Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000



(Thời biến đổi gien)
  Kỳ 23
    Bùi Ngọc Tấn
*
Đại hội nhà văn đã thành công tốt đẹp!
Có đại hội nào không thành công tốt đẹp. Đó là câu nói của tiến sĩ Huỳnh Công Hoà, thứ trưởng kiêm tổng giám đốc xí nghiệp Liên Hợp Thủy Sản mà tôi làm thi đua ở đó. Ông Huỳnh Công Hoà tức tiến sĩ Huỳnh trong Chuyện kể năm 2000 luôn báo trước kết quả các đại hội trong xí nghiệp dù nó chưa khai mạc, dù cái thằng thi đua là tôi còn đang gò cổ làm trang trí hội trường, cắt khẩu hiệu và chuẩn bị ăm-li, loa đài: Đại hội sẽ thành công tốt đẹp! Và cười: Có đại hội nào không thành công tốt đẹp!
    Bế mạc đại hội nhà văn, tôi không về Hải Phòng ngay mà còn lên Bắc Giang. Với Lam Luyến, Hằng Thanh, Đình Kính. Ba người lên viết chân dung các nhà giáo ưu tú. Tôi làm suất ăn theo. Bắc Giang hấp dẫn tôi. Vùng trung du ấy tôi đã sống trong những năm chống Pháp.
Lục Ngạn. Tôi đứng lặng nhìn Bến Chũ vắng vẻ, nghèo nàn, nhỏ hẹp. Địa danh này vang dội tuổi thơ tôi qua bác lái Vảo, người lái đò dọc quê tôi, thường đến nhà chuyện với bố mẹ tôi sau mỗi chuyến đi cùng với những tảng đường nâu thẫm vuông vức như hòn gạch gọi là đường Chàng mà mẹ tôi cẩn thận lấy rơm quấn chung quanh, cho vào thùng sắt tây gác trên gác bếp. Hay những bao củ nâu sần sùi, lấy dao chặt khẽ một nhát là vỡ làm đôi, nhựa ứa ra đỏ như máu. Rồi măng khô, rồi củ khúc khắc… Hôm nào bác lái Vảo đến cũng mang theo biết bao nhiêu chuyện và cùng với bác là hơi hướng của những dòng sông, những bến đò, những cánh rừng, những miền đất lạ. Tôi đã vượt Lục Đầu Giang lên Chàng Chũ đầu năm 1947, khi là một cậu bé mười ba tuổi. Cái đêm vượt sông hằn sâu vào não tôi. Tôi đã thể hiện những gì tôi thấy tôi nghe tôi nghĩ đêm hôm ấy trong một truyện ngắn trong tập Đêm Tháng Mười nhà xuất bản Văn Học in năm 1962. Đêm đen. Sương đêm ướt đầm hai vai áo lạnh buốt. Vết xích xe tăng trên đường chúng tôi đi. Một đốm lửa bùng lên phía xa, ma quái và đe dọa. Chúng tôi cùng nhiều người nữa im lặng đi về phía sông. Chênh chếch sau lưng sừng sững hai ngọn núi Nam Tào, Bắc Đẩu của Đền Kiếp Bạc. Tôi lúc đó là bé nhất nhà, đi giữa bố và mẹ tôi. Hai em tôi, Bùi Thị Ngọc Cầm, Bùi Ngọc Thiệu chưa đến mười tuổi vừa qua đời mấy hôm trước vì bệnh đậu mùa ở Phục Thiện, Đông Triều trên đường đi tản cư. Kinh hoàng trước hai cái chết liền nhau của hai đứa con nhỏ, chiến sự lại sắp lần tới, bố mẹ tôi ngược Đông Triều lên Bắc Giang. Nhà ngang cửa dọc, nhà trên nhà dưới nhà ngói cây mít bao nhiêu đời tích cóp gây dựng từ thời ông nội, lính Pháp đã đốt phá, chỉ còn một đống tro tàn bỏ lại sau lưng, tài sản là những bị bọc tay nải khoác trên vai, rời quê hương đi theo kháng chiến, theo lời kêu gọi của cụ Hồ. Hai người con lớn cầm súng ra mặt trận, hai đứa con nhỏ nằm lại dọc đường, bố mẹ cùng hai đứa con giữa là tôi và anh Bùi Ngọc Chương dắt díu xuống thuyền.
Dòng Lục Đầu Giang mênh mông đen đặc như dầu lại sóng sánh chung quanh tôi, tiếng mái chèo quẫy đều đều lại óc ách bên tai tôi. Những người trên thuyền ngồi gục đầu im lặng như những mô đá. Ca nô tuần tiễu của Pháp có thể ập đến bất kỳ lúc nào… Đứng trên bến đò Chũ, tôi sống lại đêm hôm ấy, đau nỗi đau của bố mẹ tôi ngày ấy khi bỏ lại hai nấm mộ con còn chưa xanh cỏ ở quê người đất khách, bỏ lại nhà cửa ruộng vườn, với hai bàn tay trắng vượt vòng vây ra vùng tự do theo cụ Hồ. Rồi Bình An. Rồi Cảnh Thụy… Ngược lên: Phủ Lạng Thương, Bố Hạ, Cao Thượng, Nhã Nam. Đi đò dọc trên sông Thương một đêm trăng sáng. Và đi bộ trên những con đường nhựa bị đào, cuốc ngoằn ngoèo chữ chi để chống lại xe cơ giới Pháp.
Những rừng thông lấy nhựa rì rào, những đồi dẻ la đà ngày ấy đã biến mất từ lâu. Tất cả đều trở thành đồi trọc đồi hoang khi là tài sản xã hội chủ nghĩa, do nhà nước và hợp tác xã quản lý.
Thật vui mừng biết bao, hôm nay trước mắt tôi, những vùng đồi hoang núi trọc lại phủ kín lá xanh, kín những cây ăn quả. Vải thiều đang nhú quả non. Xoài, quả đã bằng cái chuôi liềm. Một vùng đất đã hồi sinh. Việc cắt lìa dân với đất đai, bắt dân đói trên mênh mông đất hoang đã chấm dứt. Một cuộc sống no đủ đang bắt đầu.
Trong một buổi làm việc với sở Giáo Dục Bắc Giang, chợt Hằng Thanh ngẩng lên:
– Có ai nói gì về Chuyện kể năm 2000 ngoài kia kìa.
Tôi lắng nghe. Đúng là có người đang nói đến Chuyện kể năm 2000 ở cái vùng Bắc Giang xa xôi này. Tôi bước ra sân. Giữa sân, mấy người đang nói chuyện. Một người đầm đậm quen quen bước lại phía tôi, thân mật:
– Tôi dặn anh cái gì anh nhớ nhé. Có khó khăn trong việc xuất hiện, anh cứ gửi cho tôi.
Thấy vẻ ngờ ngợ của tôi, anh rút trong túi ra một cái các vi-dít:
– Đã đưa anh một cái rồi. Đưa thêm cái nữa đây.
Nguyễn Quang Hà, tổng biên tập tạp chí Sông Hương, một tạp chí có uy tín, người vừa gặp và chuyện trò cùng tôi trong đại hội nhà văn. Tôi cám ơn anh, nhưng không có ý định làm phiền anh. Tôi biết từ nay tên tôi trở thành một cái gai đối với nhiều người quyền chức. Tôi không cần in trong lúc này. Tôi cũng chẳng cần nhuận bút. Các con tôi nuôi vợ chồng tôi tàm tạm. Với lại chúng tôi có đòi hỏi nhiều đâu. Nhưng cử chỉ của Nguyễn Quang Hà làm tôi rất vui.
Trở về Huế, Nguyễn Quang Hà gọi điện tới tôi nhiều lần. Tôi không có gì để anh in thì anh mời tôi vào Huế chơi. Rồi anh ra Hải Phòng thăm tôi cùng một số anh em khác. Cảm động làm sao khi anh rụt rè hỏi:
– Cho tôi lên xem gác lửng một tí có được không?
Cái gác lửng của tôi. Công trình thế kỷ của tôi. Bàn thờ Phật. Bàn thờ bố mẹ tôi. Những thùng các tông tổng kho của vợ chồng tôi. Bản thảo, sách trong tủ sách và sách không chỗ để, xếp trên sàn — nhà đã có gần trăm quyển sách từ khi tôi viết văn trở lại. Quần áo, ruột chăn bông, chiếu, chai lọ… Nơi chứa tất cả những thứ không dùng đến nhưng vất đi thì tiếc của chúng tôi. Tóm lại, gác lửng của những gia đình nghèo, chật chội bao giờ cũng phơi bầy cuộc sống thật, cả tinh thần lẫn vật chất, những thói quen sinh hoạt của chủ nhân. Trên gác lửng không có sự che đậy.
Tôi nhìn nét mặt Nguyễn Quang Hà lúc đó mà thấy yêu quá:
– Lên đi. Thoải mái lên đi.
Hẳn anh đánh giá cao sự đồng ý của tôi. Đó là lòng quý mến và tình thân thiết. Như một cuộc khám phá, Hà đang bước vào cuộc sống thực của chúng tôi. Những gì rất riêng tư trong sinh hoạt đời thường của vợ chồng tôi. Anh đứng nghênh ngó, ghi nhận một lát rồi bước xuống với vẻ mặt thoả mãn trước những cặp mắt tươi cười chờ đón có pha lẫn ghen tị của những người bạn Huế đi cùng. Anh dõng dạc tuyên bố:
– Tôi mời hai anh chị vào Huế chơi. Tiêu chuẩn của anh chị là được mang theo một người thứ ba. Anh chị không phải ở nhà ai hết mà ở khách sạn. Đi chơi có ô tô đưa đi. Tất cả Nguyễn Quang Hà lo. Anh chị chưa vào Huế bao giờ chứ gì. Vậy thì vào đi. Không vào là một thiếu sót…
Không chỉ một lần anh nói vậy. Lần nào gặp hoặc gọi điện anh cũng nhắc lại lời mời. Huế với chúng tôi, nhất là với vợ tôi, người không bỏ lỡ một cơ hội nào để đến với những đền chùa, di tích, đã như một hẹn ước.
Thế mà vì những bận bịu đời thường, chưa một lần chúng tôi đến được Huế. Để gặp Huế.
Gặp Nguyễn Quang Hà. Gặp Nguyễn Khắc Thạch. Và gặp Mai Khắc Ứng. Mai Khắc Ứng chưa biết mặt với những bức thư ngắn làm tôi cười lặng lẽ một mình:
Huế 2-8-2003
Thưa nhà văn Bùi Ngọc Tấn.
Tôi chưa một lần được gặp anh
Anh lại càng không biết tôi.
Nhưng nếu anh cùng tuổi Giáp Tuất (1934) thì quả thật có vài điều đáng để ta quan tâm.
Một, là lần “giải lao” thứ nhất, tôi cũng làm lính bên tạm thắng hiệp 1, về tiếp quản Hà Nội rồi ra quân. Ít lâu thì bị “quản chế” phần hồn. Có lẽ 27 năm của anh chỉ bị phần xác thôi.
Ấy là Giáp Tuất vậy.
Năm 1980 tôi được “giải phóng.” Và, như tôi đã nói sẽ làm lại” đàng hoàng hơn.” Tôi dạt về Huế. Có nhà hẳn hồi. Đẹp nữa. Gạo không nơm nớp mất bữa. Thời gian thì dồi dào… Nói vậy có nghĩa là: Nếu anh chị vào Huế được, tôi xin lo phần ăn ở, di chuyển tại Huế không giới hạn thời gian.
Trời tính tháng tính năm với ta.
Xin đừng bận tâm điều đó.
Kính
MAI KHẮC ỨNG.
Địa chỉ:….Điện thoại: …. Email……
Nhà 22 Hàn Thuyên cho thuê để các cháu lại thuê nhà nơi khác. Coi như hoà cả làng. Nhà trên núi xây dựng làng văn hoá về nguồn, khánh thành rồi không ở, chỉ để thỉnh thoảng đón bạn nhâm nhi nhìn sông Hương trôi không mỏi.
Hai vợ chồng già hiện trú tại 142. A2 Nguyễn Phúc Nguyên. Đây là đất xóm An Lạc làng Xuân Hoà.
Trích ngang: Tôi đi lính vào Sư 316. Ra quân tại Nho Quan. Công nhân đắp đê quai Hữu Bị, Mỹ Lộc, Nam Định 1955. Nhân viên khảo sát thủy lợi Sơn Tây, Hà Tĩnh 1956–1960. Học tổng hợp Sử. Về Bảo Tàng – vào Huế năm 1980. Nay hưu.
Lộc nước chưa dư, tự kiếm nhà,
Phố phường không ngái chợ không xa
Trước sông láo nháo dăm lồng vịt,
Sau núi xôn xao mấy ổ gà.
Vườn đủ bốn mùa rau lẫn củ,
Đất dư năm tháng quả lèn hoa.
Của nhà thứ thiệt không tem phiếu
Đón Bác chuông chùa riêng đãi ta.
(Tôi xin phép cụ Tam Nguyên Yên Đổ rồi.
Bác yên tâm.)
MAI KHẮC ỨNG
Thư gửi theo địa chỉ Hội Văn Nghệ Hải Phòng. Một bức thư chỉ đọc thôi cũng đã muốn gặp ngay người viết! Nhưng cũng như với Nguyễn Quang Hà, cho đến bây giờ tôi vẫn chưa một lần tới Huế để làm thượng khách của ông bạn đồng niên Giáp Tuất Mai Khắc Ứng
Lang thang ở Bắc Giang ba ngày sau mới trở về Hải Phòng. Vợ tôi rất vui đưa cho tôi những tấm ảnh tôi chụp với các anh Lê Sơn, Thành Chương ép plastic do Lê Sơn gửi và cho tôi biết ngay sau khi bế mạc đại hội, tưởng tôi đã về Hải Phòng, Hồ Ngọc Đại xuống thăm, “ngó căn buồng anh chị ở” và kể chuyện gặp tôi ở trên ấy.
Những người đầu tiên đến nhà gặp tôi hỏi chuyện đại hội là ba người trong đó có hai người đã đến nhà tôi một lần và một người lạ hoắc. Người còn trẻ chưa gặp bao giờ được giới thiệu là “ở đài phát thanh trên Hà Nội làm vềăng ten.” Tiếng ăng ten trong tù có nghĩa là chỉ điểm. Chẳng lẽ lại hài hước công khai trắng trợn thế hay sao? Ba người hỏi tôi về đại hội nhà văn, điều mà tôi tin rằng họ không quan tâm, lại càng không thể quan tâm đến mức chẳng có mối quan hệ bạn bè nào mà tôi từ đại hội lên Bắc Giang ba ngày họ cũng biết và vừa về đến nhà họ đã đến ngay.
Tôi cố lấy giọng hiếu khách, thậm chí còn niềm nở tiếp mấy ông khách đầy nghi vấn này. Nhưng cuộc viếng thăm hình như đánh mạnh vào hệ thần kinh suy nhược của vợ tôi. Vợ tôi lánh vào bếp, ngồi một mình trong đó.
Giờ đây bình tĩnh suy nghĩ, có thể chúng tôi đã nghĩ sai về ba người khách, nghi ngờ lòng quý mến của họ. Tôi mong là như vậy và tôi xin được ngàn lần xin lỗi. Hãy tha thứ cho chúng tôi, những con thú bị săn đuổi, bị dồn ép, sợ hãi tất cả.
Sau cuộc viếng thăm ấy là cuộc thăm viếng hoàn toàn trái ngược của Lê Thị Oanh, một bạn đọc cũng từ Hà Nội và cũng mới gặp lần đầu.
Vừa đi cắt tóc về nhà Giáng Hương ở ngõ liền bên, thấy vợ tôi đang ngồi với một phụ nữ còn bé nhỏ hơn cả vợ tôi. Cô Oanh độc giả. Vợ tôi bảo vậy. Lê Thị Oanh chuyện với tôi như với một người bạn quen từ lâu lắm rồi. Em ở Hà Nội. Em là phóng viên báo Hàng Không. Trước em là trưởng đại diện Thông Tấn Xã Việt Nam tại Ấn Độ. Em biết địa chỉ nhà anh là qua anh Bầu. Em đến hỏi anh Bầu. Anh Bầu bảo nhưng nó ở Hải Phòng cơ. Em bảo thì em biết anh Tấn ở Hải Phòng chứ làm sao không biết. Hải Phòng là cái gì với em. Đà Nẵng em cũng đi. Chỉ có Sài Gòn là em chịu thôi. Em đến thăm anh chị vì đã đọc sách anh viết thì không thể không đến. Hồ Anh Thái định đi với em từ lâu rồi. Nhưng em bảo nó là để chị đi một mình trước đã — Ít ngày sau Hồ Anh Thái xuống thăm tôi, cùng với Trần Thị Trường. Em đến thăm anh không phải vì anh là nhà văn đâu. Nước mình có nhiều nhà văn lắm. Em đến để cảm ơn anh chị. Và chuyện với anh chị. Anh viết chân thật quá. Làm chúng em sống lại những ngày ấy, cái thời ấy. Trưa nay em ăn ở đây với anh chị. Anh chị cho em ăn cơm. Nhưng để em đi mua thêm cái bánh chưng đã. Chúng tôi cười ầm về ý nghĩ mua thêm bánh chưng vì sợ thiếu cơm của Oanh. Oanh lấy từ trong túi ra tập truyện ngắn đương đại Mỹ mà Oanh là một dịch giả, tặng tôi. Và một tờ tập san Hàng Không, nơi Oanh làm biên tập. Lê Minh Khuê cũng thích xuống thăm anh lắm nhưng chưa đi được. Em đến, chị giật mình, không biết em là ai. Em có sách của anh là do Hồ Anh Thái. Thái mua nhiều lắm. Đã lâu lắm mới đọc một bộ sách chân thật như vậy, hay như vậy. Cái đoạn anh viết về bao cấp, đong gạo đúng quá. Nhà em, sáng sớm bốn giờ mẹ em đã ra xếp hàng. Tới năm giờ bố em ra thay để mẹ em về nấu cơm. Rồi em ra thay. Rồi chồng em. Cả con em nữa. Nghĩ lại mà sợ. Sao lại không được phép viết về những ngày bao cấp nhỉ. Mà đúng là các cô bán gạo ý thức được bậc thang giá trị cao chót vót của mình. Nhiều người nói là tập sách của anh được đề nghị giải Nobel. Tôi cười: Họ nói thế thôi. Cũng là một thứ thăm dò thái độ. Cũng có người nói để nhấn mạnh tác hại của việc xuất bản. Có người nói vì yêu nó. Đã dịch đâu mà Nobel. Oanh bảo: Xứng đáng Nobel lắm. Tập sách nội dung đã thích. Anh viết lại đúng là văn chương. Tôi bảo: Tại anh gửi đi đâu cũng không được in. Gần mười năm cứ đánh bóng mạ kền. Oanh lắc đầu: Không phải. Đánh bóng nhiều quá nó lại xước ra ấy chứ. Nhưng sao anh lấy tên là Chuyện kể năm 2000 mà không lấy là Mộng Du. Anh Bầu nói trước có tên Mộng Du. Đúng là Mộng Du. Cả đờiMộng Du.
Ăn cơm trưa bên nhà Giáng Hương xong, chúng tôi về căn phòng gác hai hơn nửa thế kỷ của chúng tôi vì Oanh thích thế. Em phải biết căn phòng anh chị đã sống.
Như nhiều người khác, Oanh nhận xét căn phòng tôi ở giống tôi tả trong tiểu thuyết nhưng đẹp hơn, kết quả của việc chúng tôi thường xuyên tu bổ nó. Làm gác lửng — công trình thế kỷ của chúng tôi. Trong thời buổi không thể đào đâu ra dầm sắt cũng như dầm gỗ thì tôi mua được năm ống thép tròn, nguyên là ống dẫn am-mô-ni-ác của nhà máy lạnh đã ngừng hoạt động mà xí nghiệp tôi đang rỡ bỏ. Gỗ thùng lát sàn mua tận một ngõ ngoắt ngoéo dưới Lạch Tray. Một phân xưởng thuộc xí nghiệp Cơ Khí sửa chữa của Halong Fiscom giúp tôi cái lan can sắt. Và mấy tháng sau, khi làm được chiếc thang gỗ, gác lửng của chúng tôi thật là hoàn chỉnh, tiêu chuẩn hoá. Tuyệt vời gác lửng! Gác lửng muôn năm! Như bỗng nhiên có thêm một buồng nữa. Và mặc dù trên gác lửng rất nóng vì gần sát mái ngói, chúng tôi vẫn cứ leo lên đó ngồi, nằm, nhìn ngắm cái sàn gỗ thông phẳng phiu rộng tám mét vuông, chiếc lan can lửng đầu gối chắn ngang được căng rèm, cảm thấy rõ rệt cuộc sống được nâng cao một bước, ước mơ bấy lâu đã được thực hiện, rằng từ nay mình đã có một nơi riêng biệt, kín đáo, không tô hô tênh hênh, phô bầy ra tất cả trước những con mắt soi mói của những đoàn kiểm tra hộ khẩu, mình đã có được một nơi hoàn toàn là của mình. Nơi này nhiều công dụng, đa năng. Vừa là gian thờ, vừa là tổng kho, vừa là buồng ngủ của chủ nhà mỗi khi có khách.
Sau khi hoàn thành gác lửng, một công trình làm cùng thời với thủy điện Sông Đà và quan trọng ngang tầm thuỷ điện Sông Đà trong nền kinh tế quốc dân, là những đợt xin sơn, sơn cửa, bỏ tiền mua kính, lắp kính, quét vôi, chạy lại dây điện…
Căn buồng trông cũng vui mắt. Oanh rất phấn khởi: Em không ngờ nhà anh chị được như thế này. Rồi cũng như nhiều người khác, Oanh hỏi về thằng Dương, con Nguyệt, anh Chân, anh Thân, về những nguyên mẫu ngoài đời của những nhân vật trong truyện. Bộ sách của em bao nhiêu người tranh nhau mượn. Chờ mãi không được tập một thì đọc tập hai trước. Em bảo tập sách này cho mượn là phải duyệt lý lịch cẩn thận. Em bày trên giá sách đàng hoàng. Buồn cười thật. Tối hôm qua em và Hồ Anh Thái đến thăm một cô bạn học trường Nguyễn Ái Quốc, sáng nay em về thăm tác giả một bộ sách bị cấm. Oanh nói Oanh thích cái sự hài hước của tôi trong Chuyện kể năm 2000, đặc biệt là cái hài hước trong Một Thời Để Mất, đoạn ông Xuân Diệu nói bên Mỹ mặc quần áo ni lông và đoạn tôi trích thơ của anh hùng lao động Trịnh Xuân Bái: Liên Bang Xô Viết / Thú tự do ao ước bấy lâu nay / Kìa hồng quân thuyền thợ với dân cày / Đệ nhất sướng hỏi rằng đây có phải. Hồ Anh Thái bảo đọc xong Chuyện kể năm 2000 yêu anh Bầu quá. Em bảo: Thằng một mắt. Mình chưa đọc quyển này cũng thấy anh Bầu đáng yêu rồi. Tiếng cười của anh ấy mới thích chứ. Anh ấy không cười thế thì anh ấy chết. Anh ấy khổ quá. Vừa chuyện Oanh vừa xem đồng hồ:
– Bốn giờ là em về. Còn bao nhiêu người chờ em ở nhà. Chờ em về kể chuyện em gặp anh chị. Tối nay họ tập trung cả ở nhà em.
Bốn giờ, Oanh định đi xe ôm ra bến Tam Bạc.
Nhưng Công Nam đến.
Công Nam đèo Oanh ra bến xe.
*
Tôi nhận được rất nhiều thư. Thư của bạn đọc viết trong niềm xúc động khi lần đầu tiên vừa đọc xong tập sách. Thư viết sau khi đã đọc đi đọc lạiChuyện kể năm 2000, đã “nhiều lần đi du lịch cùng tác giả” như vợ chồng Nhã Nam, con gái Nguyên Hồng nói vậy cùng tôi. Và cả thơ. Rất nhiều thơ. Có những bài thơ mãi chín năm sau tôi mới nhận được không phải từ bưu điện, như bài thơ Nguyễn Đỗ viết tặng tôi từ Mỹ. Bài thơ đã được in, được xuất bản ở Hà Nội, nhưng tôi chưa được đọc. Biết tôi đang thăm Liên Bang Nga, từ Mỹ anh đã gửi đăng lại trên trang báo Người Bạn Đường của Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam tại Nga và tôi đọc nó ở nhà Bùi Hoài Hương, Mạc Tư Khoa:
Không đề 48
– Tặng Bùi Ngọc Tấn
không phải từ ngươi, từ ai, từ ánh nắng kia
thẩy vào ta những lởm chởm đau khổ
mỗi ngày soi gương vào mảnh trời cao nho nhỏ
khuôn mặt ta bào dần trong tín hiệu yahoo

cỏ xanh thật là xanh, cảm ơn, như viên thuốc
giảm đau
nhưng trái tim ta không bóng mát
ta đã từng gào trong ký ức tắc tiếng
nhưng tiếng kêu chẳng thể nẩy mầm
bấn loạn trong đêm đo mọi chiều cạnh xác thân
mình
ta như cái lỗ bé tíu tiu của khoảng không
mà chỉ cần nhích người là bóng đêm vùi kín
không biết cách nào nữa
đành nhìn căn nhà số mệnh cháy tận sợi cuối cùng

Như người ăn xin già liều mình ăn cắp
Trượt chân tiếng trẻ cười
— bowling greeen, sunday 6-6-2000
Khi viết Cái Đẹp Và Con Thú ở Miến Điện, Timothy Garton Ash cho biết ông không thể viết tên những người mà ông đã gặp, bởi làm như vậy là đưa họ vào tù (…) Cẩn thận như vậy chưa đủ. Khi viết về họ, ông bỏ mọi chi tiết. Bởi vì “nó sẽ nói.([1]Những bức thư trích dưới đây, tôi cũng đã loại bỏ mọi điều sẽ nói:
Anh Chị kính mến
Trước hết em xin tự giới thiệu em là một độc giả của CKN 2000. Em tên là H, là người đã gọi điện cho anh chị từ Hà Nội hồi cuối tháng Tám vừa rồi.
Em rất thích đọc sách, hồi ở nhà em thích đọc Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp… Gần đây, qua Diễn Đàn Forum, em được biết đến Chuyện kể năm 2000 của anh. Một người bạn đã cho em mượn cuốn sách này do nhà Thanh Niên xuất bản. Em đã đọc say sưa và xúc động. Sau đó em đã đặt mua qua Diễn Đàn Forum. Nhận được sách xong chưa kịp đọc lại thì em về Việt Nam. Do một sự tình cờ em bắt được liên lạc với T. Nhờ vậy em biết được điện thoại và địa chỉ của anh chị, điều mà em rất muốn biết trước đó nhưng khi em hỏi Diễn Đàn Forum họ bảo là không biết. Có thể họ ngại. Thật tiếc là hồi về nhà, em có ít thời gian quá nên không thể đến thăm anh chị được. Em vẫn hy vọng một ngày nào đó em sẽ có vinh dự ấy.
Hồi những năm 70 em học đại học ở Ba Lan, sau đó về nước làm việc rồi lại sang Ba Lan. Từ bấy đến nay em vừa làm khoa học lại vừa làm kinh tế. Chồng em cũng ở Ba Lan.
Trước kia cũng như nhiều học sinh khác, em rất vô tư và tin tưởng tuyệt đối vào những gì người ta tuyên truyền. Sang đây vào thời gian sau này, được đọc Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín, Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên và nhiều bài viết của Diễn Đàn Forum (chúng em vẫn đặt báo này đều đặn mấy năm nay), rồi qua Internet, gần đây nhất là Chuyện kể năm 2000, chúng em mới dần dần biết được bộ mặt thật của một chính quyền, một chế độ chúng em đã từng tin tưởng và kính trọng. Cũng cần nói rõ với anh chị rằng chúng em đều là đảng viên, ba em là một người cộng sản chân chính, suốt đời sống liêm khiết chí công vô tư. Nên em rất buồn và thất vọng trước thực trạng hiện nay, đã có lúc em tự hỏi mình tại sao vẫn ở trong đảng nhỉ. Có thể tại em không đủ can đảm rời bỏ một thói quen, hay em vẫn còn bám víu một chút hy vọng vào những gì tốt đẹp mà em đã từng nhọc công phấn đấu…, em cũng không biết nữa. Nhưng suy cho cùng, những thứ đó giờ cũng chỉ là hình thức mà thôi. Em rất kính phục ngưỡng mộ những người như Anh. Các Anh các Chị không những chỉ là những người tài năng mà còn rất dũng cảm. Nhờ các Anh, các Chị mà chúng em biết được những điều xưa nay vẫn bị giấu kín.
Năm ngoái chúng em có may mắn được gặp anh Vũ Thư Hiên khi anh ấy sang Ba Lan. Hôm trở sang đây, qua một anh bạn em mới được biết là anh ấy cũng vừa sang đây. Thật tiếc là em không có dịp gặp anh ấy. Qua lời kể của anh bạn, em mới được biết rõ hơn việc xuất bản cuốn Chuyện kể năm 2000 của anh và nghe nói mọi người đang quyên góp để giúp anh thanh toán với nhà xuất bản Thanh Niên. Chúng em bàn với nhau và định gửi biếu anh chị 100 USD. Em đã nhờ T chuyển giúp cho anh chị. Chúng em mong là chút quà mọn đó sẽ góp phần giúp anh chị giải quyết những khó khăn trước mắt và thành thực cầu chúc anh chị mọi điều tốt lành. Chúng em tin rằng những người trung thực luôn ở bên cạnh anh chị. Không biết chúng em có thể làm được gì nữa để giúp anh chị?
Hiện giờ anh có viết gì không ạ? Nếu như chúng em muốn đọc các tác phẩm khác của anh thì làm cách nào? Anh có thể “mách” dùm chúng em được không?
Thôi có lẽ trong lá thư đầu tiên em chỉ viết chừng đó. Em sẽ rất vui mừng nếu nhận được hồi âm từ phía anh chị. Em đã nhờ T. đưa địa chỉ của chúng em cho Anh Chị. Xin Anh Chị thông cảm vì em đã không gửi trực tiếp địa chỉ của mình vào đây để tránh phiền toái về sau.
Một lần nữa chúng em xin kính chúc Anh Chị vui khoẻ, nhiều nghị lực và gặp nhiều may mắn.
Chúng em mong tin Anh Chị
Em H.
Nhận thư H, tôi viết thư trả lời ngay.
Và đây là bức thư thứ hai của H.
Anh Chị kính mến!
Chúng em đã nhận được thư anh. Sau bao ngày mong đợi, thư anh đã mang đến cho chúng em một niềm vui lớn lao. Em thật không dám mong là những tâm sự của mình được anh chị đón nhận với một tình cảm trân trọng như vậy. Thực ra chính chúng em mới là người phải cám ơn anh chị đã cho chúng em có dịp được bầy tỏ lòng ngưỡng mộ và chia xẻ (dù có muộn mằn) với anh chị những gì anh chị đã trải qua.
Sau một thời gian cho bạn bè mượn Chuyện kể năm 2000 mà chúng em đặt mua từ Paris, em đã đọc lại sách này trước khi được thư anh. Chồng em đã cười em vì câu nói: “Đọc lần thứ hai lại còn thấy hay hơn cả lần đầu” mà em đã thốt lên khi đó. Có thể có người sẽ không tin nhưng đó là sự thật. Em rất nhất trí với một bài viết đăng trên báo Diễn Đàn Forum (tác giả Vĩnh Xương) rằng “cuốn sách chỉ là câu chuyện tù với những oan khiên với những nhục hình… Thế sao lại xúc động đến thế!” Em không có khả năng phân tích, phê bình một tác phẩm. Em chỉ cảm nhận tác phẩm bằng chính trái tim mình. Và Chuyện kể năm 2000 đã để lại trong em một dấu ấn sâu đậm. Nếu anh hỏi đoạn văn nào em thích nhất trong tác phẩm, em sẽ trả lời là đoạn viết về cuộc viếng thăm người tù Ngụy Như Cần của anh. Cứ như là một câu chuyện cổ tích vậy. Còn điều làm em cảm động nhất, kính phục nhất xuyên suốt cuốn sách là tình người mà nổi bật lên là tình yêu của anh chị. Em phải thú thực với anh chị là em không yêu chồng được như chị. Có thể do hoàn cảnh, có thể do cá tính, em vẫn thấy rằng chúng em không hy sinh cho nhau được như thế. Một lần nữa em xin bầy tỏ lời cám ơn anh chị vì những bài học về lòng can đảm, nghị lực sống, đức hy sinh chịu đựng và lòng khoan dung…
Thư trước em chưa dám hỏi, nhưng em vẫn rất quan tâm đến số phận các nhân vật trong Chuyện kể năm 2000 về sau này. Cuộc sống của họ ra sao? Có đỡ hơn không? Anh chị có liên hệ với họ không? Vì sao anh đặt tên sách là Chuyện kể năm 2000? Ngay cả tên thật của chị và Hiệp, Thương, Nguyệt, Dương là gì em cũng chưa được biết. Anh có thể cho chúng em biết được không ạ?
Vừa qua em có đọc trên internet bài “Thương tiếc Hoàng Hữu Nhân (nhân vật Hoàng trong Chuyện kể năm 2000?), một người cộng sản chân chính, tận trung với nước, tận hiếu với dân” mới càng rõ hơn việc làm của con người đáng kính đó. Đã có ai dịch Chuyện kể năm 2000 ra tiếng Anh chưa anh? Nếu có rồi thì là việc đáng mừng. Nếu chưa thì theo em đây là một trong “những việc cần làm ngay” hiện nay. Anh có mối quan hệ rộng, anh có thể đề nghị chuyện này để cho thế giới biết rõ hơn về Việt Nam, để cho họ biết được vì sao Việt Nam mình nhiều người tài đến như vậy mà lại tụt hậu quá xa so với thế giới. Và biết đâu nó sẽ là candidat của giải Nobel văn chương thì sao. Có thể anh cho rằng em lạc quan tếu. Em biết rằng anh không có tham vọng gì lớn — in và phổ biến được Chuyện kể năm 2000 để nó gây được tiếng vang như hiện nay là một thành công lớn của anh, nhưng mọi cái đều phải thử mới biết được chứ, phải không ạ?
Còn về chúng em thì mọi việc đều bình thường, chuyện làm ăn có lúc thế này thế khác, nhưng nhìn chung vẫn chấp nhận được. Người Việt Nam mình bên này nhiều người làm ăn giỏi, rất giầu có nhưng đa số vất vả lắm. Chúng em thuộc loại nhàng nhàng, “nhìn lên chẳng bằng ai, nhìn xuống chẳng thấy ai bằng mình.” Điều quan trọng là mình biết hài lòng với những gì mình có, phải không anh chị? Mà chúng em cũng dễ thoả mãn lắm. So với những năm 70, 80 được thế này là tốt lắm rồi. Bây giờ chúng em chỉ có một ước nguyện là cho cháu học hành đến nơi đến chốn. Đó là một trong những lý do để chúng em còn ở lại bên này lâu dài, chứ nhiều lúc cũng thấy buồn chán và muốn về lắm. Vả lại chúng em đã quen sống tự do, về nhà tù túng có khi không chịu được. Thôi, thư đã dài, em dừng đây. Chúng em kính chúc Anh Chị luôn mạnh khoẻ và nhiều may mắn.
Chúng em mong thư Anh Chị
H.
Tôi chép tại đây một bức thư nữa của một độc giả đã tự làm mờ mọi chi tiết về mình, cũng bởi vì nó sẽ nói. Sự cẩn thận ấy rất cần thiết trong cuộc sống đầy tráo trở, đầy bất trắc này. Phong bì ghi tên và địa chỉ người gửi: Hoàng Diệu, Ba Đình Hà Nội. Thư viết trên máy vi tính.
Kính gửi bác Tấn.
Tôi sinh sau bác hơn chục tuổi (theo lý lịch của Hắn) coi là thế hệ thứ hai nhưng là người yêu thích văn chương, có đọc Chuyện kể năm 2000 của bác. Tôi thật sự cảm động và cảm phục. Cảm động vì những nhân vật theo tôi là có thật, như Ngọc (vợ của Hắn) một lòng chung thủy cao cả, một trái tim nhân hậu và một cuộc đời chịu đựng. Những người như thế thật anh hùng, thật đáng trân trọng. Có lẽ trời ban Ngọc cho hắn hay ban hắn cho Ngọc là ban cho họ niềm hạnh phúc vô cùng. Ngược lại Ngọc quá tin quá yêu một người chồng, một tài năng mà có sức mạnh vượt qua bao điều tưởng sẽ sớm bị gục ngã vì nó. (Xin lỗi, tôi hơi xẵng theo nhân vật chứ bà Ngọc ngoài đời cũng thuộc bậc bề trên của tôi rồi.) Như ông Hoàng thương hắn, muốn giúp hắn nhưng… Như già Đô, như Ngụy Như Cần được tự do mà không biết đi về đâu, phải tìm đến chốn phiêu diêu. Người ta đã sợ cả hai chữ Tự Do. Khiếp sợ vì phải trở lại nơi quá xa lạ với đời mình!
Tôi cảm phục vì tác giả là người tài hoa cương trực. Tài hoa trong hoạt động xã hội, tài hoa trong văn chương. Văn của hắn càng đọc càng thấy hay, lấp lánh. Cương trực vì trước sau như một, luôn đòi hỏi sự công minh của pháp luật và công bằng xã hội, muốn được cống hiến, cống hiến hết mình và sòng phẳng.
Vừa đây trong cuộc họp Quốc Hội, ngành tư pháp thừa nhận còn rất nhiều án oan sai. Điều trớ trêu là những người lương thiện thì phải chịu án oan sai. Ông ạ, hiện nay trình độ cán bộ các ngành đã có tiến bộ, đã có nhiều tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân còn oan sai nhiều thế huống hồ vào những năm tem phiếu. Cho nên “con ong cái kiến kêu gì được oan” có gì là lạ.
Chuyện kể năm 2000 là một tiếng nói dõng dạc về nhân quyền. Bây giờ cuốn sách chưa được phổ biến rộng rãi nhưng số phận của một tác phẩm sẽ được định đoạt do quyền phán xét của dân chúng, của thời gian. Cái nghiệp văn chương sẽ không cho bác dừng lại đâu. Tôi tin ngòi bút của bác còn tràn đầy sức sống lắm. Hy vọng sẽ còn nhiều điều của quá khứ, hiện tại và của tương lai đang chờ đợi và thúc giục bác kể chuyện chào thiên niên kỷ mới.
Tôi xin được dừng lời, chúc bác và gia đình đón một cái tết cổ truyền vui vẻ, một năm mới an khang thịnh vượng. Mong ở bác có nhiều tác phẩm mới. Và chờ đợi một cuộc hạnh ngộ.
Một độc giả yêu văn chương
— N.T.N.V.
NTNV nói rất đúng: Số phận một tác phẩm được định đoạt bởi bạn đọc, bởi thời gian. NTNV cũng đã đoán trước được số phận của tôi: Cái nghiệp văn chương không cho tôi dừng lại. Tôi còn phải vất vả vì nó, khốn khổ vì nó. Cho đến bây giờ tôi vẫn chờ mong một cuộc hạnh ngộ với NTNV — là nam hay nữ? — hay đã gặp mà tôi không biết.
Nhiều thư. Những bức thư rải rác hàng ngày. Những bức thư từ nước ngoài tập trung trong mùa lễ hội saison des fêtes vào dịp Noel, tết Tây, tết Ta. Tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp từ Nhật, Mỹ, Canada, Úc, Đức… Những bức thư kín cả trang giấy, và những bức thư trên carte postale chúc năm mới, chúc an khang thịnh vượng, chúc an lành, có phong bì, và không có phong bì… kéo dài nhiều năm sau đó. Gửi đến tôi, đến số 10 Điện Biên Phủ, đến căn buồng của chúng tôi.
B.N.T.
([1]) Theo Nguyễn Quốc Trụ.
(Xem tiếp kỳ sau)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000


(Thời biến đổi gien)
  Kỳ 22
    Bùi Ngọc Tấn
*
Đại hội nhà văn. Hội trường Ba Đình. Nhà khách chính phủ. Những cái tên tôi chỉ nghe nói đến. Giờ đây là một thực thể quanh tôi. Từ lâu lắm rồi khu vực quảng trường Ba Đình và xung quanh không còn hấp dẫn tôi. Tôi rất ít khi đến đó. Cả bằng chân và bằng suy nghĩ.
Thập niên 50 đó là nơi luôn có sức hút đối với tôi. Không chỉ ngày 2 tháng 9, được là một trong hàng vạn người cờ hoa trong quảng trường Ba Đình, vẫy hướng về lễ đài, nơi tập trung toàn bộ các lãnh tụ tối cao và lãnh đạo các ngành, trái tim và khối óc của cách mạng Việt Nam. Khi các đoàn duyệt binh, diễu hành từ phía Quan Thánh, Phan Đình Phùng đã qua quảng trường tràn đi các nơi, biến phố phường Hà Nội thành những dòng sông đỏ sóng cờ,([1])chúng tôi trong khối các cơ quan trung ương, những đơn vị đứng tĩnh tại chờ một đặc cách: Hồ Chủ Tịch vẫy tay ra hiệu để được phá bỏ mọi nghi thức ùa tới sát lễ đài, được đứng gần hơn, nhìn Chủ Tịch và các uỷ viên Bộ Chính Trị rõ hơn rồi sau đó hát vang bài Kết Đoàn do Chủ Tịch lĩnh xướng … Tôi đã lăn lộn thông thạo nơi này ngay từ cuối năm 1954 khi mới chuyển từ thanh niên xung phong về báo Tiền Phong, để gặp gỡ lấy tài liệu các cá nhân điển hình từ các địa phương về Hà Nội đón mừng Trung Ương Đảng và Chính Phủ chính thức về thủ đô ngày 1-1-1955. Ngày ấy cái ý thức về sự may mắn được sống trong một thời đại như sắp đặt cho mình luôn thường trực trong trí óc tôi.
  Không chỉ đi lên Ba Đình làm việc. Còn đi dạo chơi qua đây. Cùng bè bạn. Cùng vợ tôi ngày ấy vẫn còn là người yêu qua quảng trường lên Cổ Ngư ăn bánh tôm rồi dưới ánh sao ngược đê Yên Phụ, bước giữa những vườn ổi xoai xoải ven đê mà sau này đọc Quang Dũng, tôi cứ nghĩ ông viết về chính những vườn ổi ấy: Ơi! Con đường xưa / Men vườn ổi thơm / Em tuổi hai mươi / Yêu anh hào hiệp.
Chúng tôi ngày ấy cũng yêu nhau hào hiệp. Hào hiệp, chữ của Quang Dũng tuyệt vời.
Khi còn trẻ người ta yêu nhau hào hiệp.
Hôm nay tôi trở lại vùng đất này. Gần nửa thế kỷ đã trôi qua. Răng rụng. Tóc bạc. Mắt mờ. Nhưng lòng đầy tình yêu và niềm vui của người chiến thắng. Dù khiêm tốn đến đâu tôi cũng phải nói về mình như vậy.
Tôi đi dự đại hội và dù Hữu Thỉnh không dặn trước, tôi cũng chẳng lên diễn đàn phát biểu hay tham luận. Tôi không quen diễn thuyết. Từ ngày lớn lên, từ ngày đi công tác thoát ly tới nay, tôi chưa bao giờ làm lãnh đạo, mà chỉ là nhân viên. Chỉ nghe người khác nói chứ chưa một lần nói cho người khác nghe. Viết thì được. Đơn độc ngồi trước bàn viết hoặc gõ máy chữ thì được.
Đoàn đại biểu nhà văn Hải Phòng đến Hà Nội vào buổi chiều. Nhiều đoàn đã có mặt từ hôm trước. Tôi ở cùng phòng với Đình Kính, Bão Vũ, Phạm Ngà trong nhà khách chính phủ. Nhà văn đầu tiên tìm gặp tôi còn khá trẻ, nghĩa là trẻ hơn tôi. Khi mình gần bẩy mươi nhìn những người tuổi năm mươi là trẻ. Anh chuyện trò nồng nhiệt như đã quen tôi lâu lắm rồi. Mãi sau tôi mới biết anh là Văn Chinh và phải nhiều tháng sau tôi mới được đọc bài tổng kết của anh về văn học Nam Bộ, và sau này là Đa Cực Và Điểm Đến của anh. Anh nắm chặt tay tôi:
– Bây giờ chán đọc những sáng tác nói cạnh nói khoé lắm rồi. Thành ra đọc anh rất sướng. Trực diện. Mà đầy văn chương.
Rồi lại:
– Bộ tiểu thuyết của anh là một đính chính, sửa chữa những nhận định từ trước đến nay về các nhà tiểu thuyết Việt Nam. Em không nói nội dung. Nội dung đã hẳn. Thông thường tiểu thuyết Việt Nam tập hai đuối hơn tập một, yếu hơn tập một. Của anh tập hai hay hơn tập một.
Nói một hồi và vội vã đứng lên:
– Để em đi gọi anh Xuân Sách. Em với anh Xuân Sách cứ nói mãi về anh. Em bảo anh trúng đại biểu rồi. Đoàn Hải Phòng chiều nay lên. Thế nào anh cũng có mặt. Anh Xuân Sách ở ngay bên này. Để em gọi anh ấy. Anh Xuân Sách mong gặp anh lắm.
Văn Chinh chạy ra ngoài và một lúc sau dắt về một người gầy gò tóc bạc. Xuân Sách. Chúng tôi ôm lấy nhau. Tôi với Xuân Sách chưa một lần gặp gỡ, nhưng đọc anh, biết anh là người đồng điệu. Tập Chân Dung Nhà Văn của anh mà Hoàng Hưng mua tặng tôi khi tôi vào thành phố Hồ Chí Minh đọc thật sướng. Chính xác. Táo bạo. Và dũng cảm đến kinh ngạc.
Từ ấy trong tôi ngừng tiếng hát / Trông về Việt Bắc tít mù mây / Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt / Máu ở chiến trường hoa ở đây.
Và:
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn / Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy / Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy / Lựa ánh sáng trên đầu thay đổi sắc phù sa.
Chân dung Tố Hữu và nhà thơ họ Chế được anh vẽ chính xác như thế. Tôi nói vui với Xuân Sách:
– Tiểu thuyết của tôi có nói đến ông đấy nhé.
– Rất cám ơn.
Rồi anh đọc luôn một câu trong Chuyện kể năm 2000: Bạn muốn nghiên cứu Xuân giáo dục, chúng tôi có Xuân Sách, Xuân Trường.
Và cười ha hả. Xuân Sách cho tôi biết tình hình tập tiểu thuyết của tôi ở Vũng Tầu. Cấm. Đã hẳn. Các máy phô-tô chạy hết công suất đã hẳn. Còn in lại nữa. Bìa mầu nghiêm chỉnh. Ảnh tác giả nghiêm chỉnh.
Tôi bán tín bán nghi:
– Luyến nói chỉ đưa vào Sài Gòn năm mươi bộ thôi.
– Một người tháo vát như Luyến không thể chỉ đưa vào Sài Gòn năm mươi bộ. Chắc chắn gấp nhiều lần. Nhưng tôi nghĩ họ còn in lậu nữa. Bây giờ kỹ thuật in ấn tiên tiến lắm ông ơi. Không phải sắp chữ, không phải làm vi tính. Mà chụp. Như vậy những lỗi mo-rát vẫn nguyên. Y chang bản chính. Rất khó phát hiện.
Vẫn Xuân Sách:
– Mừng quá. Tất cả anh em văn nghệ trong ấy đều mừng, coi như thắng lợi của mình, thành công của mình.
Anh luôn miệng: Viết sợ quá. Viết thế thì sợ quá. Chỉ cần một tác phẩm để đời như vậy chết cũng được rồi. Cũng như Văn Chinh, đang vui câu chuyện bỗng Xuân Sách đứng lên:
– Để tôi đi tìm Nguyễn Khải. Nguyễn Khải muốn gặp anh lắm.
Anh đi tìm Nguyễn Khải nhưng không thấy. Hôm sau họp trù bị xong, anh bắt tôi đứng ở chân bậc tam cấp hội trường nhà khách:
– Anh đứng đây. Chờ Khải một tí. Khải xuống sau tôi.
Và chạy ngược lên gác. Dưới nắng, tôi đứng chờ và chụp ảnh với không biết bao nhiêu người. Vẫn chẳng thấy Nguyễn Khải, Xuân Sách đâu. Có lẽ các anh bị kẹt lại trên gác. Các anh cũng là những trung tâm để người ta quây lại.
Buổi chiều Bộ Công An chiêu đãi, buổi chiêu đãi trước đại hội. Phòng chiêu đãi kín người. Các nhà văn và quan khách đã có mặt đông đủ, ồn ào hơn cả một nghìn tổ ong cộng lại. Năm năm rồi, bạn bè bốn phương giờ đây gặp gỡ. Tay bắt mặt mừng. Tôi ngơ ngác tìm các bạn tôi. Có tiếng gọi to tên tôi. Lê Bầu! Thằng Vũ Bão vừa đứng đây. Chờ mày mãi. Chúng tao chỉ được ăn bữa này ở đây thôi. Mai là ăn ở nhà. Các đại biểu Hà Nội được phát tiền, ăn nghỉ ở nhà. Lê Đạt bước lại. Anh kéo tôi và Bầu vào một góc. Và nói về tập sách của tôi: Đã lâu lắm mới được đọc một tập sách như thế, nhưng hơi dài. Anh nhắc đi nhắc lại: Thích. Thích lắm. Rồi bộ trưởng Lê Minh Hương nói mấy lời trước khi chiêu đãi. Tiếng ồn ào trong căn phòng lớn không giảm đi chút nào. Chắc bộ trưởng cũng thông cảm với cánh nhà văn nhà thơ năm năm mới có một kỳ đại hội, năm năm mới gặp nhau, nên vẫn cứ tiếp tục bài nói chuyện trong khung cảnh như chợ vỡ.
Bài nói chuyện chấm dứt. Các nhà văn vào tiệc. Tiệc đứng. Tôi không nhớ có những món gì. Cơm rang. Và cái món thịt thì mang phong cách Ấn Độ hay vùng Vịnh. Nhớ nhất là món dứa. Món dứa đét xe. Tôi ăn hơi nhiều dứa. Cho no bụng. Các nhà văn đứng nhìn tôi ăn dứa nói vui:
– Ông này ăn nhiều dứa quen rồi.
Không phải tôi thích ăn dứa đến thế mà vì khi tôi bắt đầu dùng bữa thì các món cơm thịt… đã gần hết. Lúc mọi người ăn tôi còn đi lang thang. Bàn này bàn khác. Tìm Vũ Bão. Tìm Nguyễn Kiên. Nguyễn Gia Nùng. Vũ Lê Mai…Tìm người quen nhưng lại gặp những người không quen, hay chỉ nhìn thấy trên tivi. Ai cũng giữ tôi lại. Nhiệt tình. Chân thành. Chúc mừng tôi. Tôi hiểu rằng có rất nhiều người đã đọc tôi, hoặc đã nghe nói đến tập sách của tôi.
*
Báo Thể Thao Văn Hoá cơ quan của Thông Tấn Xã Việt Nam số ra ngày thứ sáu 21-4-2000 đăng bài Ghi Chép Bên Lề Đại Hội Nhà Văn của nhóm phóng viên văn hoá phản ánh những chuyện vui vui trong đại hội có đoạn viết: Một nhà văn nổi tiếng muộn trông hiền lành giản dị được những người chưa bao giờ gặp xếp hàng bắt tay, tỏ lòng kính trọng và yêu mến. Thể Thao Văn Hoá chỉ viết chung chung như vậy nhưng tất cả những người dự đại hội đều biết người ấy là ai.
Trong tình hình tập sách của tôi bị thu hồi tiêu hủy, đăng thế là đã tỏ ra rất ưu ái tôi và cũng đã là dũng cảm tuyệt vời.
Nhưng tạp chí Than của tổng công ty Than mà ông bạn Võ Khắc Nghiêm làm tổng biên tập nói thẳng ra trong bài Những Cái Nhất Trong Đại Hội 6 Hội Nhà Văn Việt NamNgười được bạn bè bắt tay và mời chụp ảnh nhiều nhất là nhà văn Bùi Ngọc Tấn.
Để có được câu này, tác giả Đình Kính đã sưu tầm không biết bao nhiêu cái nhất của đại hội như đại biểu nữ mặc váy nhiều nhất, đại biểu nam thắt cravate nhiều nhất, câu nói hay nhất, người bỏ bữa ăn nhiều nhất, người gọi điện thoại nhiều nhất.
Trong những ngày đại hội tôi càng hiểu thêm tình cảm của các nhà văn nhà thơ đối với tôi và tập sách của tôi. Một buổi đang ngồi trong hội trường theo dõi một bản tham luận nào đó, một bàn tay phụ nữ từ phía sau đưa đến bàn tôi, đặt ngay trên tập tài liệu đại hội một tờ thiếp bằng giấy trắng in hoa nổi, trên tờ thiếp là những dòng chữ chị viết: “Anh Bùi Ngọc Tấn. Sao trông anh hôm nay buồn buồn. Đừng buồn. Tất cả chúng tôi đứng bên anh. Anh đã làm được một việc có ích. Hãy vui lên.”
Tờ thiếp không ký tên. Tôi vội quay lại. Một phụ nữ áo dài đang đi về phía sau. Chị ở một đoàn khác. Chị ngồi cách tôi đến năm sáu hàng ghế.
Sau giờ giải lao, đang đi về chỗ của đoàn mình, nhà thơ Trinh Đường gọi tôi lại. Ngồi cạnh nhà thơ là ông già Trần Lê Văn. Nhà thơ Trần Lê Văn bắt tay tôi:
– Trong tập truyện của ông có trích hai câu thơ của tôi mà không đề tên tác giả. Nhưng không sao.
Không biết có phải hai câu này không: Theo chồng về biển biển ly loạn / Thương cho đời mẹ hận cho chồng. Trong tiểu thuyết, tôi trích dẫn nhiều thơ. Chỉ hai câu này tôi không biết xuất xứ. Ngày còn ở Tiền Phong, Tất Vinh đọc cho tôi nghe. Mà Tất Vinh đã chết lâu rồi. Tôi cứ trách mình mãi tại sao không hỏi cụ Trần Lê Văn lúc đó.
Nhà thơ Trinh Đường mà tôi đã một lần đi cùng ra Cát Bà nồng nhiệt bắt tay tôi. Cụ đưa cho tôi cái các vi-dít, mặt in tên, địa chỉ có hoạ tiết một cô gái Chăm ở trần đang múa — chà! Cụ già mà vẫn trẻ ghê — mặt sau là bốn câu thơ cụ đã ghi sẵn, chờ gặp tôi để tặng:
Không đề
Ai còn mà đã chết
Ai bị giết vẫn còn
Ngang nhiên giữa trời đất
Ta sống cùng nước non
– Khai mạc đại hội nhà văn 6
— Trinh Đường
Nhà văn Kim Lân mà tôi coi như một người anh dắt tay tôi đi tìm Thành Chương “thằng con mình để nó chụp hai anh em một bức ảnh kỷ niệm.”
Nguyễn Quang Sáng ôm lấy tôi khi tôi từ nhà khách chính phủ đi ra, cuộc gặp gỡ giữa hai ông già sau mấy chục năm xa cách:
– Tao bảo Bùi Ngọc Tấn thì tao còn lạ gì. Trước khi đi B tao còn xuống Hải Phòng, đến nhà mày mà. Nhớ không?
Rồi một nhà thơ Nam Bộ tôi không nhớ tên ([2]) kể cho tôi nghe thời gian các anh tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh chờ bay ra Hà Nội để dự đại hội. Các anh gần như chỉ nói chuyện về tập sách của tôi. Nhắc lại những chi tiết, những cảnh những người. Bữa ăn, các anh dùng ngôn ngữ trong truyện:Khợp, meo, cá nhân tác chiến cá nhân bành. Các anh nói về già Đô, về con tắc kè, về con cá chép, về cái tên một cô gái: Bà Phê đô Thớt... Những đại biểu chưa biết gì về tập sách ngơ ngác: Các ông nói đến quyển gì thế?Chuyện kể năm 2000. Chưa đọc à? Chưa. Thật thế à? Thật. Chưa biết nó bị thu hồi à? Thu hồi rồi à? Tất cả nhìn vào người chưa đọc, cùng làm ra vẻ thất vọng. Một người tỏ vẻ rầu rĩ: Thế thì ông sang bàn khác ăn đi. Đừng ngồi đây. Mọi người cùng cười phá lên.
Tất nhiên đây chỉ là một cách đùa, một cách quảng cáo, một cách tỏ tình yêu với tập sách, một cách gây cười. Kể lại cho tôi nghe, anh vẫn bật cười. Vậy là chúng tôi có những cách đùa giống nhau. Nói theo kiểu Nguyễn Quang Lập: Một khi mà bọ đã yêu. Tôi cũng có cách nói như vậy. Tôi rất yêu Bảo Ninh. Tập tiểu thuyết của Bảo Ninh tôi đã mua hai quyển. Một Thân Phận Tình Yêu cho Nguyên Bình. Một Nỗi Buồn Chiến Tranh cho tôi. Đi đâu, gặp ai tôi cũng nói về quyển tiểu thuyết này. Đang say sưa, bỗng phát hiện ra người đối thoại chưa đọc, chưa biết Bảo Ninh là ai, tôi tỏ vẻ thất vọng và “khinh bỉ”: “Không thể tiếp tục câu chuyện với ông được nữa. Trình độ chênh lệch quá.” Đấy. Một khi mà bọ đã yêu thì thế đấy.
Trong đại hội, một buổi nghỉ giải lao, tôi đứng vơ vẩn ngoài hành lang hội trường, một tốp nhà văn nhà báo còn trẻ quây lấy tôi trò chuyện. Lát sau lại một tốp khác đến với tôi. Những người đến trước đứng dẹp sang một bên, những người mới tới đứng sang một bên. Tôi đứng giữa và thật khó trò chuyện trong hoàn cảnh như vậy. Các anh các chị các em nhìn tôi như muốn tìm kiếm những dấu vết tù đầy, như nhìn một người từ cõi chết trở về, lại cũng như nhìn một người hùng. Cuối cùng các nhà văn đến trước bảo nhau:
– Đi thôi. Chúng mình chiếm hữu anh Tấn quá lâu rồi. Nhường cho các bạn mới đến.
Khi tôi đứng nói chuyện với Phượng Vũ, Thúy Toàn, Thúy Toàn hất hàm về phía hai người đang đi dạo dưới bóng mát hàng cây ven hội trường:
– Anh Lê Sơn kia kìa. Muốn gặp anh lắm.
Tôi hỏi:
– Anh cao to hay anh nhỏ?
– Anh cao to.
Hệt như một chàng trai muốn đến với một cô gái nhưng vẫn giữ một khoảng cách không thể vượt qua. Tuổi tác của anh đã giữ anh, không cho anh đến gặp tôi hồn nhiên như những người khác, anh vẫn cứ đi dạo qua chỗ tôi mà không dừng lại. Tôi bước đến với anh, gọi tên anh. Anh ôm tôi. Và khóc. Tôi ngước mắt nhìn anh — tôi đứng chỉ đến trên vai anh một chút, — nhìn những giọt nước mắt của anh lăn trên má đọng trên râu, lấp loáng ánh nắng đầu hè. Chưa bao giờ tôi thấy một người đàn ông to lớn như thế khóc. Khóc giữa sân hội trường Ba Đình, mặc chung quanh khá đông người. Những giọt nước mắt của anh thấm vào tới tận cùng những đắng cay của tôi và hoá giải nó. Anh gạt nước mắt, sụt sịt:
– Đọc những trang anh viết về gia đình, tôi khóc. Anh viết về các con anh cũng là viết về các con tôi.
Anh cố chỉnh giọng nói đang méo mó vì xúc động:
– Như đoạn anh viết giặt quần áo cho các cháu, moi trong túi áo hoa bé tí của chúng những mẩu giấy, mẩu lá, mẩu len… Các con tôi cũng vậy.
– Không thể xoá được quyển sách của anh đâu. Xoá sao nổi.
Lê Sơn dần dần bình tĩnh trở lại.
Anh sôi nổi khẳng định:
– Quyển tiểu thuyết của anh sẽ có vị trí xứng đáng trong văn học Việt Nam. Đọc anh, người đọc thấy mình, thấy anh em bè bạn, bố mẹ vợ con mình trong đó. Thấy thời đại mình, nhân dân mình trong đó. Người đọc thấy cả một giai đoạn lịch sử với rất nhiều tầng lớp xã hội. Người ta cứ nói giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng cụ thể là gì mới được chứ? Tại sao nước nào cũng thích Marquez, thích Trăm Năm Cô Đơn. Vì nó nói được con người Colombia, nhân dân Colombia. Quyển sách của anh nói được con người Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, cuộc sống Việt Nam. Bản sắc dân tộc đấy chứ đâu nữa. Chuyện kể năm 2000 không kém bất kỳ quyển nào trong phạm vi đề tài này. Chỉ cần một quyển thế thôi anh ạ…
Lê Sơn sôi nổi tự tin và quyết liệt. Không phải một ông “nhân văn nhân võ” bất mãn, cực đoan nào như người ta vẫn nói, anh là một tiến sĩ của Viện Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn, một nhà nghiên cứu được đào tạo bài bản ở Liên Xô. Bất kỳ ai, trình độ như thế nào, làm việc ở đâu, cứ có chút lòng trung thực là sẽ nhận xét như Lê Sơn thôi. Cái chính quyền này đàn áp quyết liệt đấy, nhưng không còn mạnh như xưa. Cái yếu nhất là người ta đã nhận diện được nó, người ta biết nó như thế nào, người ta không nghe theo nó nữa. Như người điên trong nhà thương điên thỉnh thoảng lại thét lên với Nguyên Bình: “Kẻ xấu đã lộ mặt!”
Hoạ sĩ Thành Chương máy ảnh đi qua. Như một tay săn ảnh nhà nghe, anh dừng lại bấm lia lịa. Bấm tôi đứng cạnh Lê Sơn. Bấm tôi đứng một mình. Rồi nhờ Lê Sơn bấm tôi đứng với Thành Chương. Thật không ngờ: Khi bế mạc đại hội, lên Bắc Giang hai ngày trở về Hải Phòng, đã thấy vợ tôi đưa cho tôi những tấm ảnh — đã ép plastic cẩn thận — chụp tôi đứng một mình, chụp tôi đứng với Lê Sơn và đứng với Thành Chương.
– Anh Lê Sơn mới gửi về.
Vợ tôi nói tên anh như nói tới một người quen cũ. Cũng nói luôn ở đây rằng trong những ngày tôi dự đại hội, vợ tôi rất lo lắng về tôi. Gặp tôi ở đại hội, Lê Bầu bảo:
– Tối qua, Bích gọi điện cho tao hỏi tình hình mày ở đại hội, có vẻ lo lắng. Tao bảo: Yên tâm. Có thể tóm tắt trong bốn chữ: Rực! Rỡ! Tên! Vàng!
Anh nói ngắt từng chữ như người hô khẩu hiệu rồi cười vang sảng khoái, cười rất Lê Bầu, giọng cười mà sau này gặp tôi, Lê Thị Oanh nói Anh Bầu cười mới thích chứ. Không cười thế thì anh ấy chết. Anh ấy khổ quá.— Không chỉ một Bầu cười như thế. Tất cả bọn chúng tôi đều cười để sống. Cười ngay cả những lúc lẽ ra phải khóc.
Ở đại hội tôi gặp lại Phạm Đức, Đoàn Thị Lam Luyến, cả giám đốc Bùi Văn Ngợi rồi Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo nhưng chúng tôi không có thời gian trò chuyện cùng nhau. Riêng với Nguyễn Trọng Tạo, tôi đã nhờ Nguyễn Đình Toán chụp một bức ảnh. Hai anh em tôi ghì vai nhau cười hạnh phúc, bức ảnh rất đẹp mà Đình Kính chú thích là Ruột và Vỏ, ngụ ý một người viết nội dung, một người vẽ bìa. Hôm ấy Tạo mặc áo trắng may theo kiểu Tầu. Anh bảo tôi:
– Em mặc áo trắng để lên đọc tham luận đây.
Bản tham luận của Tạo mang tiêu đề Có bảo hiểm nào cho nhà văn? có nhắc đến Tần Thủy Hoàng đốt sách giết kẻ sĩ, có lời Ba Kim nói: Khổng Minh mắng mà Vương Lãng chết, nhưng chưa từng thấy quyển sách nào bị mắng mà chết cả. Anh còn nói thêm với tôi: Tiểu thuyết thế kỷ 20 mở đầu bằng Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng và khép lại ở Chuyện kể năm 2000. Cũng may là còn sống đến năm nay được đọc Chuyện kể năm 2000. Nếu chết từ năm ngoái chỉ được đọc Số Đỏ thôi.
Và:
– Đọc Nam Cao thấy ngày xưa. Đọc Vũ Trọng Phụng thấy hôm nay. Năm sáu chục năm sau, trăm năm sau đọc Bùi Ngọc Tấn, người ta vẫn thấy họ.
Bản tham luận của Nguyễn Trọng Tạo tất nhiên không được đọc. Anh Đức, thành viên chủ tịch đoàn đại hội, kéo tôi ra hành lang, khoác vai tôi thủ thỉ:
– Ông bảo với Nguyễn Trọng Tạo hộ tôi, còn hơn hai mươi bản tham luận nữa mà thời gian chỉ gọn trong buổi chiều nay. Nó lại đăng ký sau…
Tôi báo lại cho Tạo tin ấy. Tạo cười:
– Em đã biết trước sẽ như thế. Không thế mới là chuyện lạ.
Cùng với chuyện nhân sự, những người ứng cử đề cử vào ban chấp hành, chuyện tham luận là đề tài được các đại biểu bàn tán trong bữa cơm. Tôi thường hay ăn muộn, vào lúc nhà ăn đã van vãn người. Chiều hôm ấy chỉ có tôi và Đình Kính. Hai người một mâm. Sau thêm một đại biểu nữa còn khá trẻ. Đình Kính nói vui:
– Chủ tịch đoàn cắt tham luận của Nguyễn Trọng Tạo là dành thời gian cho tham luận của Bùi Ngọc Tấn, mà Bùi Ngọc Tấn không lên diễn đàn, cứ ngồi im thin thít thôi.
Người đại biểu ăn cùng mâm nói:
– Bùi Ngọc Tấn không cần tham luận. Nguyên chuyện Bùi Ngọc Tấn có mặt tại đại hội đã là bản tham luận hay nhất đại hội rồi.
Sửng sốt trước câu nói, tôi buông đũa, bắt tay anh:
– Cám ơn em. Câu nói hay quá.
Đình Kính vội giới thiệu:
– Nguyễn Đức Thọ phó chủ tịch Hội Văn Nghệ Đồng Nai.
Thọ cười:
– Anh cám ơn em thì em phải nói thật. Câu ấy không phải của em mà của anh Nguyễn Khải. Đầu đuôi thế này. Em là phó đoàn nên được đi họp giao ban đại hội. Giao ban có nhiều mục, trong đó có mục Bùi Ngọc Tấn. Anh Hữu Thỉnh nói đại ý: Tôi đã về nhà anh Bùi Ngọc Tấn, nói anh ấy vẫn đi họp đại hội, vẫn giữ nguyên tư cách đại biểu, chỉ đề nghị anh ấy không đọc tham luận, không họp báo, không trả lời phỏng vấn. Còn một “không” gì nữa em không nhớ. Anh Hữu Thỉnh bảo anh vui vẻ nhận lời cả bốn không ấy. Giao ban về, em mới kể cho mọi người nghe. Nghe xong, anh Nguyễn Khải bảo: Bốn không chứ một nghìn không cũng được. Sự có mặt của Bùi Ngọc Tấn ở đại hội đã là một thắng lợi của đại hội và đấy là bản tham luận hay nhất đại hội.
Nguyễn Khải thật là người sắc sảo. Mặc cho ông bạn Vũ Bão của tôi có những vướng mắc với anh, tôi nghĩ anh là người chân thành. Chân thành mắc lỗi và nhất là chân thành nhận lỗi. Khi nhà văn Đ.V. cùng trang lứa với anh lên đọc tham luận, vừa cũ vừa thõng thẹo, anh bấm tôi ra ngoài hành lang uống cà phê và bảo:
– Nhìn ông Đ.V. đọc tham luận, mình phải bỏ ra ngay vì mình nhìn thấy hình ảnh của chính mình.
Anh bảo tôi:
– Ông không tham luận, không phát biểu là đúng. Nói cái gì? Sách của ông đã nói cho ông hết cả rồi.
Thế nhưng sau này khi nhận lời mời ăn cơm tại nhà Nguyễn Khải ở quận 4 thành phố Hồ Chí Minh có cả Bùi Hồng, nguyên trưởng phòng biên tập nhà xuất bản Kim Đồng và bác sĩ Bùi Văn Lâm, tôi ngỏ lời cám ơn anh về câu anh nói với Nguyễn Đức Thọ, anh lắc đầu tỉnh bơ: “Không, mình có nói câu ấy đâu.” Nguyễn Đức Thọ đã mất. May còn Đình Kính chứng cho tôi chuyện này. Trước đó tôi cũng đã kể lại chuyện trên về Nguyễn Khải cho Bảo Ninh nghe và kết luận: “Ông Khải cũng được lắm Bảo Ninh ạ.” Bảo Ninh cười sự ngây thơ của tôi: “Đấy là sách của ông ấy.”([3])
Từ bữa cơm chiều hôm ấy, tôi và Nguyễn Đức Thọ rất thân nhau. Anh tặng tôi tập truyện Kỷ Niệm Làng Che của anh. Đoán được những gì tôi nghĩ, anh bảo:
– Em sẽ xoay được bộ sách của anh. Anh không phải nghĩ ngợi. Em đang đọc. Đọc trong đại hội. Gần hết tập hai rồi. Mượn của Phạm Xuân Nguyên. Em vẫn ngủ ở nhà Phạm Xuân Nguyên đấy chứ có ngủ ở nhà khách chính phủ buổi nào đâu.
Thú vị làm sao. Anh là bạn của Phạm Xuân Nguyên. Những người như thế hẳn là phải đến với nhau. Thọ bảo tôi vào thành phố Hồ Chí Minh thế nào cũng phải về Đồng Nai với anh. Mấy tháng sau, khi anh là đại biểu ra dự đại hội toàn quốc Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam — một cái tên gọi mới dài làm sao! — từ Đồng Nai ra Hà Nội tới nhà Phạm Xuân Nguyên, anh lại gọi điện về cho tôi, hỏi thăm vợ chồng tôi và nhắc lại lời mời. Tôi hiểu rằng từ nay mình có nhiều bạn ở các nơi. Trong chuyến vào thành phố Hồ Chí Minh thăm con gái dự tính trong tương lai, tôi đã nghĩ đến những nơi sẽ tới, trong đó có Hội Văn Nghệ Đồng Nai mà Hoàng Văn Bổn làm hội trưởng, Nguyễn Đức Thọ làm hội phó thì được tin Thọ bị bạo bệnh qua đời. Thật quá bất ngờ. Tôi đọc lại tập sách anh tặng tôi. Nhìn ảnh anh trên báo Văn Nghệ. Anh còn trẻ quá. Đẹp trai. Khoẻ mạnh. Tài năng.
Bạn đọc thứ lỗi cho tôi vì những dòng lan man này. Đó là nén hương từ Hải Phòng tôi thắp trước mộ anh. Năm 2001, năm đầu tiên của thế kỷ 21, nghệ thuật bị tổn thất nặng nề. Mở đầu là Lê Dung. Rồi Nguyễn Đình Nghi. Nguyễn Đức Thọ. Và Trịnh Công Sơn, Đào Mộng Long, Nguyễn Đình Phúc…
Còn những ai tiếp theo?
*
Trong những ngày họp Đại Hội Nhà Văn có một chuyện tôi phải lo là sách tặng. Bộ tiểu thuyết của tôi in vào cuối tháng 1, đầu tháng 2, bị cấm vào tháng 3, Đại Hội Nhà Văn họp vào giữa tháng 4, nghĩa là có một thời gian đủ để người ta đọc và bàn luận về nó, một thời gian đủ để dư luận đến độ nhất. Nhiều người chưa đọc. Lại càng nhiều người chưa có sách. Tôi hiểu trách nhiệm của mình với một số bạn bè. Không thể không tặng sách Nguyễn Gia Nùng. Chúng tôi quen nhau từ độ tuổi 20. Anh là biên tập viên nhà xuất bản Lao Động, chịu trách nhiệm biên tập quyển tiểu thuyết Làn Sóng Thứ Nhất của tôi — nó đã bị tịch thu khi tôi bị bắt. Và khi tôi ở tù ra, lang thang Hà Nội, anh đã kéo tôi về nhà anh trong khu Nhà Hát Nhân Dân — nay là cung văn hoá Hữu Nghị — ăn với anh một bữa cơm có cả thịt gà. Món thịt gà ngày ấy tương đương với món yến sào hiện nay. Không thể không tặng Lê Lựu khi anh bảo thẳng tôi, kể công với tôi:
– Em đấu tranh cho anh như thế mà anh không cho em sách à?
Lê Lựu trong ban chung khảo cuộc thi sáng tác hai năm 1998–1999 của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội và tôi đã đoạt giải. Không thể không tặng Hải Như, người tôi đã quen gần nửa thế kỷ, là bạn của anh Xuân Thu tôi. Và Nguyễn Thị Ngọc Hải, đã chuyển vào Sài gòn, trước đây là thông tín viên của tôi khi tôi còn làm báo Hải Phòng. Không thể không tặng Cao Xuân Sơn tận Cao Bằng, người tôi mới quen khi đi trại sáng tác quân đội cuối năm 1999, bởi tôi biết chắc sách của tôi khó mà có được ở nơi xa xôi ấy. Cao Bằng là cơ sở trắng ngụ ý không có một tập Chuyện kể năm 2000 nào, theo cách nói của Lê Bầu. Còn Nguyễn Khải nữa, người lúc nào cũng ân cần với tôi dặn tôi đừng phát biểu, có gì sách nói hết rồi. Cũng may Trần Thị Trường đã cáng cho tôi cái suất Nguyễn Khải. Ôi chuyện Trần Thị Trường đưa sách cho Nguyễn Khải mới thật vui.
Trường bảo: Em dùng mỹ nhân kế. Em xách túi sách lên ngồi nhờ ô tô của một ông sếp ở Cục Xuất Bản. Thế là yên tâm chứ còn gì. Xe vào đến cửa hội trường thì có lệnh tất cả đi viếng lăng Bác. Đi viếng lăng Bác thì không ai được mang theo túi. Thế là phải để túi lại trên xe. Ô tô lùi đi đâu mất. Lo quá. Người ta phát hiện ra thì gay go to. Em đã nghĩ mang sách vào hội trường chỉ có đi ô tô là tốt nhất. Đã dùng mỹ nhân kế, đi ô tô với ông sếp Cục Xuất Bản, tưởng an toàn tuyệt đối, nào ngờ. Suốt thời gian viếng lăng Bác, em cứ lo ngay ngáy, ngộ nhỡ có trục trặc gì. Viếng lăng xong, em tìm ô tô. May, ông lái vẫn ngồi trên xe. Túi vẫn còn. Gói sách trong túi vẫn nguyên. Đến khi vào họp, em ngồi cạnh anh Khải, em bảo: Bộ Chuyện kể năm 2000 em để gầm bàn ấy. Anh cầm lấy đi. Anh Khải giẫy nẩy: Để lúc khác chứ. Bây giờ anh cầm sao được. Thế là em cứ ôm bộ sách. Vừa bực vừa lo.
Tôi thông cảm với việc “cứ ôm bộ sách” của Trần Thị Trường. Tôi còn phải ôm nhiều bộ sách hơn Trường. Sách thì dầy. Gần nghìn trang. Nhét hai bộ vào cái túi xách — quà của Bộ Công An tặng các đại biểu — là đã căng phồng. Trạm trung chuyển tôi đặt ở nhà Lê Bầu. Sách tôi mua của Luyến. Ngày nào cũng gặp Luyến ở đại hội, cần bao nhiêu, tôi rỉ tai là Luyến cho người mang đến nhà Bầu. Lê Bầu mang sách đến sớm, trước lúc họp, tới tận phòng tôi để tôi có thời gian đề tặng. Tôi công khai số sách và công khai ghi tặng trước ba nhà văn nhà thơ cùng phòng. Ghi tặng ai xong thì phải tìm được đúng người ấy để trao cái thứ hàng quốc cấm ấy. Mà người mình tìm chẳng thấy đâu. Kiểu như đề tặng Lê Lựu nhưng lại cứ thấy Nguyễn Thị Ngọc Hải là người đến chiều tôi mới có sách Bầu bồng đến để mà đề tặng. Xách cái túi như vậy đi ngay trong hội trường như mang theo thuốc phiện lậu. Lại cứ lang thang hết nơi này nơi khác nhìn ngó kiếm tìm, thật đúng là tự tố giác mình. Tôi ngồi cạnh anh Kim Lân mà không thể nào đưa được bộ sách đã gói kỹ cho anh, bởi chung quanh chúng tôi có rất nhiều người. Mãi sau khi bế mạc đại hội, may quá, gặp Thành Chương ở nhà Lê Bầu, tôi nhờ Thành Chương chuyển. Tập sách tôi tặng anh Hải Như cũng vậy. Anh Hải Như dúi vào tay tôi một trăm nghìn và bảo: Mày phải có cho anh. Làm thế nào thì làm.Tôi nhận tiền của anh ngay. Rất vui vẻ. Tôi hiểu rằng anh Hải Như đoán được những khó khăn về kinh tế của tôi. Tôi đã chi hai chục triệu đồng sách tặng. Ôm bộ sách, tôi tìm anh. Đến chỗ anh ngồi. Nhưng không có cách nào đưa được. Chúng tôi thống nhất để đến lúc giải lao. Giải lao cũng không đưa được. Lang thang một lúc tôi vào nhà vệ sinh thì may sao anh Hải Như đang ở đó. Chúng tôi kéo nhau vào một góc. Ngồi sụp xuống. Chụm vào nhau. Tôi kéo phec mơ tuya túi của tôi. Anh kéo phec mơ tuya túi của anh. Những cái túi tặng phẩm của Bộ Công An giống hệt nhau. Soạt. Soạt. Hàng được trao rất nhanh. Lại rất nhanh soạt, soạt. Đóng túi. Cả hai chúng tôi cùng quay ra. Thật may. Không có ai. Lúc bấy giờ tôi mới làm cái việc đi tiểu, còn anh Hải Như với vẻ mặt tự nhiên nhất đời của người vừa vào toa lét, xách túi bước ra phòng họp. Trong nhà mét hội trường Ba Đình, tự nhiên tôi nghĩ đến Phạm Văn Giăng, người bạn tù của tôi, tôi nghĩ đến cái nhà mét bê dê — nhà xí buồng D. Tôi và Giăng có việc gì cần nói với nhau hoặc dúi cho nhau quả cam, cái bánh bích quy phải hẹn nhau kẻ trước người sau làm như vô tình gặp nhau trong đó.
Sau khi đã trao được sách cho Hải Như, coi như đã lập một chiến công, tôi khoe với Bão Vũ. Kiến trúc sư Bão Vũ giật mình:
– Lần sau anh đừng dại thế. Những nơi quan trọng như hội trường Ba Đình, mọi chỗ khuất đều đặt camera. Em làm kiến trúc em biết.
Tôi nghe mà hoảng. Nhưng lại tự động viên: Sách gói trong giấy báo. Camera có ghi hình cũng chỉ là gói sách chứ không biết là sách gì. Nếu có hỏi thì trả lời tôi mua của các cháu bán rong. Đầy cả ngoài kia.
Mà kể cũng lạ. Quyển sách “nguy hiểm” như thế, chịu một quyết định nghiêm khắc là thu hồi tiêu huỷ như thế, tập sách làm một số vị nổi điên lên, tìm mọi biện pháp quyết liệt nhất tiêu diệt nó, tập sách tôi phải tính toán kê khai từng quyển cho vừa khớp số lượng 1500 bộ lại vẫn được các em bán sách báo mang bán rong khắp phố phường Hà Nội, và càng tập trung đông ở khu vực chung quanh đại hội nhà văn. Giá bán thì tuỳ. Rất linh hoạt. Trần Quốc Vượng mua ba trăm rưởi, cho người mua hộ mười nghìn là ba trăm sáu. Giá Vượng mua là giá trên trung bình. Ông cán bộ giảng dạy trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng nói với tôi là anh mua năm trăm nghìn. Thằng bé bán sách thấy Thắng để ria mép, đeo kính râm, nghi anh là công an, dẫn anh đi ngoằn ngoèo rất xa, bảo anh đứng chờ, rồi một “vệ sĩ” to béo, dân giu đô chính hiệu từ đâu đến giao sách cho anh. Thắng nói:
– Quyển của tôi có lẽ là quyển nối bản, giấy trắng lắm, in đẹp lắm. Bìa không in giá.
Một buổi chiều đại hội, tôi và nhà thơ Thanh Tùng tác giả Thời Hoa Đỏ, hoa như mưa rơi rơi cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi rủ nhau đi uống bia. Rời nhà khách chính phủ, chúng tôi sang một quán bia nhỏ bên kia đường. Từ ngày Thanh Tùng vào Sài Gòn chúng tôi ít gặp nhau. Nên muốn được yên tĩnh chuyện trò. Nhưng chú bé bán sách không để yên. Chú ngồi thụp sát chân chúng tôi và cứ nằn nì chúng tôi mua sách. Muốn đuổi chú đi, Thanh Tùng hỏi sẵng:
– Có Chuyện kể năm 2000 không?
Mắt chú sáng lên:
– Có đây bố ạ. Nhưng con lấy lại của bạn con nên hơi bị đắt. Cả bộ hai tập hai trăm tám. Con lấy của bạn con đã hai trăm rưởi rồi.
Tôi nhìn vào khay sách trên tay chú và dễ dàng nhận ra hai tập sách của tôi. Tôi rút tập hai ra, lật bìa bốn lên, để trên bàn và quay lại nhìn chú bé bán sách:
– Mày trông có giống bá không con?
Thằng bé trố mắt, hết nhìn tấm ảnh trên bìa lại nhìn tôi. Mãi cu cậu không hết ngạc nhiên. Rồi cầm tập sách cho vào khay:
– Con chào bá.
Hai chúng tôi được một trận cười và cũng được yên tĩnh chuyện trò. Đã tưởng chia tay hẳn với chú bé bán sách, nào ngờ tôi lại gặp chú. Trưa hôm sau, nhận bộ sách tặng của tôi, Lê Lựu mời tôi đi làm mấy vại bia. Cùng đi với chúng tôi có Phạm Tiến Duật và Lê Bầu. Lựu bảo:
– Để em kiếm quyển Hai Nhà tặng anh.
Hai Nhà là quyển tiểu thuyết của Lựu xuất bản trước sách của tôi ít ngày. Cũng nhà xuất bản Thanh Niên. Quán bia nào quanh khu vực Ba Đình những ngày đại hội mà chả có những chú bé bán sách. Lựu gọi một chú đến. Cuộc mặc cả không thành. Tôi chăm chú vào vại bia và vào câu chuyện Phạm Tiến Duật vừa đi Đức về kể, không để ý đến chú. Lựu bảo tôi:
– Chiều, em mua sách ở quầy sách phục vụ đại hội tặng anh. Ở đây nó bán đắt lắm.
Lúc bấy giờ mới ngẩng lên nhìn theo thằng bé bán sách. Nó đã đang khệ nệ khay sách mời chào bàn bên cạnh. Ơ! Chú bé bán sách hôm qua! Thấy tôi nhìn, chú nhoẻn miệng cười như cười với một người cùng hội cùng thuyền. Mà đúng là cùng hội cùng thuyền thật. Tôi viết sách cấm. Chú bán sách cấm tôi viết. Tôi vẫy.
Chú bé Gavroche của tôi bước tới thân mật:
– Gì hở bá?
Tôi kéo chú cúi xuống, thì thầm vào tai chú:
– Thế mỗi bộ của bá mày kiếm được bao nhiêu?
– Được dăm chục — nghìn — bá ạ.
– Con bán được tất cả bao nhiêu bộ rồi?
– Từ đầu vụ tới giờ con bán được bốn chục bộ. Thằng bạn con bán được gấp đôi con.
– Bá mừng cho mày. Thế là chúng mày thắng chứ bá thì rách lắm.
Chú bé cười toe toét.
Ba người cùng bàn không biết chúng tôi chuyện với nhau những gì vì chúng tôi nói nhỏ và quán ăn quá ồn ào. Hơn nữa các anh cũng đang say chuyện. Tôi nhìn theo chú bé bụi đời len lỏi giữa các bàn ăn, với khay sách nặng trĩu trên tay, vất vả, lăn lộn, nhọc nhằn, trào lây niềm vui sống của chú. Thôi thì ít nhất mình cũng đã giúp được một số người như chú, mang lại niềm vui cho những người như chú. Chú bé Gavroche của tôi.
B.N.T.
  ([1])Thơ Vũ Hoàng Chương.
(2) Tôi có một nhược điểm là rất hay quên tên — ngay anh chị Phong Lê hôm trước vừa tặng tôi sách, hôm sau gặp nhau tôi ngớ ra khiến anh phải nói: Phong Lê. Tất cả ập đến tôi cùng một lúc nên lại càng không thể nhớ.
(3) Có lẽ Bảo Ninh, Vũ Bão, — và sau này khi bàn luận về di cảo Đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải — Dương Tường và Vương Trí Nhàn đã đúng.
(Xem tiếp kỳ sau)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

THỦ ĐÔ HÀ NỘI MỪNG QUỐC KHÁNH BẰNG HOA TƯƠI TRUNG QUỐC


alt

RƯỚC HOA TƯƠI TỪ TRUNG QUỐC VỀ TRANG TRÍ 
MỪNG QUỐC KHÁNH VIỆT NAM?

Mạc Văn Trang

 
Chiều tối nay, con gái và con rể đi chơi phố cổ, Hồ Gươm về, hỏi, có gì hay không? Bọn nó liền kể chuyện, thấy một đống mấy chục hộp ghi chữ Tàu, chuyển từ ô tô xuống xếp ở bờ Hồ. Thấy lạ liền đến nơi hỏi mấy chị đang xới đất, xem đây là hộp gì? Một chi lấy từ một hộp ra mấy nhánh hoa trông màu lạ, như hoa giả, liền hỏi: Hoa giả à chị? - Không hoa thật đấy, đang nhổ hoa cũ, xới đất trồng hoa mới chào mừng Quốc khánh... 

Cả hai đứa đều phàn nàn, sao nước mình thiếu gì hoa mà đi nhập hoa Tung Quốc về trang trí ngày Quốc khánh!? 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGÔI NHÀ KHÔNG CỬA


“Tôi sống trong một ngôi nhà không cửa
Mỗi người đến thăm phải mang theo cửa trên lưng
Lắp vào ngồi nói chuyện, xong
Khi từ biệt họ ra đi cùng với cửa”...
Phan Nhiên Hạo



Hắn không biết vì sao hắn lại mắc kẹt trong ngôi nhà này. Cha hắn nói: “Đấy là sự bất công mù mờ của lịch sử”. Mẹ hắn lại nói: “Đấy là do lựa chọn của cha mày!”
Hắn không biết nên tin cha hay tin mẹ. Cuộc sống tù mù và rối rắm đến nỗi không biết phải tin ai. Nếu hỏi gã hàng xóm, chắc câu trả lời sẽ rất khác. Nhưng hắn chưa bao giờ gặp được hàng xóm hoặc người nào khác vì suốt đời hắn phải ngồi trong ngôi nhà hình chữ S hoặc chữ L gì đó, tương tự một căn hầm loằng ngoằng. Lần lượt mẹ và cha qua đời đều được chôn xuống dưới nền nhà. Hắn chưa bao giờ thoát ra được khỏi nhà: Nhà hắn không hề có cửa!
Ánh sáng muốn lọt được vào nhà phải lọt qua các lỗ thông gió. Gió muốn lọt vào nhà phải đi vòng qua kẽ ngói. Ánh sáng và gió đã bị trừng phạt, bị thủ tiêu ngay khi lọt vào trong. Nhà tối om om. Mỗi tuần, hắn được một bàn tay dài ngoẵng nhét các thứ cần thiết cho sinh hoạt qua một cái lỗ mà ánh sáng thường đi qua. Hắn nói: “Thế giới này bị dịch hạch, chết hết rồi, không thấy đứa nào bén mảng!”
Hắn không biết rằng thế giới bên ngoài đang vô cùng rộn rã và tràn ngập sắc màu. Lịch sử của bản thân hắn được thiết kế bởi sự ngu dốt thật thà của các vị thân sinh nên đối lập hẳn với lịch sử loài người. Trong một buổi trưa yên tĩnh nào đó, hắn đã bực dọc nghĩ thế, và sau đó hắn hét to lên như một con hổ sa bẫy:
“Ai đến thăm tôi không? Sao đời hoang vắng quá!”
Hắn lặp đi lặp lại câu nói đó 4.084 lần, tương đương bốn nghìn không trăm tám mươi tư năm lịch sử. Lịch sử có vẻ tù mù đầy thiên vị nhưng kỳ thực cũng khá khách quan và biện chứng. Bằng chứng là bên ngoài ngôi nhà hắn sống thiên hạ vẫn thường xuyên qua lại. Người ta nhìn ngôi nhà bịt kín ấy và liên tưởng đến một nhà tù của các thế lực hắc ám âm mưu chống lại loài người. Người ta muốn vào trong để xem thử cuộc sống của tù nhân diễn ra thế nào, nhưng, không có cửa để vào!
“Sao đời hoang vắng quá, Ai đến thăm tôi không?”
Hắn nói câu nói đó đến lần thứ 4.085 thì có người nghe...
Không biết có phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên kỳ lạ hay không mà người đầu tiên nghe được câu nói của hắn là một nhà thơ! Nhà thơ ấy đang nằm trên bãi cỏ để khóc thương cho cuộc tình nào đó trong quá vãng, nhân thể khóc thương cho biển đảo quê hương đang bị xâm lấn từng ngày, nhân tiện, bày tỏ lòng kiên trung son sắt với đất nước thân yêu...
? xứ này, nhà thơ như thế, đi ngả nào cũng gặp, đông lắm, vậy nên, trong buổi chiều hoang vắng, nhà thơ nghe những tiếng âm u vọng ra từ ngôi nhà trơ trọi. Anh ta thốt lên: “Ồ, có ai đọc thơ ở trong này mà xao xuyến lạ? Đó đích thị là một câu thơ hay: 'Ai đến thăm tôi không? Sao đời hoang vắng quá!' Cực hay!”
Bạn có ý tưởng gì? Các nhà thơ là những người có nhiều ý tưởng nhất trong thiên hạ. Điều đó là không phải bàn cãi. Vậy nên, ngay ngày hôm sau, nhà thơ ấy đã làm một việc khá bất ngờ: Ông ta mang theo một cánh cửa trên lưng, nhẹ nhàng, trịnh trọng đến thăm ngôi nhà ấy, như một chính khách quốc tế đến thăm quốc gia khác theo một lời mời ngoại giao chính thức.
Hắn ở trong nhà với câu thở than quen thuộc: “Ai đến thăm...”
Tiếng lạch cạch bên ngoài vọng vào, và tiếng người dõng dạc trả lời: “Có tôi đến thăm anh...”
Hắn mừng, cười rú lên như một gã khùng.
Bằng cánh cửa vác theo ấy, và theo một cách thức nào đó hơi kỳ quặc, nhà thơ đã vào được bên trong ngôi nhà. Và họ nói chuyện với nhau như một đôi tri kỉ nửa đời gặp lại, rạo rực, mê say, hoan hỉ, xót xa... Câu chuyện ấy mãi mãi là một bí mật, vì không ai nghe được. Bốn bức tường có nghe nhưng không hiểu gì. Chú chim sẻ làm tổ trên mái ngói cũng có nghe nhưng không hiểu gì. Đến tối mịt, họ chia tay nhau, nước mắt nước mũi ròng ròng...
Nhà thơ ra khỏi nhà và vứt cánh cửa lại trên bãi cỏ, mãi mãi không trở lại. Cũng từ đấy không còn ai nhìn thấy nhà thơ nằm trên bãi cỏ làm thơ nữa. Nghe đâu, anh ta đi ra biển làm dã tràng xe cát, có lẽ đó cũng chỉ là lời đồn đại ác ý mà thôi...
Nhà thơ đi rồi, cánh cửa vẫn nằm đó, màu đỏ, tróc sơn, han gỉ. Có người đi qua giẫm lên; lũ trẻ chạy qua, ngồi lên; lũ chó đi qua, co chân đái lên. Thỉnh thoảng, cũng có một người nào đó trân trọng vác cánh cửa lên vai, kê vào ngôi nhà của hắn để vào trong. Không ai biết hắn và các vị khách đã nói gì với nhau, nhưng rồi, kết cục giống nhau là không ai trở lại thăm hắn lần thứ hai. Điều đó thuộc về bí mật của lịch sử.
Những điều bí mật thường kích thích trí tò mò của đám đông hiếu kỳ nhiều chuyện. Người ta vác đến một lần chín cánh cửa giống nhau với quyết tâm giải phóng cho con người đang đau khổ vì cô đơn trong đó.
Đồng loạt chín cánh cửa mở ra, các vị khách bước vào. Nhưng hắn đã chết từ lâu!
Hắn đã chết, vẫn ngồi ngay ngắn trên ghế. Trong ngôi nhà hoang vắng, tiếng than thở của hắn vẫn còn vang vọng: “Ai đến thăm tôi không? Sao đời hoang vắng quá!”
Người ta thấy những dòng chữ bằng máu viết chi chít lên tường, nhưng không ai biết nội dung thể hiện điều gì. Ngoài ra, còn một số hình vẽ về những cái đầu lâu đang di chuyển phía sau một tấm áo choàng màu đỏ, cũng không hiểu là muốn nói điều gì.
Ngôi nhà hắn ở sau này trở thành một điểm tham quan của du khách trên toàn thế giới. Người ta đề bảng chỉ dẫn ở ngoài: “Nơi đây, một nhà thơ kiên cường bất khuất đã chống lại quyền lực bạo tàn đến hơi thở cuối cùng!”


Phần nhận xét hiển thị trên trang