu thuyết ấy thì đều có nội dung tuyên truyền cổ vũ tinh thần chiến đấu của chính chúng tôi, anh bộ đội. Vậy nhưng anh bộ đội chẳng ngó ngàng. Được xem là thức ăn tinh thần của chiến sĩ, song chiến sĩ không ai đọc, thì thức ăn nỗi gì. Tôi nghĩ vậy.

Tuy nhiên, tôi nhớ, đầu năm 1975, trước chiến dịch Buôn Ma Thuột, chúng tôi nhận được loạt sách của Nhà xuất bản Văn học gửi tặng, trong đó có cuốn Bút kí người đi săn của Turgenev. Văn học nước ngoài, thế kỉ XIX, chẳng liên quan gì tới trận mạc đánh đấm, có thể nói là rất xa lạ với thực cảnh đời lính, ấy vậy mà lạ thay lính tráng đại đội tôi chuyền tay nhau đọc. Thật ra, chẳng có gì là lạ. Sách phải hay thì mới có độc giả, dù là độc giả giáo sư hay độc giả binh nhì.

Cái cách chọn sách để đọc của độc giả bộ đội ở đơn vị tôi đã tạo nên trong tôi ngay từ hồi ấy đến tận bây giờ một quan niệm rất đơn giản rằng, đã là tác phẩm văn học thì phải hay, bởi nếu không thế thì cái sự viết lách của nhà văn sẽ vừa vô nghĩa và vô ích vừa rất nực cười. 
 
B.N
Phần nhận xét hiển thị trên trang