Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

Sao lại ngược nhau được nhể?


VN mua súng còn Cuba ‘giã từ vũ khí’

Nguyễn Giang 
Cuba có dân số trẻ trung, giáo dục và y tế đều đạt tiêu chuẩn tốt
Hồi nhỏ ở Hà Nội tôi đến thăm một người bạn và thấy ảnh ông Fidel Castro treo giữa nhà, nơi trang trọng.
Ba của bạn ấy là bác sỹ, từng đi thăm Cuba, được chụp ảnh chung với ông Fidel và đem về nhiều kỷ vật, hình ảnh từ 'quốc gia cộng sản anh em' ở Tây Bán Cầu, theo quan niệm một thời tại Hà Nội.
Gần đây hơn, một lãnh đạo Việt Nam sang thăm Cuba còn nhắc chuyện hai nước 'bên ngủ bên thức' canh giữ hòa bình thế giới.
Nhưng từ một thời gian qua, cả Cuba lẫn Việt Nam đều tấp nập tăng cường quan hệ với chính 'đế quốc Mỹ', kẻ thù ý thức hệ trong nhiều thập niên của Havana và Hà Nội.
Và các hoạt động đó tăng tốc từng ngày, từng giờ.
Tháng Bảy này Hoa Kỳ và Cuba tuyên bố sẽ mở đại sứ quán của cả hai bên.
Cũng trong tháng, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên sẽ vào Tòa Bạch Ốc, điều chưa từng ai nghĩ có thể xảy ra.
Trước hết ta cần làm rõ bối cảnh của quan hệ nồng ấm Cuba với Hoa Kỳ để có thể gợi ra một số ý cho Việt Nam.
'Giã từ vũ khí'
Tiến triển trong quan hệ Cuba và Mỹ đã không thể diễn ra nếu không có những chuyển biến rộng hơn ở khu vực Nam Mỹ từ một thập niên qua.
Như ta biết, vấn đề lớn nhất của giới cầm quyền châu Mỹ La tinh từ ngày độc lập khỏi thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha luôn là cái bóng quá to của 'ông kẹ Hoa Kỳ'.
Trong suốt thế kỷ 20, châu lục giàu đẹp này bị kẹt giữa hai làn đạn 'thân Mỹ và chống Mỹ'.
Như một anh bạn Colombia ở London nói với tôi, người Nam Mỹ từng "có thể đi từ Mexico City đến Santiago de Chile không cần phiên dịch" nhưng họ "nói cùng ngôn ngữ Tây Ban Nha mà không hề nói chung một thứ tiếng".
Khắp nơi là xung đột, nội chiến lâu dài, gây rỉ máu toàn xã hội, hoặc biến các cộng đồng thành băng đảng ma tuý.
Các vấn đề giai cấp, tôn giáo, sắc tộc (giữa nhóm gốc Âu và gốc bản địa) rất khác nhau về liều lượng ở mỗi nước nhưng chúng đều bị trộn vào chủ đề phe phái, 'chống đế quốc' hay theo Hoa Kỳ để nhận viện trợ.
Các nước Colombia, Argentina, Chilê, Brazil còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của phe tả châu Âu (Pháp, Tây Ban Nha, Ý) nhưng Cuba đi theo một hướng khác hẳn, cực đoan hơn là thân Liên Xô.
Khủng hoảng tên lửa Cuba 1962 là bước ngoặt, tạo thêm chia rẽ khu vực.
null
Một thời cách mạng: Fidel Castro bắn súng ở Mexico năm 1956
Phe ủng hộ Fidel Castro cũng có nhưng phe phản đối cho rằng quyết định phiêu lưu của ông ta đã kéo Tây Bán Cầu tới bờ vực hủy diệt.
Hiển nhiên, Hoa Kỳ cũng có đầy trách nhiệm trong công tác hỗ trợ các chính quyền quân phiệt hoặc các nhóm bán vũ trang thiên hữu.
Thái độ bao vây 'tới cùng' của Washington sau cuộc cách mạng 1953 cũng là động lực cho Havana càng kiên trì theo Moscow và để kinh tế hòn đảo này rơi vào tình trạng suy sụt vì mô hình lạc hậu.
Nhưng gần đây, tình hình đã biến chuyển.
Trên 600 triệu người dân ở toàn vùng, sống trong hơn 20 xứ sở nói tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếng Anh, Pháp nếu tính cả một số đảo quốc nhỏ, dần dần bỏ xa ý thức hệ.
Nội chiến Columbia sau 50 năm nay bắt đầu có cơ hội chấm dứt.
El Salvador, một thời là chiến trường hai phe (1979-1992) nay có nền kinh tế tăng trưởng cao (GDP đạt 30 tỷ USD trên 6 triệu dân), thu nhập bình quân gấp bốn lần Việt Nam, nước mà chiến tranh đã chấm dứt hàng chục năm trước vẫn còn cố thoát nghèo.
Nước lớn nhất vùng, Brazil cũng công nghiệp hoá nhanh chóng và vươn lên vị trí cường quốc khu vực với tiếng tăm lên cao trên thế giới: vào nhóm BRIC, đăng cai World Cup và sắp tới là Olympics.
Argentina, nước đậm chất Âu nhất tại khu vực, thì không chỉ có vị tân Giáo hoàng Francis nổi tiếng bình dân mà còn sản sinh ra nhiều ngôi sao thể thao, bóng đá và tennis.
Tư tưởng và tình cảm
Nhưng quan trọng hơn cả là thay đổi trong tư tưởng.
Oliver Stuenkel, một nhà bình luận ở Sao Paulo, Brazil gần đây có nói trên kênh DW của Đức rằng cả châu lục ngày nay "không còn một nhà chính trị cánh tả nào nghiêm túc tin vào thuyết chống Mỹ".
Thay vào ý thức hệ thiên tả hoặc cộng sản, người ta cần làm ăn, cần đầu tư nước ngoài.
Các phong trào dân quyền và nhân quyền cũng buộc nhiều chính phủ cánh hữu phải cải tổ.
null
Giáo hoàng Francis người Argentina đã tạo động lực mới cho ngoại giao khu vực
Tính thực dụng trong kinh tế, gồm cả nhu cầu thu hút đồng tiền từ Hoa Kỳ, Canada và EU, để cân bằng lại đồng tiền Trung Quốc ngày một mạnh, khiến toàn vùng Nam Mỹ chuyển động.
Trong bối cảnh đó, Cuba vẫn đóng vai trò quan trọng, gần như là 'chìa khóa' mở thêm các cánh cửa tâm lý cho Hoa Kỳ vào Nam Mỹ.
Nói như Jacob Parakilas trên trang Prospect, bình thường hóa với Cuba sẽ giúp Hoa Kỳ thêm uy tín và sức mạnh trong bang giao với các nước châu Mỹ La tinh còn lại, nơi dư âm về cuộc cách mạng Cuba vẫn còn được phái tả và người bình dân ngưỡng mộ.
Nhưng nhà Castro cũng có những nhượng bộ cụ thể.
Ông Fidel Castro đã nghỉ và em ông, Chủ tịch Raul Castro, cũng tuyên bố sẽ về hưu năm 2018, mở đường cho một thế hệ lãnh đạo Cuba mới mẻ.
Như vậy, quả là những nhà lãnh đạo quá tuổi thượng thọ của Cuba đã 'giã từ vũ khí' vì một tương lai cho quốc gia.
Cuba thậm chí có nhiều cơ hội trở thành giàu có và an toàn, thịnh vượng và dân chủ hóa hơn nhanh nhiều so với Việt Nam.
Dân không đông (11 triệu), đa số trẻ và có đông trí thức gốc Âu, học cao, văn hóa gắn chặt với EU, Bắc Mỹ, họ còn có viễn cảnh nhận nhiều đầu tư (riêng bang Texas dự tính sẽ đổ vào Cuba hàng tỷ USD), nên tôi tin Cuba sẽ cất cánh.
Một khi đã bình thường hóa với Hoa Kỳ, Cuba cũng không phải lo về an ninh nữa vì vùng biển Caribean đã và đang không có tranh chấp, căng thẳng gì.
Cuba vừa mời Total của Pháp vào khai thác dầu khí trong vùng biển của mình và được cả thế giới hoan nghênh.
Cùng lúc, tình hình của Việt Nam lại không được như vậy.
Nhìn từ bên trong, Việt Nam chịu sức ép dân số với trình độ tay nghề rất kém, và hệ thống giáo dục, y tế đầy vấn đề.
Bác sỹ Cuba đi sang nhiều nước chữa bệnh còn Việt Nam chưa đủ trình độ tiếng Anh cho y tá, hộ lý giành thị phần dịch vụ bệnh viện ở châu Âu mà Philippines đang chiếm lĩnh.
null
Năm 2016 ông Obama hết nhiệm kỳ nhưng ông Castro cũng hứa sẽ nghỉ vào năm 2018
Đất không rộng nhưng địa hình phức tạp và cơ sở hạ tầng vốn đang được xây dựng ồ ạt lại hay hỏng hóc, đổ vỡ vì thiếu tư duy khoa học và quản lý tệ.
Bộ máy ở Việt Nam quá đông quan, đa số vẫn bám vào tư duy cũ, có thể vì ngoại ngữ còn yếu nên việc hiểu biết quốc tế không thể bằng quan chức Cuba luôn thành thạo hai ngôn ngữ quốc tế là Tây Ban Nha và Anh.
Động lực của cải cách ở̉ Việt Nam đã hết đà, chưa thấy một 'cú hích' mới trong lúc lại phải bỏ hàng tỷ USD ra tăng cường quân bị, mua tàu ngầm, nhập phi cơ, thuyền tuần tra biển vì áp lực an ninh khu vực.
Về môi trường xung quanh, khác với Cuba luôn được cả châu Mỹ La tinh mến mộ, Việt Nam tuy là thành viên của ASEAN nhưng khối này đang chia rẽ và Campuchia, Thái Lan, Myanmar đang ngày một mặn mà với Bắc Kinh chứ không phải với Hà Nội.
Trở lại câu chuyện ban đầu về những người Việt Nam yêu mến Cuba.
Có người từng lo 'Cuba mất chủ nghĩa xã hội' và thế là Việt Nam không còn 'người bạn cùng canh thức'.
@bbc
Đây là một tình cảm đáng quý của một thời, nhưng thực tế những năm tới thì chắc cần có thêm các bạn Cuba lo lắng cho Việt Nam hơn là ta lo cho họ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hoàn Cầu thừa nhận TQ không dám "vuốt râu hùm" ở Biển Đông

Hoàn Cầu thừa nhận TQ không dám "vuốt râu hùm" ở Biển Đông


Học giả Mỹ cho rằng các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi lấp trái phép ở Biển Đông "không thể vận hành dài hạn trong chiến tranh và không tạo thành nguy cơ đối với Washington".

Thời báo Hoàn Cầu (Trung Quốc) cho hay, truyền thông Mỹ gần đây cáo buộc hành vi xây đảo nhân tạo phi pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông "là mối đe dọa an ninh khu vực".
Thậm chí, Lầu Năm Góc tuyên bố động thái của Trung Quốc đã tạo thành sự uy hiếp đối với hoạt động của Hải quân Mỹ ở khu vực châu Á-Thái BÌnh Dương.
Trang Defense News của Mỹ hôm 28/6 cho hay, trên thực tế nhiều chuyên gia người Mỹ cũng không đồng tình với quan điểm trên.
Các học giả cho rằng Mỹ "quá lo ngại" về mối đe dọa quân sự mà Trung Quốc có thể gây ra ở các đảo đá bị Bắc Kinh chiếm cứ trái phép.
Hoàn Cầu dẫn lời chuyên gia quốc phòng Ian Easton thuộc Sở nghiên cứu Kế hoạch 2049 (Mỹ) cho biết: "Quân đội Trung Quốc xem việc quân sự hóa các trên các đảo đá nhân tạo là hành động xây dựng 'biên giới phòng thủ với bên ngoài'.
"Nếu xảy ra khủng hoảng ở Biển Đông, Washington rất có khả năng bố trí 2 nhóm tàu sân bay tới Philippines với mục đích tăng cường 'thế trận' phòng thủ ở khu vực này.
Kể từ sự kiện 11/9, Mỹ luôn duy trì ít nhất 1 nhóm tàu sân bay tại Vinh Ả Rập hoặc Ấn Độ Dương. Khi châu Á-Thái Bình Dương phát sinh các vấn đề, tàu Mỹ buộc phải đi qua Biển Đông mới tới được vùng xung đột." - Easton nhận xét.
Chuyên gia quốc phòng ĐH Chiến tranh Hải quân Mỹ (U.S. Naval War College)  Andrew Erickson nhận định: "Nhiều khả năng Trung Quốc sẽ lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.
Động thái này là một phần của chiến lược 'chống xâm nhập-cách ly khu vực' của Bắc Kinh tại vùng biển mà nước này tuyên bố chủ quyền một cách phi pháp."
Theo ông Erickson, Bắc Kinh có thể sẽ nâng độ dài đường băng mà họ xây phi pháp trên Đá Chữ Thập của Việt Nam từ 1300m lên 3110m nhằm phục vụ máy bay chiến đâu J-11.
"Đá Chữ Thập, Đá Xu Bi (thuộc chủ quyền của Việt Nam-PV) trong tương lai đều có thể bị Trung Quốc biến thành căn cứ máy bay.
Với các cơ sở hạ tầng như sân bay, tháp kiểm soát hay radar... Đá Chữ Thập có lẽ sẽ đóng vai trò như 1 trung tâm." - học giả Erickson vạch trần mưu đồ của Trung Quốc.
TRUNG TƯỚNG HẢI QUÂN LỤC CHIẾN MỸ
WALLACE “CHIP” GREGSON
Các cơ sở và thiết bị nói trên, không cần phải nghi ngờ gì, chính là để phục vụ mưu đồ bao phủ radar, tín hiệu tình báo và hàng không ở Biển Đông của Trung Quốc.
"Đảo nhân tạo phi pháp của Trung Quốc chẳng uy hiếp gì được Mỹ"
Học giả Easton cũng cho rằng, thông qua các đảo nhân tạo quy mô lớn, Trung Quốc sẽ thiết lập nên mạng lưới tình báo nguy hiểm và đáng lo ngại.
Các cơ sở hạ tầng cũng cho phép máy bay trên tiền đồn trái phép của Trung Quốc tiến hành tấn công, hoặc tiếp tế cho tàu ngầm.
Tuy nhiên, cả Easton và Erickson nhất trí rằng, các đảo nhân tạo trái phép của Bắc Kinh "không thể vận hành dài hạn nếu Trung Quốc xảy ra chiến tranh với Mỹ".
Theo 2 ông, nếu Trung Quốc "dám" có động thái tăng cường quân sự hóa cơ sở hạ tầng trên các đảo nhân tạo, thì các tiền đồn này sẽ ngay lập tức trở thành mục tiêu tấn công của quân đội Mỹ.
"Sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến Mỹ lo ngại, song thực chất Bắc Kinh hoàn toàn không đủ khả năng để thay thế Mỹ hoặc 'đuổi' Mỹ ra khỏi châu Á-Thái Bình Dương.
Vì vậy, ý định quân sự hóa các đảo nhân tạo trái phép chỉ là vô nghĩa và chẳng thể thay đổi được cục diện chiến lược là Trung Quốc vẫn bị cộng đồng quốc tế phản đối, cô lập bởi những hành vi ngang ngược, phi pháp của họ."
Chính Thời báo Hoàn Cầu phải thừa nhận, Trung Quốc không cho rằng sức mạnh quân sự của Mỹ đang đi xuống để Bắc Kinh có thể dễ dàng "vuốt râu hùm".


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thì..Hoan hô các cụ cầm đèn chạy trước ô tô điên:

Ví dụ về một diễn văn đáp từ

White House. Ảnh: HM
White House. Ảnh: HM
HM Blog. Theo gợi ý của bác Thanh Tâm, các còm sỹ thử tưởng tượng muốn nghe TBT Nguyễn Phú Trọng đáp từ TT Barack Obama ra sao. Tôi là người dân bình thường, nếu được nghe đoạn sau cũng vui lắm. Bài viết mang tính gợi mở cho blog, không có ý gì khác.

Thưa ngài TT Barack Obama và phu nhân Michelle Obama
Thưa các quí vị có mặt trong phòng
Xin cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu mà các Ngài đã dành cho tôi và phái đoàn Việt Nam tới thăm Hoa Kỳ.
Cách đây 15 năm trong chuyến thăm Hà Nội, ngài TT Bill Clinton có nói, lịch sử mà hai quốc gia để lại rất đau buồn và nặng nề, chúng ta không được quên, nhưng không được để nó chi phối chúng ta. Tôi rất đồng ý, quá khứ chỉ là cái đến trước tương lai, quá khứ không phải là cái quyết định tương lai, như ngài Clinton đã nhấn mạnh.
Cách đây 7 năm (2008) trong chiến dịch tranh cử TT Hoa Kỳ, chình ngài đã nói “The Change We Need – Chúng ta cần thay đổi” và điều đó đã làm cử tri Hoa Kỳ đưa ngài, một tổng thống da màu vào Nhà Trắng. Điều đó nói lên mọi việc đều có thể nếu chúng ta có quyết tâm thay đổi.
Giữ quá khứ làm bài học, hướng tới tương lai và The Change We Need, bỏ qua sự khác biệt, vì cái chung của hai quốc gia, đã giúp chúng ta gặp mặt hôm nay tại Nhà Trắng này. Xin cảm ơn ngài, các quí vị trong phòng và nhân dân Mỹ vì điều đó.
Lịch sử quan hệ hai nước có từ cách đây 200 năm kể từ khi nhà lập quốc Hoa Kỳ và người khai sinh ra bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, ngài Thomas Jefferson, đã tìm cách mua giống lúa từ Việt Nam để mang về trang trại của mình ở Charlottesville và sau đó năm 1945, ông Hồ Chí Minh đã trích lời của Jefferson khi khai sinh ra nước VNDCCH vào ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá đã cho chúng ta những quyền chắc chắn không thể xâm phạm được; đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Nhưng hạt lúa giống ấy, kể cả lời của Jefferson và của Hồ Chí Minh chưa đơm hoa kết trái sau hơn 200 năm lịch sử giữa hai quốc gia. TT Bill Clinton, TT George Bush từng thăm Việt Nam và nói về trang sử mới nhưng lịch sử vẫn chưa sang trang như mong ước của cả hai bên dù chúng ta đã cố gắng rất nhiều sau 20 năm quan hệ Việt Mỹ chính thức được nối lại, hàng núi việc đã hoàn thành.
Tôi hy vọng với chuyến thăm này, hạt lúa Việt Nam sẽ nảy mầm xanh tươi, vun xới cho tình bằng hữu giữa hai dân tộc và người dân hai nước được hưởng lợi từ điều đó. TPP, trao đổi thương mại, hợp tác quân sự, an ninh khu vực, tạo thêm công ăn việc làm và nhiều vấn đề khác là những quyền lợi quốc gia của chúng ta.
Tôi không phải là người Việt đầu tiên đặt chân lên đất nước tự do của các ngài và chắc chắn không phải người cuối cùng. Trước tôi đã có những di dân đầu tiên mang họ Nguyễn vào New York trên những chuyến tầu cách đây vài thế kỷ, sau đó lịch sử đau đớn giữa hai quốc gia cũng làm cho hàng triệu người Việt tìm quê hương mới trên nước Mỹ. Và gần đây là hơn 22 ngàn sinh viên Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ.
Mối bang giao tiếp tục tốt đẹp sẽ còn nhiều người Việt tìm đến nước Mỹ và mang những giá trị văn minh về xây dựng đất nước Việt Nam. Và tôi tin, người Mỹ cũng đang làm điều tương tự. Những trao đổi đó giúp hai dân tộc hiểu về nhau hơn là đọc những trang lịch sử đầy máu và nước mắt trong thư viện, hiệu sách hay trên History Channel.
Hiểu nhau hơn sẽ giúp nhau hiệu quả hơn, đó là win win như các vị thường nói về đồng minh hữu hảo, làm sao giữ được truyền thống khi hội nhập, hòa nhập nhưng không hòa tan, mỗi quốc gia đóng góp cho tiến trình toàn cầu hóa nhưng vẫn giữ giá trị riêng của mình.
Nước Mỹ có giá trị Mỹ, nước Việt cũng có giá trị của mình. Sự tôn trọng độc lập của nhau là chìa khóa để tiến tới đồng minh thân cận.
Một quốc gia sinh ra từ nền văn minh lúa nước coi hạt lúa là thiêng liêng, là nguồn sống, là văn hóa của dân tộc. Tôi hy vọng, hạt lúa mà TT Jefferson mang về trang trại trên đồi Montecillo (Charlottesville – Virginia) cách đây 2 thế kỷ sẽ nẩy mầm tốt tươi kể từ ngày hôm nay, đánh dấu sự thay đổi tại Nhà Trắng này.
Cảm ơn các quí vị đã lắng nghe.
Viết đến đây thì tịt, các cụ viết tiếp… Dưng mà đề nghị các cụ hoan hô :)
TBT Cua Times.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

40 năm sau: Lịch sử đang lặp lại


Mới đây Nguyễn Quang Dy gọi điện cho tôi, bảo rằng có bài viết mới. Nhưng điều nữa mà Dy muốn nói là đám tang Thứ trưởng Trần Quang Cơ anh đã không có mặt tại Hà Nội để tiễn đưa một con người "có nhân cách đặc biệt, được mọi người, mọi phía, quý mến và kính nể". Nguyễn Quang Dy còn nói, vừa như tự nói với mình và nói thay cho bạn bè lứa chúng tôi, "Anh (anh Cơ) là tấm gương sáng cho thế hệ đàn em chúng tôi, chưa kịp lớn đã già…". Có chút chua chát đấy, nhưng Nguyễn Quang Dy đã nói đúng.

Bài viết Nguyễn Quang Dy ủy thác cho Blog tôi đưa lên cho bạn bè đọc dịp này, như anh nói, là "một nén tâm hương" thắp lên tưởng nhớ Cố Thứ trưởng Trần Quang Cơ mà anh nhất mực yêu mến và kính trọng. 

Vệ Nhi

-----

Như một nén tâm hương
Tôi ân hận đã không có mặt tại Hà Nội để dự đám tang tiễn đưa vong linh anh Trần Quang Cơ về cõi vính hằng (như đã tiễn đưa anh Lê Mai và anh Phạm Xuân Ẩn). Vì vậy, tôi nhờ blog Nguyễn Vĩnh đăng lại bài tôi mới viết trong dịp này (đã chỉnh sửa) như một nén tâm hương để kính viếng anh Trần Quang Cơ, một đồng nghiệp và bậc đàn anh đáng kính.  
Anh Trần Quang Cơ là một trong những nhà ngoại giao Việt Nam có nhân cách đặc biệt, được mọi người, mọi phía, quý mến và kính nể. Có lẽ vì anh có tấm lòng trung thực và nhân ái, có hiểu biết mang tầm chiến lược, có bản lĩnh kiên cường và đầy trách nhiệm. Đó là một nhân tài và một nhân cách quý hiếm, nhưng sống rất trong sáng và giản dị.    
Dù không làm ngoại trưởng, nhưng những đóng góp của anh lúc còn làm việc cũng như khi đã nghỉ hưu, xứng tầm ngoại trưởng, hoặc còn hơn thế. Dù trong hoàn cảnh nào, anh vẫn không bị vô hiệu hóa, vẫn dũng cảm nói ra sự thật và bảo vệ chân lý, như một nhân cách lớn. Anh là tấm gương sáng cho thế hệ đàn em chúng tôi, chưa kịp lớn đã già…
Nam mô a di đà phật!
NQD, 2/7/2015 
--- 
40 năm sau: Lịch sử đang lặp lại
Nguyễn Quang Dy *
“Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”
Richard Nixon nói với William Safire (nhà báo New York Times) năm 1994, trước khi chết.
40 năm sau Chiến tranh Viêt Nam, cuối cùng người Mỹ và Việt Nam đang làm những gì mà họ đáng lẽ phải làm từ năm 1978 khi nước Việt Nam thống nhất rất cần (nhưng để tuột mất) cơ hội hòa giải và bình thường hóa với Mỹ (là kẻ thù cũ) để tái thiết và đối phó với hiểm họa mới từ Trung Quốc (là “anh em bạn thù”); hoặc từ năm 1945 khi nước cộng hòa mới do Hồ Chí Minh đứng đầu rất muốn đồng minh với Mỹ để được giúp đỡ nhằm đối phó với nước Pháp thực dân và Trung hoa Dân quốc; hoặc từ năm 1873-1875 khi vua Tự Đức cử ông Bùi Viện làm sứ thần sang Mỹ để tìm kiếm (nhưng không đạt được) sự ủng hộ của Mỹ nhằm chống lại ý đồ của Pháp muốn biến Vương quốc An Nam thành thuộc địa. Liệu lịch sử có lặp lại?



                                        Một phiên họp kín tại cuộc hòa đàm ở Paris.
Đáng tiếc là hai nước đã để tuột mất những cơ hội lịch sử, nên bây giờ phải “trở về tương lai”, sau khi bị bầm dập bởi cuộc chiến tranh sai lầm đẫm máu, và lãng phí quá nhiều thời gian, sức lực và xương máu vào những trò chơi hậu chiến, bao gồm cái gọi là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” (không kém khốc liệt) giữa “anh em bạn thù” và những đồng minh mới. Chủ nghĩa giáo điều và ý thức hệ cộng sản đã bị phá sản, làm mọi người ngộ ra một sự thật đơn giản là “không có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn” (Lord Palmerston).   
Đấy là tóm tắt nhanh bức chân dung đầy bi kịch của quan hệ Việt-Mỹ. Thật trớ trêu là tương lai quan hệ Việt-Mỹ nay lại gắn liền với tương lai Biển Đông, mà tương lai của Biển Đông lại gắn liền với quan hệ Trung-Việt, cũng như quan hệ Trung-Mỹ. Để làm rõ những khía cạnh đầy uẩn khúc của các mối quan hệ này, hãy bình tâm xem lại một số bối cảnh lịch sử có liên quan và một số biến chuyển gần đây, như những dấu hiệu để “trở về tương lai”.  

Ông Võ Văn Kiệt và ông Bill Clinton, cả hai ông khi tại nhiệm đều đã đóng góp nhiều cho bình thường hóa quan hệ Viêt Nam - Mỹ




Ngăn chặn Trung Quốc: Trở về tương lai?   
Ai quan tâm đến lịch sử chắc vẫn nhớ 60 năm về trước (sau chiến tranh Triều Tiên và Điện Biên Phủ), Mỹ đã triển khai chiến lược Ngăn chặn Trung Quốc bằng cách sử dụng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (South East Asia Treaty Organization - SEATO) làm cơ chế an ninh tập thể ở khu vực này. Chẳng có gì sai khi Mỹ ngăn chặn Trung Cộng lúc đó cũng như bây giờ khi họ hung hăng trỗi dậy và bành trướng ở khu vực, bằng cách “xoay trục sang Châu Á” để tái cân bằng lực lượng, và sử dụng TPP (Tran-Pacific Partnership) làm khuân khổ hợp tác mới ở khu vực. Nhưng mục đích kinh tế của TPP có lẽ không quan trọng bằng mục đích chiến lược. 
Nói cách khác, đây là trò “rượu cũ bình mới”. “Rượu cũ” là mối đe dọa tiềm ẩn của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán (không hề thay đổi). “Bình mới” là Trung Quốc nay áp đặt “đường Lưỡi bò” và dùng dàn khoan để lấn chiếm Biển Đông và ráo riết xây dựng các đảo nhân tạo và công trình quân sự tại các đảo san hô mà họ chiếm của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hòng kiểm soát Biển Đông (như “lợi ích cốt lõi”). “Rượu cũ” là Mỹ “Ngăn chặn” Trung Quốc và “bình mới” là khuôn khổ hợp tác TPP (thay SEATO). Quan hệ Trung-Việt đầy phức tạp vừa là đối tác chiến lược (cùng ý thức hệ), vừa là đối thủ chiến lược (mâu thuẫn về lợi ích quốc gia). Đó là mối quan hệ bất bình thường (vừa yêu vừa ghét) như “anh em bạn thù”. Lúc này thật là dại dột và bất khả thi, nếu Việt Nam cố duy trì nguyên trạng quan hệ bất bình thường đó bằng cách đi trên dây để cân bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ.   
Cách đây 60 năm, Mỹ đã ngăn chặn một Trung Quốc nghèo khổ (như con “hổ giấy”), tuy ngoài mặt thách thức Mỹ nhưng trong bụng rất muốn bắt tay. Còn bây giờ, Mỹ đang ngăn chặn một Trung Quốc giàu có như một “quái vật kinh tế và quân sự”, vừa muốn giữ nguyên trạng (trong nước), lại vừa muốn thay đổi nguyên trạng (ngoài nước), và thách thức vai trò cầm đầu thế giới của Mỹ. Trước đây, Mỹ đã ngăn chặn Trung Quốc bằng cách đánh Việt Nam (như một kẻ thù ý thức hệ). Còn bây giờ Mỹ đang ngăn chặn Trung Quốc hung hăng trỗi dậy bằng cách hợp tác với Việt Nam (như một đối tác chiến lược mới). 
Đây là một sự chuyển đổi đầy kịch tính, để sửa chữa một sai lầm lớn đã dẫn đến chiến tranh Việt Nam. Chiến lược Ngăn chặn Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam là hai chuyện rất khác nhau, không nên nhầm lẫn. Đáng lẽ Mỹ không nên can thiệp vào Việt Nam bằng “một cuôc chiến tranh sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, với một kẻ thù sai” (Omar Bradley, 1951). Nhưng phải 20 năm sau cuộc chiến, ông Robert McNamara mới công khai thừa nhận sai lầm này (trong cuốn sách xuất bản năm 1995). Thực ra, ngay từ năm 1965, ông George Ball (trợ lý ngoại trưởng) đã nhìn thấy trước một cuộc chiến sai lầm, đã cảnh báo và khuyên can tổng thống John Kennedy đừng quyết định đưa quân sang Việt Nam để can thiệp trực tiếp.

        Rất nhiều cuốn sách được xuất bản nói về cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.


Nhưng đáng tiếc là không ai muốn nghe George Ball, mà người ta còn cười nhạo ông ấy. Theo tôi, George Ball tài giỏi không kém gì George Kennan. Họ là những người Mỹ thông minh, dũng cảm, có tầm nhìn xa. Nếu chính quyền biết lắng nghe họ, thì nước Mỹ đã tránh được bao tổn thất về xương máu và nguồn lực tại Việt Nam và Iraq sau này. Tuy Iraq có một số điểm khác biệt, nhưng Việt Nam và Iraq là những bài học đẫm máu, còn tiếp tục ám ảnh người Mỹ. Thomas Vallely (cựu chiến binh, giám đốc Việt Nam program tại Harvard) đã nói rất đúng (tư liệu truyền hình, 1985), “chúng ta không nên làm cái việc sai lầm là đưa thanh niên đến chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của những ông già”.   
Khi ông Archimedes Patti (cựu sĩ quan OSS) ký tặng tôi cuốn sách “Why Vietnam” (Bangkok, 1990), tôi có hỏi ông ấy, “lúc đó họ có đọc sách của ông không”. Ông Patti nói với ánh mắt buồn rầu, “chẳng ai đọc nó cả, chẳng ai nghe tao cả”. Trong một lần báo chí phỏng vấn (năm 1981), ông Patti đã nói rất rõ,“Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao, và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…” 
Điều đó làm tôi nhớ lại sự kiện “Blood Telegram” (mà chắc nhiều người đã quên). Ông Archer Blood, tổng lãnh sự Mỹ tại Dacca (thủ phủ Đông Pakistan lúc đó) đã gửi điện về Washington (ngày 6/4/1971, có 29 cán bộ ngoại giao Mỹ ký tên) cảnh báo về nạn “diệt chủng có chọn lọc” đang biến Dacca trở thành “một thành phố ma” (3/4 dân số bị giết hoặc bỏ chạy). Họ công khai phản đối chính sách của Mỹ ủng hộ chính quyền quân sự (của tướng Yahya Khan) đàn áp dã man người Bengali đòi độc lập cho Bangladesh. Nhưng tổng thống Nixon và Tiến sĩ Henry Kissinger lúc đó đã lờ đi, vì muốn tướng Yahya Khan làm cầu nối với Trung Quốc để tổng thống Nixon đến Thượng Hải bắt tay Mao Chủ tịch, như một “bước ngoặt lịch sử”. Tôi xin trích một đoạn bức điện, “Chính phủ chúng ta đã không lên án việc đàn áp dân chủ. Chính phủ chúng ta đã không lên án tội ác. Chính phủ chúng ta đã không có biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ công dân của mình, trong khi đó ra sức làm vừa lòng chính phủ do người Tây Pakistan nắm quyền và làm giảm bớt đi mọi sức ép tiêu cực của dư luận quốc tế đối với chính phủ Pakistan. Chính phủ chúng ta đã chứng tỏ một điều mà tất cả mọi người đều coi là phá sản về đạo đức”.


                 Trực thăng vận của quân lực Hoa Kỳ tại cuộc chiến ở Nam Việt Nam 


Tham dự tích cực: Trò chơi kết thúc?  
Tôi không biết tổng thống Nixon thực sự nghĩ gì khi ông ta bắt tay Mao Chủ tịch tại Thượng Hải năm 1972. Nhưng tôi tin ông Nixon đã một lần nói thật khi ông ấy nhận xét một cách chí lý (năm 1994, trước khi ông ấy chết), “Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”. Ông Nixon lúc sắp chết đã trở thành “thiên tài”! Thực tế là phải 42 năm sau, đến tận 2014, đa số người Mỹ mới nhận ra “hệ quả không định trước” này và bắt đầu lo ngại về sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc (tuy vẫn tranh cãi về nguy cơ xung đột).
Công bằng mà nói, không nên đổ lỗi cho ông Nixon vì tiến sĩ Henry Kissinger mới chính là kiến trúc sư của chính sách Trung Quốc, từ Thông cáo Thượng Hải (Shanghai Communique) để cho Mỹ rút quân khỏi Việt Nam “trong danh dự” và chia sẻ quyền lực với Trung Quốc tại Đông Á, đến “Constructive Engagement” (Can dự tích cực) để thay thế “Containment” (Ngăn chặn) giúp Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”, và “China Card” (Con bài Trung Quốc) để biến Trung Quốc thành đồng minh “trên thực tế” chống Liên Xô, và cuối cùng là “China Lobby” để vận động hành lang ủng hộ Trung Quốc trong mọi chuyện làm ăn. Người ta tự hỏi liệu có mối liên kết đặc biệt nào giữa “China Lobby” và “Jewish Lobby” không? 
Trong nửa thế kỷ qua (nói chính xác là qua 8 đời tổng thống Mỹ, cả Cộng hòa lẫn Dân chủ), Washington vẫn cho rằng chủ trương “Can dự tích cực” là cách duy nhất để khuyến khích Trung Quốc cởi mở dần trong quá trình mà ông Kissinger gọi là “co-evolution” (cùng diễn biến) theo các giá trị của Mỹ, và “trỗi dậy trong hòa bình”. Chỉ gần đây, người Mỹ mới bắt đầu thất vọng như bị bạn tình Trung Cộng phản bội. Các chuyên gia về Trung Quốc bắt đầu nói đến sự cần thiết phải “ngăn chặn”, và hai bên bắt đầu coi nhau như đối thủ (thay cho đối tác). “Đồng thuận Washington” về lợi ích của “Constructive Engagement” bắt đầu đổ vỡ. 
Điều đó làm ta nhớ lại trận Trân Châu Cảng (7/12/1941) khi hạm đội Mỹ tại đây đã bị hải quân Nhật đánh đắm, nhưng đa số người Mỹ lúc đó vẫn không tin là Nhật Bản dám khởi chiến. Có lẽ “Đồng thuận Washington” giống một con voi quá lớn và quá chậm để dễ dàng chuyển dịch. Không biết người Mỹ có thật ngây thơ về Trung Cộng không, hay là cái bóng của ông Kissinger quá lớn, nhưng gần nửa thế kỷ qua, chính sách của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương vẫn xoay quanh “cái trục Trung Quốc” mà Kissinger đã thiết kế.
Constructive Engagement không phải là sáng kiến tồi, và lúc đó có thể không có sự lựa chọn nào khác tốt hơn. Nhưng sẽ là tồi tệ nếu Mỹ đi quá xa để giúp Trung Quốc trỗi dậy mà không có gì đảm bảo và răn đe để ngăn ngừa nguy cơ tạo ra con quái vật Frankenstein. Dù nguyên nhân Trung Quốc trỗi dậy ngày càng hung hăng (được ví như một đầu gấu tại khu vực) có phải do “Constructive Engagement” hay không, thì nhiều người nay cho rằng Mỹ và Trung Quốc khó tránh khỏi chiến tranh lạnh (thậm chí xung đột)
Gần đây, tỷ phú George Soros còn lập luận rằng nếu không nhân nhượng Trung Quốc về vấn đề tài chính sống còn đối với họ, thì lãnh đạo Trung Quốc có thể phải dùng đến xung đột vũ trang để tồn tại, dễ gây ra chiến tranh thế giới mới. Điều này nghe như bắt chẹt và làm ta nhớ lại chính sách “Appeasement” (nhân nhượng) của chính phủ Anh (Neville Chamberlain) đã thỏa hiệp quá nhiều với Hitler (tại Munich, năm 1938). “Constructive Engagement” nếu đi quá xa, mà không có gì đảm bảo hoặc răn đe, sẽ phản tác dụng hơn cả “Appeasement”. 
Michael Pillsbury, một cựu chuyên gia về Trung Quốc tại Bộ Quốc phòng Mỹ, nhận xét “Trung Quốc không đạt được hầu hết những mong muốn màu hồng của chúng ta”. David  Lampton, một học giả về Trung Quốc tại Đại học Johns Hopkins kết luận “Quan hệ Trung-Mỹ đã đi đến chỗ đổ vỡ”. Robert Blackwill, một chuyên gia về an ninh quốc tế tại Trung tâm Belfer, Đại học Harvard, lập luận “Constructive Engement với Trung Quốc chỉ giúp cho đối thủ mạnh lên”. Trong khi đó, Michael Swaine, một học giả về Trung Quốc tại Carnegie Endowment, đề xuất “phải có một sự cân bằng lực lượng ổn định Mỹ-Trung”. Với quan điểm hơi khác một chút, Kevin Rudd, cựu thủ tướng Úc, một chuyên gia về Trung Quốc, đã tóm tắt quan điểm của Trung Quốc về mục tiêu của Mỹ là “nhằm cô lập, ngăn chặn, làm suy yếu, phân hóa Trung Quốc, và phá hoại lãnh đạo chính trị Trung Quốc”. Kevin Rudd còn khuyến nghị “Constructive Realism” như một sáng kiến mới “thực dụng hơn” để thay thế cho “Constructive Engagement”.


  
Tôi cũng không rõ liệu cao kiến của ông Kevin Rudd và Michael Swaune, tuy thực dụng hơn, nhưng liệu có hiệu quả hơn không, khi điều chỉnh chiến lược gần đây của Washington vẫn tỏ ra “quá ít và quá muộn”. Lập trường cứng rắn hơn của Mỹ (như điều máy bay quân sự đến Biển Đông) là một tín hiệu tích cực và lời cảnh báo rõ ràng đối với Trung Quốc, nhưng có lẽ vẫn chưa đủ thuyết phục Bắc Kinh phải thực sự nghiêm túc, và chưa đủ thuyết phục các nước Asean đang bị Trung Quốc bắt nạt và phân hóa phải dựa vào Washington hơn là Bắc Kinh. 
Ít nhất đó là nhận thức của Trung Quốc về lập trường cứng rắn hơn của Mỹ tại Biển Đông và tại Đối thoại Shangri-La (29-31/5/2015). Dường như có một khoảng cách lớn về nhận thức giữa Bắc Kinh và Wahington, rất nguy hiểm cho quá trình giải quyết xung đột, vì đôi khi nhận thức quan trọng hơn cả thực tế. Đây không phải chỉ là vấn đề truyền thông, mà còn là ý đồ của Trung Quốc muốn thao túng cả thế giới qua một nước cờ lớn, vì tin rằng thời gian ủng hộ họ. Đúng hay sai, đó là cách suy nghĩ và nhận thức “đặc thù” Trung Quốc. 
Biển Đông: Một thùng thuốc súng?
Hơn một năm nay, từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào Biển Đông và ráo riết xây dựng các công trình quân sự và đảo nhân tạo trên các đảo san hô họ chiếm tại Hoàng Sa và Trường Sa, để chuẩn bị thiết lập khu vực nhận diện phòng không, đe dọa tự do hàng hải, thì Biển Đông đã nóng lên như thùng thuốc súng. Quốc hội Mỹ và giới nghiên cứu đã chuyển biến khá mạnh về tư duy chiến lược, buộc chính quyền Obama phải có thái độ cứng rắn hơn, đưa máy bay quân sự và tàu chiến vào Biển Đông để răn đe, bất chấp Trung Quốc phản đối. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế đã thực sự lo ngại. Một số nước đồng minh của Mỹ (như Nhật Bản và Úc) đã thay đổi hẳn thái độ, sẵn sàng tham gia tuần tra hải quân trên Biển Đông.  
Trong khi bức tranh địa chính trị tại khu vực thay đổi nhanh và rõ nét hơn, thì tương lại Biển Đông vẫn mù mịt và bất định. Liệu đối đầu Trung-Mỹ tại Biển Đông có dẫn đến chiến tranh thật không, hay chỉ là chiến tranh lạnh? Liệu Trung Quốc và Mỹ có thể thỏa thuận với nhau để chia sẻ quyền lực (như trước đây)? Liệu căng thẳng Trung-Việt có dẫn đến chiến tranh không, hay tiếp tục nhùng nhằng (không hòa không chiến) và Trung Quốc tiếp tục chiến thuật “cắt lát gặm dần” như “chuyện đã rồi”, không đánh vẫn thắng? Và cuối cùng, liệu sức ép của Mỹ và cộng đồng thế giới, cũng như quá trình dân chủ hóa và đấu tranh quyền lực tại Trung Quốc, có đủ sức xoay chuyển thái độ của Bắc Kinh, và hóa giải được xung đột lợi ích tại Biển Đông để biến thùng thuốc súng này thành khu vực hợp tác hòa bình và cùng khai thác? 
Một số chuyên gia về Trung Quốc theo thuyết “cái bẫy Thucydides” (Graham Allison đặt tên) cho rằng xung đột Trung-Mỹ là khó tránh khỏi, và Biển Đông có thể là cái ngòi nổ cho thế chiến thứ ba. Một số khác theo thuyết phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế (phái “Neo-liberalism”) lập luận rằng chiến tranh Trung-Mỹ rất khó xảy ra vì hai nền kinh tế khổng lồ này đã quá phụ thuộc vào nhau, nên khả năng cùng bị hủy diệt do chiến tranh là một sự răn đe hiệu quả. Số còn lại đưa ra nhiều giả thuyết và kịch bản khác nhau, chủ yếu dựa trên phân tích hàn lâm, thường làm rắc rối hơn là làm sáng tỏ vấn đề, và góp phần làm cho Biển Đông nóng hơn (trên mặt báo và các diễn đàn nghiên cứu) như thêm gia vị vào các thực đơn nghiên cứu. 
Graham Allison dựa vào thực tế lịch sử để phân tích rút ra quy luật, chủ yếu nhằm cảnh báo về một nguy cơ tiềm tàng khó tránh, để biết mà phòng tránh chứ không phải để kết luận như đinh đóng cột rằng chiến tranh nhất thiết sẽ xảy ra. Trong thế giới đầy biến động khôn lường và đầy biến số này, không ai có thể chắc chắn về một điều gì như hằng số.


Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia trong thế giới phẳng là một thực tế hiển nhiên. Trong trường hợp Trung-Mỹ thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới càng lớn hơn. Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn thì mâu thuận cũng càng lớn và rủi ro càng cao, rất khó kiểm soát. Sự khác biệt về hệ thống giá trị cơ bản giữa hai quốc gia này như mặt trăng và mặt trời. Trong khi Mỹ dẫn đầu thế giới trong việc phát triển truyền thông xã hội, thì Trung Quốc dẫn đầu thế giới trong việc kiểm soát nó. Trong khi Mỹ muốn Trung Quốc áp dụng hệ thống giá trị của mình, thì lãnh đạo Trung Quốc coi đó là lật đổ. 
Nếu cả hai xu hướng chính là “cái bẫy Thucydides” và “phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế” cùng tồn tại trong quan hệ Trung-Mỹ thì nó có thể triệt tiêu lẫn nhau, dẫn đến nhùng nhằng (không hòa không chiến) như chiến tranh lạnh kiểu mới (xu hướng thứ ba). Nếu tình huống này thắng thế, thì Trung Quốc càng có lợi, tiếp tục “cắt lát” để gặm dần, biến thành “chuyện đã rồi”, và cuối cùng đạt được mục tiêu kiểm soát Biển Đông mà không tốn một viên đạn. 
Có lẽ cả Trung Quốc và Mỹ đều qúa bận tâm về các vấn đề chính trị nội bộ nên muốn hướng dư luận vào các vấn đề chính trị quốc tế. Họ cũng có thể gây căng thẳng tại đâu đó trên thế giới để thử gân nhau. Nhưng có lẽ lúc này cả hai đều không muốn và không sẵn sàng chiến tranh tổng lực. Do đó, kết quả có thể là chiến tranh lạnh kiểu mới, một dạng chiến tranh nửa dơi nửa chuột (hybrid warfare) hoặc mượn tay người khác (proxy warfare). 
Tuy nhiên, khi căng thẳng được đẩy lên thành kịch tính thì rủi ro càng lớn, và hai bên cần một cơ chế kiểm soát rủi ro để tránh sử dụng vũ lực. Dù sao, người ta cho rằng chiến tranh lạnh vẫn còn hơn là thế chiến thứ 3. Quá trình tháo gỡ cuộc xung đột địa chính trị này chắc còn kéo dài, nên nó chỉ có lợi cho chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông. Căng thẳng tại Biển Đông chắc sẽ là một chủ đề chính tại Đối thoại Trung-Mỹ về Chiến lược và Kinh tế (23/6/2015), nhưng có lẽ nó chỉ là bước tiếp nối Đối thoại Shangri-La tại Singapore gần đây. 
Dù lạc quan về lập trường cứng rắn hơn của Mỹ đối với Trung Quốc tại Biển Đông, chúng ta cũng không nên quá mong đợi vào Đối thoại Trung-Mỹ cũng như vào chuyến thăm Mỹ chính thức của Tông Bí thư Nguyễn Phú Trọng (đầu tháng 7/2015). Chừng nào lập trường giữ cân bằng quan hệ của Hà Nội đối với Bắc Kinh và Washington chưa có chuyển biến cơ bản, thì cuộc gặp cấp cao lần này có lẽ cũng không khác gì mấy so với cuộc gặp cấp cao lần trước, giữa Chủ tich Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama (25/7/2013). Tuy nhiên, chúng ta có lý do để hy vọng rằng chuyến thăm của Tổng thống Obama đến Việt Nam (vào cuối năm nay) có thể mở ra một bước ngoặt mới cho quan hệ hai nước. Nếu không ngăn chặn kịp thời, thì Trung Quốc có thể vượt qua cái ngưỡng “không thể đảo ngược được” tại Biển Đông.      
     
Trong khi chưa biết rõ kết cục tại Biển Đông sẽ như thế nào, thì các học giả về Trung Quốc cho rằng màn chót của chế độ Trung Cộng có lẽ đã bắt đầu. Bề ngoài, Trung Quốc có vẻ giàu có và hùng mạnh, nhưng nó che đậy một hệ thống đã đổ vỡ bên trong. Không phải chỉ có ông Gordon Chang lâu nay dự báo “Trung Quốc sắp sụp đổ”, mà cả giáo sư Paul Krugman (được giải Nobel kinh tế) cũng báo động rằng “Trung Quốc đã kịch đường” (tới điểm giới hạn). Đáng chú ý là cả giáo sư David Shambaugh (một chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc tại George Washington University) đã tuyên bố “màn chót của chế độ Trung Cộng đã bắt đầu”…
 
Chiến dịch “đả hổ” chống tham nhũng quyết liệt của ông Tập Cận Bình để cứu chế độ (hay củng cố địa vị) đang đẩy màn chót đến nhanh hơn. Việc tăng cường đàn áp càng bộc lộ sự đổ vỡ của hệ thống và đẩy nhanh quá trình sụp đổ. Thay vì mở cửa, ông Tập Cận Bình đang tăng cường kiểm soát gấp đôi. Thực ra, chính trị nội bộ mới là mối lo chính, vì ngân sách an ninh của Trung Quốc còn lớn hơn cả ngân sách quốc phòng. Giới tinh hoa ở Trung Quốc sẵn sàng ra đi hàng loạt nếu hệ thống bắt đầu sụp đổ. Theo Elizabeth Economy (tại Council on Foreign Relations) 2/3 (hoặc 64%) người Trung Quốc có tài sản trên 1,6 triệu USD đang di cư hoặc dự định di cư. Xu hướng “bỏ phiếu bằng chân” ào ạt này là một dấu hiệu hệ trọng, phải theo dõi kỹ.


Anh em bạn thù: Làm sao để thoát? 
Định mệnh về địa lý
Dù muốn hay không, Việt Nam vẫn phải sống cạnh người láng giềng khổng lồ, như một định mệnh về địa lý, không thể thay đổi được. Vì vậy về lâu về dài, Việt Nam phải tìm cách chung sống hòa bình, tử tế với các nước láng giềng, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Là một nước nhỏ hơn, muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình, Việt Nam phải thay đổi và mạnh lên để Trung Quốc phải tôn trọng. Nếu Việt Nam yếu đi trong khi Trung Quốc mạnh lên, thì chắc chắn Việt Nam sẽ mất độc lập, chủ quyền và trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng bành trướng bá quyền Trung Quốc. Đáng tiếc tình trạng hiện nay đúng là như vậy. Không phải Việt Nam chỉ mất đất biên giới và hải đảo tại Biển Đông, mà có thể sẽ mất tất cả, để “trở về tương lai” như thời kỳ Bắc thuộc. 
Tương quan lực lượng
Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, đang thách thức vai trò số một của Mỹ, và muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc không chỉ là con quái vật kinh tế, mà còn là con quái vật quân sự và ý thức hệ, với tham vọng bành trướng bá quyền như đầu gấu trong khu vực. Họ đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hướng dân Trung Quốc vào “Giấc mộng Trung Hoa”, hòng che đậy những mâu thuẫn cơ bản đang đe dọa sự tồn tại của chế độ. Biển Đông chỉ là một mảnh trong ván cờ lớn của họ. Trung Quốc muốn giữ chặt Việt Nam trong cái bẫy ý thức hệ, như một chư hầu ngoan, không được thân hơn với Mỹ. Vì vậy, Việt Nam phải thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ, để lớn mạnh và độc lập. Việt Nam phải khai thác được nguồn nhân lực của cái mỏ người hơn 90 triệu dân bằng cách nâng cao dân trí để phát triển kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, việc này không thể một sớm một chiều. Đáng tiếc là chúng ta đã đánh mất ít nhất bốn thập kỷ, kể từ sau Chiến tranh Việt Nam.  
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Chủ nghĩa dân tộc luôn là động lực chính trong quan hệ quốc tế. Trong lịch sử, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và Trung Quốc đã chứng tỏ sức mạnh và sức sống tiềm tàng, như những đối thủ truyền kiếp. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền là hiểm họa cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Khi chủ nghĩa dân tộc trở thành cực đoan và bá quyền, nó như con quái vật, xô đẩy các nước vào lò lửa chiến tranh. Chủ nghĩa dân tộc thường bị các chế độ độc tài thao túng để kích động lòng yêu nước và huy động dân chúng ủng hộ các tham vọng cực đoan của họ, hoặc che đậy những mâu thuẫn xã hội và xung đột nội bộ.
Người Đức thông minh tài giỏi như vậy, nhưng cũng bị Hitler và đảng Quốc Xã cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa chiến tranh thế giới. Người Trung Hoa có bề dày lịch sử và văn hóa như vậy, nhưng cũng bị Mao và các phái cộng sản cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa Cách mạng Văn hóa. Người Khmer hiền lành như vậy, nhưng cũng bị Pol Pot và Khmer Đỏ thao túng, trở thành nạn nhân của họa diệt chủng. Nguy cơ xung đột tại Biển Đông là do chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Vì vậy, muốn tránh hiểm họa chiến tranh và xung đột, các nước phải nâng cao dân trí và dân chủ hóa, tăng cường cả sức mạnh mềm lẫn sức mạnh cứng, để có “sức mạnh thông minh”.



Dân chủ hóa  
Đối với các xã hội chuyển đổi (như Trung Quốc và Việt Nam), dân chủ hóa là quy luật tất yếu và quá trình cần thiết để xã hội phát triển. Quá trình này nhanh hay chậm tùy thuộc vào đặc điểm chính trị và xã hội của từng nước. Dân chủ hóa thường song hành với quá trình phát triển tầng lớp trung lưu và dân trí cùng xã hội dân sự. Nó vừa là động lực để đổi mới và phát triển kinh tế, vừa là đối trọng để hạn chế chủ nghĩa cực đoan và cuồng tín. Do đặc điểm lịch sử, văn hóa phức tạp nên quan hệ Việt-Trung vừa bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền, vừa bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản cực đoan. Chỉ có dân chủ hóa và nâng cao dân trí thì Việt Nam và Trung Quốc mới có thể thoát khỏi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và nguy cơ xung đột. Hiện nay, tầng lớp trung lưu ở Việt Nam đã giàu hơn, nhưng dân trí chưa chắc đã cao hơn. Sự phát triển bùng nổ của internet và truyền thông xã hội dựa trên kỹ thuật số gần đây có vai trò rất lớn trong quá trình này, như một cuộc cách mạng truyền thông.  
Cất cánh kinh tế 
Tuy Trung Quốc và Việt Nam có thể chế chính trị giống nhau (do Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo), nhưng kinh tế hai nước phát triển không giống nhau, làm quan hệ trở thành bất bình đẳng và lệ thuộc. Trong khi kinh tế Trung Quốc cất cánh với tốc độ tăng trưởng 2 con số trong suốt 3 thập kỷ, thì kinh tế Việt Nam không cất cánh lên được, thậm chí còn tụt hậu. Mặc dù đều độc tài và tham nhũng, nhưng Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ và nhanh chóng theo kinh tế thị trường, trong khi Việt Nam vẫn duy trì “định hướng XHCN”, dựa vào các doanh nghiệp nhà nước tham nhũng và yếu kém làm chủ đạo, dẫn đến thua lỗ và phá sản (như Vinashin và Vinalines). Trong khi Trung Quốc vơ vét tài nguyên khoáng sản toàn cầu để nuôi con quái vật kinh tế khổng lồ, xuất khẩu hàng hóa ra khắp thế giới để tích lũy tư bản, thì Việt Nam vẫn không công nghiệp hóa và nội địa hóa sản xuất được, chỉ bán rẻ tài nguyên khoáng sản lấy tiền nhập siêu hàng tiêu dùng. Đây cũng là một bi kịch quốc gia. Nếu không đổi mới cơ bản về thể chế kinh tế và chính trị, để hội nhập vào thị trường thế giới, thì Việt Nam khó tránh khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc và mất chủ quyền tại Biển Đông.  
Đối tác chiến lược.  
Muốn đối phó với một láng giềng lớn chuyên bắt nạt (như Trung Quốc), Việt Nam phải liên kết với đối tác chiến lược mạnh hơn (như Mỹ) làm đối trọng và răn đe. Đó là quy luật tất yếu ai cũng biết, nhưng vận dụng như thế nào là một chuyện khác. Có nhiều bài học lịch sử. Ví dụ, không nên dựa hẳn vào bên này để chống bên kia, gây thù chuốc oán, như trước đây Việt Nam đã dựa hẳn vào Trung Quốc để chống Mỹ, rồi sau này lại dựa hẳn vào Liên Xô để chống Trung Quốc. Nhưng cũng không nên có quan hệ đối tác chiến lược với quá nhiều nước, mà chẳng nước nào có khả năng đương đầu với Trung Quốc để bênh vực Việt Nam. Nó giống như câu thành ngữ “lắm mối tối nằm không”. Việc giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng cách đi trên dây không phải là một chiến lược lâu dài. Càng không phải là một cái cớ để trì hoãn quan hệ đối tác chiến lược sống còn với Mỹ khi Trung Quốc đã lộ rõ bộ mặt thật là mối đe dọa chung đối với khu vực. Không nên nhầm lẫn mục tiêu chiến lược với phương tiện chiến thuật. Nếu không có quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ với Mỹ và gia nhập TPP, Việt Nam dễ bị Trung Quốc bắt nạt và đô hộ. Muốn có quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ, trước hết người Việt phải đoàn kết và hòa giải với nhau, để vươn lên mạnh mẽ, làm các đối tác tôn trọng và tin cậy. Quan hệ đối tác chiến lược là vô nghĩa nếu không dựa trên tầm nhìn chiến lược và lòng tin chiến lược.  
   
NQD - 6/2015
* Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993.


*Ảnh minh họa trong bài của Blog Nguyễn Vĩnh (từ tư liệu cá nhân lưu trữ & sưu tầm trên Internet).

------
Tham khảo
1. “Hitting China’s Wall”, Paul Krugman, the New York Times, July 18, 2013 
2. “Pivot 2.0”, A Report of the CSIS Asia Program, CSIS, Jan 2015
3. “The Coming Chinese Crackup”, David Shambaugh, the Wall Street Journal, March 6, 2015.
4. “Revising US Grand Strategy Toward China”, Robert Blackwill & Ashley Tellis, Special Report, Council on Foreign Relations Press, April 2015
5.  “The Future of US-China Relations under Xi Jinping”, Kevin Rudd, Summary Report, Belfer Center, Harvard Kennedy School, April 2015,
7. “A Tipping Point in US-China Relations is upon us”, David Lampton, address, at the Carter Center conference, May 6, 2015
8. “Retaining America’s balance in the Asia-Pacific: Countering China’s Coercion in South East Asia”, Patrick Cronin, Congressional Testimony, May 13, 2015
9. “At a Crossroad: What is the Future of US-China Relations?”, Elizabeth Economy, the National Interest, May 21, 2015
10. “Fact, Fiction and the South China Sea”, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 25, 2015
11. “Can China Be Contained”, Andrew Browne, the Wall Street Journal, June 12, 2015
 
Nguồn: Vinhnv43

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đọc lại hồi ký Trần Quang Cơ

Hồng Khiêm( Nguyên Tham tán Bộ Ngoại giao )
 

Đã hớ, đã dại rồi mà còn nói đặt sự nghiệp cách mạng lên trên hết… Người lãnh đạo không nên làm như vậy. Với Trung Quốc, vừa qua không phải là chúng ta bình thường hóa, mà là chúng ta đã bị “phụ thuộc hóa” quan hệ (Phạm Văn Đồng).
 
Tối hôm trước ngày đi viếng cựu Thứ trưởng Trần Quang Cơ, tôi đọc lại “Hồi ức và Suy nghĩ”của ông, coi như một cách tưởng nhớ đối với người quá cố mà tôi rất đỗi kính trọng, người đã tự rút ngắn sự nghiệp của cả đời mình đặng để lại cho hậu thế những trang tư liệu lịch sử quý giá cùng những kiến nghị và những bài học đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nhiều bài học đến nay vẫn chưa được học hết, nhiều khuyến nghị ông nêu ra cho vẫn chưa được áp dụng hoặc thực hiện đến nơi đến chốn.

  Qua điếu văn do Bộ trưởng BNG Phạm Bình Minh đọc tại tang lễ, ta được biết chàng thanh niên TRẦN QUANG CƠ đã là người lính bảo vệ thủ đô Hà Nội, rồi hoạt động địch vận trong kháng chiến, sau đó khi hòa bình lập lại, theo sự phân công của tổ chức lại khoác ba lô về nhận công tác tại Bộ Ngoại giao. Tại đây, sau các công việc với Mỹ (đàm phán ở Paris với Mỹ về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đàm phán bình thường hóa quan hệ với Mỹ dở đang), Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã phân công cho ông - một người am hiểu về Mỹ, phương Tây - phụ trách mảng khó khăn nhất, “xương xẩu” nhất của công tác ngoại giao lúc bấy giờ: đó là giải pháp cho vấn đề Campuchia. Bắt đầu tham gia cách mạng là 1 người lính, rồi trở thành Thứ trưởng, Thứ trưởng thứ nhất, ông đã lại như một người lính dành cả chục năm cuối đời công tác của mình cho vấn đề Campuchia gai góc, mà vấn đề CPC lại gắn chặt với Trung Quốc. Ông đã sát cánh cùng với Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, trở thành một “cặp bài trùng” trong cuộc đấu tranh gay go phá bao vây cấm vận như mục tiêu đấu tranh cho cả một giai đoạn cách mạng nước ta lúc đó.
●  Bằng sự phân tích tinh tường, thấu đáo, “Hồi ký” của Trần Quang Cơ đã vạch ra ý đồ và vai trò thực sự của các nước lớn: Mỹ, Liên Xô, Trung quốc trong cuộc xung đột CPC. Trung Quốc bằng mọi cách đòi bỏ chữ “diệt chủng” để “rửa mặt” khỏi sự dính líu của họ với một trong những chế độ tàn bạo ghê tởm nhất trong lịch sử. Ông phân tích cái gọi là “giải pháp đỏ” sẽ gây cho Việt Nam rắc rối như thế nào, đấu tranh ngoại giao với Trung Quốc vất vả ra sao khi những người lãnh đạo Trung Quốc từ trên xuống dưới kể cả Đặng Tiểu Bình đều sử dụng thủ đoạn xuyên tạc sự thật một cách trắng trợn (cuộc nói chuyện của Đặng Tiểu Bình với Kayson về Việt Nam 7/10/1989), không bao giờ ngừng chia rẽ nội bộ và làm suy yếu Việt Nam.
Đọc “Hồi ức và Suy nghĩ”, có thể theo dõi cách xử lý vấn đề CPC và quan hệ với Trung Quốc của lãnh đạo Việt Nam đã khiến Việt Nam bị lừa và trượt dần vào vòng xoáy xảo trá của Trung Quốc như thế nào, mà bước ngoặt là hội nghị Thành Đô, và ông Trần Quang Cơ coi đó là hành động vô nguyên tắc, không đúng với nghị quyết BCT và bị Trung Quốc lỡm. Cuối chương 10, Trần Quang Cơ đã phải thốt lên: “Thuốc đắng thầy Tầu bốc cho ta đắng thật, nhưng vẫn không dã được tật”. Ngây thơ, cả tin vào Trung Quốc là đồng minh bảo vệ CNXH mặc dù bị Trung Quốc từ chối mà vẫn tự nguyện “giơ ngực cho người ta đấm” như nhận xét vừa hài hước vừa chua xót của Cố vấn Phạm Văn Đồng. Ông Cơ đã dẫn lời phát biểu của Phạm Văn Đồng tại cuộc họp BCT: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy”.
Theo ông Trần Quang Cơ, Việt Nam-Trung Quốc “không phải là bình thường hóa quan hệ, mà là phụ thuộc hóa quan hệ”, và kể từ sau Đại hội VII, đánh giá Trung Quốc của Bộ chính trị từ chỗ có 2 mặt: bành trướng bá quyền và XHCN nhưng về sau chủ yếu chỉ còn mặt thứ 2. Dẫn sự việc cấp cao của ta chỉ đạo các ngành quan hệ với Trung Quốc thông qua Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam mà không cần qua Sứ quán Việt Nam ở Trung Quốc, thậm chí không cần qua cả Bộ Ngoại giao Việt Nam và còn đi xin ý kiến đối phương (Ban Đối ngoại đi hỏi Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín) về hướng giải quyết vấn đề trong đàm phán trước khi cử người đi đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao với Trung Quốc cho có kết quả. Ông Cơ cho rằng  “thật là có một không hai trong lịch sử đối ngoại!”.
 ●  Trước bước ngoặt thay đổi thời đại, thay đổi chiến lược trên thế giới cuối thế kỷ XX, Trần Quang Cơ mong ước Việt Nam sẽ “thay đổi tư duy đối ngoại để có được một đường lối phù hợp thực tế khách quan nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi thế cô lập, hòa nhập được với đà phát triển chung của khu vực và thế giới”.
“Nhưng không!”, ông Cơ than thở: “Tư duy chính trị xơ cứng đã giam giữ nước ta trong hoàn cảnh khó khăn một thời gian dài”. Có nhiều chủ trương, quyết sách ta chậm đến 20 năm, chẳng hạn như  “từ chối đề nghị của Mỹ và làm cao khiến ta bỏ lỡ cơ hội, khiến cho bình thường hóa với Mỹ và gia nhập ASEAN mãi 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện một cách chật vật”.
Ông lấy làm tiếc rằng “việc ta bỏ lỡ cơ hội với Mỹ đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung Quốc đầy tham vọng”, và đặt câu hỏi: “Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và Trung Quốc có dám đánh ta năm 1979, nếu như ta có một chiến lược đúng đắn và cầu thị hơn?” Một câu hỏi đau đáu và chưa bao giờ mất tính thời sự.
Sau khi giải quyết xong vấn đề CPC, đáng lẽ về mặt đối ngoại  phải mở ra 1 thời kỳ đa phương hóa quan hệ một cách thực sự vì mục đích cao nhất là lợi ích dân tộc và phát triển đất nước, thì đất nước lại rơi ngay vào cái bẫy “toàn diện” mới (bẫy “ý thức hệ” về chính trị và “bẫy phát triền” về kinh tế). Nếu tính từ khi lập nước (năm 1945), đây là lần thứ ba hoặc thứ tư trước các bước ngoặt lịch sử (1946, có thể 1954, 1975, 1990), chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội cho an ninh và phát triển tốt hơn.
Đọc lại Hồi ký Trần Quang Cơ và phần “Kiến nghị” ông viết gửi cho Bộ Chính trị theo yêu cầu của BCT, chúng ta thấy thật kỳ lạ là những vấn đề ông đặt ra từ cách đây 20 năm đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Chẳng hạn về những thách thức, trong số thách thức bên trong ông Cơ nhấn mạnh “tệ tham nhũng đang hủy hoại sức đề kháng vật chất cũng như tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ đối với các thách thức bên ngoài”. Về thách thức bên ngoài, ông nhấn mạnh diễn biến hòa bình và bá quyền bành trướng, trong đó những thách thức đe dọa nhiều mặt của Trung Quốc đối với ta đều là những vấn đề hiện thực đang xảy ra và ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe dọa của các đối tượng khác có phần nào chỉ là giả định và có khi chỉ là sự hù dọa của Trung Quốc.
Truyện Trung Quốc có quân sư Gia Cát Lượng viết bảo bối, kế sách cho tướng ra trận khi gặp hiểm nguy thì giở ra xem. Nhưng các kiến nghị của Trần Quang Cơ dù có giá trị đến mấy, nhưng đáng tiếc, ở Việt Nam không có nhà ‘minh quân” nào biết  giở ra xem và đưa vào ứng dụng trong thực tiễn.
Tâm nguyện đau đáu của “Hồi ức và Suy nghĩ” của Trần Quang Cơ là “rút ra những bài học bổ ích và đích đáng cho ngoại giao trong hiện tại và tương lai vì một mục đích tối cao là đảm bảo lợi ích của dân tộc trong mọi tình huống”. Vì thế ông đã bỏ vào đấy tất cả tâm huyết, trí tuệ, bản lĩnh, cả sinh mệnh chính trị, toàn bộ sức bình sinh của con người ngoại giao - một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, kỳ cựu, thượng thặng, vì đất nước! Tôi cũng suy tư mãi về quyết định “bỏ cuộc chơi” của ông. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là bị ép, còn ông, ông tự bỏ. Bỏ cuộc chơi khi canh bạc đã tàn hoặc chỉ còn lại những con bạc khát nước thì cũng là điều không hẳn là đáng hối tiếc. Chỉ tiếc là tiếc cho đất nước, cho dân tộc, nếu nhỡ lần này nữa thì chúng ta sẽ rơi vào một vòng trầm luân mới mà chưa biết khi nào mới lại thoát ra được?

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 3-7-15
__________

Mục Lục

Hồi ức và Suy NghĩViệt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20Một nhiệm kỳ đại sứ không tẻ nhạtĐại hội “đổi mới” CP87 và 3 tầng quan hệ của vấn đề CampuchiaTừ chống diệt chủng đến “giải pháp đỏ”?Một bước tự cởi trói: đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ .Trung Quốc uốn ḿnh để thích nghi với thế cựcHiệp 1 của Hội nghị quốc tế Pa–ri về CampuchiaĐặng Tiểu B́nh tiếp Kaysone Phomvihan[1] để nói với Việt NamThuốc đắng nhưng không dă được tậtBCT đánh giá cuộc đàm phán tháng 6/1990Một sự chọn lựa thiếu khôn ngoanCuộc gặp cấp cao Việt–Trung tại Thành Đô
3–4/9/90
Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta?Ai là người đáng lư ra phải nhớ dai?Món nợ Thành ĐôNhững vấn đề về t́nh h́nh quốc tế và chính sách đối ngoại c̣n có tranh luậnĐại hội VII và cái giá phải trả cho việc b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc.Hiệp 2 của Hội nghị quốc tế về Campuchia.Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa sang trangNhững thách thức đối với an ninh và phát triển của ta –– Một số kiến nghị đối sáchNhững thách thức đe dọa an ninh và phát triển của ta có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng nào?Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe dọa an ninh và phát triển của ta là từ đâu?Kiến nghị đối sáchBảng niên đạiPhụ Bản

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vì sao Trung Quốc sợ Nhật Bản can dự vào Biển Đông?


vi sao trung quoc so nhat ban can du vao bien dong
Sau cuộc tập trận song phương Nhật Bản-Philippines tại Biển Đông, Bắc Kinh liên tục công kích Tokyo. Động thái mới nhất diễn ra ngày 29/6/2015, khi nhân vật số bốn trong chính quyền Trung Quốc lên tiếng đòi Nhật Bản tránh xa hồ sơ Biển Đông. Cùng lúc, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra thông cáo yêu cầu Tokyo thận trọng khi xử lý các vấn đề an ninh, cũng như Biển Đông, RFI đưa tin.
 
Theo hãng tin Nhật Bản Kyodo, nhân cuộc tiếp xúc với một phái đoàn nghị sĩ Nhật Bản ghé thăm Bắc Kinh, ông Du Chính Thanh (Yu Zhengsheng) Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, đã cho rằng vấn đề Biển Đông hoàn toàn không có liên quan gì đến Nhật Bản.
 
Đối với nhân vật trên danh nghĩa là lãnh đạo đứng hàng thứ tư trong guồng máy lãnh đạo Bắc Kinh, việc Nhật Bản cùng với Mỹ đua nhau chỉ trích Trung Quốc trong hồ sơ Biển Đông, mà không nói gì đến Philippines và các nước tranh chấp khác, là một điều không công bằng.
 
Cũng trong chiến dịch phản công nhắm vào Nhật Bản, vào hôm 29/6, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng cảnh cáo Tokyo là nên thận trọng và có thái độ đúng đắn khi xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quân sự và Biển Đông.
 
Phản ứng trên đây được đưa ra sau khi truyền thông Nhật Bản tiết lộ rằng Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, khi nói chuyện với giới báo chí hồi đầu tháng Sáu, đã cho rằng các cải cách về an ninh mà Tokyo đang tiến hành đích thực nhắm vào Bắc Kinh và vấn đề Biển Đông.
 
Theo phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh, nếu các thông tin trên xác thực, thì giới lãnh đạo Nhật Bản phải có lời giải thích với Bắc Kinh.
Có thể nói Trung Quốc đã không che giấu phản ứng cay cú sau khi Tokyo không ngần ngại tham gia tập trận cùng với Philippines tại Biển Đông, ngay gần khu vực mà Bắc Kinh đòi chủ quyền.
 
Theo hãng truyền hình Mỹ NBC ngày 29/6/2015, một viên tướng Trung Quốc nổi tiếng là diều hâu vừa nhấn mạnh: không thể chấp nhận việc Nhật Bản tuần tra trên Biển Đông, cho dù có thể chấp nhận Mỹ.
 
Theo đài NBC, Tướng Chu Thành Hổ, Giáo sư về chiến lược tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc, đã giải thích thái độ bên trọng bên khinh của ông bằng sự kiện Mỹ đã hiện diện từ lâu đời về mặt quân sự ở Đông Nam Á: "Hoa Kỳ đã từng có căn cứ quân sự ở Đông Nam Á, đồng thời cũng có hợp tác quân sự với Singapore. Sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Biển Đông do đó là điều có thể chấp nhận được đối với Trung Quốc"
 
Nguồn bizlive
Phần nhận xét hiển thị trên trang