Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Hòa bình nhờ dân chủ (Democratic peace)

1344488828

Tác giả: Lê Hồng Hiệp
Thuyết hòa bình nhờ dân chủ lập luận rằng các quốc gia có hệ thống chính trị dân chủ tự do không bao giờ tiến hành chiến tranh chống lại nhau. Nhà nghiên cứu Jack Levy trong một bài báo đăng trên tạp chí Journal of Interdisciplinary History vào năm 1988 cho rằng đây có lẽ là thực tế trong quan hệ quốc tế có tính chất gần nhất với một quy luật thực nghiệm vốn hiếm hoi trong các ngành khoa học xã hội.
Thuyết hòa bình nhờ dân chủ được cho là bắt nguồn từ bài luận “Nền hòa bình vĩnh cửu” (Perpetual Peace) năm 1795 của Emanuel Kant, trong đó ông cho rằng giữa các quốc gia sẽ có được nền hòa bình nếu như họ theo thể chế cộng hòa tự do. Mặc dù Kant không đề cập đến khía cạnh dân chủ, nhưng thực tế các nền cộng hòa tự do nhìn chung có xu hướng theo đuổi dân chủ. Chính vì vậy có thể nói Kant chính là người khai sinh ra những ý tưởng đầu tiên cho thuyết hòa bình nhờ dân chủ.
Mặc dù vậy, phải gần 200 năm sau bài luận của Kant ra đời thì ý tưởng “hòa bình nhờ dân chủ” mới được củng cố và phát triển thành một tư tưởng có nhiều ảnh hưởng. Trong bài báo “A Force for Peace” đăng trong tạp chí Industrial Research năm 1972, Dean Babst, người đầu tiên thống kê về mối quan hệ giữa dân chủ và hòa bình, đã chỉ ra rằng “Từ năm 1789 đến năm 1914 không có cuộc chiến tranh nào giữa các quốc gia độc lập có chính phủ do dân cử”.
Sau đó, một loạt các nghiên cứu khác của Melvin Small và David Singer (1976), Michael Doyle (1983), Rudolph Rummel (1983), Zeev Maoz và Bruce Russett (1992)… cũng đã góp phần củng cố thuyết “hòa bình nhờ dân chủ”, đặc biệt là qua các dữ liệu thống kê mang tính chất thực nghiệm lịch sử.
Ví dụ, trong nghiên cứu năm 1992 của mình, Maoz và Russett tập trung vào thời kỳ từ 1946 đến 1986, là giai đoạn số lượng các nền dân chủ đã tăng lên đáng kể, đồng thời hai ông cũng giới hạn các mối quan hệ được phân tích trong phạm vi những cặp quốc gia “phù hợp về mặt chính trị”. Theo đó Maoz và Russett chỉ nghiên cứu những cặp quốc gia gần gũi nhau về mặt địa lý và bao gồm ít nhất một cường quốc (Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp, Trung Quốc). Kết quả cho thấy trong số 29.081 cặp quan hệ mà họ phân tích, không có cuộc chiến tranh nào diễn ra giữa các quốc gia dân chủ trong giai đoạn 1946 đến 1986.
Tương tự, nếu một cuộc chiến tranh được định nghĩa là một cuộc xung đột vũ trang khiến ít nhất 1.000 người thiệt mạng thì từ năm 1816 đến năm 1991 có tất cả 353 cặp quốc gia tham gia vào các cuộc chiến tranh như vậy. Tuy nhiên không có cuộc chiến tranh nào diễn ra giữa hai quốc gia dân chủ, trong khi 155 cuộc xảy ra giữa một quốc gia dân chủ và một quốc gia phi dân chủ, và 198 cuộc là giữa hai quốc gia phi dân chủ với nhau.
Tuy nhiên ý nghĩa của những con số thống kê này là không rõ ràng. Liệu có mối liên hệ nhân quả nào giữa dân chủ với xu hướng tham gia chiến tranh của các quốc gia hay không? Nhiều nhà chỉ trích cho rằng trước tháng 03 năm 1999 khi NATO không kích Nam Tư, một thực tế là không có cuộc chiến tranh nào diễn ra giữa hai quốc gia cùng có các nhà hàng của hãng McDonald’s. Chính vì vậy, một câu hỏi được đặt ra là liệu có phải các quốc gia dân chủ không tiến hành chiến tranh chống lại nhau là bởi chế độ chính trị dân chủ của họ hay không, hay là bởi các yếu tố khác nữa? Ví dụ, một số học giả cho rằng mối quan hệ tương đối hòa bình giữa các quốc gia dân chủ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh xuất phát từ sự tồn tại mối đe dọa từ Liên Xô, khiến các quốc gia này đoàn kết và hợp tác với nhau hơn để đối phó với mối đe dọa đó.
Tuy nhiên, ngay cả khi lập luận này là thuyết phục thì chúng ta có thể lý giải như thế nào về những thời kỳ khác, khi các quốc gia dân chủ vẫn chung sống hòa bình với nhau khi không có những mối đe dọa chung như vậy?
Các nhà nghiên cứu ủng hộ thuyết hòa bình nhờ dân chủ cho rằng có nhiều yếu tố khác nhau lý giải cho mối quan hệ hòa bình giữa các quốc gia dân chủ. Các yếu tố này bắt nguồn từ chính tính chất nền chính trị nội bộ của các quốc gia dân chủ, cũng như mối quan hệ của họ với nhau.
Một quốc gia dân chủ thường được định nghĩa là một quốc gia mà ở đó có tổ chức các cuộc bầu cử phổ thông nhằm bầu chọn các vị trí chủ chốt trong chính quyền với sự tham gia của các đảng phái chính trị cạnh tranh lẫn nhau. Ngoài ra, chính quyền của các quốc gia này phải tôn trọng các quyền tự do dân sự và chính trị cơ bản của người dân. Các nhà lý thuyết hòa bình nhờ dân chủ cho rằng bản chất dân chủ của các quốc gia này khiến họ trở nên hòa bình hơn trong quan hệ với các quốc gia khác.
Thứ nhất, các xã hội dựa trên các chính sách kinh tế mở như các quốc gia dân chủ thường kiềm chế tham vọng của nhà nước trong việc tiến hành chiến tranh xâm lược bành trướng do chiến tranh được coi là gây thiệt hại hoặc không mang lại lợi ích về mặt kinh tế. Mặt khác, trong các nền dân chủ, người dân có tiếng nói và họ thường gây áp lực lên chính phủ nhằm buộc chính phủ tránh các cuộc chiến tranh hao người tốn của. Ngoài ra, nền văn hóa tự do thường bén rễ sâu trong các nền dân chủ, khiến cho các nền dân chủ này hạn chế xu hướng xâm lược ra bên ngoài, bởi họ cũng muốn tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của các dân tộc khác. Điều này khiến cho các nền dân chủ tự do duy trì một mối quan hệ quốc tế hòa bình hơn so với các quốc gia độc tài.
Tuy nhiên các lập luận này đã gặp phải nhiều chỉ trích, bởi lẽ nếu bản chất của các quốc gia dân chủ là hòa bình, thì họ phải duy trì quan hệ hòa bình với các quốc gia dân chủ lẫn phi dân chủ. Trên thực tế, chiến tranh cho dù chống lại một quốc gia dân chủ hay phi dân chủ đều có thể gây hao người tốn của như nhau. Tuy nhiên trên thực tế các quốc gia dân chủ cũng tham gia các cuộc chiến tranh chống lại các quốc gia phi dân chủ nhiều không kém bản thân các cuộc chiến tranh do các quốc gia phi dân chủ gây ra.
Thứ hai, các nhà lý thuyết hòa bình nhờ dân chủ cho rằng các thế chế trong lòng các nền dân chủ luôn kiểm soát và cân bằng lẫn nhau, qua đó kiềm chế xu hướng hiếu chiến của chính phủ cầm quyền. Cụ thể, các thể chế dân chủ buộc các nhà lãnh đạo quốc gia phải chịu trách nhiệm giải trình trước người dân về các chính sách của họ và nếu một nhà lãnh đạo dân chủ tiến hành chiến tranh vì các lý do mà người dân cho rằng không đầy đủ, thiếu thuyết phục hoặc gây thiệt hại cho đất nước thì người dân có thể khiến các nhà lãnh đạo đó mất chức trong các kỳ bầu cử hoặc thủ tục luận tội. Chính vì lý do này, các nhà lãnh đạo dân chủ sẽ thận trọng và kiềm chế hơn khi cân nhắc tiến hành các cuộc chiến tranh.
Lập luận này mặc dù là một cơ sở quan trọng cho thuyết hòa bình nhờ dân chủ nhưng cũng có những khuyết điểm. Ví dụ, bản thân chính quyền các quốc gia dân chủ cũng có nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau, và trong nhiều trường hợp các cơ quan này có thể vận hành trong bí mật và chỉ báo cáo trực tiếp với các nhà lãnh đạo tối cao mà thôi. Điển hình cho trường hợp này là các cơ quan an ninh, tình báo hay quân đội, ví dụ như Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA). Điều này khiến cho ý nghĩa của sự minh bạch hay cơ chế kiểm soát và cân bằng trong các nền dân chủ bị giảm sút.
Nguyên nhân thứ ba mà các nhà các nhà nghiên cứu đưa ra nhằm ủng hộ cho thuyết hòa bình nhờ dân chủ liên quan đến khía cạnh văn hóa. Trong nền văn hóa dân chủ tự do, các cá nhân và các nhóm thường ưu tiên các biện pháp phi bạo lực trong việc giải quyết tranh chấp và biết cách chấp nhận các quan điểm trái ngược với mình. Hơn nữa, các quốc gia dân chủ chia sẻ các giá trị chung, do đó họ dễ dàng hơn trong việc thương lượng, đàm phán với nhau, và hạn chế các xung đột hay biện pháp cưỡng bức.
Có thể nói mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh logic cũng như tính xác thực nhưng thuyết hòa bình nhờ dân chủ đã tạo ra những ảnh hưởng đáng kể đối với giới học giả cũng như các nhà hoạch định chính sách. Một số người lạc quan cho rằng dân chủ sẽ được mở rộng trên toàn cầu và thế giới sẽ trở nên hòa bình hơn. Đây cũng là lập luận được một số chính quyền tiêu biểu là Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton và George W. Bush sử dụng để đưa ra chính sách thúc đẩy quá trình dân chủ hóa trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, quá trình dân chủ hóa thường đòi hỏi sự đầu tư rất nhiều nguồn lực. Mặt khác, quá trình dân chủ hóa trong nhiều trường hợp lại tạo ra những bất ổn cho chính các quốc gia đó. Một số nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi sang dân chủ cũng có xu hướng gây chiến tranh nhiều hơn so với các quốc gia đã có nền dân chủ lâu đời. Ví dụ, sau sự kiện “Mùa xuân Ảrập” năm 2011 và việc Ai Cập dân chủ hóa sau sự ra đi của Tổng thống Edhud Mubarak, một câu hỏi được đặt ra là liệu khu vực Trung Đông sẽ trở nên hòa bình hơn hay ngược lại, nhất là khi nhiều người cho rằng một nước Ai Cập dân chủ có thể bác bỏ hiệp định hòa bình đã được duy trì với Israel kể từ năm 1979.
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/07/11/hoa-binh-nho-dan-chu-democratic-peace/#sthash.shC6J315.dpuf

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vài bệnh mãn tính của trí thức Việt


Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số thường “trùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. 
Đây là cái sợ tiềm tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh.

Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử (vì tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển. Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?

Có lẽ việc này cần hơn là “định nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng ta không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao điên rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.

Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng ta. Nếu chịu khó quan sát, ta có thể nhận diện một số căn bệnh mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!).

Những nhận xét dưới đây có thể đúng, có thể sai, có thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định ngay.

Hay định kiến và chia rẽ


Người ta hay nói (nửa đùa nửa thật) rằng một người Việt thì không thua kém một người nước khác, nhưng ba người Việt thì chắc thua kém một người nước khác. Bởi vì ba người Việt thường không hợp sức mà còn chia rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhau. Không hiểu vì sao tính cá thể của người Việt rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung Hoa). Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do tính bản địa, hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông tây nhé!) 


Chỉ biết rằng người Việt có tiếng là hay định kiến và chia rẽ, hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm rất khó, không phát huy được nội lực và không kết nối được năng lượng (synergy). Rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Có lẽ vì biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”, nghĩa là không đoàn kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!

Gần đây, đáng mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn, như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới này cũng khó phát triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ vì số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới hình thành đã cãi nhau rồi. Chưa cần bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồi. Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta thường hiểu theo nghĩa cộng đồng chứ không phải từng cá thể. Nếu cứ định kiến và chia rẽ như vậy thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát Trung”?

Không chịu lắng nghe


Theo nguyên lý truyền thông, lắng nghe quan trọng hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình tâm mới lắng nghe được người khác, để hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều này càng quan trọng trong thời đại bùng nổ truyền thông kỹ thuật số. Muốn lắng nghe phải khiêm tốn, chân thành, nhạy cảm. Người ta nói xã hội càng “high-tech” thì con người càng phải “high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây, Việt Nam được xếp vào nhóm nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa số người Việt, nhất là giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác nghe, mà không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người còn hay “xoa đầu” và dạy bảo người khác (nhất là đối với lớp trẻ). Họ thường vô cảm, không hiểu được người khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc - Nam, trong - ngoài, không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn, coi thường người khác, luôn cho mình là đúng, ai không giống mình là sai.

Trong bộ máy công quyền trước đây, người ta quen độc quyền thông tin theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản tin tham khảo” (lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu đã chứa định kiến gì, thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà không cần lắng nghe để tìm hiểu sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường dẫn đến định kiến và chia rẽ. Điều đáng nói là không phải chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy hiểm hơn cả người khác.

Học giả nhiều hơn học thật

Chưa thấy ở đâu người ta coi trọng bằng cấp và học hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt Nam. Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy, nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng nói là nó không chỉ phổ biến trong nhà trường mà còn trong giới công chức và trí thức. Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức báo động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ bé, nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí thức thật thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới trí thức Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tả, rất đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản sắc” Việt Nam.

Nguồn gốc trí thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây” thời trước (cả Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa quá ít vừa “quá date” (passé rồi), nếu chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi thời thế hoặc thời gian. Thế hệ “thiếu sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở thành quan chức, một số khác có tài đã trở thành trí thức thật, nhưng nay đã về hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân hóa, đa số thực dụng buôn bán kinh doanh giàu lên nhanh như “tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch nước khác. Thế hệ đi học các nước “phương tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và đa dạng, đa số kinh doanh, một số làm công chức, một số khác làm cho nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với thế giới, nhưng chưa được thực sự trân trọng.

Im lặng trùm chăn
Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số thường “trùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tiềm tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề MIA trước đây). Trong bối cảnh đó, giới trí thức văn nghệ sĩ “trùm chăn” là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để thoát khỏi nỗi sợ không đơn giản, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến cuối đời mới dám lên tiếng nói ra sự thật (như tác giả “Đèn Cù”).

Bên cạnh đa số im lặng trùm chăn (silent majority), có một thiểu số lớn tiếng (vocal minority). Những người đã định cư ở nước ngoài thường “dũng cảm” hơn và “lớn tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn nóng muốn thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp, chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay đổi, nhưng nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá trình dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy cách tốt nhất là đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân chủ gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, muốn đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao, ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với “sức mạnh cứng”, biết kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global synergy).

Hội nhập quốc tế chậm

Trong thời đại toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ trong quá trình đổi mới và phát triển. Đáng tiếc, giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang chuyển đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước Phương Tây sau này ngày càng đông, riêng học tại Mỹ đến nay là 16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.

Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp cho những người trí thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực đoan và bạo lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, chỉ khi nào giới trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới thực sự phát triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói trên.

Nguyễn Quang Dy. 7/7/2015

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mệt rùi, đọc dongngan phát!

Những câu chuyện về Azit Nê-xin 

4- Nêxin tản mạn thơ
dongngan
Về chuyện văn thơ của giới chức sắc tôi không hiểu lắm vì đó là sân sau của họ. Không hiểu sao Nexin lại phát hiện ra cái bí mật ấy. Hình như ông ấy có máu trinh thám nên mới giỏi thế. Tưởng hết chuyện, thì Nexin lạị tiếp tục dốc hầu bao:
– Tôi cũng lại nể giới văn nghệ nước anh một lần nữa. Vừa rồi mới biết một loạt nhà văn nhà thơ các anh xông vào nghề vẽ. Chẳng phải chơi chơi như mấy tay ở nước tôi, mà triển lãm cá nhân thực sự, báo chí ca lên mây xanh, thành tác giả tất. Tiếc chưa được xem tận nơi. Nhưng văn nghệ sĩ các anh keo kiệt lắm, chắng ai tặng tranh cho tôi như giới chức sắc tặng thơ. Khi biết tôi là Nexin còn tưởng tôi giàu lắm, gạ bán tranh giá cao!
Tưởng là hết chuyện thì Nexin lại tiếp tục nổ:
– Không ngờ giới văn chương nghệ thuật các anh lạ có nhiều người hăng hái làn chính trị thế..
– Tôi thủng thẳng:
– Sao cơ
– Nexin cao giọng:
– Còn sao giăng gì nữa, khối anh xông vào trường chính trị đòi hỏi này kia nọ. Sao không đi làm chính trị quách đi cho rảnh.
Tôi nhẹ nhàng giải thích:
– Không phải thế đâu, nước chúng tôi làm gì cũng vừa hồng vừa chuyên. Chính trị là một nửa cuộc sống.
Nghe thế Nexin tròn xoe mắt. Tôi bồi tiếp:
– Trước khi làm văn nghệ sĩ thì tôi là công dân, công dân thì phải thấm nhuần chính trị. Còn hăng hái chính trị chẳng qua là chuyện hưng phấn nhất thời thôi. Nghệ sĩ vẫn là chính.
– Nexin nghe thế vò đầu
– Ôi thế thì không hiểu được
Tôi bảo ông:
– Bởi thế ông mới không phả là người Việt Nam!
* * *
Trước khi ra máy bay về nước tôi vào một quán cà phê nhâm nhi với ông. Tôi hỏi trong chuyến tế vừa qua có được ăn bữa cỗ nào không?
Không cần nghĩ lâu, ông trả lời rất nhanh:
– Có chứ, tôi biết ở Việt Nam cỗ đãi khách là quan trọng;
– Ở những đâu?
– À, ở Bắc ninh và Cao Bằng
– Có gì khác nhau không
– Ồ có chứ, .Bắc Ninh cỗ 8 món, Cao Bằng thì 16.
– Cảm giác thế nào?
– Còn thế nào nữa, ê hề. Món ăn ở Thổ nghèo lắm, chỉ vài thứ thôi.
Tôi cười :
– Thế nhé, Nexin có thấy người làm văn học nghệ thuật chúng tôi giống mâm cỗ không, cái gì cũng có, càng nhiều càng ít.
– Nexin đế theo:
– Cả các quan nữa cũng thế
Nói rồi, Neexxin chợt vùng đứng lên ôm chặt lấy tôi hôn chùn chụt, rồi lắp bắp:
– Ôi tôi hiểu bạn mà, Đông Ngàn, bạn thật tuyệt. Tôi phục bạn quá.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TẢN MẠN QUA HAI BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ NGÔ NGUYỄN VÀ LÊ THIẾU NHƠN…





Vũ Duy Chu 
Những nội dung Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đề cập trong bài viết của ông là một phần bức tranh thơ Việt hiện nay. Thực tế còn tệ hơn nhiều.
Các Nhà Xuất bản thì bán giấy phép xuất bản lấy tiền, chỉ đọc bản thảo qua loa cho xong. Tình trạng này ở lĩnh vực thơ là nhiều nhất, nhiều không kể xiết. Nhiều Nhà xuất bản danh giá cũng gắn mác cho những tác phẩm dưới mức trung bình…

Bạn đọc, những nhà văn, nhà thơ gọi Văn học hiện nay là cái chợ trời Văn chương bát nháo. Xếp loại thơ theo các cấp độ phường, xã, Câu lạc bộ dựa vào chất lượng thơ là có cơ sở, một việc làm hết sức bình thường… Có thứ sản phẩm gì trên đời này lại không được xếp hạng theo một tiêu chuẩn nào đó, kể cả xếp hạng công dân.

Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều hưng phấn tuyên bố Việt Nam là cường quốc thi ca, tôi cũng thấy chả có gì để hãnh diện. Chúng ta chỉ được thiên hạ kính nể tôn trọng thực sự khi là cường quốc kinh tế. Đó mới là điều đáng để cho mỗi người dân lao động nghèo khổ, mỗi người cầm bút có lòng tự trọng đau đáu nhất…

Còn anh công bố một tác phẩm, đương nhiên là anh đã tự nguyện phát đi một thông điệp tư tưởng tới cộng đồng. Và cộng đồng đương nhiên có cái quyền đánh giá tốt xấu tác phẩm của anh.

Ai cũng có quyền làm thơ, in thơ theo nhu cầu riêng của mình, không có luật nào cấm. Nói theo ngôn ngữ nghị trường, cái gì luật không cấm đều được làm. Nhưng có những nhu cầu chỉ thấy ở Việt Nam: Quan chức bổng lộc no nê, lúc về hưu kiếm chút danh văn chương để thiên hạ khỏi gọi mình là trọc phú, là xôi thịt… thì ông ta làm thơ, đó là cách nhanh nhất, dễ nhất. Ông có tiền là sẽ có thợ ca ngợi, gọi ông là nhà thơ…

Cách đây chưa lâu, người ta đưa cả thơ đạo, thơ thiền của ông Hoàng Quang Thuận lên bàn thờ của Đền thơ Việt Nam, rồi vái lạy xì xụp đấy thôi.
Chủ soái Hữu Thỉnh “khăn đống áo dài” tổ chức hội thảo thơ thiền của ông Hoàng ở cấp quốc gia, quan khách lớn nhỏ tới dự tấp nập.
Những người viết tham luận về thơ thiền ông Hoàng có phong bì chất lượng hẳn hoi.
VTV làm hẳn một chương trình ông Hoàng lên Yên Tử non cao vãn cảnh, để ông nhập thần cho thơ…
Rồi ông Hoàng mời Tổ chức Guinness công nhận kỉ lục thơ to nhất, thơ nặng nhất, sắp sanh gửi thơ đạo của mình đi dự Giải Nobel…

Không năm nào trao Giải thưởng Văn học danh giá nhất của Hội Nhà văn Việt Nam cho các tác giả tác phẩm lại không gây ra sự phẫn nộ, bài xích trong văn giới. Chỉ vì các tác phẩm ấy dở. Chủ tịch Hội lờ đi, coi như không nghe, không thấy, không biết các phản ứng xã hội, hoặc có thì ông cũng thanh minh thanh nga qua loa, lấy lệ…
Vấn đề kết nạp hội viên thì mánh mung, khuất tất. Đã có nhiều bài viết trên mạng về cái “quy trình” vào Hội do chính hội viên phanh phui, thật não nề…

Thượng bất minh, hạ tắc loạn.
Thơ cấp phường xã có mặt ở những nơi sang trọng nhất còn được, thì nó xuất hiện ở Hội tỉnh nhà bác Trần Mỹ Giống là lẽ đương nhiên. Chỉ cần đọc các bài viết về Giải thưởng Lương Thế Vinh của Hội Nam Định trên chính trang Blog này, là chúng ta phải thừa nhận thơ cấp phường nhiều phen lên ngôi thật sự…

Văn chương là món ăn tinh thần, nhưng trước hết nó phải là thức ăn sạch cái đã, ngon bàn sau, vì khẩu vị mỗi người mỗi khác.
Món lục bát thì buộc người viết phải thuộc cách gieo vần. Trật vần chân câu lục với vần lưng câu bát hoặc lặp vần là chưa “sạch” nước cản.
Món thơ Đường luật thì rất khắt khe ở cách thể hiện. Luật chính là cách buộc người viết không được phạm luật, phải làm cho đúng luật, cho “sạch” câu chữ. Chưa nắm chắc luật thì chưa nên chơi, hoặc có chơi thì chơi trên sân phù hợp với khả năng của mình.
Chẳng có sân chơi nào hèn mọn cả, chỉ người chơi có tự biết mình hay không mới là vấn đề quan trọng…

Có nhiều tác giả phật ý khi người khác gọi thơ mình là thơ phường, cho là bị hạ thấp vô cớ. Thế là tác giả bèn đem ca dao ra đối chứng. Rằng kho tàng văn học dân gian, ca dao tuyệt cú là sáng tạo của người nông dân, trong đó có cả những người không biết chữ.
Rất chính xác, tôi không dám cãi.

Nhưng các câu ca dao tuyệt cú ấy ban đầu có khi chỉ một câu nói vần vèo, một ý tưởng thô ráp. Nhưng nhờ truyền khẩu qua hàng trăm thế hệ đã gọt đẽo, chỉnh sửa, gia công nên mới có cơ tồn tại phát sáng đến ngày nay. Trong số những kẻ gia công ấy dứt khoát không thể thiếu những bậc chữ nghĩa cao siêu. Nếu các tác giả nói trên đem ca dao ra so sánh, bênh vực cho thơ mình, thì không ổn.
Thơ Bút Tre hiện nay có nhiều câu, nhiều bài rất thú vị cũng là một dạng được truyền khẩu, sáng tạo như thế.

Còn một điều đáng nói là nhiều thế hệ văn chương của chúng ta đã mắc không ít lỗi nghiêm trọng.
Chúng ta để cho Chị Tấm đun nước sôi dội lên đầu Cám (người em) đến chết, rồi làm mắm cho mẹ Cám ăn. Chúng ta vô cùng quen thuộc mà không biết nhàm chán với cách thức truyện nào cũng phải kết thúc có hậu, rằng địch thì phải thua, ta nhất định phải thắng vẻ vang, rằng ở hiền gặp lành. Việc lấy oán trả oán này của Tấm là một hành động làm bao thế hệ trẻ em mê man cổ tích, phụ nữ thì sung sướng khi được ví von với cô Tấm thơm thảo nết na…

Theo chiều ngược, chúng ta vừa xay thành bột giấy tác phẩm của Nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Chúng ta từng ”đánh” cho Nhà văn Bảo Ninh lên bờ xuống ruộng, vì ông dám viết tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” nổi tiếng…

Xin nói thẳng là xu hướng “hiệu ứng đám đông” trong văn chương ở ta từ xa xưa đã rất mạnh rồi. Và có cả cái gọi đúng tên là “văn chương quyền lực”. Không ai dám chê thơ Tố Hữu thời ông còn đương chức đương quyền. Ai cũng khen thơ ông hết lời, là khuôn vàng thước ngọc. Bây giờ thì người ta lại tranh luận ồn ào thế nào là một bài thơ hay. Thế là mình tự phủ nhận cái mình tôn vinh, cái mình coi là chân lý rồi còn gì. Thế là sao?
Những bậc cây đa cây đề sừng sững thần tượng Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Chế Lan Viên… chẳng hạn… thì lại tự phủ nhận mình. Những cuộc chiến tư tưởng thi ca trong tâm hồn họ làm rung chuyển văn đàn…

Thế thì cũng nên bình tĩnh, đừng khẳng định mọi tác phẩm trong bảo tàng văn chương của ta đều là kim cương. Ông cha để lại cho chúng ta những tác phẩm văn chương vô giá. Nhưng tác phẩm nào cũng có những hạt sạn, kể cả Truyện Kiều của Thi hào Nguyễn Du. Chúng ta phải viện đến lăng kính thời @, thời thế giới phẳng này mới dám nói đến, đụng đến các hạn sạn ấy…

Chúng ta ca ngợi thơ Thiếu nhi của Trần Đăng Khoa là mẫu mực của sự sáng tạo thần đồng. Nhưng trong nhiều bài viết, bài trả lời phỏng vấn báo đài, ông Khoa không nhận mình như thế. Ông nói thật lòng, nhưng nhiều người cứ nhất định phải cho rằng ông Khoa khiêm tốn. Tôi thì cho rằng thơ thiếu nhi của ông Trần Đăng Khoa là một thứ lộc trời ban tặng cho riêng ông ấy…
Tôi rất thích nhiều câu, nhiều bài thơ thiếu nhi của ông Khoa, tôi cảm phục ông.
Nhưng khi ông viết rằng:
….
“Bắn tàu Mỹ cháy
Là bạn thiếu nhi
Ngu xuẩn nhất nhì
Là Tổng thống Mỹ”…
thì nhất định không phải là thơ thiếu nhi rồi. Thơ thiếu nhi thường ngộ nghĩnh, trong vắt, nói đến cái xấu cũng không hàm hồ như người lớn được. Ông Khoa đã “đạo” cách nói về kẻ thù của các nhà tuyên huấn thời ấy…
Sau này hình như được đi nhiều hơn, thấy nhiều hơn, nên ông đã rút hai câu ấy ra khỏi các tập thơ thiếu nhi của mình...

Xin nói thêm trước khi kết thúc bài viết.
Người làm văn chương hay dẫn ra những câu danh ngôn, tuyên ngôn chí lý: “Văn mình, vợ người”.
Nhưng tôi đồ rằng “Văn mình vợ người” được sinh ra để đi kèm với “Bút sa, gà chết”, với “Trường văn trận bút”…
Người ta chỉ mải mê với “Văn mình vợ người” mà quên mất lời dặn dò “sấm truyền” về qui luật đào thải thơ ca khắc nghiệt nằm ở hai câu sau…

Sài Gòn, 10.7.2015
VDC


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hoàng Sa sắp có dân


() - Số 155 Thanh Hải - Phước Tín 
 Một góc phường Thọ Quang, phần đất dự kiến nhập vào huyện đảo Hoàng Sa

Nếu đề xuất đưa 2 phường Thọ Quang, Mân Thái thuộc quận Sơn Trà nhập vào huyện đảo Hoàng Sa của Đà Nẵng được đồng ý, huyện Hoàng Sa sẽ có đất, có dân và có bộ máy chính quyền thực thụ.

Điều này sẽ nâng cao hiệu lực chính quyền, có điều kiện tăng cường đấu tranh chính trị, tăng sức mạnh ngoại giao, hướng đến mục tiêu khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo đối với Hoàng Sa của Việt Nam... Thời điểm chín muồi

Sáng 8.7, tại kỳ họp thứ 14, HĐND TP.Đà Nẵng khoá VIII, ông Nguyễn Đăng Hải, Phó Chủ tịch thường trực UBMTTQ VN TP.Đà Nẵng đưa ra đề xuất tách 2 phường Thọ Quang và Mân Thái thuộc quận Sơn Trà để nhập vào huyện đảo Hoàng Sa. Theo ông Hải, đây là ước nguyệt từ lâu của nhân dân cũng như của chính quyền địa phương, tuy nhiên do vướng vào các cơ sở pháp lý nên chưa thực hiện được.
Sắp tới, đầu năm 2016, khi luật Tổ chức chính quyền địa phương có hiệu lực, theo đó tái lập tổ chức HĐND cấp quận huyện, buộc huyện đảo Hoàng Sa phải có nhân dân thì mới bầu ra được HĐND, chính quyền UBND, chủ tịch… Đây là cơ hội, thời điểm chín mùi để đặt ra vấn đề "cắt" một phần đất liền nhập vào huyện đảo Hoàng Sa.
Ông Hải nói: “Đà Nẵng vinh dự được Trung ương giao phó quản lý huyện đảo Hoàng Sa, một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc. Đây là vinh dự to lớn và trách nhiệm cũng nặng nề. Từ trước đến nay, chính quyền Đà Nẵng đã cố gắng làm hết sức mình để bảo vệ chủ quyền biển đảo nói chung, trong đó có Hoàng Sa bằng những việc làm cụ thể như sưu tầm hiện vật, bản đồ khẳng định chủ Hoàng Sa, ra mắt chính quyền, các hoạt động triển lãm, tuyên truyền trong nước, đấu tranh ngoại giao...
Nhưng đến nay, quần đảo Hoàng Sa vẫn bị Trung Quốc cưỡng chiếm bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp đạo lý. Điều đó cho thấy trách nhiệm đòi lại chủ quyền đặt ra càng lúc càng lớn hơn đối với chính quyền và nhân dân TP Đà Nẵng. Nhân luật Tổ chức chính quyền địa phương có hiệu lực từ ngày 1.1.2016, tôi mong muốn Đà Nẵng đưa hai phường trên vào Hoàng Sa, kéo Hoàng Sa về với đất liền. Đây là việc làm hết sức ý nghĩa mà chính quyền Đà Nẵng cần quan tâm để khẳng định chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam”.
Hai phường Thọ Quang, Mân Thái hội đủ các điều kiện để có thể sát nhập với huyện đảo Hoàng Sa  
Đại biểu HĐND khác của thành phố Đà Nẵng, bà Nguyễn Thị Anh Đào nói thêm: “Nếu tách được các phường đó vào huyện đảo Hoàng Sa, nhân dân rất mừng. Vì về tương lai, việc sáp nhập sẽ tạo sự phát triển kinh tế biển mạnh mẽ, đặc biệt là cơ hội phát triển du lịch biển. Đây cũng là ước vọng của nhân dân".
Gám đốc Sở Nội vụ, kiêm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa, ông Võ Công Chánh cho biết, thực ra, từ  năm 2003, ông Trần Thọ, Trưởng ban Tổ chức chính quyền TP Đà Nẵng lúc đó đã trình Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng-Huỳnh Năm đề án tăng cường quản lý nhà nước đối với huyện đảo Hoàng Sa. Trong đó đề nghị “cắt” 2 phường này để nhập vào huyện Hoàng Sa.
Ngay năm 2003, UBND TP.Đà Nẵng đã chính thức đề xuất Ban biên giới, Bộ Ngoại giao, Chính phủ cho phép tách phường Thọ Quang ra làm 2 phường, thêm phường Mân Thái để hình thành huyện đảo Hoàng Sa, nhưng chưa thực hiện được vì nhiều lý do.
Cách đây 2 tuần, Sở Nội vụ cũng chủ động làm việc với Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng về vấn đề này. Ông Thăng có giao tôi về bàn với Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng, Chủ tịch UBND TP tính toán dần phương án cho phù hợp…”
Khát vọng của toàn dân
Nhận được thông tin về đề xuất trên của đại biểu HĐND, ông Đặng Công Ngữ, nguyên Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa (trong năm 5, 2009-2014) không giấu được vui mừng, xúc động. Ông gói gọn tâm trạng mình bởi 2 từ: “Hạnh phúc”.
Ông nói, đây là mong ước của nhiều người, của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Đà Nẵng nói riêng. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương, khi bỏ việc thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận huyện, thì UBND huyện đảo Hoàng Sa buộc phải có dân mới tồn tại. Vì vậy đề xuất này đúng thời điểm cần thiết.
Khi được thông qua, huyện đảo Hoàng Sa sẽ được xác lập lại, sẽ có trụ sở, có dân, có điều kiện để tổ chức bộ máy chính quyền hoàn chỉnh, là một thực thể với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, để công tác quản lý nhà nước được rõ ràng. Đặc biệt, khi có bộ máy chính quyền thực thụ, huyện Hoàng Sa sẽ có thêm nhiều điều kiện để giúp đỡ nhân dân, đặc biệt là ngư dân đánh bắt hải sản trên vùng biển Hoàng Sa.
Tàu cá Việt Nam (trái) và tàu Trung Quốc trên vùng biển Hoàng Sa 
Đã có thời điểm, khi đề xuất “cắt” một phần đất liền ở quận Sơn Trà sát nhập huyện Đảo Hoàng Sa chưa hiện thực, nhiều nhân sĩ, trí thức cả nước lẫn chính quyền UBND huyện Hoàng Sa đã từng có ý định “thu nhận” công dân danh dự của Hoàng Sa, và hàng triệu người đã hưởng ứng với ý tưởng này.
Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội TP.Đà Nẵng cho biết, việc đề xuất tách 2 phường thuộc quận Sơn Trà để nhập vào huyện đảo Hoàng Sa không phải là ý tưởng mới. Trước đây, từ thời Ngô Đình Diệm, một phần huyện đảo Hoàng Sa đã có trong lục địa, đó là xã Định Hải thuộc quận Hoà Vang. Bây giờ xác lập lại là sự cần thiết. Theo TS Sơn, việc đưa 2 phường Thọ Quang và Mân Thái sát nhập, trở thành đơn vị hành chính cấp xã, trực thuộc huyện đảo Hoàng Sa có ý nghĩa to lớn cả về thực tiễn lẫn ý nghĩa chính trị.
Thực tế, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng hoàn toàn từ tháng 1.1974. Vì vậy, từ sau ngày giải phóng, cho dù chúng ta đã tái thành lập UBND huyện đảo Hoàng Sa, có Chủ tịch UBND huyện, nhưng không hoàn chỉnh về bộ máy hành chính, vì không có đất, không có dân.
Sẽ không còn “đứng trong bờ nói chuyện ngoài đảo” 
Theo luật pháp và công ước quốc tế, nếu liên tiếp trong vòng 50 năm, quốc gia không lên tiếng, không tuyên bố, không có động thái xác lập chủ quyền đối vùng đất bị nước khác chiếm đóng, thì vùng đất đó sẽ không được công nhận.
Vì vậy, để duy trì các hoạt động đấu tranh khẳng định chủ quyền biển đảo đối với Hoàng Sa, chúng ta chấp nhận mô hình tổ chức hành chính theo hình thức biểu trưng như hiện tại. Điều này đã từng bị một số đồng bào không hiểu, cho rằng chúng ta đứng trong bờ mà nói chuyện ngoài đảo là vô nghĩa.
Cho ên, việc lấy một phần đất trong lục địa, ghép với quần đảo Hoàng Sa để đơn vị hành chính này có đất, có dân là phù hợp với luật pháp hiện hành, có điều kiện xây dựng một chính quyền thực sự. Có tổ chức HĐND, UBND, có các hoạt động dân sự thực sự…
Và đương nhiên, với việc hình thành cơ quan hành chính huyện đảo trên đất liền này sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đấu tranh khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa trong tương lai. Điều đó cũng thể hiện rõ quyết tâm của nhà nước trong việc theo đuổi mục tiêu khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chủ tịch Hội sử học TP.Đà Nẵng, ông Bùi Văn Tiếng rất vui mừng trước đề xuất này của Đại biểu HĐND TP.Đà Nẵng. Ông Tiếng cho rằng đây là bước tiến triển đáng khích lệ, bởi ý định này đã từng được Đà Nẵng nung nấu, đề xuất nhiều lần nhưng chưa thành hiện thực.
Động thái này nhằm tạo ra một chính quyền hiệu lực. Có được bộ máy chính quyền thực thụ, sẽ tăng thêm hiệu lực để đấu tranh chính trị, tăng sức mạnh ngoại giao lên rất nhiều cho huyện Hoàng Sa, cho Việt Nam.
Theo ông Tiếng, 2 phường Thọ Quang, Mân Thái là địa phương ven biển, có ngư dân sống bằng nghề chài lưới, đi biển, đánh bắt tại vùng biển Hoàng Sa. Tại phường còn có cảng biển, bến cá, có hải quân, bộ đội biên phòng… Tất cả các điểm này hội đủ điều kiện để thành lập huyện đảo Hoàng Sa có đất liền gắn với quần đảo ngoài biển khơi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trèo cao ngã đau, Trung Quốc đối diện "Đại Khủng hoảng" 2015 - SNEWS SO HA

Trong khi mọi con mắt đang đổ về Hy Lạp và Eurozone thì một cuộc khủng hoảng kinh tế khác mang hậu quả to lớn hơn rất nhiều đang diễn ra tại Trung Quốc.

Theo thống kê của Wall Street Journal, thị trường chứng khoán (TCCK) Trung Quốc đã mất hơn 3,2 nghìn tỉ USD giá trị chỉ trong tháng vừa qua.
Sau khi tăng 130% trong khoảng thời gian từ 9/2014 tới 6/2015, chỉ số Shanghai Composite đã tụt dốc không phanh và mất đi hơn 30% giá trị trên thị trường, lượng giảm gần gấp đôi so với giá trị của cả hệ thống thị trường chứng khoán Ấn Độ.
"Bong bóng" xuất hiện
The Diplomat phân tích, dấu hiệu cho sự xuất hiện của "bong bóng" đã nhiều lần hiện hữu trong năm vừa qua.
Ngày càng nhiều người Trung Quốc bắt đầu mua và trao đổi cổ phiếu trên sàn Thượng Hải và Thâm Quyến; từ sinh viên tới các cụ ông cụ bà đều kiếm được tiền từ việc "xào nấu" cổ phần.
Phần đông các "nhà đầu tư" này đã vay tiền để mua cổ phiếu, họ tin rằng thị trường đã chạm đáy, và chỉ có thể đi lên chứ không thể giảm thêm được nữa.
Thị trường giá lên (bull market) xuất hiện trong lúc kinh tế Trung Quốc đang chững lại rộng khắp, một xu hướng dẫn tới việc TCCK bị định giá quá cao, đồng thời khiến thị trường ngày một tách biệt ra khỏi kinh tế Trung Quốc.
Trước tình hình này, bộ máy lãnh đạo Trung Quốc đã có những điều chỉnh nhằm kìm hãm đà tụt dốc của cổ phần. Cụ thể, chính phủ đã tạm dừng phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) cũng như khuyến khích các công ty tài chính mua thêm cổ phiếu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước (SOE) đã được lệnh từ Ủy ban Giám sát và Quản lý Tài sản Trung Quốc không được phép bán cổ phiếu của các công ty đứng tên họ, đồng thời được khuyến khích mua thêm cổ phần nhằm ổn định phần nào giá trị.
Nhưng động thái đáng kể nhất là việc gần 1.500 công ty Trung Quốc, tức là hơn một nửa số công ty được niêm yết trên sàn giao dịch Thượng Hải và Thâm Quyến, đã xin tạm ngừng giao dịch cổ phiếu của mình để hạn chế thêm thiệt hại.
Màu đỏ bao trùm các sàn giao dịch Trung Quốc. Ảnh: Reuters
Màu đỏ bao trùm các sàn giao dịch Trung Quốc. Ảnh: Reuters
Trước mắt, việc những bước điều chỉnh này có đem lại hiệu quả trong việc giảm thiểu thiệt hại cho TCCK Trung Quốc hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Bộ máy lãnh đạo Trung Quốc trước đó đã áp dụng một loạt các biện pháp cải cách kinh tế như giảm lãi suất, dùng quỹ hưu trí chính phủ để hỗ trợ thị trường, và điều tra các hoạt động tài chính mờ ám, nhằm mục tiêu để thị trường tự quyết định số phận.
Trong đó, theo Reuters, Bắc Kinh đã thông qua một gói hỗ trợ từ quỹ hưu trí chính phủ trị giá 322 tỉ USD, cao nhất trong lịch sử nước này.
Mặt khác, những cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm định hướng những biện pháp cải cách này lại chính là các tác nhân "đóng góp" vào sự đi xuống của kinh tế Trung Quốc.
Một ví dụ cụ thể là việc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) và Ủy ban Điều hành Ngân hàng Trung Quốc (CBRC) đã từng theo đuổi những chính sách "mở đường" cho ngân hàng ngầm (shadow banking) và nâng mức nợ.
Do vậy, không còn lựa chọn nào khác, chính phủ Tập Cận Bình đã phải dùng đến "hạ sách" can thiệp vào thị trường.
Không những vậy, chiến dịch chống tham nhũng "đả hộ diệt ruồi" của nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng đang cho thấy "tác dụng phụ" của nó, tạo tâm lý cẩn trọng giữ mình trong các doanh nhân thay vì đẩy mạnh đầu tư.
CHUYÊN GIA KINH TẾ - TẠP CHÍ FINANCIAL TIMES
GEORGE MAGNUS
Chiến dịch chống tham nhũng của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang cản trở tăng trưởng cũng như khiến các cải cách kinh tế nước này phản tác dụng.
Theo The Diplomat, tình hình kinh tế bất ổn hiện nay đang đặt ra một thách thức quốc nội "khó nhằn" cho chính phủ Trung Quốc, khi điều này sẽ được đổ cho công tác điều hành kinh tế của bộ máy lãnh đạo. Độ tin cậy của họ cũng sẽ vì thế mà bị đặt dấu hỏi.
Người Trung Quốc ở mọi tầng lớp từ tỉ phú tới những người nông dân sẽ ngờ vực khả năng đảm bảo một tương lai kinh tế thịnh vượng cho người Trung Quốc của tầng lớp lãnh đạo. Các nhà đầu tư cũng sẽ điều phối tiền của mình sang các thị trường khá khẩm hơn.
"Đổ tội" cho ngoại cảnh
Trong lịch sử, khi thị trường Trung Quốc đứng trước một cuộc suy thoái, lãnh đạo nước này luôn tìm cách "đánh lạc hướng" dư luận trong nước sang một vấn đề bên ngoài.
Năm 2012, khi kinh tế Trung Quốc tăng trưởng ở mức thấp nhất trong hơn một thập kỉ, Bắc Kinh lập tức lái sự chú ý sang các vấn đề đối ngoại, cụ thể là tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản.
Hệ quả là người dân Trung Quốc tràn ra đường biểu tình, tẩy chay dùng hàng Nhật Bản, phá hoại các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản, mà quên mất những khó khăn về kinh tế mà nước nhà đang gặp phải.
Người Trung Quốc biểu tình trước Đại sứ quán Nhật ở Bắc Kinh. Ảnh: AFP
Người Trung Quốc biểu tình trước Đại sứ quán Nhật ở Bắc Kinh năm 2012. Ảnh: AFP
Ngoài lo ngại Bắc Kinh sẽ tái áp dụng chiến thuật này, các nhà phân tích cho rằng việc TCCK Trung Quốc tụt dốc không phanh sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế toàn cầu. Các dấu hiệu trong tuần vừa qua đã cho thấy nguy cơ một hiệu ứng domino có thể xảy ra.
Tuy vẫn còn thời gian để chính phủ Tập Cận Bình cứu vãn tình hình, nhưng theo đánh giá của tác giả Scott McDonald trên National Interest, bộ máy lãnh đạo đảng Trung Quốc đang đứng trước thử thách đối nội lớn nhất kể từ sự kiện Thiên An Môn 1989.
Ông McDonald quan ngại, nếu Bắc Kinh vẫn tiếp tục bất lực trước đà tụt dốc hiện nay của chứng khoán, một cuộc Đại Khủng hoảng Tài chính sẽ xảy ra.
Khi đó, những gì xảy ra tại Hy Lạp hiện nay sẽ chỉ là một "chấm nhỏ" nếu so với những hậu quả mà một cuộc khủng hoảng tại Trung Quốc có thể gây ra cho kinh tế toàn cầu.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Hóa giải 'những cái đầu nóng' coi Mỹ là kẻ thù chiến lược ra sao?

(VTC News) - Được cử theo dõi mảng quan hệ Việt-Mỹ thời kỳ xúc tiến bình thường hóa của báo Quân đội Nhân dân, nhà báo Lê Thọ Bình kể về hành trình gian nan của các nhà ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và Lê Mai.


20 năm trước, ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa to lớn đối với nền ngoại giao Việt Nam nói chung và quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ nói riêng. Để có được kết quả có tính bước ngoặt này cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ đã những nỗ lực vượt bậc. Tuy nhiên có những thời điểm mà đáng ra hai bên đã có thể làm tốt hơn r
ất nhiều.

Nhà báo kỳ cựu Lê Thọ Bình, người từng công tác tại báo Quân đội Nhân dân, được phân công theo dõi mảng quan hệ Việt - Mỹ thời kỳ xúc tiến bình thường hóa quan hệ kể về hành trình gian truân, cam go của các nhà ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch (Bộ trưởng Ngoại giao) và Lê Mai (Thứ trưởng Ngoại giao).


Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Hóa giải 'những cái đầu nóng' coi Mỹ là kẻ thù chiến lược ra sao?
Thứ trưởng Lê Mai (bên phải) và Thượng nghị sĩ John Kerry trả lời các nhà báo sau phiên họp tại Hà Nội tháng 11/1992 
Lần đầu tiên tôi được gặp và trò chuyện với ông Lê Mai là vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX khi ông vừa được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Ngoại giao.

Hôm đó tại cuộc họp báo do Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch và Bộ trưởng Ngoại giao (sau này là Thủ tướng) Thái Lan Siddhi Savetsila chủ trì tại Nhà khách Chính phủ (số 2, Lê Thạch, Hà Nội), ta tuyên bố Việt Nam rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia.

Tôi còn nhớ hôm ấy chính ông Siddhi Savetsila đã ca ngợi ông Lê Mai với vai trò là Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan. Ông Siddhi Savetsila đã gọi ông Lê Mai là “Người đã tạo dựng một vòng liên kết thân thiện và cảm tình của dư luận quốc tế trong việc đối phó và hóa giải vấn đề Campuchia một cách mềm dẻo và khôn khéo”.

Sau khi kết thúc cuộc họp báo, tôi đã có dịp được trò chuyện cùng Thứ trưởng Lê Mai khi  ông đứng chờ xe trở về trụ sở Bộ Ngoại giao.

Tuy nhiên phải tới cuối tháng 11 năm 1991, với vai trò là Bình luận viên quốc tế được giao phụ trách mảng quan hệ Việt- Mỹ, tôi mới có được bài phỏng vấn chính thức đầu tiên với Thứ trưởng Lê Mai.
Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Hóa giải 'những cái đầu nóng' coi Mỹ là kẻ thù chiến lược ra sao?
Tổng thống Clinton là người đã đặt nền móng chính thức cho việc bình thường hoá quan hệ song thương Việt - Mỹ trong chuyến thăm Việt Nam ngày 17/11/2000 
Cuộc phỏng vấn được thực hiện khi ông dẫn đầu Đoàn đàm phán Việt Nam vừa kết thúc phiên đàm phán với Trợ lý Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ về Đông Á- Thái Bình Dương Robert Solomon ngày 21-11-1991 tại New York.

Đây là vòng đàm phán chính thức đầu tiên về bình thường hóa quan hệ Việt- Mỹ. Trong bài phỏng vấn này Thứ trưởng Lê Mai đã nói rằng, quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ đang có những bước tiến đáng kể.

Tuy nhiên ông cũng cảnh báo rằng, chặng đường phía trước còn đầy cam go và có những diễn biến khó lường, cần hết sức tỉnh táo, nhưng việc bình thường hóa là không thể đảo ngược được.

Sau này, trong vòng 4 năm trời, cứ sau mỗi vòng đàm phán tôi lại có dịp được gặp ông, phỏng vấn ông. Cũng có lúc ông trực tiếp gọi tôi đến phòng làm việc của ông để trao đổi một vấn đề nào đó còn khúc mắc và cần làm cho dư luận rõ hơn và ủng hộ. Cũng có khi chỉ là những câu chuyện không đầu không cuối về một vấn đề nào đó.

Thời cơ bị bỏ lỡ

Những câu chuyện mà tôi được nghe từ Thứ trưởng Lê Mai bao giờ cũng thực sự thú vị và hữu ích. Trò chuyện với Thứ trưởng Lê Mai tôi mới hiểu ra rằng, thực ra ngay sau ngày 30/4/1975, vấn đề bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ đã được đặt ra.

Khi ấy phía Việt Nam chúng ta đã chuyển cho chính quyền Washington một thông điệp rất rõ ràng, rằng Việt Nam mong muốn có quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau.

Chúng ta cũng cam kết sẽ tạo mọi điều kiện để phía Mỹ tiến hành di tản nhân viên của Mỹ; không làm xấu đi quan hệ hai nước trong tương lai và không có sự thù địch với Mỹ tại Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng yêu cầu Mỹ thực hiện những cam kết như vậy.
Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Hóa giải 'những cái đầu nóng' coi Mỹ là kẻ thù chiến lược ra sao?
Tổng thống thứ 42 của nước Mỹ bắt tay người dân tại ban công một ngôi nhà đối diện Văn Miếu Quốc Tử Giám 
Ngày 8/5/1976, Ngoại trưởng Mỹ thời bấy giờ là Henry Kissinger đã gửi một công hàm cho ông Nguyễn Cơ Thạch, khi ấy đang là Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam, đề nghị thảo luận vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước.

Phía Mỹ đưa ra điều kiện để thiết lập quan hệ ngoại giao gữa hai nước là Việt Nam phải tạo điều kiện và làm đầy đủ hồ sơ để phía Mỹ tìm kiếm người Mỹ mất tích (Missing in Action) gọi tắt là MIA và trao trả hài cốt lính Mỹ. Điều kiện mà phía Việt Nam đưa ra là Mỹ phải bồi thường chiến tranh. Tuy nhiên Hoa Kỳ không chấp nhận vì cho rằng, Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris.

Mặc dù vậy, khi Jimmy Carter nhậm chức Tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ (1977-1981), ông đã nỗ lực đẩy mạnh việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.

Tháng 3/1977, Jimmy Carter gửi một phái đoàn sang Hà Nội dự kiến sẽ đàm phán về việc nối lại bang giao giữa hai nước. Tiếp theo, ngày 4/5/1977, chính quyền Washington đã không chống đối để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.
Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Hóa giải 'những cái đầu nóng' coi Mỹ là kẻ thù chiến lược ra sao?
Cựu Tổng thống Bill Clinton phát biểu trong lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ Việt Mỹ - Ảnh: Tùng Đinh 
Những diễn biến ngoại giao thời điểm ấy thực sự tiến triển khá thuận lợi. Ngày 3/5/1977, phái đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu đã tới Paris để tiến hành vòng đàm phán đầu tiên với Mỹ.

Tại vòng đàm phán này Việt Nam vẫn kiên quyết đòi Mỹ phải bồi thường chiến tranh. Phía Mỹ đề nghị hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, sau đó Mỹ sẽ xem xét vấn đề viện trợ cho Việt Nam, chứ không bồi thường chiến tranh.

Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai nhớ lại: “Khi ấy Trưởng đoàn đàm phán Phan Hiền đã báo cáo về vấn đề này với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao. Ông Nguyễn Cơ Thạch lúc này đã là Bộ trưởng Ngoại giao (thay ông Nguyễn Duy Trinh- NV) cho rằng đây là thời cơ hết sức thuận lợi để chúng ta thiết lập mối bang giao với Mỹ, đánh dấu sự trở lại của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là phương Tây. Tuy nhiên, tiếc rằng, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã không thuyết phục được lãnh đạo cấp cao của ta”.

Cuối những năm 1977, đầu 1978 quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã trở nên hết sức căng thẳng. Để cải thiện môi trường quốc tế, đầu năm 1978, tại Tokyo, thông qua Trưởng đoàn đàm phán, Việt Nam đã thông báo với phía Mỹ là Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Hoa Kỳ.

Tuy nhiên lúc này Mỹ quan tâm hơn tới việc đàm phán bình thường hoá với Trung Quốc hơn, vấn đề Việt Nam không còn được ưu tiên nữa. Cuối năm 1978, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã cố gắng một lần nữa hối thúc Hoa Kỳ ký kết hiệp định bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ, nhưng bất thành.

Rào cản lớn nhất: Người Mỹ mất tích trong chiến tranh

Năm 1978, chiến tranh biên giới phía Tây Nam diễn ra. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đồng thời giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, Việt Nam đã đưa quân vào Camphuchia. Năm 1979, ở biên giới phía Bắc Trung Quốc đưa quân sang xâm lược Việt Nam. Đây là giai đoạn hết sức khó khăn với Việt Nam chúng ta.

Vì vậy, việc nối lại quan hệ với Hoa Kỳ đã bị dán đoạn một thời gian dài. Mãi tới cuối năm 1990 vấn đề quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ mới lại được đặt ra.

Ngày 29/9/1990, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới New York và có cuộc gặp với Ngoại trưởng Mỹ J. Baker để bàn về quan hệ hai nước. Tiếp đó, ngày 9/4/1991 phía Hoa Kỳ đã đưa ra "Bản lộ trình" 4 bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.

Video những chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Clinton đến Việt Nam

Trong cuộc trả lời phỏng vấn sau khi kết thúc phiên đàm phán đầu tiên với Trợ lý Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ về Đông Á- Thái Bình Dương Robert Solomon ngày 21/11/1991 tại New York, Thứ trưởng Lê Mai đã nói nhiều và khá kỹ về những vấn đề mà ông cho là rào cản mà cả hai bên đều phải vượt qua.

Ông nói, hai chướng ngại bao trùm trong quan hệ hai nước là Việt Nam đóng quân tại Campuchia và vấn đề  tù binh chiến tranh (Prisoner of War) và người Mỹ mất tích (Missing in Action). Sau này chúng ta gọi tắt là vấn đề POW/MIA. Đầu những năm 1990 vấn đề Campuchia đã được giải quyết, nhưng vấn đề POW/MIA vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

Thứ trưởng Lê Mai bảo rằng, khó khăn nhất đối với chính quyền của Tổng thống G. Bush là người dân Mỹ vẫn không hài lòng về vấn đề POW/MIA.

Ngay sau Hiệp định Paris năm 1973 Việt Nam đã trao trả 590 tù binh Mỹ bị bắt ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Tuy nhiên người Mỹ vẫn cho rằng còn tới 2.646 lính Mỹ mất tích. Những cố gắng của chính quyền Mỹ đã không làm hài lòng người dân Mỹ. Họ cho rằng chính quyền Mỹ chưa làm hết sức mình trong việc tìm kiếm POW/MIA.

 

Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Hóa giải 'những cái đầu nóng' coi Mỹ là kẻ thù chiến lược ra sao?Cái khó khăn nhất từ phía Việt Nam chúng ta là làm sao hóa giải “những cái đầu nóng” của một bộ phận vẫn nhìn Mỹ như là “kẻ thù chiến lược”.Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Hóa giải 'những cái đầu nóng' coi Mỹ là kẻ thù chiến lược ra sao?
 
“Còn cái khó khăn nhất từ phía Việt Nam chúng ta là gì?”. Tôi còn nhớ, khi ấy ông Lê Mai chần chừ một lúc rồi bảo: “Cái khó khăn nhất từ phía Việt Nam chúng ta là làm sao hóa giải “những cái đầu nóng” của một bộ phận vẫn nhìn Mỹ như là “kẻ thù chiến lược”.

Trong bối cảnh “trong chưa thực sự ấm”, “ngoài chưa thực sự êm” ấy thì những đóng góp của các nhà ngoại giao Việt Nam, đặc biệt là Thứ trưởng Lê Mai là hết sức quan trọng.

Tôi đã có dịp phỏng vấn các Nghị sỹ, Thượng nghị sỹ (TNS) Mỹ, những người có vai trò quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ như TNS John Kerry, John McCain, Bob Smith…, trao đổi với các đồng nghiệp phương Tây, đặc biệt là các phóng viên Mỹ.

Khi nói về Thứ trưởng Lê Mai, họ đều cảm phục và kính trọng. Họ luôn đồng nhất ông với câu nói nổi tiếng (của ông) như là biểu tượng của quan hệ Việt- Mỹ “Việt Nam là một đất nước chứ không phải là một cuộc chiến tranh”.

Còn nữa...
Lê Thọ Bình
Phần nhận xét hiển thị trên trang