Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2015

sự hâm mộ tập trung vào một cá nhân.

Đức Thắng
Nếu chú ý, việc sùng bái cá nhân lãnh tụ dường như chỉ tập trung ở một vài quốc gia mà sự phát triển đất nước không cao.
Những nước đi đầu về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật…, những nước luôn được các quốc gia nhỏ lấy làm tấm gương để phát triển, ở những nước này lại hầu như không thấy sự hâm mộ tập trung vào một cá nhân.
Đầu tiên là Mỹ. Tổng thống Mỹ Barack Obama rất được hâm mộ, nhưng chủ yếu vì ông là người da màu đầu tiên nắm chức vụ này chứ chẳng phải vì quá xuất sắc so với những người tiền nhiệm.
Mới đây vị Tổng thống Mỹ đã nhắc khéo giới lãnh đạo châu Phi (vốn nổi tiếng về tham quyền cố vị) rằng ông yêu thích công việc này và hoàn toàn có thể làm thêm nhưng hiến pháp Mỹ không cho phép.
Không chỉ là luật pháp, thực tế nước Mỹ đúng là không cần một vị Tổng thống nào cầm quyền lâu dù người ấy có xuất sắc thế nào đi nữa. Tổng thống Mỹ cũng chỉ là người có nhiều quyền quyết định nhất chứ không thể một mình làm nên tất cả.
Vẫn còn những cơ chế quyền lực khác như Quốc hội để đảm bảo nền dân chủ của nước Mỹ và đảm bảo rằng mọi quyết định của người đứng đầu đất nước hợp với đa số những người đại diện nhân dân.
Nước Mỹ đã trải qua bao đời Tổng thống, cũng có nhiều ông nổi tiếng, nhưng chẳng có ông nào được cho là lãnh tụ vĩ đại để đem ra ca ngợi mọi lúc mọi nơi cả.
Sau khi Franklin D. Roosevelt – một trong những Tổng thống vĩ đại nhất qua đời khi đang làm nhiệm kỳ thứ 4, Mỹ ra luật người đứng đầu Nhà Trắng chỉ được nắm quyền tối đa 2 nhiệm kỳ.
Từ đó cứ đều đều ông 1 nhiệm kỳ, ông 2 nhiệm kỳ. Có ông xuất sắc, có ông kém hơn một chút. Nhưng nước Mỹ có thay đổi gì không? Chẳng có gì cả, vẫn dẫn đầu thế giới.
Quay sang Nhật. Nếu chỉ nhìn vào mật độ thay Thủ tướng thì nước này có thể bị đánh giá là bất ổn nhất thế giới.
Ông Kim Jong-un là lãnh đạo tối cao của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên.
Trước khi Junichiro Koizumi lên nắm quyền, Nhật Bản có 10 Thủ tướng trong 12 năm. Sau khi ông rời nhiệm sở, đất nước mặt trời mọc cũng có 6 người đứng đầu đất nước trong 6 năm. Đến nay mới có một người có thể tái đắc cử là đương kim Thủ tướng Shinzo Abe.
“Bất ổn chính trị” như thế nhưng Nhật vẫn là nền kinh tế hàng đầu thế giới. Ngay cả thời kỳ phát triển thần kỳ trước đây, người ta cũng không tìm ra một vị lãnh tụ có công lao to lớn nhất đối với đất nước Nhật để tôn làm thần thánh. Thành quả của nước Nhật là của một tập thể nhiều người xuất sắc.
Đức, Anh, Pháp, Ý, Canada… cũng vậy, sự phát triển của họ cũng không gắn liền với một tên tuổi cụ thể nào.
Singapore là một trường hợp hiếm hoi khi cố Thủ tướng Lý Quang Diệu được coi là người khai quốc công thần. Nhưng ở đây người ta cũng không dựng tượng tràn lan để “đời đời nhớ ơn” dù công lao của Lý Quang Diệu là không phải bàn cãi.

Các nước “chưa phát triển”

Các lãnh tụ vĩ đại đặc biệt phổ biến ở những nước kém phát triển hơn. Có thể kể ngay ra đây: Triều Tiên, Cuba, Việt Nam, Lào, Campuchia, Trung Quốc.
Ở Triều Tiên là cha con Kim Nhật Thành và Kim Jong Il, Cuba là Fidel Castro, Lào có Kaysone Phomvihane, Campuchia có Norodom Sihanouk, Trung Quốc có Mao Trạch Đông...
Đây phần lớn đều là những nước nghèo cả. Trung Quốc có thể có tổng sản phẩm quốc nội lớn, nhưng bình quân đầu người còn thấp, phát triển nhanh nhưng không bền vững.
Có thể ai đó sẽ nói rằng, vì kém phát triển nên cần phải có những con người vĩ đại để làm chỗ dựa tinh thần và soi đường chỉ lối. Nghe thì cũng có lý nhưng thực tế những nước này đã trải qua gần nửa thế kỷ hòa bình mà không phát triển được nhiều.

Vì sao?

Thứ nhất: Các nước phát triển đều là những nơi tự do thông tin, nên bất kể nhân vật nào cũng được đánh giá theo nhiều chiều. Mà trên đời không ai hoàn hảo, nên một phần cũng vì lý do này mà các nước lớn ít sùng bái chính trị gia – một nghề luôn cần nhiều thủ đoạn.
Ngược lại, vì bị che dấu thông tin nên các nước nhỏ luôn cảm thấy lãnh tụ của mình vĩ đại hơn lãnh đạo nước lớn, dù khả năng nước nhỏ sản sinh ra người tài hơn nước lớn là không nhiều.
Thứ hai: Ở các nước phát triển, các học thuyết, hệ tư tưởng luôn phải được đổi mới, bổ sung, phát triển cho phù hợp với thời đại. Nên các nước này không bám lấy một hình ảnh nào mãi.
Những cá nhân đó nếu quả thật có vĩ đại thì cũng mất rồi, sau khi họ qua đời mà cứ bám vào quá khứ liệu có sáng suốt?
Tư duy của một người ở nửa thế kỷ trước liệu có còn thích hợp với thời hiện tại? Ở đây không có ý chê bai lãnh tụ, nhưng tầm nhìn của một con người nhìn chung cũng có giới hạn. Làm sao bắt một người phải thấy được tương lai của loài người trong 100 năm tới?
Điều này lãnh đạo các nước Xã hội Chủ nghĩa cũng thừa hiểu, nhưng họ cần một biểu tượng hoàn hảo để chống đỡ cho chế độ, để người dân luôn trong nỗi lo sợ bị người khác đánh giá là suy thoái đạo đức khi dám động đến tấm gương sáng ngời của lãnh tụ.

Hậu quả

Thực tế chứng minh, việc đề cao một cá nhân hầu như không ích lợi gì cho nhân dân và đất nước, nó chỉ tốt cho nhà cầm quyền muốn duy trì sự độc tài. Các nước Xã hội Chủ nghĩa đã thế, sau này lại thêm một số lãnh tụ thời hiện đại như Putin, Hugo Chavez... và đều không thể đưa đất nước tiến lên.
Những quyết định độc đoán không dựa trên ý kiến của một hội đồng hiếm khi mang lại kết quả tốt đẹp. Putin nóng đầu sáp nhập Crimea vào Nga, nhưng chỉ sau một thời gian đã cho thấy: đối đầu với phương Tây là một việc làm duy ý chí. Hugo Chavez quốc hữu hàng loạt những ngành kinh tế lớn để rồi bây giờ nền kinh tế nước này sụp đổ.
Phương Tây có thể chia rẽ, tranh cãi gay gắt về nhiều vấn đề, trong đó bao gồm cả phương cách đối đầu với kẻ thù, những cái đó luôn được trưng ra khiến cho các nước độc tài “luôn nhất quán trong mọi hành động” chê cười.
Nhưng về lâu dài, phần thắng luôn thuộc về phía “không đoàn kết” kia khi mà mỗi hành động của họ đều trải qua thảo luận và phe có nhiều sự hợp lý hơn luôn chiếm đa số, mọi thứ luôn được đặt lên bàn cân để tính toán kỹ lưỡng chứ không phải sau một phút bốc đồng hoặc chỉ vì một lý tưởng mù quáng.
Trung Quốc là một trong các quốc gia cũng tôn thờ lãnh tụ
Một khi đã quyết định chiến đấu với Nga là phương Tây đã suy tính đủ rồi, nên Putin không thể đương đầu lại.
Tóm lại, thời mà một cá nhân với quyền lực vô song quyết định tất cả đã xa rồi.
Truyền hình Việt Nam đang chiếu lại bộ phim “Tể tướng Lưu gù” vào 20h hàng ngày trên VTV2. Phim có đoạn Lưu Dung kịch liệt phản đối quyết định của Hoàng đế Càn Long khi vị vua cho xây dựng một ngôi chùa tiêu tốn 8 triệu lạng bạc trong lúc dân ở lưu vực sông Hoài đang đói kém vì lũ lụt, người chết đói đầy đường.
Chỉ với một lý lẽ: “Phật thì cần ở chùa, dân thì cần gạo ăn, bên nào cần hơn trẫm khắc tự biết” của Hoàng thượng, mọi lời kêu gọi của vị Tể tướng đều vô vọng. Cứ mỗi câu “Hoàng thượng, hãy lấy dân làm gốc!”, Lưu Dung lại bị hạ thêm vài cấp bậc, nhưng ông vẫn không ngừng lời cho đến lúc bị lột hết mũ áo, tống ra khỏi cung điện.
Vào thời đó, “kháng chỉ” là tội chém đầu và Lưu Dung may mà chỉ bị đuổi về quê, còn việc xây dựng thì vẫn cứ phải tiến hành vì thánh chỉ một khi đã ban ra là không thể thay đổi được.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hiroshima: 'Bức hình hiếm của sự sống'

Nguyễn Hoàng

Bức hình được chụp khi phóng viên ảnh Matsushige lấy được can đảm sau 20 phút do dự ban đầu.
Chỉ sau một ngày khi trái bom nguyên tử thả xuống Hiroshima, quân đội Mỹ đã điều lính tới thành phố này để tịch thu tất cả phim ảnh mà các phóng viên chụp vào buổi sáng kinh hoàng này.
Bảy năm sau khi cuộc chiến kết thúc, tức vào tháng 9/1952, công chúng Mỹ và thế giới lần đầu tiên mới được thấy những tấm hình ghi lại điều gì xảy ra trong những giờ đầu tiên sau khi bom nổ.
Một trong vài bức hiếm hoi đã ghi lại hình các nạn nhân trên cây cầu Miyuki ở thành phố này, được chụp khoảng 3 giờ sau khi bom nổ.
Bức hình của phóng viên ảnh Yoshito Matsushige, chụp gần đầu cây cầu này, cho thấy một nhóm người sống sót và ngay sát họ có những người đã chết.
Mitsuko Kouchi lúc đó 13 tuổi, đang học cấp hai, là một trong số những người trong ảnh.
Bà Kouchi năm nay 83, tuổi. Vào ngày 08/06/1945 đang theo học cấp hai ở Hiroshima.
Trong cuốn phim tài liệu của NHK phát vào tối hôm 06/08 vào tuần này tìm hiểu về những người sống sót trên cây cầu, bà Kouchi, năm nay 83 tuổi, kể lại những gì xảy ra.
“Tôi đang cùng bạn trong lớp tham gia dọn dẹp trong một khu nhà trong thành phố thì bom nổ.
“Bất chợt có gió nóng khủng khiếp ùa vào cửa sổ như bão lớn làm vỡ kính và các mảnh kính văng vào người chúng tôi, nhiều bạn tôi chết ngay tại chỗ.
“Tôi không hiểu sao tôi và một người bạn nữa lại thoát chết, chúng tôi tìm đường ra khỏi thành phố và chúng tôi phải đi qua cây cầu này mới ra khỏi khu vực có các đám cháy lớn.
Bà Kouchi bị ám ảnh bởi tiếng kêu la của một người chị cố đánh thức người em đã chết ngay trên tay.
“Khi tới cây cầu tôi đã thấy nhiều người nhảy xuống sông vì họ bị bỏng nặng, có nhiều người chết ngay bên bờ sông và cả trên dòng sông.
“Tôi đã gặp cha tôi tại cây cầu này, khi tôi đụng vào vết bỏng trên cánh tay của cha tôi thì cả mảng da bị tuột ra,” bà Kouchi nói.
Điều làm bà Kouchi bị ám ảnh và muốn nói tới ngày hôm nay là tiếng than khóc của người chị gái bế đứa em còn nhỏ của mình. (xem hình trên)
“Người chị kêu lớn “Dậy đi em, dậy đi….”, thế nhưng em bé không cất tiếng nói,” bà Kouchi kể lại.
Hai trong số 5 tấm hình phóng viên ảnh Yoshito Matsushige của Báo Chugoku, khi đó 32 tuổi, chụp khoảng 11 giờ sáng ngày 06/08/1945 tại cây cầu này cho thấy tóc của các nạn nhân bị cháy xém và một số người bôi dầu nấu ăn lên da làm giảm bớt vết bỏng.
Phóng viên ảnh Matsushige chụp tấm cận cảnh hơn sau khi bấm máy lần đầu. (Mitsuko Kouchi đứng ngay sau người mặc quân phục).
Ông Matsushige qua đời năm 2005, hưởng thọ 92 tuổi. Lúc sinh thời ông Matsushige từng nói về khoảnh khắc lưỡng lự khi bấm máy.
Khi ra làm chứng sau này, ông được dẫn lời kể lại những gì xảy ra vào buổi sáng hôm đó:
“Những vết bỏng phồng lên và da của các nạn nhân tơi tả như áo rách. Một số trẻ em bị bỏng bàn chân.
“Các em không có giầy và chạy chân đất trên đường phố đầy tàn lửa.
“Khi tôi thấy cảnh này, tôi nghĩ tôi có thể chụp và lôi máy trong túi ra. Nhưng tôi không thể bấm máy vì thấy cảnh tượng đó quá động lòng.
“Mặc dù tôi cũng là một nạn nhân của chính trái bom đó, tôi chỉ bị thương nhẹ do các mảnh kính văng vào người trong khi nhiều người quanh tôi đang hấp hối.
Chỉ tới tháng 9//1952, khoảng 7 năm sau khi kết thúc chiến tranh, công chúng Hoa Kỳ và thế giới mới biết tới bức ảnh này.
“Đó là cảnh tượng thật tàn bạo và tôi không nỡ lòng nào bấm máy. Có lẽ tôi đã lưỡng lự chừng 20 phút. Những người đứng đó hẳn nghĩ rằng tôi là người máu lạnh.
“Và cuối cùng tôi đã lấy được can đảm để chụp một tấm, và rồi tôi tiến thêm 4-5 mét nữa để chụp tấm thứ hai.
“Cho tới ngày hôm nay, tôi vẫn còn nhớ khi đó ống ngắm máy ảnh bị mờ đi vì nước mắt của tôi.
“Sau đó tôi đã đi vào khu vực trong thành phố là nơi bị thiệt hại nhiều nhất khoảng vài tiếng nữa. Nhưng tôi đã không thể chụp thêm một tấm nào.
“Có cả những phóng viên ảnh từ trong đơn vị quân đội và cũng có cả phóng viên từ báo khác nữa. Nhưng việc không ai trong số họ có thể chụp ảnh dường như cho thấy mức độ dã man và thảm khốc của trái bom này thế nào.
"Tôi chẳng thấy tự hào về việc mình đã chụp hình. Tôi chỉ coi đó là sự an ủi nhỏ bé đối với mình mà thôi," ông Matsushige từng nói.
Nơi chụp ảnh trên cây cầu này hiện có để tấm ảnh lớn và chú thích để người ta nhớ lại những gì đã xảy ra.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện giải tỏa cho ông Nguyễn Hữu Đang


Thái Kế Toại
Ông Nguyễn Hữu Đang thời trẻ

Khi ông Đang ra tù năm 1973 ông vẫn còn bị quản chế 5 năm. Theo tiền lệ thời gian đó Bộ Công an phải nuôi ông mỗi tháng 15 đồng, cũng tạm đủ ăn. Sau đời sống khó khăn số tiền đó không đủ nuôi ông, công an Thái Bình xin thêm, Bộ giải quyết cho 50 đồng nhưng hàng tháng phải cho người trực tiếp lên đơn vị tôi lĩnh về.
Bắt đầu đổi mới, tôi được giao nhiệm vụ tham mưu cho cấp trên xem xét xử lý vụ Nhân Văn – Giai Phẩm.
Đầu tiên là phải đọc lại toàn bộ hồ sơ vụ án. Đó là một công việc nan giải vì hồ sơ của vụ án này nhiều hàng mét khối. Giấy tờ đã lưu trữ hàng ba chục năm, bản viết tay nhiều, bản đánh máy thì lèm nhèm. Tôi vừa làm công tác lãnh đạo đơn vị vừa tranh thủ đọc các tập hồ sơ cơ bản. Một cán bộ là anh Dương Thanh Hưởng giúp cho tôi. Khi đọc hồ sơ tôi hiểu được bản chất vụ án, phát hiện ra một số tình tiết mà một số bài báo, bản tổng kết sau này đã viết khác đi.
Việc thứ hai là phải rà soát lại toàn bộ nhân sự cùng quan hệ nhóm, quan hệ xã hội, tâm tư, sáng tác, thái độ chính trị của những văn nghệ sỹ đã tham gia phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm.
Việc thứ ba là đánh giá thái độ của các chính phủ, các cơ quan văn hóa, các đài phát thanh, truyền hình, báo chí các nước, các tổ chức quốc tế quan tâm đến vấn đề Nhân Văn- Giai Phẩm này.
Kết quả là tôi đã đề xuất cần thực hiện nhanh các biện pháp giải tỏa cho những văn nghệ sỹ đã tham gia nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm. Đó là biện pháp công tác tích cực nhất góp phần tháo bớt căng thẳng dư luận xã hội và văn nghệ sỹ, góp phần làm cho việc lợi dụng sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm theo chiều hướng tiêu cực giảm đi. Đầu tiên là khôi phục ngay hội tịch cho những người đã bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật. Thứ hai là cấp lương hưu cho hai ông Nguyễn Hữu Đang và Phùng Cung sau khi đi tù về không có lương, chỉnh lương hưu cho những người đã có lương nhưng quá thấp như Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm. Thứ ba là bình thường hóa việc in tác phẩm trên báo, xuất bản sách của các ông ở các nhà xuất bản. Thứ tư là dỡ bỏ những rào cản đối với nghề nghiệp, đời sống con cái các ông.
Nói thêm là cùng với số văn nghệ sỹ tham gia Nhân Văn – Giai Phẩm còn có một số văn nghệ sỹ khác cũng bị ngừng in bài, in sách trong một thời gian dài như Nguyễn Dậu, Hồ Dzếnh, Vũ Trọng Phụng, Hà Minh Tuân, Hoàng Tiến, Hoàng Yến, Trần Huyền Trân, Hoàng Công Khanh…
Do nhiệt tình của Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương và các Ban, Ngành khác công việc được tiến hành nhanh chóng.
Riêng ông Nguyễn Hữu Đang do thân phận đặc biệt của ông cần được giải quyết ngay. Tôi trực tiếp đi Thái Bình. Hội ý với anh Hội Phó Giám đốc phụ trách an ninh, anh Tuất Trưởng phòng nghiệp vụ, anh Tý trinh sát xong, không dùng xe con, tôi nhờ anh Tý lấy xe máy đèo tôi xuống Trường cấp hai Vũ Công. Tôi ở lại làm việc với ông Đang, đêm ngủ ở nhà ông Hiệu trưởng ngay gần nhà ông Đang. Gọi là nhà chứ đó trước là căn bếp của trường trong buổi sơ khai, sau trường có bếp tập thể to hơn để lại cho ông Đang ở nhờ. Sau khi tôi về giải tỏa cho ông, ông Phùng Quán, nghệ sỹ nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán mới về thăm ông được. Khung cảnh và cuộc sống của ông đúng như Phùng Quán đã kể trong bài viết Người tổ chức Lễ Độc lập 2-9. Gầm giường ọp ẹp của ông đầy vỏ chai rượu, vỏ bao thuốc lá ngoại ông nhặt từ Hà Nội để trao đổi với bọn trẻ con cóc nhái làm thức ăn. Ông có một đống tất cũ đã rách cũng xin từ Hà Nội sửa lại để đi. Lại còn một chiếc vại nữa xin nước gạo của nhà bếp để lắng lại rồi gạn lấy phần bột để nấu cháo mà ông gọi là xúp. Rau thì ông trồng lấy trên vạt đất nhỏ trên bờ ao. Với mấy thứ đó ông cho là tự đủ dinh dưỡng, cũng không cần chợ búa.
Ông vẫn để dành được số tiền trợ cấp ít ỏi của công an chi mua thóc lúc đang mùa, bán lại vào lúc giáp hạt để sinh lời. Có lúc ông đã có hàng tấn thóc. Nhưng con cháu ông nghèo khó luôn luôn nhòm ngó tìm cách vay mượn của ông rồi ăn quỵt. Trong thư viết cho tôi ông gọi họ là lũ giòi bọ, lưu manh. Ông thích nói về tư tưởng của Lão Trang, triết học an nhiên tự tại thuận theo quy luật tạo hóa. Ông cũng không tỏ ra ân oán với vụ án mà ông chịu 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau mãn hạn tù. Tôi biết ông đã trải qua những trại giam khắc nghiệt như Phong Quang Lào Cai, Quyết Tiến Hà Giang nhưng ông chỉ nói đến việc lần ông bị tạm giam ở Nam Định do sang thăm người bạn tù bị một thanh niên 18 tuổi cưỡi trên lưng, bắt ông làm chó cắn gâu gâu.
Trở về công an Thái Bình tôi trao đổi mấy việc theo tinh thần chỉ đạo của Bộ như sau:
Ông Đang đang là một công dân bình thường cần phải đối xử với ông bình thường như những công dân khác. Không thể tiếp tục thực hiện biện pháp quản chế như cũ. Phải làm hộ khẩu cho ông, cấp chứng minh thư cho ông. Ông được tự do đi lại mà không cần có giấy phép của công an mới được ra khỏi đất Thái Bình. Bạn bè, người thân từ xa về thăm ông không phải trình báo xin phép. Ông được đọc và mượn sách báo tại Thư viện của tỉnh, có thể giúp cho công tác biên soạn lịch sử cách mạng của tỉnh.
Về Hà Nội tôi báo cáo với Bộ trưởng cần đề nghị Bộ Lao động Thương binh Xã hội làm lương hưu cho ông Đang chứ không tiếp tục dùng tiền nghiệp vụ nuôi ông nữa. Vì ông độc thân, không có nhà cửa chỉ còn anh em con cháu ruột ở Hà Nội nên bố trí cấp nhà cho ông và cho ông chuyển lên sống ở Hà Nội. Việc xếp lương hưu tiến hành tương đối nhanh, ông được hưởng mức trợ cấp như chuyên viên bậc 5 tương đương Vụ trưởng. Đối với một người như ông Đang số tiền lĩnh hàng tháng đó rất là có ý nghĩa và cũng là rất lớn so với số tiền công an nuôi ông. Trong khi làm lương hưu cho ông Đang xảy ra một chuyện. Ông cứ khăng khăng đòi trợ cấp đặc biệt một lần. Ông cũng tính với tôi trong thời gian chờ làm thủ tục ông đã thiệt hại 1.400.000 đồng. Những năm tháng trở về sống như thế đã làm cho ông tính toán như một người nông dân thực thụ.
Việc cấp nhà và chuyển lên Hà Nội thì lâu hơn nhưng cũng xong vào đầu những năm 90 với sự giúp thêm của ông Trần Quốc Hương, người đàn em của ông Đang thời Văn Hóa cứu quốc, ông Phan Diễn là cháu của ông Phan Khôi. Căn hộ ông được cấp ở cùng Khu nhà tập thể Hội Sân khấu đường Liễu Giai nhưng ông đã bán đi dọn về ở cùng người cháu tên Hà con ông anh ruột tại Khu tập thể nhà máy bánh mỳ Nghĩa Đô.
Ông Đang bắt đầu viết và đăng báo trở lại. Vaì bài báo về đời sống điện ảnh Hà Nội trước 1945, Việc tổ chức ngày Lễ Độc lập 2-9-1945, hoạt động của Hội truyền bá quốc ngữ… một truyện ngắn về người yêu của ông ở Hà Nội Chiếc vòng Xơ men. Các báo cũng có bài viết và ảnh về ông.
Tôi nhớ trong thời gian chờ đợi làm thủ tục ông lên Hà Nội hay đạp chiếc xe đạp mi ni lại chỗ tôi. Người đương thời Hà Nội không thể biết được ông già bé nhỏ vẻ mặt khắc khổ, dáng điệu nhếch nhác đạp chiếc xe mi ni kia lại là Nguyễn Hữu Đang một thời nổi tiếng ở thành phố. Tôi đã trả lại cho ông bức ảnh giấy lụa còn rất đẹp về Kỳ đài Lễ Độc lập 2-9-1945 Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn độc lập. Ông Đang đứng trên lễ đài phía ngoài cùng bên phải. Một lần ông bị sưng bàn chân trái. Tôi đề nghị Bệnh viện 198 của Bộ Công an chữa cho ông. Ông Giám đốc Hoàng Tuấn mừng lắm nhận lời ngay vì mấy khi có dịp chữa bệnh cho con người đặc biệt đó.
Trước khi vào viện anh em tôi đưa ông ra ăn phở Nam Ngư đang có tiếng. Mấy bà bán nước chè ngỡ ngàng khi ông nói chuyện phở ngày xưa. Ngày xưa Hà Nội không có phở gà như bây giờ. Chỉ có phở bò, phở chín, phở tái, phở nạm, phở gầu, phở nước trong, phở nước đục… Họ cũng không thể biết rằng Nam Ngư là cái quán phở thời trước ông vẫn ăn, căn nhà cũ ông ở cũng ngay gần đây ngoài phố Yết Kiêu.
Có lần tôi hỏi ông việc bối trí quay phim ngày 2-9-1945 ông bảo có đặt hiệu ảnh Hưng Ký ở Hàng Trống quay phim nhưng sau họ báo là phim bị hỏng, chỉ còn ít ảnh. Do bận nhiều việc to lớn hơn nên không ai nghĩ đến việc này. Ông cho biết hình như Đội biệt kích Con nai của người Mỹ cũng chịu trách nhiệm bảo vệ kỳ đài ngày 2-9 có thể có máy quay. Sau này khi Điện ảnh Công an làm bộ phim Điệp viên nhảy dù về nhóm các ông Lê Giản, Hoàng Đình Giong, Nguyễn Văn Ngọc, Trần Hiệu, Nông Văn Hoạt được Đồng minh thả dù xuống miền Bắc Việt Nam đầu 1945 liên lạc với Việt Minh đánh phát xít Nhật chúng tôi được Hội hữu nghị Mỹ Việt tặng một cuốn băng video có những thước phim quay về hoạt động của Đội Con nai ở chiến khu Việt Bắc. Tuy vậy đấy mới chỉ là giả thiết. Cho đến giờ người quay những thước phim nhựa cực kỳ quý giá về ngày lễ Độc lập 2-9-1945 vẫn còn là một ẩn số.
Ngày 20-11-1992 hai người em kết nghĩa là thi sỹ Phùng Cung và thi sỹ Phùng Quán tổ chức cho ông Lễ mừng thọ 80 tuổi tại nhà ông Phùng Quán ven hồ Tây. Hàng trăm người đủ các thế hệ già trẻ của văn nghệ sỹ Hà Nội, những người bạn cũ, ông Vũ Tú Nam Tổng thư ký Hội Nhà văn đã đến dự. Trong lời tâm sự ông nói:
Tôi không thể nói hết được sự cảm động của tôi trước cử chỉ thân ái, ân cần của các bạn đối với tôi hôm nay. Đúng là việc may mắn lớn mà trước đây tôi không thể nào nghĩ tới, không thể nào tưởng tượng được.
Sau khi ông Đang yên vị ở Hà Nội tôi chuyển sang phụ trách Điện ảnh Công an, một công việc thuần túy quản lý nghệ thuật ít có dịp gặp lại ông. Sau nhiều năm, có một lần trong dịp kỷ niệm gì đó của Hội Nhà văn ở Cung Hữu nghị Việt Xô tôi thấy ông đứng với các ông Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam… Tôi đi lại chào và bắt tay các ông. Ông Đang đã già, thần sắc ngơ ngác. Ông bắt tay mà hình như không nhận ra tôi…

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Rùi sẽ có ông Đức ợ!

PHI NHÂN VẬT BẤT THÀNH VĂN HỌC (3)
Paul Nguyễn Hoàng Đức
Không có nhân vật, tức không có những điểm vặn ốc hay giường cột cho tác phẩm. Những thứ nhẹ thõm như chiếc bánh đa chẳng hạn nó không cần xương cốt vì nó quá nhẹ, đến khi nướng lên nó cứng và tự chịu lực chính bản thân mình, nhưng chỉ cần một va chạm nhẹ nó vỡ tan tành! Chùa Một Cột kia chỉ to hơn manh chiếu mà người ta đã cần đến giường cột, và chiếc cột chịu lực cũng như những đòn ngang được thể hiện ngay dưới bệ đỡ của sàn.
Tại sao, hầu hết trường ca của Việt Nam, đặc biệt của mậu dịch không có cốt chuyện và nhân vật, vì thẳng thắn nói, các nhà thơ chẳng có gì để kể cả. Nhân vật thì phải có tư tưởng và hành động, ngay Trường ca chân đất của nhà thơ Thanh Thảo thuộc loại đàn anh đầu bảng của quốc doanh mậu dịch kia, cũng chỉ có lèo tèo bác Năm Trì ngồi gãi háng. Bác là một nhân vật gãi háng và văng tục, bác chẳng hành động gì như bám biển bám trời, hoặc tuyên ngôn một điều gì xứng đáng, bác chỉ có thể văng “đếch” vào những kỳ quan của loài người như Vạn Lý trường thành. Ở đời không khao khát cái vĩ đại làm sao có thể với tới hay làm ra cái vĩ đại? Vì thế bác năm Trì chỉ mãi mãi là chân đất mà thôi. Đã là trường ca thì cái tối thiểu phải có nhân vật (như trên đã bàn không có nhân vật không có thế giới), vậy mà người ta cứ nhồi nhét gán ghép bằng được để trao giải và tung hô nhau thì thật phi lý. Từ giờ, tôi xin mọi người hãy dứt khoát nhìn nhận: không có nhân vật thì không phải là trường ca. Nếu có gọi là trường ca và trao giải cho nhau thì chỉ là cách ăn gian trắng trợn.
Không có nhân vật, tức là cốt tủy yếu, như chiếc bánh đa tự chịu lực, không thể tạo thành tác phẩm lớn, chính thế mà một lãnh đạo văn chương đã thú nhận “trong ao không có cá to, chúng ta đành bắt tép”. Tép, tôm cũng là những thứ không có xương cốt, chúng lấy vỏ cứng để tạo ra độ lớn của mình, nhưng số phận lại bắt chúng phải gánh một định mệnh trớ trêu: đem cứt lên đầu làm cơ quan kiêu hãnh và tư duy.
Sự tiến bộ của loài người không cãi nổi là thế này: những loại thân mềm có trước, sau đó mới là loài có xương sống. Chỉ khi có xương sống tức một cột trụ cứng dâng lên thì bộ não mới đích thực xuất hiện. Văn thơ Việt Nam, đặc biệt thơ mậu dịch còn ở trình độ thân mềm, chưa có hình bóng của tư duy, chưa có khung xương của lý trí, mới chỉ có tí nhũn nhẽo của cảm xúc lè tè, thì làm sao có thể vươn lên những đỉnh núi có kỳ hoa dị thảo? Xin trao đổi để mọi người cùng suy ngẫm. Cám ơn nhiều!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ông Trần tài thật, cứ như nhà tiên tri..


 Trần Nhương
 
 
Vĩ nhân cứ để vĩ nhân
Đình kia ít lễ thì thần mới thiêng
Hay gì hương khói triền miên
Tụng ca quá thể càng thêm bẽ bàng
Đã lên đến bậc thành hoàng
Hiển linh cả xã cả làng tôn vinh
Cần gì rước sách linh đình
Cần gì trước tác tụng kinh sớm chiều
Cây cao khổ nỗi dây leo
Hồ trong khổ nỗi vì bèo vì rêu
Thành hoàng bao kẻ ăn theo
Thương dân đóng góp bao nhiêu cho vừa...
Hà Nội 27-5-2004
(Rút trong tập thơ Gió đang xoan, NXB Hội nhà văn)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vậy là đã qua 13 năm..NHÂN NGÀY GIỖ CỦA NHÀ VĂN HÓA TRẦN ĐỘ




Ngày 9- 8 là ngày mất của Tướng Trần Độ (9-8-2002). Trần Độ không chỉ là một vị tướng tài, mà còn là một nhà văn hóa tầm cỡ, một nhà văn tài năng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tinh tế. Nhân ngày giỗ ông, xin ghi mấy lời như một nén nhang tưởng nhớ.Năm ngoái, chị Khánh Trâm, con dâu của tướng Trần Độ đã gửi tặng NM bộ sách TRẦN ĐỘ TÁC PHẨM,3 tập, nặng hơn 5 kỳ, như là một báu vật trong tủ sách NM. Xin cảm ơn vợ chồng Hải- Khánh Trâm. Sự cản trở của chính quyền trong đám tang Trần Độ là một vết nhơ trong lịch sử dân tộc.
Trần Độ là người mà Ngô Minh rất cảm phục và kính trọng. Ở Đaị hội Nhà văn VN lần thứ IV, tôi ngồi nghe nhà văn Nguyễn Văn Hạnh đọc thư ông gửi Đạị hội vô cùng tâm đắc. Ông là người của nhân dân, sống trong lòng nhân dân và đội ngũ trí thức chân chính. Những điều ông nói là chí lý và thực tế ngày càng đúng, không thể phủ nhận.”Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp.".Đát nước ta 40 năm nay vẫn là nước kém phát triển , vì như tướng Độ nói:” Không có khả năng và không biết sử dụng tài năng, vì nó cho rằng tài năng thường có hại, tài năng không chịu ngoan ngoãn phục tùng. Nó lại càng không có khả năng phân biệt tài năng thật và tài năng giả, trí thức thật và trí thức giả. Nó chỉ thích nghe những điều xuôi chiều và xu nịnh, Nó không thể chịu được những cái độc đáo và không dung tha sự độc lập".Về Đảng, ông khẳng định:” "Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa". Ông kêu gọi: "Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ "hiệp thương" mà thực chất là gò ép". Thật đúng. Thật chí lý!
Ảnh :Ông Trần Độ và sách TRẦN ĐỘ TÁC PHẨM Ngô Minh được tặng.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lịch sử các loại vũ khí qua 3.500 năm


Vũ khí đã xuất hiện từ xa xưa, ban đầu làm từ gỗ và đá thô sơ, sau dần phát triển thành các loại vũ khí sát thương cao hơn như súng, thậm chí là bom nguyên tử.
Lịch sử các loại vũ khí qua 3.500 năm
Phần nhận xét hiển thị trên trang