Mới đây Nguyễn Quang Dy gọi điện cho tôi, bảo rằng có bài viết mới. Nhưng điều nữa mà Dy muốn nói là đám tang Thứ trưởng Trần Quang Cơ anh đã không có mặt tại Hà Nội để tiễn đưa một con người "có nhân cách đặc biệt, được mọi người, mọi phía, quý mến và kính nể". Nguyễn Quang Dy còn nói, vừa như tự nói với mình và nói thay cho bạn bè lứa chúng tôi, "Anh (anh Cơ) là tấm gương sáng cho thế hệ đàn em chúng tôi, chưa kịp lớn đã già…". Có chút chua chát đấy, nhưng Nguyễn Quang Dy đã nói đúng.
Bài viết Nguyễn Quang Dy ủy thác cho Blog tôi đưa lên cho bạn bè đọc dịp này, như anh nói, là "một nén tâm hương" thắp lên tưởng nhớ Cố Thứ trưởng Trần Quang Cơ mà anh nhất mực yêu mến và kính trọng.
Vệ Nhi-----
Như một nén tâm hương
Tôi ân hận đã không có mặt tại Hà Nội để dự đám tang tiễn đưa vong linh anh Trần Quang Cơ về cõi vính hằng (như đã tiễn đưa anh Lê Mai và anh Phạm Xuân Ẩn). Vì vậy, tôi nhờ blog Nguyễn Vĩnh đăng lại bài tôi mới viết trong dịp này (đã chỉnh sửa) như một nén tâm hương để kính viếng anh Trần Quang Cơ, một đồng nghiệp và bậc đàn anh đáng kính.
Anh Trần Quang Cơ là một trong những nhà ngoại giao Việt Nam có nhân cách đặc biệt, được mọi người, mọi phía, quý mến và kính nể. Có lẽ vì anh có tấm lòng trung thực và nhân ái, có hiểu biết mang tầm chiến lược, có bản lĩnh kiên cường và đầy trách nhiệm. Đó là một nhân tài và một nhân cách quý hiếm, nhưng sống rất trong sáng và giản dị.
Dù không làm ngoại trưởng, nhưng những đóng góp của anh lúc còn làm việc cũng như khi đã nghỉ hưu, xứng tầm ngoại trưởng, hoặc còn hơn thế. Dù trong hoàn cảnh nào, anh vẫn không bị vô hiệu hóa, vẫn dũng cảm nói ra sự thật và bảo vệ chân lý, như một nhân cách lớn. Anh là tấm gương sáng cho thế hệ đàn em chúng tôi, chưa kịp lớn đã già…
Nam mô a di đà phật!
NQD, 2/7/2015
---
40 năm sau: Lịch sử đang lặp lại
Nguyễn Quang Dy *
“Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”
Richard Nixon nói với William Safire (nhà báo New York Times) năm 1994, trước khi chết.
40 năm sau Chiến tranh Viêt Nam, cuối cùng người Mỹ và Việt Nam đang làm những gì mà họ đáng lẽ phải làm từ năm 1978 khi nước Việt Nam thống nhất rất cần (nhưng để tuột mất) cơ hội hòa giải và bình thường hóa với Mỹ (là kẻ thù cũ) để tái thiết và đối phó với hiểm họa mới từ Trung Quốc (là “anh em bạn thù”); hoặc từ năm 1945 khi nước cộng hòa mới do Hồ Chí Minh đứng đầu rất muốn đồng minh với Mỹ để được giúp đỡ nhằm đối phó với nước Pháp thực dân và Trung hoa Dân quốc; hoặc từ năm 1873-1875 khi vua Tự Đức cử ông Bùi Viện làm sứ thần sang Mỹ để tìm kiếm (nhưng không đạt được) sự ủng hộ của Mỹ nhằm chống lại ý đồ của Pháp muốn biến Vương quốc An Nam thành thuộc địa. Liệu lịch sử có lặp lại?
Một phiên họp kín tại cuộc hòa đàm ở Paris.
Đáng tiếc là hai nước đã để tuột mất những cơ hội lịch sử, nên bây giờ phải “trở về tương lai”, sau khi bị bầm dập bởi cuộc chiến tranh sai lầm đẫm máu, và lãng phí quá nhiều thời gian, sức lực và xương máu vào những trò chơi hậu chiến, bao gồm cái gọi là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” (không kém khốc liệt) giữa “anh em bạn thù” và những đồng minh mới. Chủ nghĩa giáo điều và ý thức hệ cộng sản đã bị phá sản, làm mọi người ngộ ra một sự thật đơn giản là “không có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn” (Lord Palmerston).
Đấy là tóm tắt nhanh bức chân dung đầy bi kịch của quan hệ Việt-Mỹ. Thật trớ trêu là tương lai quan hệ Việt-Mỹ nay lại gắn liền với tương lai Biển Đông, mà tương lai của Biển Đông lại gắn liền với quan hệ Trung-Việt, cũng như quan hệ Trung-Mỹ. Để làm rõ những khía cạnh đầy uẩn khúc của các mối quan hệ này, hãy bình tâm xem lại một số bối cảnh lịch sử có liên quan và một số biến chuyển gần đây, như những dấu hiệu để “trở về tương lai”.
Ông Võ Văn Kiệt và ông Bill Clinton, cả hai ông khi tại nhiệm đều đã đóng góp nhiều cho bình thường hóa quan hệ Viêt Nam - Mỹ
Ngăn chặn Trung Quốc: Trở về tương lai?
Ai quan tâm đến lịch sử chắc vẫn nhớ 60 năm về trước (sau chiến tranh Triều Tiên và Điện Biên Phủ), Mỹ đã triển khai chiến lược Ngăn chặn Trung Quốc bằng cách sử dụng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (South East Asia Treaty Organization - SEATO) làm cơ chế an ninh tập thể ở khu vực này. Chẳng có gì sai khi Mỹ ngăn chặn Trung Cộng lúc đó cũng như bây giờ khi họ hung hăng trỗi dậy và bành trướng ở khu vực, bằng cách “xoay trục sang Châu Á” để tái cân bằng lực lượng, và sử dụng TPP (Tran-Pacific Partnership) làm khuân khổ hợp tác mới ở khu vực. Nhưng mục đích kinh tế của TPP có lẽ không quan trọng bằng mục đích chiến lược.
Nói cách khác, đây là trò “rượu cũ bình mới”. “Rượu cũ” là mối đe dọa tiềm ẩn của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán (không hề thay đổi). “Bình mới” là Trung Quốc nay áp đặt “đường Lưỡi bò” và dùng dàn khoan để lấn chiếm Biển Đông và ráo riết xây dựng các đảo nhân tạo và công trình quân sự tại các đảo san hô mà họ chiếm của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hòng kiểm soát Biển Đông (như “lợi ích cốt lõi”). “Rượu cũ” là Mỹ “Ngăn chặn” Trung Quốc và “bình mới” là khuôn khổ hợp tác TPP (thay SEATO). Quan hệ Trung-Việt đầy phức tạp vừa là đối tác chiến lược (cùng ý thức hệ), vừa là đối thủ chiến lược (mâu thuẫn về lợi ích quốc gia). Đó là mối quan hệ bất bình thường (vừa yêu vừa ghét) như “anh em bạn thù”. Lúc này thật là dại dột và bất khả thi, nếu Việt Nam cố duy trì nguyên trạng quan hệ bất bình thường đó bằng cách đi trên dây để cân bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ.
Cách đây 60 năm, Mỹ đã ngăn chặn một Trung Quốc nghèo khổ (như con “hổ giấy”), tuy ngoài mặt thách thức Mỹ nhưng trong bụng rất muốn bắt tay. Còn bây giờ, Mỹ đang ngăn chặn một Trung Quốc giàu có như một “quái vật kinh tế và quân sự”, vừa muốn giữ nguyên trạng (trong nước), lại vừa muốn thay đổi nguyên trạng (ngoài nước), và thách thức vai trò cầm đầu thế giới của Mỹ. Trước đây, Mỹ đã ngăn chặn Trung Quốc bằng cách đánh Việt Nam (như một kẻ thù ý thức hệ). Còn bây giờ Mỹ đang ngăn chặn Trung Quốc hung hăng trỗi dậy bằng cách hợp tác với Việt Nam (như một đối tác chiến lược mới).
Đây là một sự chuyển đổi đầy kịch tính, để sửa chữa một sai lầm lớn đã dẫn đến chiến tranh Việt Nam. Chiến lược Ngăn chặn Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam là hai chuyện rất khác nhau, không nên nhầm lẫn. Đáng lẽ Mỹ không nên can thiệp vào Việt Nam bằng “một cuôc chiến tranh sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, với một kẻ thù sai” (Omar Bradley, 1951). Nhưng phải 20 năm sau cuộc chiến, ông Robert McNamara mới công khai thừa nhận sai lầm này (trong cuốn sách xuất bản năm 1995). Thực ra, ngay từ năm 1965, ông George Ball (trợ lý ngoại trưởng) đã nhìn thấy trước một cuộc chiến sai lầm, đã cảnh báo và khuyên can tổng thống John Kennedy đừng quyết định đưa quân sang Việt Nam để can thiệp trực tiếp.
Rất nhiều cuốn sách được xuất bản nói về cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
Nhưng đáng tiếc là không ai muốn nghe George Ball, mà người ta còn cười nhạo ông ấy. Theo tôi, George Ball tài giỏi không kém gì George Kennan. Họ là những người Mỹ thông minh, dũng cảm, có tầm nhìn xa. Nếu chính quyền biết lắng nghe họ, thì nước Mỹ đã tránh được bao tổn thất về xương máu và nguồn lực tại Việt Nam và Iraq sau này. Tuy Iraq có một số điểm khác biệt, nhưng Việt Nam và Iraq là những bài học đẫm máu, còn tiếp tục ám ảnh người Mỹ. Thomas Vallely (cựu chiến binh, giám đốc Việt Nam program tại Harvard) đã nói rất đúng (tư liệu truyền hình, 1985), “chúng ta không nên làm cái việc sai lầm là đưa thanh niên đến chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của những ông già”.
Khi ông Archimedes Patti (cựu sĩ quan OSS) ký tặng tôi cuốn sách “Why Vietnam” (Bangkok, 1990), tôi có hỏi ông ấy, “lúc đó họ có đọc sách của ông không”. Ông Patti nói với ánh mắt buồn rầu, “chẳng ai đọc nó cả, chẳng ai nghe tao cả”. Trong một lần báo chí phỏng vấn (năm 1981), ông Patti đã nói rất rõ,“Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao, và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…”
Điều đó làm tôi nhớ lại sự kiện “Blood Telegram” (mà chắc nhiều người đã quên). Ông Archer Blood, tổng lãnh sự Mỹ tại Dacca (thủ phủ Đông Pakistan lúc đó) đã gửi điện về Washington (ngày 6/4/1971, có 29 cán bộ ngoại giao Mỹ ký tên) cảnh báo về nạn “diệt chủng có chọn lọc” đang biến Dacca trở thành “một thành phố ma” (3/4 dân số bị giết hoặc bỏ chạy). Họ công khai phản đối chính sách của Mỹ ủng hộ chính quyền quân sự (của tướng Yahya Khan) đàn áp dã man người Bengali đòi độc lập cho Bangladesh. Nhưng tổng thống Nixon và Tiến sĩ Henry Kissinger lúc đó đã lờ đi, vì muốn tướng Yahya Khan làm cầu nối với Trung Quốc để tổng thống Nixon đến Thượng Hải bắt tay Mao Chủ tịch, như một “bước ngoặt lịch sử”. Tôi xin trích một đoạn bức điện, “
Chính phủ chúng ta đã không lên án việc đàn áp dân chủ. Chính phủ chúng ta đã không lên án tội ác. Chính phủ chúng ta đã không có biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ công dân của mình, trong khi đó ra sức làm vừa lòng chính phủ do người Tây Pakistan nắm quyền và làm giảm bớt đi mọi sức ép tiêu cực của dư luận quốc tế đối với chính phủ Pakistan. Chính phủ chúng ta đã chứng tỏ một điều mà tất cả mọi người đều coi là phá sản về đạo đức”.
Trực thăng vận của quân lực Hoa Kỳ tại cuộc chiến ở Nam Việt Nam
Tham dự tích cực: Trò chơi kết thúc?
Tôi không biết tổng thống Nixon thực sự nghĩ gì khi ông ta bắt tay Mao Chủ tịch tại Thượng Hải năm 1972. Nhưng tôi tin ông Nixon đã một lần nói thật khi ông ấy nhận xét một cách chí lý (năm 1994, trước khi ông ấy chết), “Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”. Ông Nixon lúc sắp chết đã trở thành “thiên tài”! Thực tế là phải 42 năm sau, đến tận 2014, đa số người Mỹ mới nhận ra “hệ quả không định trước” này và bắt đầu lo ngại về sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc (tuy vẫn tranh cãi về nguy cơ xung đột).
Công bằng mà nói, không nên đổ lỗi cho ông Nixon vì tiến sĩ Henry Kissinger mới chính là kiến trúc sư của chính sách Trung Quốc, từ Thông cáo Thượng Hải (Shanghai Communique) để cho Mỹ rút quân khỏi Việt Nam “trong danh dự” và chia sẻ quyền lực với Trung Quốc tại Đông Á, đến “Constructive Engagement” (Can dự tích cực) để thay thế “Containment” (Ngăn chặn) giúp Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”, và “China Card” (Con bài Trung Quốc) để biến Trung Quốc thành đồng minh “trên thực tế” chống Liên Xô, và cuối cùng là “China Lobby” để vận động hành lang ủng hộ Trung Quốc trong mọi chuyện làm ăn. Người ta tự hỏi liệu có mối liên kết đặc biệt nào giữa “China Lobby” và “Jewish Lobby” không?
Trong nửa thế kỷ qua (nói chính xác là qua 8 đời tổng thống Mỹ, cả Cộng hòa lẫn Dân chủ), Washington vẫn cho rằng chủ trương “Can dự tích cực” là cách duy nhất để khuyến khích Trung Quốc cởi mở dần trong quá trình mà ông Kissinger gọi là “co-evolution” (cùng diễn biến) theo các giá trị của Mỹ, và “trỗi dậy trong hòa bình”. Chỉ gần đây, người Mỹ mới bắt đầu thất vọng như bị bạn tình Trung Cộng phản bội. Các chuyên gia về Trung Quốc bắt đầu nói đến sự cần thiết phải “ngăn chặn”, và hai bên bắt đầu coi nhau như đối thủ (thay cho đối tác). “Đồng thuận Washington” về lợi ích của “Constructive Engagement” bắt đầu đổ vỡ.
Điều đó làm ta nhớ lại trận Trân Châu Cảng (7/12/1941) khi hạm đội Mỹ tại đây đã bị hải quân Nhật đánh đắm, nhưng đa số người Mỹ lúc đó vẫn không tin là Nhật Bản dám khởi chiến. Có lẽ “Đồng thuận Washington” giống một con voi quá lớn và quá chậm để dễ dàng chuyển dịch. Không biết người Mỹ có thật ngây thơ về Trung Cộng không, hay là cái bóng của ông Kissinger quá lớn, nhưng gần nửa thế kỷ qua, chính sách của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương vẫn xoay quanh “cái trục Trung Quốc” mà Kissinger đã thiết kế.
Constructive Engagement không phải là sáng kiến tồi, và lúc đó có thể không có sự lựa chọn nào khác tốt hơn. Nhưng sẽ là tồi tệ nếu Mỹ đi quá xa để giúp Trung Quốc trỗi dậy mà không có gì đảm bảo và răn đe để ngăn ngừa nguy cơ tạo ra con quái vật Frankenstein. Dù nguyên nhân Trung Quốc trỗi dậy ngày càng hung hăng (được ví như một đầu gấu tại khu vực) có phải do “Constructive Engagement” hay không, thì nhiều người nay cho rằng Mỹ và Trung Quốc khó tránh khỏi chiến tranh lạnh (thậm chí xung đột).
Gần đây, tỷ phú George Soros còn lập luận rằng nếu không nhân nhượng Trung Quốc về vấn đề tài chính sống còn đối với họ, thì lãnh đạo Trung Quốc có thể phải dùng đến xung đột vũ trang để tồn tại, dễ gây ra chiến tranh thế giới mới. Điều này nghe như bắt chẹt và làm ta nhớ lại chính sách “Appeasement” (nhân nhượng) của chính phủ Anh (Neville Chamberlain) đã thỏa hiệp quá nhiều với Hitler (tại Munich, năm 1938). “Constructive Engagement” nếu đi quá xa, mà không có gì đảm bảo hoặc răn đe, sẽ phản tác dụng hơn cả “Appeasement”.
Michael Pillsbury, một cựu chuyên gia về Trung Quốc tại Bộ Quốc phòng Mỹ, nhận xét “
Trung Quốc không đạt được hầu hết những mong muốn màu hồng của chúng ta”. David Lampton, một học giả về Trung Quốc tại Đại học Johns Hopkins kết luận “
Quan hệ Trung-Mỹ đã đi đến chỗ đổ vỡ”. Robert Blackwill, một chuyên gia về an ninh quốc tế tại Trung tâm Belfer, Đại học Harvard, lập luận “
Constructive Engement với Trung Quốc chỉ giúp cho đối thủ mạnh lên”. Trong khi đó, Michael Swaine, một học giả về Trung Quốc tại Carnegie Endowment, đề xuất
“phải có một sự cân bằng lực lượng ổn định Mỹ-Trung”. Với quan điểm hơi khác một chút, Kevin Rudd, cựu thủ tướng Úc, một chuyên gia về Trung Quốc, đã tóm tắt quan điểm của Trung Quốc về mục tiêu của Mỹ là “
nhằm cô lập, ngăn chặn, làm suy yếu, phân hóa Trung Quốc, và phá hoại lãnh đạo chính trị Trung Quốc”. Kevin Rudd còn khuyến nghị “Constructive Realism” như một sáng kiến mới “thực dụng hơn” để thay thế cho “Constructive Engagement”.
Tôi cũng không rõ liệu cao kiến của ông Kevin Rudd và Michael Swaune, tuy thực dụng hơn, nhưng liệu có hiệu quả hơn không, khi điều chỉnh chiến lược gần đây của Washington vẫn tỏ ra “quá ít và quá muộn”. Lập trường cứng rắn hơn của Mỹ (như điều máy bay quân sự đến Biển Đông) là một tín hiệu tích cực và lời cảnh báo rõ ràng đối với Trung Quốc, nhưng có lẽ vẫn chưa đủ thuyết phục Bắc Kinh phải thực sự nghiêm túc, và chưa đủ thuyết phục các nước Asean đang bị Trung Quốc bắt nạt và phân hóa phải dựa vào Washington hơn là Bắc Kinh.
Ít nhất đó là nhận thức của Trung Quốc về lập trường cứng rắn hơn của Mỹ tại Biển Đông và tại Đối thoại Shangri-La (29-31/5/2015). Dường như có một khoảng cách lớn về nhận thức giữa Bắc Kinh và Wahington, rất nguy hiểm cho quá trình giải quyết xung đột, vì đôi khi nhận thức quan trọng hơn cả thực tế. Đây không phải chỉ là vấn đề truyền thông, mà còn là ý đồ của Trung Quốc muốn thao túng cả thế giới qua một nước cờ lớn, vì tin rằng thời gian ủng hộ họ. Đúng hay sai, đó là cách suy nghĩ và nhận thức “đặc thù” Trung Quốc.
Biển Đông: Một thùng thuốc súng?
Hơn một năm nay, từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào Biển Đông và ráo riết xây dựng các công trình quân sự và đảo nhân tạo trên các đảo san hô họ chiếm tại Hoàng Sa và Trường Sa, để chuẩn bị thiết lập khu vực nhận diện phòng không, đe dọa tự do hàng hải, thì Biển Đông đã nóng lên như thùng thuốc súng. Quốc hội Mỹ và giới nghiên cứu đã chuyển biến khá mạnh về tư duy chiến lược, buộc chính quyền Obama phải có thái độ cứng rắn hơn, đưa máy bay quân sự và tàu chiến vào Biển Đông để răn đe, bất chấp Trung Quốc phản đối. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế đã thực sự lo ngại. Một số nước đồng minh của Mỹ (như Nhật Bản và Úc) đã thay đổi hẳn thái độ, sẵn sàng tham gia tuần tra hải quân trên Biển Đông.
Trong khi bức tranh địa chính trị tại khu vực thay đổi nhanh và rõ nét hơn, thì tương lại Biển Đông vẫn mù mịt và bất định. Liệu đối đầu Trung-Mỹ tại Biển Đông có dẫn đến chiến tranh thật không, hay chỉ là chiến tranh lạnh? Liệu Trung Quốc và Mỹ có thể thỏa thuận với nhau để chia sẻ quyền lực (như trước đây)? Liệu căng thẳng Trung-Việt có dẫn đến chiến tranh không, hay tiếp tục nhùng nhằng (không hòa không chiến) và Trung Quốc tiếp tục chiến thuật “cắt lát gặm dần” như “chuyện đã rồi”, không đánh vẫn thắng? Và cuối cùng, liệu sức ép của Mỹ và cộng đồng thế giới, cũng như quá trình dân chủ hóa và đấu tranh quyền lực tại Trung Quốc, có đủ sức xoay chuyển thái độ của Bắc Kinh, và hóa giải được xung đột lợi ích tại Biển Đông để biến thùng thuốc súng này thành khu vực hợp tác hòa bình và cùng khai thác?
Một số chuyên gia về Trung Quốc theo thuyết “cái bẫy Thucydides” (Graham Allison đặt tên) cho rằng xung đột Trung-Mỹ là khó tránh khỏi, và Biển Đông có thể là cái ngòi nổ cho thế chiến thứ ba. Một số khác theo thuyết phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế (phái “Neo-liberalism”) lập luận rằng chiến tranh Trung-Mỹ rất khó xảy ra vì hai nền kinh tế khổng lồ này đã quá phụ thuộc vào nhau, nên khả năng cùng bị hủy diệt do chiến tranh là một sự răn đe hiệu quả. Số còn lại đưa ra nhiều giả thuyết và kịch bản khác nhau, chủ yếu dựa trên phân tích hàn lâm, thường làm rắc rối hơn là làm sáng tỏ vấn đề, và góp phần làm cho Biển Đông nóng hơn (trên mặt báo và các diễn đàn nghiên cứu) như thêm gia vị vào các thực đơn nghiên cứu.
Graham Allison dựa vào thực tế lịch sử để phân tích rút ra quy luật, chủ yếu nhằm cảnh báo về một nguy cơ tiềm tàng khó tránh, để biết mà phòng tránh chứ không phải để kết luận như đinh đóng cột rằng chiến tranh nhất thiết sẽ xảy ra. Trong thế giới đầy biến động khôn lường và đầy biến số này, không ai có thể chắc chắn về một điều gì như hằng số.
Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia trong thế giới phẳng là một thực tế hiển nhiên. Trong trường hợp Trung-Mỹ thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới càng lớn hơn. Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn thì mâu thuận cũng càng lớn và rủi ro càng cao, rất khó kiểm soát. Sự khác biệt về hệ thống giá trị cơ bản giữa hai quốc gia này như mặt trăng và mặt trời. Trong khi Mỹ dẫn đầu thế giới trong việc phát triển truyền thông xã hội, thì Trung Quốc dẫn đầu thế giới trong việc kiểm soát nó. Trong khi Mỹ muốn Trung Quốc áp dụng hệ thống giá trị của mình, thì lãnh đạo Trung Quốc coi đó là lật đổ.
Nếu cả hai xu hướng chính là “cái bẫy Thucydides” và “phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế” cùng tồn tại trong quan hệ Trung-Mỹ thì nó có thể triệt tiêu lẫn nhau, dẫn đến nhùng nhằng (không hòa không chiến) như chiến tranh lạnh kiểu mới (xu hướng thứ ba). Nếu tình huống này thắng thế, thì Trung Quốc càng có lợi, tiếp tục “cắt lát” để gặm dần, biến thành “chuyện đã rồi”, và cuối cùng đạt được mục tiêu kiểm soát Biển Đông mà không tốn một viên đạn.
Có lẽ cả Trung Quốc và Mỹ đều qúa bận tâm về các vấn đề chính trị nội bộ nên muốn hướng dư luận vào các vấn đề chính trị quốc tế. Họ cũng có thể gây căng thẳng tại đâu đó trên thế giới để thử gân nhau. Nhưng có lẽ lúc này cả hai đều không muốn và không sẵn sàng chiến tranh tổng lực. Do đó, kết quả có thể là chiến tranh lạnh kiểu mới, một dạng chiến tranh nửa dơi nửa chuột (hybrid warfare) hoặc mượn tay người khác (proxy warfare).
Tuy nhiên, khi căng thẳng được đẩy lên thành kịch tính thì rủi ro càng lớn, và hai bên cần một cơ chế kiểm soát rủi ro để tránh sử dụng vũ lực. Dù sao, người ta cho rằng chiến tranh lạnh vẫn còn hơn là thế chiến thứ 3. Quá trình tháo gỡ cuộc xung đột địa chính trị này chắc còn kéo dài, nên nó chỉ có lợi cho chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông. Căng thẳng tại Biển Đông chắc sẽ là một chủ đề chính tại Đối thoại Trung-Mỹ về Chiến lược và Kinh tế (23/6/2015), nhưng có lẽ nó chỉ là bước tiếp nối Đối thoại Shangri-La tại Singapore gần đây.
Dù lạc quan về lập trường cứng rắn hơn của Mỹ đối với Trung Quốc tại Biển Đông, chúng ta cũng không nên quá mong đợi vào Đối thoại Trung-Mỹ cũng như vào chuyến thăm Mỹ chính thức của Tông Bí thư Nguyễn Phú Trọng (đầu tháng 7/2015). Chừng nào lập trường giữ cân bằng quan hệ của Hà Nội đối với Bắc Kinh và Washington chưa có chuyển biến cơ bản, thì cuộc gặp cấp cao lần này có lẽ cũng không khác gì mấy so với cuộc gặp cấp cao lần trước, giữa Chủ tich Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama (25/7/2013). Tuy nhiên, chúng ta có lý do để hy vọng rằng chuyến thăm của Tổng thống Obama đến Việt Nam (vào cuối năm nay) có thể mở ra một bước ngoặt mới cho quan hệ hai nước. Nếu không ngăn chặn kịp thời, thì Trung Quốc có thể vượt qua cái ngưỡng “không thể đảo ngược được” tại Biển Đông.
Trong khi chưa biết rõ kết cục tại Biển Đông sẽ như thế nào, thì các học giả về Trung Quốc cho rằng màn chót của chế độ Trung Cộng có lẽ đã bắt đầu. Bề ngoài, Trung Quốc có vẻ giàu có và hùng mạnh, nhưng nó che đậy một hệ thống đã đổ vỡ bên trong. Không phải chỉ có ông Gordon Chang lâu nay dự báo “
Trung Quốc sắp sụp đổ”, mà cả giáo sư Paul Krugman (được giải Nobel kinh tế) cũng báo động rằng “
Trung Quốc đã kịch đường” (tới điểm giới hạn). Đáng chú ý là cả giáo sư David Shambaugh (một chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc tại George Washington University) đã tuyên bố “
màn chót của chế độ Trung Cộng đã bắt đầu”… Chiến dịch “đả hổ” chống tham nhũng quyết liệt của ông Tập Cận Bình để cứu chế độ (hay củng cố địa vị) đang đẩy màn chót đến nhanh hơn. Việc tăng cường đàn áp càng bộc lộ sự đổ vỡ của hệ thống và đẩy nhanh quá trình sụp đổ. Thay vì mở cửa, ông Tập Cận Bình đang tăng cường kiểm soát gấp đôi. Thực ra, chính trị nội bộ mới là mối lo chính, vì ngân sách an ninh của Trung Quốc còn lớn hơn cả ngân sách quốc phòng. Giới tinh hoa ở Trung Quốc sẵn sàng ra đi hàng loạt nếu hệ thống bắt đầu sụp đổ. Theo
Elizabeth Economy (tại Council on Foreign Relations) 2/3 (hoặc 64%) người Trung Quốc có tài sản trên 1,6 triệu USD đang di cư hoặc dự định di cư. Xu hướng “bỏ phiếu bằng chân” ào ạt này là một dấu hiệu hệ trọng, phải theo dõi kỹ.
Anh em bạn thù: Làm sao để thoát?
Định mệnh về địa lý
Dù muốn hay không, Việt Nam vẫn phải sống cạnh người láng giềng khổng lồ, như một định mệnh về địa lý, không thể thay đổi được. Vì vậy về lâu về dài, Việt Nam phải tìm cách chung sống hòa bình, tử tế với các nước láng giềng, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Là một nước nhỏ hơn, muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình, Việt Nam phải thay đổi và mạnh lên để Trung Quốc phải tôn trọng. Nếu Việt Nam yếu đi trong khi Trung Quốc mạnh lên, thì chắc chắn Việt Nam sẽ mất độc lập, chủ quyền và trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng bành trướng bá quyền Trung Quốc. Đáng tiếc tình trạng hiện nay đúng là như vậy. Không phải Việt Nam chỉ mất đất biên giới và hải đảo tại Biển Đông, mà có thể sẽ mất tất cả, để “trở về tương lai” như thời kỳ Bắc thuộc.
Tương quan lực lượng
Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, đang thách thức vai trò số một của Mỹ, và muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc không chỉ là con quái vật kinh tế, mà còn là con quái vật quân sự và ý thức hệ, với tham vọng bành trướng bá quyền như đầu gấu trong khu vực. Họ đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hướng dân Trung Quốc vào “Giấc mộng Trung Hoa”, hòng che đậy những mâu thuẫn cơ bản đang đe dọa sự tồn tại của chế độ. Biển Đông chỉ là một mảnh trong ván cờ lớn của họ. Trung Quốc muốn giữ chặt Việt Nam trong cái bẫy ý thức hệ, như một chư hầu ngoan, không được thân hơn với Mỹ. Vì vậy, Việt Nam phải thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ, để lớn mạnh và độc lập. Việt Nam phải khai thác được nguồn nhân lực của cái mỏ người hơn 90 triệu dân bằng cách nâng cao dân trí để phát triển kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, việc này không thể một sớm một chiều. Đáng tiếc là chúng ta đã đánh mất ít nhất bốn thập kỷ, kể từ sau Chiến tranh Việt Nam.
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Chủ nghĩa dân tộc luôn là động lực chính trong quan hệ quốc tế. Trong lịch sử, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và Trung Quốc đã chứng tỏ sức mạnh và sức sống tiềm tàng, như những đối thủ truyền kiếp. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền là hiểm họa cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Khi chủ nghĩa dân tộc trở thành cực đoan và bá quyền, nó như con quái vật, xô đẩy các nước vào lò lửa chiến tranh. Chủ nghĩa dân tộc thường bị các chế độ độc tài thao túng để kích động lòng yêu nước và huy động dân chúng ủng hộ các tham vọng cực đoan của họ, hoặc che đậy những mâu thuẫn xã hội và xung đột nội bộ.
Người Đức thông minh tài giỏi như vậy, nhưng cũng bị Hitler và đảng Quốc Xã cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa chiến tranh thế giới. Người Trung Hoa có bề dày lịch sử và văn hóa như vậy, nhưng cũng bị Mao và các phái cộng sản cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa Cách mạng Văn hóa. Người Khmer hiền lành như vậy, nhưng cũng bị Pol Pot và Khmer Đỏ thao túng, trở thành nạn nhân của họa diệt chủng. Nguy cơ xung đột tại Biển Đông là do chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Vì vậy, muốn tránh hiểm họa chiến tranh và xung đột, các nước phải nâng cao dân trí và dân chủ hóa, tăng cường cả sức mạnh mềm lẫn sức mạnh cứng, để có “sức mạnh thông minh”.
Dân chủ hóa
Đối với các xã hội chuyển đổi (như Trung Quốc và Việt Nam), dân chủ hóa là quy luật tất yếu và quá trình cần thiết để xã hội phát triển. Quá trình này nhanh hay chậm tùy thuộc vào đặc điểm chính trị và xã hội của từng nước. Dân chủ hóa thường song hành với quá trình phát triển tầng lớp trung lưu và dân trí cùng xã hội dân sự. Nó vừa là động lực để đổi mới và phát triển kinh tế, vừa là đối trọng để hạn chế chủ nghĩa cực đoan và cuồng tín. Do đặc điểm lịch sử, văn hóa phức tạp nên quan hệ Việt-Trung vừa bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền, vừa bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản cực đoan. Chỉ có dân chủ hóa và nâng cao dân trí thì Việt Nam và Trung Quốc mới có thể thoát khỏi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và nguy cơ xung đột. Hiện nay, tầng lớp trung lưu ở Việt Nam đã giàu hơn, nhưng dân trí chưa chắc đã cao hơn. Sự phát triển bùng nổ của internet và truyền thông xã hội dựa trên kỹ thuật số gần đây có vai trò rất lớn trong quá trình này, như một cuộc cách mạng truyền thông.
Cất cánh kinh tế
Tuy Trung Quốc và Việt Nam có thể chế chính trị giống nhau (do Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo), nhưng kinh tế hai nước phát triển không giống nhau, làm quan hệ trở thành bất bình đẳng và lệ thuộc. Trong khi kinh tế Trung Quốc cất cánh với tốc độ tăng trưởng 2 con số trong suốt 3 thập kỷ, thì kinh tế Việt Nam không cất cánh lên được, thậm chí còn tụt hậu. Mặc dù đều độc tài và tham nhũng, nhưng Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ và nhanh chóng theo kinh tế thị trường, trong khi Việt Nam vẫn duy trì “định hướng XHCN”, dựa vào các doanh nghiệp nhà nước tham nhũng và yếu kém làm chủ đạo, dẫn đến thua lỗ và phá sản (như Vinashin và Vinalines). Trong khi Trung Quốc vơ vét tài nguyên khoáng sản toàn cầu để nuôi con quái vật kinh tế khổng lồ, xuất khẩu hàng hóa ra khắp thế giới để tích lũy tư bản, thì Việt Nam vẫn không công nghiệp hóa và nội địa hóa sản xuất được, chỉ bán rẻ tài nguyên khoáng sản lấy tiền nhập siêu hàng tiêu dùng. Đây cũng là một bi kịch quốc gia. Nếu không đổi mới cơ bản về thể chế kinh tế và chính trị, để hội nhập vào thị trường thế giới, thì Việt Nam khó tránh khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc và mất chủ quyền tại Biển Đông.
Đối tác chiến lược.
Muốn đối phó với một láng giềng lớn chuyên bắt nạt (như Trung Quốc), Việt Nam phải liên kết với đối tác chiến lược mạnh hơn (như Mỹ) làm đối trọng và răn đe. Đó là quy luật tất yếu ai cũng biết, nhưng vận dụng như thế nào là một chuyện khác. Có nhiều bài học lịch sử. Ví dụ, không nên dựa hẳn vào bên này để chống bên kia, gây thù chuốc oán, như trước đây Việt Nam đã dựa hẳn vào Trung Quốc để chống Mỹ, rồi sau này lại dựa hẳn vào Liên Xô để chống Trung Quốc. Nhưng cũng không nên có quan hệ đối tác chiến lược với quá nhiều nước, mà chẳng nước nào có khả năng đương đầu với Trung Quốc để bênh vực Việt Nam. Nó giống như câu thành ngữ “lắm mối tối nằm không”. Việc giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng cách đi trên dây không phải là một chiến lược lâu dài. Càng không phải là một cái cớ để trì hoãn quan hệ đối tác chiến lược sống còn với Mỹ khi Trung Quốc đã lộ rõ bộ mặt thật là mối đe dọa chung đối với khu vực. Không nên nhầm lẫn mục tiêu chiến lược với phương tiện chiến thuật. Nếu không có quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ với Mỹ và gia nhập TPP, Việt Nam dễ bị Trung Quốc bắt nạt và đô hộ. Muốn có quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ, trước hết người Việt phải đoàn kết và hòa giải với nhau, để vươn lên mạnh mẽ, làm các đối tác tôn trọng và tin cậy. Quan hệ đối tác chiến lược là vô nghĩa nếu không dựa trên tầm nhìn chiến lược và lòng tin chiến lược.
NQD - 6/2015
* Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993.
*Ảnh minh họa trong bài của Blog Nguyễn Vĩnh (từ tư liệu cá nhân lưu trữ & sưu tầm trên Internet).
------
Tham khảo
1. “Hitting China’s Wall”, Paul Krugman, the New York Times, July 18, 2013
2. “Pivot 2.0”, A Report of the CSIS Asia Program, CSIS, Jan 2015
3. “The Coming Chinese Crackup”, David Shambaugh, the Wall Street Journal, March 6, 2015.
4. “Revising US Grand Strategy Toward China”, Robert Blackwill & Ashley Tellis, Special Report, Council on Foreign Relations Press, April 2015
5. “The Future of US-China Relations under Xi Jinping”, Kevin Rudd, Summary Report, Belfer Center, Harvard Kennedy School, April 2015,
7. “A Tipping Point in US-China Relations is upon us”, David Lampton, address, at the Carter Center conference, May 6, 2015
8. “Retaining America’s balance in the Asia-Pacific: Countering China’s Coercion in South East Asia”, Patrick Cronin, Congressional Testimony, May 13, 2015
9. “At a Crossroad: What is the Future of US-China Relations?”, Elizabeth Economy, the National Interest, May 21, 2015
10. “Fact, Fiction and the South China Sea”, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 25, 2015
11. “Can China Be Contained”, Andrew Browne, the Wall Street Journal, June 12, 2015