Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

DÂN LẦM THAN:

SAM RAINSY - KẺ THEO CHỦ NGHĨA CỰC ĐOAN CHỐNG VIỆT NAM




      Trong những ngày vừa qua, trên khắp các trang mạng, báo chí quốc tế nói chung, đặc biệt là báo chí Campuchia và Trung Quốc nói riêng đang tốn biết bao giấy mực đưa tin về ông Sam Rainsy, lãnh đạo Đảng cứu nguy dân tộc đối lập của Campuchia đã đưa ra những phát biểu ngang ngược chà đạp lên lịch sử, quan hệ ngoại giao với Việt Nam…Chính ông ta đã phát biểu rằng xem Trung Quốc là một người bạn, một người đồng minh quan trọng, ủng hộ Trung Quốc một cách manh mẽ về mọi vấn đề trên biển Đông, mà trong khi đó cộng đồng quốc tế đang lên án mạnh mẽ những tuyên bố vô lý của Trung Quốc về vấn đề khu vực biển Đông.
Sam Rainsy thể hiện thái độ ủng hộ Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông
Không những thế, ông ta còn xem Việt Nam là kẻ thù, ông ta phát biểu một cách cực thù “kẻ thù của kẻ thù là bạn”, ông ta làm thế khác nào là kẻ bợ đỡ Trung Quốc, chà đạp lên chủ quyền nước khác, ông ta thật quá hoang đường, đã tự vẽ lên những câu chuyện không có thực nhăm lôi kéo cử tri Campuchia ủng hộ, ông ta dựng chuyện lên lừa bịp nhân dân Campuchia vào hoàn cảnh sợ hãi người Việt Nam chỉ vì tin vào những lời nói hoang đường của Sam Rainsy rằng: “Việt kiều ở Campuchia tranh giành công ăn việc làm của người Campuchia.”
            Như công chúng đã biết trong quá trình vận động tranh cử vào Quốc hội Campuchia, ông ta luôn luôn đưa ra những lời lẽ tạo ra thông điệp nhằm lấy lòng cử tri Campuchia, mạnh mẽ đưa ra những lời chỉ trích chê bai hướng tới các đối thủ chính trị, nhưng phần nhiều thời gian ông ta luôn nhắc tới “người bạn” Trung Quốc, Ram Rainsy luôn miệng bày sự hữu hảo với cái gọi là “người bạn” Trung Quốc. Không những thế ông ta còn dùng những lời “có cánh” , tán dương Trung Quốc tới khó chịu, kể cả những con người trung lập họ cũng cảm thấy không một chút vừa ý về thái độ cũng như hành xử của ông ta trong công việc chính trị.
Có lẽ do nhiều lần tới Trung Quốc cũng như chứng kiến sự phát triển của Trung Quốc nên Sam Rainsy đã cho rằng đó là “mô hình” để Campuchia học hỏi, có lẽ rằng ông ta đã quá bế tắc trong hướng đi tìm kiếm sự ủng hộ của người dân Campuchia nên đã dựa dẫm vào Trung Quốc, bằng chứng sâu sắc mà chúng ta có thể thấy qua câu nói đạm chất nịnh bợ của ông ta: “Chúng tôi không chỉ xem Trung Quốc là một người bạn mà còn là một đồng minh. Đảng của chúng tôi ủng hộ chính sách một Trung Quốc,” Rainsy nói.
Nhất là trên vấn đề biển Đông ông ta con tuyên bố ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp với các quốc gia khác, đặc biệt là Việt Nam, “Đảng của chúng tôi ủng hộ Trung Quốc trong việc bảo vệ toàn bộ lãnh thổ. Tất cả mọi hòn đảo do Trung Quốc bảo vệ là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi lên án bất cứ hành động xâm lược nào. Những hòn đảo ấy là của Trung Quốc và chỉ thuộc về Trung Quốc mà thôi,”Sam Rainsy ngông cuồng nói. Không những thế ông ta còn khẳng định trước baó giới rằng chỉ có duy nhất Đảng của ông ta mới ủng hộ Trung Quốc rõ ràng và quyết liệt nhất.
Mới đây, sau sự việc một nhóm khoảng 250 người Campuchia tiến sâu vào khu vực mốc 203 giữa tỉnh Svay Rieng và tỉnh Long An của Việt Nam và tấn công làm 7 người Việt bị thương.Nhiều người cho rằngSam Rainsy đã đứng sau giật dây nhằm tạo bất ổn về chính trị xã hội, khiến Việt Nam phải phân tán lực lượng.Mặt khác, có thể xuất phát từ nhu cầu tranh thủ phiếu ủng hộ của những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, và những kẻ bài Việt trên đất nước này.
        Rõ ràng đây không phải lần đầu tiên Sam Rainsy lấy lòng người dân Campuchia bằng cách chà đạp lên chủ quyền của đất nước Việt Nam ta, trong quá khứ đã không ít lần chính trị gia hoang đường này đã ngang ngược xâm phạm chủ quyền của ta và kêu gọi sự ủng hộ trong nước. Cụ thể ngày 25/10/2009 ông ta đã tới khu vực biên giớ đang phân căm mốc và nhổ các cột mốc tạm thời mang về Phnompenh và đồng thời nhiều lần vu cáo chúng ta lấn đất Campuchia bằng việc phân mốc biên giới. Sau khi hành động phá hoại ngang ngược của ông ta , phía ta đã lên án mạnh mẽ hanh vi vi phạm pháp luật 2 nước này, đồng thời hành động của ông ta đã vi phạm hiệp định , thỏa thuận 2 nước và làm ngăn cản quá trình phân mốc biên giới. Chính vì hành động này của ông ta mà tòa án bên Campuchia đã tuyên phạt tù giam đối với ông ta. Dù vậy, trước đó ông ta đã bỏ trốn sống lưu vong tại Pháp. Tiếp đến năm 2010 ông ta còn bị tuyên án 11 năm tù giam và thêm tội danh ngụy tạo tài liệu hòng lừa gạt nhân dân Campuchia. Sau đó nhờ chính sách hòa giải dân tộc của Nhà nước Campuchia mà ông ta được trở về nước. Dù về nước chưa được bao lâu nhưng Sam Rainsy lại tích cực dùng chiêu bài cũ là “bảo vệ lãnh thổ Campuchia” và “đuổi người Việt Nam về” để vận động bầu cử.
Rõ ràng đây là điều hết sức hoang đường, dối trá và sặc mùi phân biệt, kì thị sắc tộc. Ông ta luôn nhận Trung Quốc là bạn nhưng ông ta có đảm bảo được Trung Quốc sẽ giúp ông ta thắng cử hay không? Ông ta đúng là chính trị gia hoang đường chỉ biết bợ đỡ ngoại bang, chà đạp lên lịch sử và xâm lấn, xúc phạm chủ quyền nước khác. Ông ta ca ngợi Trung Quốc nhiều như vậy sao không một lần ông ta nhắc tới công lao của nhân dân Việt Nam đã từng không tiếc xương máu cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng khỏi tay Khơ Me Đỏ, nhân dân Việt Nam đã từng sát cánh với nhân dân Campuchia trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược…Nay trong hòa bình nhân dân Việt Nam cũng giúp đỡ nhân dân Campuchia xây dựng đất nước. Tất cả đều bị ông ta phủ nhận.
 Sam Rainsy đã chối bỏ hoàn toàn lịch sử, ông ta đã biến mình thành một kẻ hoang đường, một kẻ chỉ biết đi bợ đỡ ngoại bang,khúm núm trước ngoại bang để có sức mạnh, một kẻ phá hoại tình hữu nghị của 2 nước anh em Việt Nam - Campuchia vì vậy ông ta không xứng đáng là một chính trị gia của Campuchia được, càng không xứng đáng đại diện cho nhân dân Campuchia mà nói chuyện đất nước Campuchia được.

HẢI TRANG

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đã không đập chết, còn may - Văn chương cái nghiệp giời đày - Đừng than!

ngominh 

Nhân ĐHNV 9:

ĐÃ ĐI VỚI NHÂN DÂN THÌ THƠ KHÔNG THỂ KHÁC

(Tham luận của  tại Đại hội Hội Nhà văn VIII nhưng không được đọc)
NGÔ MINH 
Đỗ Phủ là nhà thơ đời Đường, cùng với Lý Bạch được coi hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Bản thân ông 15 năm cuối đời là người bần hàn, khốn khó, đói ráchMột lần Đỗ Phủ chạy giặc trên chiếc đò nhỏ trên sông Tương, nhịn đói đã 10 ngày. Sau đó chức sắc trong vùng biết tin, đem rượu thịt mời. Ông ăn uống no say rồi bị “thương thực”, lăn ra chết. Gọi là chết no, nhưng thực chất là chết đói. Vì thế thơ ông thấm đẫm nỗi đau của người dân cùng khổ. Nói về Đỗ Phủ, trong bài thơ “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe” của Phùng Quán có khúc thơ rất thống thiết: Đã đi với nhân dân / Thì thơ không thể khác/ Dân máu lệ khốn cùng / Thơ chết áo đắp mặt… Tôi muốn nhân chuyện thơ Phùng Quán về Đỗ Phủ để nói vài ý kiến ngắn về lối đi của nhà văn trên con đường văn chương thăm thẳm để có tác phẩm đích thực mà người đọc luôn mong đợi. Gần mực thì đen/Gần đèn thì sáng. Nhà văn đi với ai thì sẽ viết ra thứ văn chương đó.
Có thể khẳng định rằng, lịch sử các tác phẩm nổi tiếng của văn chương Việt Nam trước năm 1945 đều là lịch sử của sự đồng hành của nhà văn với người dân cùng khổ. Cổ điển có Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Nguyễn Công Trứ, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (Đoàn Thị Điểm dịch), thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu v.v... Hiện đại trước cách mạng có Chí Phèo, Sống mòn của Nam Cao, Bỉ Vỏcủa Nguyên Hồng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Giông tốSố đỏLàm đĩ của Vũ Trọng Phụng, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, truyện ngắn Thạch Lam, Kim Lân, thơ của Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Hồ Zếnh, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên v.v. Nhiều người làm quan to cỡ Tổng thống, Thủ tướng, về hưu là không còn ai nhớ, hoặc chỉ còn cái tên ghi trong kỷ yếu. Nhưng những cái tên như Kiều, Lục Vân Tiên, Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, Chị Dậu, Tám Bính, Xuân Tóc Đỏ, Vợ Nhặt v.v. dù họ là nhân vật do nhà văn hư cấu, lại ở tầng lớp tận cùng đáy xã hội vẫn sống mãi trong lòng hàng trăm triệu người đọc qua nhiều thế hệ, vì họ là CON NGƯỜI ĐÍCH THỰC. Đó là tầm cỡ tài năng của nhà văn, đồng thời đó cũng là sản phẩm của cuộc hành trình “đi với nhân dân” của các nhà văn muốn phá tung xã hội ngột ngạt, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn. Những nhà văn lớn đó không ăn lương chính quyền để viết. Đó chính là văn chương mang tầm thời đại, vượt qua nhiều thời đại mà chúng ta đang khát khao, mong ước.
Trong hai cuộc kháng chiến, những nhà văn Việt Nam đã ra trận với bộ đội và nhân dân để làm nên chiến thắng đánh đuổi hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Sự đồng hành đó đã làm nên những tên tuổi nhà văn [chống Mỹ] tạc vào lòng người như Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Ngô Kha, Trần Quang Long, Phùng Quán, Nguyễn Minh Châu, Lê Anh Xuân, Thanh Hải, Trang Thế Hy, Hữu Thỉnh, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo v.v. Rồi trong 35 năm hòa bình, cũng có không ít nhà văn nhờ “đi với nhân dân” đã có những tác phẩm “xé rào” trong văn học làm xúc động người đọc như Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Trần Huy Quang, Hoàng Minh Tường, Tạ Duy Anh, thơ của Thi Hoàng Nguyễn Quang Thiều v.v.
Nhưng, 20 năm Miền Bắc “xã hội chủ nghĩa” và 35 năm cả nước “xã hội chủ nghĩa” từ sau Đại thắng Xuân 1975 đến nay, các nhà văn “đi cùng nhân dân” là bộ phận nhỏ, thậm chí rất nhỏ. Còn đa số các nhà văn đều đi với quyền lực. Nhà thơ Đỗ Hoàng, bạn tôi có câu thơ thật chính xác: Anh là nhà thơ nhà nước. Nhà văn nhà nước là nhà văn công chức, nhà nước trả lương cho để viết văn. Họ có lương, có chức quyền, bổng lộc, được cấp đất cấp nhà,lên một chức thì được đổi nhà mới,  cuộc sống ổn định. Nên phải viết thế nào đó để làm vừa lòng cấp trên mới mong bảo vệ được cái ghế và bổng lộc dài dài. Nhà văn nhà nước chỉ viết về cái tốt của chính thể, không khai thác sâu cái xấu xa, đểu giả, tàn bạo của bọn quan tham, không đi sâu vào số kiếp, thân phận, nỗi khổ của nhân dân, vì viết như thế sẽ bị coi là “nói xấu chế độ”. Mặc dù trong cuộc sống muôn đời, cái xấu, cái đau khổ bao giờ cũng nhiều hơn cái tốt.Cái đau khổ là bản chất cuộc sống con người. Trong chiến tranh, thứ văn chương tuyên truyền “ta thắng địch thua”, “địch xấu ta tốt” có tác dụng kịp thời động viên người lính ra trận. Lâu ngày, thứ văn chương ăn xổi ấy đối với một số nhà văn lại trở thành “mực thước”, “bất khả thay đổi”. Vì thế khi xuất hiện Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư… họ liền la lối, quy chụp, kết án. Một bộ phận “nhà văn nhà nước” khác thì biết tỏng tòng tong thứ văn tuyên truyền ấy không phải là văn chương đích thực, nó chỉ có tác dụng nhất thời, nhưng vẫn cứ viết như thế, vì sợ bị phê phán, sợ bị mất chức quyền. Thế là thành một thế hệ nhà văn biết mà không nói, không viết, sợ thành ra hèn. Kể cả các nhà văn tiền chiến tham gia cách mạng, biết rất rõ thế nào là sáng tạo văn chương, vẫn sẵn sàng làm các “đại nhân hèn” để được chức quyền bổng lộc. Nhiều tác phẩm văn chương cách mạng của họ không vượt qua được tác phẩm “thời tiền chiến” khi họ còn rất trẻ. Với họ, luôn thu mình lại, thậm chí khúm núm, tự răn mình “ăn cây nào rào cây đó”, chỉ viết ra những tác phẩm phục vụ các chủ trương làng nhàng. Ngay từ năm 1958, nhà văn Nguyễn Tuân - một người nổi tiếng tài hoa và sống ngay thật đã từng nói với bạn bè "Mình tồn tại tới giờ là do biết sợ". Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết nhật ký ngày 18-3-1958: "Bây giờ đã đến cảnh không ai dám nói thật với ai, sợ rồi một ngày kia người ta đem ra liên hệ". Ngày 10-7-1959 ông viết: "Thấy không khí vẫn có cái gì nằng nặng. Không ai nói một ý gì khác. Ít ai suy nghĩ. Trên bảo thế nào cứ y thế. Ít ai ra khỏi cái khuôn sáo của công thức".
Tệ hơn, có nhà văn còn đánh đu với bọn quan chức tham nhũng để được bữa nhậu, kiếm cái phong bì, lô đất làm nhà. Có nhà văn còn viết và đăng bài ca ngợi tán dương những người bán đất Tây Nguyên cho ngoại quốc, đưa người ngoại quốc vào đóng chốt ở Tây Nguyên, đe dọa sự tồn vong của quốc gia. Tây Nguyên là tử huyệt của đất nước. Đòn điểm huyệt Tây Nguyên tháng 3-1975 của Quân đội ta đã làm cho cả hệ thống quân đội Sài Gòn sụp đổ là một minh chứng. Thế mà có nhà văn vẫn nhắm mắt ca ngợi cái Tổng Công ty đưa người nước ngoài vào Tây Nguyên. Có lẽ cũng vì thế mà trong 3.000 chữ ký của trí thức trong bản Kiến nghị gửi lên Đảng, Nhà nước đề nghị dừng ngay việc cho Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên do nhà văn - Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và hai người khác phát động, tôi đếm chỉ có vài ba chục nhà văn Việt Nam ký tên. Các nhà văn nhà nước của ta đang trở nên vô cảm với vận mệnh Tổ quốc, hay là vì bảo vệ niêu cơm của mình mà im lặng? Thật là hoàn cảnh.
Trong lúc các nhà văn nhà nước com-lê cà vạt, xe con đi họp, hội thảo, nghe Tuyên giáo xác định chủ đề tuyên truyền quý này, quý khác, thì “nhà thơ nhân dân” Trần Vàng Sao - người có bài thơ nổi tiếng “Bài thơ của người người yêu nước mình” - nghèo đói ở góc thôn Vỹ Dạ Huế vẫn ngồi lắc lư với chén rượu và những câu thơ: mả cha cuộc đời quá vô hậu / cơm không có mà ăn / ngó lui ngó tới không biết thù ai / những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất… / một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa...”, “...muốn được say rượu / họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng”… Năm 2009, nhà văn Nguyễn Hoa, Hoàng Minh Tường vô Huế mời anh vào Hội Nhà văn: “Ban Chấp hành sẽ đặc cách hai suất cho hai người vào Hội năm nay là anh Việt Phương và Trần Vàng Sao. Anh Việt Phương đã viết đơn rồi…”. Nhưng khi tôi đánh máy sẵn cái đơn để anh ký vào thì Trần Vàng Sao chắp tay xá xá: “Mi cho tao lạy. Tao sợ vô Hội Nhà văn nhà nước lắm!”. Lực lượng nhà văn nhà nước ngày càng đông đảo thì Hội Nhà văn cũng như các Hội Văn nghệ địa phương bị hành chính hóa nặng nề. Suốt ngày họp hành, tập huấn chủ trương, quan điểm. Đó là cản trở lớn nhất đối với việc tự do sáng tác. Hành chính hóa đến độ mục tiêu của nhà văn không còn là phấn đấu có tác phẩm để đời nữa, mà phấn đấu để được là Chủ tịch, Phó chủ tịch, làm Trưởng ban, Trưởng phòng này nọ… để chẳng viết gì cũng là nhà văn lãnh đạo!
Từ những hoàn cảnh như vậy, 50 năm qua đã sinh ra loại văn chương minh họa chủ trương chính sách. Sinh ra văn học công nhân, văn học công an, văn học Giao thông vanajt ải, văn học ngành này ngành khác. Những loại văn học đó không vì cuộc sống, thân phận con người lao động mà chỉ tán dương ngành nghề, tán dương doanh nghiệp vớ vẩn. Năm 1987, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã có bài đăng trên báo Văn nghệ “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” làm xôn xao dư luận. Người ta ngạc nhiên rồi giãy nảy lên, rồi phản ứng gay gắt vì người ta tưởng văn chương lâu nay là thứ văn chương thật. Rồi Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến với những phát kiến trong phê bình lý luận làm thay đổi tư duy độc tôn lạc hậu trong văn học chính thống một thời với những khái niệm như “văn học phải đạo”, “văn học bước qua lời nguyền”… Lúc đó các nhà văn nhà nước bị sốc, la toáng lên là “Phủ nhận thành tựu văn học cách mạng”. Nhưng đến hôm nay ngẫm lại những điều Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Minh Châu nói hơn 20 năm trước mới chính xác làm sao, tâm huyết và trách nhiệm với văn chương Việt làm sao! Nguyễn Minh Châu bảo “Phải đổi mới gấp thôi, nếu không nhà văn sẽ xa rời nhân dân, văn chương chúng ta sẽ không có độc giả”. Đó là quá trình vận động đổi mới trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn cuối đời. Không có những suy ngẫm gan ruột đó, thể hiện tư tưởng đi với nhân dân đó, không thể có Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, hay Khách ở quê ra gây chấn động dư luận lúc bấy giờ... Ngay cả những “nhà văn làm lãnh đạo gạo cội” một thời như Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, cuối đời cũng đã sám hối quyết liệt. Với thơ Di cảo, Chế Lan Viên đã vô cùng dằn vặt trước sự vô nghĩa của những giá trị trong ý thức hệ văn chương một thời mình từng say mê, hăm hở: Sau này / Anh đọc thơ tôi nên nhớ / Có phải tôi viết đâu! Một nửa / Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi / Giết một tiếng đau - giết một tiếng cười / Giết một kỷ niệm - giết một ước mơ - tôi giết ... Hay: Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ / Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn(Thơ Di cảo). Nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình Thi, người hai lần giữ chức Tổng Thư ký Hội Nhà văn (Đại hội 2 và 3) đã thổ lộ lúc cuối đời: Người tôi còn nhiều bùn tanh / Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ / Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ / Nhiều dây nhợ tự buộc mình. Nhà văn Nguyễn Khải trong bút ký cuối đời Đi tìm cái tôi đã mất đã chua xót nhận ra một đời viết văn của mình “đã giả dối một cách thành thực” (chữ của cố nhà thơ Trịnh Thanh Sơn). Nhà văn coi cái Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật của mình như… “cái bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc”. Mà cái đời văn ấy lại chính là “cái tài sản tinh thần thâu góp một đời” mà “về già nhìn lại” “chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì”. Một lời tự sự quá ngậm ngùi, mặn đắng. Nhà văn đau xót viết: “Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.... Tại sao các nhà văn cách mạng rất chí cốt, đến cuối đời lại ngộ ra như thế? Đó là không kể nhiều nhà văn đảng viên hẳn hoi đã ly khai Đảng trong mấy năm gần đây. Đây là vấn đề đặt ra vô cùng nghiêm túc đối với Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề rất hệ trọng là quản lý nhà văn và văn chương như thế nào để phát huy tự do sáng tạo. Các nhà văn hôm nay hãy suy nghĩ về những sự sám hối muộn màng của các nhà văn lớn nói trên để mà thức tỉnh, để mà biết mình nên đi với ai.
Đúng như Nguyễn Khải nói, hiện nay ở cơ sở, Đảng - nhân dân không còn như trước nữa. Việc Đảng đảng làm. Việc dân dân làm. Tệ nạn dối trá, tham nhũng đã đến lúc ung thư di căn trầm trọng đến mức trong con mắt của người dân ông đảng viên cán bộ cấp nào cũng là “thằng tham nhũng”. Báo cáo láo là căn bệnh kinh niên. Tăng trưởng GDP của thành phố, tỉnh nào cũng từ 12 đến 15%/năm. GDP cả nước là con số cộng của sự tăng trưởng của các địa phương, các Tổng Công ty, thế mà GDP cả nước năm 2009 chỉ 6,2%. Tại sao vô lý vậy? Chỉ con số đó thôi đủ thấy là các địa phương báo cáo láo như thế nào. Ôi, sự dối trá tuyệt vời!
        Rồi người dân khốn khổ vì bị mất đất, mất ruộng do quy hoạch treo, do đền bù không minh bạch, thậm chí do các chức sắc bày ra dự án ma để ăn cướp đất dân để chia nhau. Nếu dân không chịu, họ dùng lực lượng công an, dân phòng để “cưỡng chế” cho bằng được. Cả anh hùng Ngọc Sương của Nông trường Sông Hậu cũng bị kết án tù vì không chịu giao đất cho bọn “ăn đất”. Dân mất đất kéo lên Hà Nội, TP HCM khiếu kiện thì bị bắt tống lên xe trả về địa phương rồi vu lên là do “kẻ xấu xúi giục”. Tổng Công ty Điện lực (EVN) sau khi được Chính phủ cho tăng giá điện là lập tức cắt điện luân phiên . Nông dân cả nước điêu đứng vì không có điện bơm nước để cấy lúa. Nhìn cảnh tượng bà cụ già toát mồ hôi hột ngồi quạt cho cháu ngủ suốt đêm trời nóng đến 40 độ mà ứa nước mắt. Sau một tháng đày đọa nhân dân trong tối tăm nóng nực, họ lại đòi tăng giá điện! Thật là lũng đoạn hết chỗ nói.
Bức xúc nhất là tình trạng sa sút về văn hóa. Đây là cái gốc đẻ ra mọi tha hóa trong xã hội, bởi vì nó đảo lộn hoặc vô hiệu hóa nhiều giá trị, luật pháp, thước đo và chuẩn mực. Vụ mua dâm nữ sinh ở Hà Giang là biểu hiện tột cùng của sự đồi bại: một thầy Hiệu trưởng cưỡng dâm nữ sinh vị thành niên. Một Bí thư Đoàn dắt gái cho cấp trên. Một Chủ tịch tỉnh nhiều năm trác táng sa đọa, giao cấu với trẻ con vẫn ngang nhiên điều hành chính quyền. Một công an ép cung, dựng án giả. Một tòa án phán những bản án oan! Thật là tồi bại. Còn bao nhiêu ông Tỉnh trưởng, Bộ trưởng đồi bại chưa bị lộ?
Vì không còn niềm tin vào chính thể, nên người dân khắp nước phải kêu cứu trời phật, thần linh. Nhiều quan tham từ trung ương tới địa phương do lo sợ bị lộ đã đổ xô đi lễ Bà Chúa Kho sì sụp, cúng tiền tỷ để nâng cấp chùa này chùa khác. Thế là cúng bái, bói toán, cầu đồng, đốt vàng mã ngút trời. Sự sa sút về văn hóa đang gây ra nhiều tác động tàn phá, để lại hệ quả lâu dài. Có thể thấy rõ sự tàn phá này trong lĩnh vực giáo dục: Học giả bằng thật, Tiến sĩ dỏm, mua điểm, mua bằng… đã thành lẽ sống của cả thầy và trò. Trong thực thi pháp luật thì án xử theo lệnh trên, trong bộ máy tổ chức cán bộ thì ăn tiền hối lộ, chạy chức chạy quyền, chạy việc. Tôi có đứa cháu ruột học Đại học Lâm nghiệp ra trường, muốn xin vào cảnh sát môi trường công an tỉnh để được bảo vệ rừng. Người ta đòi 250 triệu đồng mới vô được! Bán cả gia tài bố mẹ cũng không có số tiền ấy. Theo học giả Nguyễn Trung thì “Nhiều hiện tượng tiêu cực phổ biến gần như trở thành một loại văn hóa sống của không ít người trong hàng ngũ chức sắc đã tới mức gây nhức nhối trầm trọng trong xã hội, có thể khái quát như sau:
  • Cơ hội tranh thủ vơ vét
  • Tài nguyên tranh thủ khai thác
  • Đất đai tranh thủ chia chác
  • Thi nhau phô trương địa vị, bằng cấp (chất lượng thấp, giả và rởm)
  • Việc khó đùn cho tương lai hoặc cho người khác”.
Có thể nói tham nhũng và dối trá đã tạo ra một “giai cấp” gọi là “giai cấp lãnh đạo”. Đã là lãnh đạo từ trung ương đến tỉnh huyện, ông nào cũng giàu sụ. Có một tay Chủ tịch tỉnh, khi chưa được cơ cấu Chủ tịch tỉnh thì đi xe đạp “chân co chân duỗi”. Sau một nhiệm kỳ Chủ tịch tỉnh, có xe hơi xịn, nhà lầu ba bốn tầng cho mình, nhà lầu cho con trai, con gái, khách sạn 3 sao để kinh doanh, còn có cả 15.000 mét vuông đất thành phố cho thuê làm nhà hàng và đang xây một trường đại học để “kinh doanh giáo dục”… Con gái của một vị lãnh đạo có cái nhà nghỉ mát ở Nha Trang sang hơn chục lần Biệt thự vua Bảo Đại. Đảng ta hô hào cán bộ nhân dân “Học tập đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh”, nhưng lãnh đạo của Đảng dù đã có nhà cao cửa rộng ở tỉnh, ở Hà Nội, vẫn được cấp hàng ba bốn trăm mét vuông đất ở trung tâm Hà Nội, Cụ Hồ không có nhà, không có đất, thế thì lãnh đạo đất nước có học tập làm theo cụ Hồ không? Dù biện hộ như thế nào thì đây cũng là việc làm không thể gọi tên gì khác ngoài “chia chác đất đai tài sản quốc gia”, ”tham nhũng”. Trung ương làm sẽ tạo tiền lệ để Bộ, ngành cấp đất cho nhau, Tỉnh ủy, Huyện ủy, Xã ủy làm văn bản cấp đất cho nhau, tạo thành một chiến dịch “ăn đất” được bảo hộ. Từng việc một, những kiểu vơ vét như thế càng làm cho khoảng cách giữa dân và Đảng, Nhà nước càng doãng ra thêm. Thậm chí có nơi dẫn đến đối địch.
Tình hình xã hội phân chia giàu nghèo như vậy, đạo đức cán bộ sa đọa như vậy, nhà văn phải làm gì? Phải cùng Đảng và Nhà nước đưa những tên lãnh đạo sa đọa đạo đức, ăn cướp, ăn cắp của dân, của Nhà nước ra pháp trường công luận. Làm sao để có những tác phẩm ngang tầm thời đại? Ở nhiều Đại hội nhà văn vấn đề này đã được đặt ra nghiêm túc, nhưng không tìm được lối thoát. Văn chương vẫn cứ làng nhàng. Rất nhiều tác phẩm viết về chiến tranh xuất bản liên tục hàng năm, nhưng chưa có tác phẩm nào vượt qua được Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh viết cách đây hơn 20 năm. Trộm nghĩ, nếu được viết về tất cả các đề tài, viết về bộ mặt ghê tởm gớm ghiếc của bọn tham nhũng và dối trá ở mọi cấp để nhân dân phán xét; đồng thời phải có những tác phẩm mô tả chân thực cuộc sống của người dân bị đè nén, cướp bóc khốn khổ hiện nay để cho nhà nước thấy được bộ mặt thật của đời sống mà lâu nay bị bọn dối trá tung hỏa mù, chắc chắn văn chương ta sẽ đồng hành với nhân dân từ trong nguồn cội. Để có những tác phẩm để đời như Truyện Kiều, Tắt đèn, Chí Phèo, Dông tố, Cánh đồng bất tận… đòi hỏi phải có sự đổi mới, cởi mở của cơ quan quản lý văn nghệ. Chỉ cần một môi trường sáng tác bình thường như các nước Châu Á thôi, văn chương Việt Nam sẽ nở hoa trái bốn mùa. Bây giờ thì môi trường đó chưa có. Con đường có hai lề. Chỉ đi “lề phải” thôi thì không thể thành đường. Nhà văn vi phạm luật pháp, phạm vào các điều cấm kỵ của đạo lý như tuyên truyền chiến tranh, cổ động mại dâm, phỉ báng dân tộc… sẽ bị phán xét. Còn các tác phẩm phản ánh thực trạng xã hội, viết về cuộc sống chân thực của người lao động không vi phạm pháp luật đều phải được tôn trọng. Không có ai có quyền đứng trên pháp luật để ngăn chặn nhà văn viết về đất nước mình, nhân dân mình.
Nhưng nói gì thì nói, muốn có tác phẩm hay nhà văn phải có tài, có tâm với nhân dân, có chính kiến mạnh và có bản lĩnh vững vàng, không run sợ trước bất cứ thế lực nào, mới đủ tâm lực để có những tác phẩm văn chương đích thực. Tình hình đất nước, xã hội bức xúc hiện nay là thời cơ vàng để các nhà văn viết được những tác phẩm để đời. Tiểu thuyết Thời của thánh thần của Hoàng Minh Tường là một ví dụ. Chúng ta không làm văn chương cho một thế hệ, cho một nhóm người. Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử… làm văn chương vì Con người Việt Nam muôn đời. Cứ lặng lẽ viết, lặng lẽ bày tỏ chính kiến của mình, không in lúc này thì sẽ in lúc khác. Bây giờ là thời đại Internet, điều kiện để công bố tác phẩm rất rộng mở. Chúc các nhà văn mãi đi với nhân dân dù con đường cam go, nguy hiểm.
Ôi, Đã đi với nhân dân thì thơ không thể khác
Huế, đầu tháng 8/2010
NM

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nga - Trung đang giúp Mỹ trở lại thống trị thế giới?



Theo tạp chí The Diplomat, những hành động gần đây của Nga, Trung Quốc và tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) đã giúp Mỹ lấy lại được vị thế thống trị thế giới vốn gần như bị lu mờ trước đó.

Hồi tháng 7/2014,  tạp chí trực tuyến Salon lớn tiếng tuyên bố rằng "thời kì của Mỹ đã qua”. Trong những năm qua, nhiều cuốn sách và nhiều bài báo khác cũng có tuyên bố tương tự.
Họ lập luận rằng, Mỹ sẽ tiếp tục là cường quốc thế giới nhưng không còn là cường quốc quyền lực nhất thế giới nữa.
Nhìn vào hoàn cảnh hiện tại, Mỹ đang phải quay cuồng đối mặt với hàng loạt thách thức từ Nga, Trung Quốc, IS.
Nga đang hành động mạnh mẽ ở Ukraine, Trung Quốc hung hăng trên Biển Đông, IS hoành hành ở Trung Đông.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Adam Lowther thuộc Đại học Không quân Mỹ và Đại tá Không quân Mỹ Robert Spalding, những sự kiện trên dù không phải là mong muốn của Mỹ nhưng đã giúp củng cố vị thế của Mỹ trên thế giới.
Nga
Ông Lowther và ông Spalding lập luận, quyền lực của Nga đang giảm đi đáng kể khi dân số giảm và nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Hai ông này cũng cho rằng, mặc dù Tổng thống Nga Vladimir Putin mong đợi chỉ đối đầu với Mỹ ở Ukraine nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều.
Châu Âu, mặc dù không thật sự mạnh mẽ về quân sự, nhưng phát triển, gắn kết.
Kết quả là Nga bị cô lập; còn Mỹ, bất chấp nhiều nhược điểm và sai lầm, vẫn tiếp tục là một thế lực mà các đồng minh châu Âu trông cậy.
Nhờ Nga, vị thế của Mỹ đang được củng cố trên khắp châu Âu. Nhiều quốc gia châu Âu đang trông chờ vào sự bảo vệ của Mỹ. Từ đó, mối quan hệ giữa các đồng minh và đối tác của Mỹ cũng được nâng cao đáng kể.
Quân đội Ukraine ở miền Đông.
Quân đội Ukraine ở miền Đông.
Chuyên gia Stephen Pifer của Viện Brookings nhận định, cách đây 5 năm, nhiều quốc gia NATO đặt nghi ngờ về sự cần thiết của việc đặt vũ khí hạt nhân ở châu Âu, nhưng ngày nay, do diễn biến khủng hoảng Ukraine, cuộc tranh lập này không còn tồn tại nữa.
Trung Quốc
Trung Quốc cũng đang đóng vai trò lớn trong việc khiến Mỹ một lần nữa trở nên quan trọng.
Bởi Trung Quốc đang có những hành động hung hăng ở Biển Đông nên bất chấp những ảnh hưởng kinh tế, các nước trong khu vực vẫn muốn Mỹ trở thành một cái “phanh” hãm hay là một đối trọng đối với Trung Quốc.
Hơn nữa, mối quan hệ liên minh của Mỹ ở châu Á, nhờ có Trung Quốc, đang ngày càng mạnh mẽ.
Điều đó góp phần đáng kể trong việc giúp Mỹ có vị thế tốt hơn khi so sánh quyền lực của Washington và Bắc Kinh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Máy bay trinh sát của Mỹ ghi lại hình ảnh Trung Quốc xây dựng trái phép tại bãi Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam hồi tháng Năm.
Máy bay trinh sát của Mỹ ghi lại hình ảnh Trung Quốc xây dựng trái phép tại bãi Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam hồi tháng Năm.
Theo The Diplomat, dù một trong những mục tiêu chính trong những hành động hung hăng của Trung Quốc là nhằm đánh bật vị thế của Mỹ trong khu vực, nhưng Trung Quốc sẽ không chỉ phải đối đầu với Mỹ mà còn với các đối tác và đồng minh của Mỹ ở châu Á.
Đó là một mục tiêu khó khăn hơn rất nhiều.
Nhà nước Hồi giáo
Với việc tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) lợi dụng tình hình bất ổn để hoành hành ở Syria và Iran, nhiều quốc gia Trung Đông đang tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ.
Thay vì cho rằng những chính sách trước đây của Mỹ trong khu vực là nguyên nhân dẫn đến sự trỗi dậy của IS, họ lại trông chờ Mỹ tiêu diệt IS.
Không giống như trước kia, giờ đây, các nhà lãnh đạo ở Trung Đông muốn Mỹ tiếp tục duy trì ảnh hưởng trong khu vực.
Nhờ có IS, nước Mỹ đã có nhiều bạn bè ở Trung Đông hơn bao giờ hết. Thế giới Ả Rập luôn coi Mỹ là một nhân tố quan trọng trong việc giải quyết bất kì vấn đề nào.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cảnh giác với yếu tố Trung Quốc ở biên giới Tây Nam


Hồng Thủy

(GDVN) - Những hành động này không thể không có sự “chống lưng” của Trung Quốc, nằm trong một trong kịch bản do Trung Quốc dàn dựng để gây áp lực tối đa với Việt Nam.
Ngày 30/6, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình đã lên tiếng yêu cầu Campuchia có biện pháp xử lý thỏa đáng vụ việc ngày 28/6 khoảng 250 người Campuchia, trong đó có một số nghị sĩ đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) đối lập tiến sâu vào khu vực cột mốc 203 do Việt Nam quản lý thuộc địa phận tỉnh Long An.

Những người này đã tấn công người dân Việt Nam khiến 7 người bị thương. Ông Bình yêu cầu phía Campuchia không để tái diễn những hành động phá hoại hòa bình ổn định ở biên giới như trên để đảm bảo công tác phân giới cắm mốc được triển khai thuận lợi.
Việt Nam có quyền ngăn chặn các hoạt động xâm nhập biên giới bất hợp pháp
Theo đài VOA Hoa Kỳ ngày 1/7, Trưởng ban Biên giới Chính phủ Campuchia Var Kim Hong nói rằng cơ quan ông sẽ có cuộc họp với cơ quan chức năng đồng cấp Việt Nam từ ngày 6/7 đến ngày 9/7 tới.
Ông Var Kim Hong được VOA dẫn lời nói rằng: "Chúng tôi đang yêu cầu họ ngừng các hoạt động này bởi vì chúng tôi chưa phân giới xong hoàn toàn ở bất kỳ khu vực nào, tỉnh nào. Chúng ta không nên thực hiện bất kỳ sự thay đổi nào, chúng ta phải giữ nguyên hiện trạng phù hợp với tuyên bố chung ngày 17/1/1995".
Ông Var Kim Hong cho biết, cuộc họp tuần tới không phải được tổ chức chỉ vì vụ va chạm ngoài biên giới hôm 28/6, nhưng nó sẽ được 2 bên trao đổi. Trưởng ban Biên giới Chính phủ Campuchia khẳng định, cả hai bên đều có quyền qua lại khu vực chồng lấn chưa phân giới.
"Vì vậy họ (Việt Nam) có quyền ngăn cản chúng ta (vượt mốc 203)", ông Var Kim Hong được VOA dẫn lời cho biết. Trưởng ban Biên giới Campuchia kêu gọi người dân nước này tránh những sự có vô dụng và các cuộc va chạm vô ích.
Xung quanh luận điệu kích động bài Việt, chống phá quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia của CNRP kêu gọi đảng Nhân dân Campuchia (CPP) cầm quyền đưa cái gọi là "tranh chấp biên giới Việt Nam - Campuchia" ra Tòa án Công lý Quốc tế, ông Var Kim Hong khẳng định: Các giải pháp cho vấn đề biên giới đang được hai bên đàm phán giải quyết.
"Đầu tiên chúng ta phải đánh giá. Chúng ta không thể cứ ra tòa mà không biết chúng ta sẽ kiện gì và kiện như thế nào". Ông cũng bác bỏ tuyên bố của CNRP về cái gọi là bản đồ "chứng minh Việt Nam lấn đất". Trưởng ban Biên giới Chính phủ Campuchia bình luận: "Đó là một giấc mơ. (CNRP) Hãy để chỉnh phủ làm việc và đàm phán".
Ông cũng bác bỏ kêu gọi của CNRP vô hiệu hóa các hiệp ước, hiệp định về biên giới đã chính thức ký kết với Việt Nam từ những năm 1985 và 2005. Ông Var Kim Hong khẳng định Campuchia đã đàm phán thành công với Việt Nam trong những hiệp định này và nó phát huy tác dụng trong việc củng cố đường biên giới chung giữa hai nước.
Phe đối lập Campuchia vẫn điên cuồng chống phá Việt Nam, lấp ló đằng sau là bóng dáng Trung Quốc
Ngày 29/6, hai nhà báo Campuchia Meas Sokhea và Shaun Turton nhắc lại trên tờ The Phnom Penh Post rằng, hơn 5 năm trước ông Sam Rainsy Chủ tịch đảng CNRP hiện nay dã bị nhà nước Campuchia phạt tù 2 năm và sau đó phải sống lưu vong vì tội đào và dịch cột mốc biên giới giữa Campuchia với Việt Nam.
Nửa thập kỷ sau Sam Rainsy về nước hợp tác với Kem Sokha thành lập đảng CNRP mưu đồ theo đuổi con đường chính trị nhưng không phải bằng sách lược gì tốt đẹp, mà vẫn ngựa quen đường cũ, tiếp tục mị dân lừa gạt bằng chiêu bài chống phá kịch liệt Việt Nam, bợ đỡ Trung Quốc - PV.
Năm ngoái Sam Rainsy đã công khai đường lối chính trị bài Việt và bám gót Trung Hoa khi khẳng định trên đài BBC tiếng Việt rằng: "Trung Quốc là tương lai" với mộng tưởng "Bắc Kinh sẽ giúp đỡ bảo vệ cái gọi là chủ quyền".
Sam Rainsy lập luận rằng ông ta học theo cố Quốc vương Norodom Sihanouk vì ông ấy là người xây dựng quan hệ rất tốt với Trung Quốc từ những năm 1950. Sam Rainsy tuyên bố: Coi Trung Quốc là nước thứ 3 để làm "đối trọng với ảnh hưởng" của 2 nước láng giềng, Thái Lan và Việt Nam?!
Theo The Cambodia Daily, ngày 4/3 năm nay cấp phó của ông Sam Rainsy, Kem Sokha với vai trò Phó Chủ tịch Quốc hội Campuchia đã gặp bà Bố Kiến Quốc, Đại sứ Trung Quốc tại Phnom Penh và tuyên bố, CNRP muốn hợp tác rộng lớn hơn với Trung Nam Hải.
The Cambodia Daily lưu ý, CNRP đã tìm cách lấy lòng Bắc Kinh trong cuộc bầu cử năm 2013 bằng tuyên bố ủng hộ yêu sách (vô lý, phi pháp) của họ ở Biển Đông.
Ngày 2/7 The Cambodia Daily dẫn lời Sam Rainsy tuyên bố: "Tình hình ở Campuchia đã thay đổi. Mọi thứ không còn giống như một vài năm trước đây." Sam Rainsy nói ông ta tin rằng những nỗ lực của Việt Nam tìm kiếm ủng hộ của Mỹ trong vấn đề Biển Đông với Trung Quốc đã tạo cho Campuchia cái gọi là "cơ hội duy nhất chống Việt Nam xâm lấn biên giới"?!
"Khi tôi nói chuyện với các quan chức Mỹ tại Washington DC, họ muốn Campuchia kết hợp với ASEAN chống Trung Quốc. Người Mỹ cho rằng họ cần sự gắn kết trong ASEAN, và do đó Mỹ có mối quan tâm rằng không nên có sự căng thẳng giữa Campuchia với Việt Nam.
Trong khi họ đang phải đối đầu với Trung Quốc, sẽ không phải lúc để Việt Nam tạo ra những căng thẳng với Campuchia hay gửi thông điệp sẽ có biện pháp cứng rắn với Campuchia, nước láng giềng yếu hơn", Sam Rainsy công khai bộc lộ tư tưởng bám gót Trung Quốc, chống phá biên giới Việt Nam - Campuchia.
Những tuyên bố lạc loài ra mặt ủng hộ lập trường vô lý, phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông
The Phnom Penh Post ngày 5/3 vừa qua cho biết, chính phủ Campuchia đã được quan sát thấy có thái độ đứng về phía Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, đặc biệt là năm 2012 khi Campuchia đảm nhiệm Chủ tịch luân phiên ASEAN. Đổi lại Bắc Kinh đã "hào phóng khen thưởng" hàng tỉ USD đầu tư và cho vay!
Năm 2013 sau cuộc bầu cử Quốc hội Campuchia, Tân Hoa Xã đã nhắc "vỗ mặt" Hun Sen rằng, nếu không "cải cách sâu sắc và nghiêm túc", CPP khó giành chiến thắng trong bầu cử quốc gia năm 2018.
Từ đó trở đi, những tiếng nói phụ họa, bao che ngụy biện cho tham vọng bành trướng lãnh thổ của Bắc Kinh trên Biển Đông xuất hiện ngày càng nhiều tại Campuchia. Gần đây nhất là phát ngôn của Quốc vụ khanh Campuchia Soeung Rathchavy ngày 6/5 ủng hộ lập trường đàm phán tay đôi của Trung Quốc và gạt Mỹ khỏi Biển Đông.
Ngày 4/6 người phát ngôn Chính phủ Campuchia Phay Siphan lại cáo buộc Mỹ "gây rối Biển Đông" và đòi Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc, bất chấp các hành động leo thang của Trung Quốc.
Ngày 27/6, đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh tổ chức hội thảo quan hệ đối ngoại quốc tế có sự tham gia của các ông Vương Nghị - Ngoại trưởng và Lý Nguyên Triều - Phó Chủ tịch nước Trung Quốc. Tại đây, Norodom Sirivuth, Cố vấn Cơ mật tối cao của Quốc vương Campuchia lại tiếp tục lên tiếng phụ họa với Trung Nam Hải đòi Mỹ, Nhật "rời khỏi Biển Đông".
Đó là lý do tại sao ngay cả 2 nhà báo Campuchia Meas Sokhea và Shaun Turton cũng phải lưu ý trên The Phnom Penh Post hôm 29/6 rằng: Trong tuần qua những "hùng biện công khai" của một số quan chức CPP cầm quyền về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia theo xu hướng ủng hộ quan điểm của phe đối lập đã cho thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc.
Người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia Khieu Sopheak cũng phát biểu sai sự thật rằng Việt Nam "dùng vũ lực" với nhóm người Campuchia trong vụ xâm nhập bất hợp pháp. Những động thái này khiến người ta khó tin rằng không có sự đổi chác, giật dây từ Bắc Kinh.
Cảnh giác với trò dương Đông kích Tây của Bắc Kinh ở biên giới Tây Nam
Bình luận về vấn đề này, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ cho chúng tôi biết:
"Những phát ngôn tuyên bố chính thức gần đây của Campuchia vừa qua đi ngược lại xu thế, nhận thức chung của khu vực và quốc tế về căng thẳng Biển Đông, đi ngược lại những thỏa thuận, thậm chí là hiệp định đã ký kết chính thức với Việt Nam phải chăng là hậu quả của những ngón đòn hiểm Trung Quốc dùng tiền, viện trợ vũ khí để thao túng?
Phải chăng các thế lực chính trị phản động Camphuchia cũng đang tính toán lợi dụng lúc Việt Nam đang tập trung đối phó với Trung Quốc trên hướng Biển Đông để kích động một bộ phận người dân Campuchia nhẹ dạ?
Hành động của bọn họ đang quấy phá vùng biên giới, thậm chí đòi hủy bỏ toàn bộ những thành quả của quá trình giải quyết vấn đề biên giới trong thời gian qua của 2 nước là điều không thể chấp nhận được. Tất nhiên, những hành động này không thể không có sự "chống lưng” của Trung Quốc, nằm trong một kịch bản do Trung Quốc dàn dựng để gây áp lực tối đa với Việt Nam.
Đã đến lúc Việt Nam cần cho những thế lực nói trên thấy rõ, người Việt Nam đã và sẽ có cách bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cơ đồ cha ông để lại như thế nào.
Tất nhiên,trong bối cảnh quốc tế hiện nay, biện pháp đấu tranh ngoại giao, pháp lý vẫn là thích hợp nhất so với biện pháp quân sự. 
Bởi vì, hòa bình luôn luôn là nguyện vọng tha thiết nhất của nhân loại. Nhiều nhà bình luận quốc tế cũng đã từng cảnh báo rằng đã có lúc thế giới đang đứng bên miệng hố chiến tranh bởi những tranh chấp gay gắt giữa các thế lực mang đậm màu sắc chính trị, quân sự, sắc tộc và tôn giáo. 
Tại thời điểm hiện tại, thế giới vẫn đang ở trong tình trạng bất ổn đó. Các liên minh, các phe phái đối nghịch nhau trên phạm vi thế giới đã có mầm mống xuất hiện tại một số điểm nóng.
Có thể nói đây là thời khắc mà mọi ứng xử đều hết sức thận trọng, phải đặt lợi ích chung vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực và thế giới lên trên hết. Cách ứng xử thích hợp nhất là phải thật sự bình tĩnh, cảnh giác phân biệt rõ đúng sai.
Bất kể là ai nếu hành xử không theo đúng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của mình thì kiên quyết phản đối đấu tranh đến cùng, không khoan nhượng"./.
 
Phần nhận xét hiển thị trên trang

HÌNH THỨC TRA TẤN DÃ MAN CHỈ DÀNH RIÊNG CHO PHỤ NỮ, KHIẾN NẠN NHÂN TỪ TỪ CHẾT TRONG ĐAU ĐỚN, HOẶC PHẢI CHỊU NHỮNG DI CHỨNG KHỦNG KHIẾP VỀ SAU.

THAY VÌ TRỪNG PHẠT BẰNG CÁI CHẾT, CÁC QUỐC GIA THỜI CỔ TRUNG, CẬN ĐẠI ĐÃ TẠO RA RẤT NHIỀU HÌNH THỨC TRA TẤN DÃ MAN CHỈ DÀNH RIÊNG CHO PHỤ NỮ, KHIẾN NẠN NHÂN TỪ TỪ CHẾT TRONG ĐAU ĐỚN, HOẶC PHẢI CHỊU NHỮNG DI CHỨNG KHỦNG KHIẾP VỀ SAU.

“Mộc lư” – Ngồi ngựa gỗ
Khi bị kết tội ngoại tình, người phụ nữ bị lột bỏ hết quần áo rồi trói chặt trên dụng cụ tra tấn có hình yên ngựa/lừa, ở giữa có một đoạn gỗ nhô lên tròn thô tương tự dương vật gắn trục bánh xe để di chuyển, thậm chí một số còn được đóng đinh xung quanh.
5
Mộc lư ra tấn phụ nữ mắc tội ngoại tình
Dương vật bằng gỗ sẽ cắm qua âm đạo, khi ngựa chạy sẽ va đập mạnh tranh âm hộ khiến phạm nhân chảy máu, đau đớn và nạn nhân sẽ kêu la thảm thiết. Đa phần những người bị tra tấn bằng hình thức này đều không thể thoát khỏi cái chết, nếu có thì cũng bị tàn tật suốt đời.
Dương vật gỗ đâm vào âm đạo phụ nữ gây đau đớn vô cùng
Kẹp tay
Hình phạt này được áp dụng trong các triều đại phong kiến Trung Quốc, kéo dài tới tận cuối đời Thanh (thế kỷ 19). Đây cũng là dụng cụ tra tấn phụ nữ phổ biến nhất trong giai đoạn này. Người phụ nữ bị nghi ngờ ngoại tình sẽ phải đặt các ngón tay vào một dụng cụ chuyên dùng để tra tấn. Dụng cụ này sẽ ép chặt đầu ngón tay của nạn nhân. Nếu vì quá đau đớn mà nạn nhân ngất đi thì sẽ bị dội nước lạnh cho tỉnh để tiếp tục chịu sự đau đớn.
Dụng cụ kẹp tay thời phong kiến Trung Quốc
Dụng cụ kẹp tay ở châu Âu
Ngoài ra, hình thức này còn xuất hiện tại các quốc gia châu Âu thời Trung Đại với một dụng cụ mang tên “bàn kẹp tay”. Chúng được thiết kế dưới đủ mọi kích thước để nghiền nát mọi bộ phận trên cơ thể phụ nữ, từ bàn tay, chân cho đến đầu gối, thậm chí cả đầu của phạm nhân.
Bị đánh bằng roi gân bò
Đây cũng là một hình phạt khủng khiếp thời phong kiến, khi phụ nữ mắc tội thông dâm hoặc làm trái lệnh của vua chúa, quan lại sẽ bị lột trần, dùng roi gân bò tra tấn.
 Bị đánh bằng roi gân bò khiến khắp cơ thể chảy máu, để lại sẹo nặng nề
Roi gân bò tuy nhỏ nhưng có sức sát thương lớn khiến phạm nhân vô cùng đau đớn và để lại sẹo trên khắp cơ thể. Nếu không bị đánh bằng roi, người đó phải bị đánh bằng gậy gỗ vào phần bụng cho tới khi tử cung sa ra ngoài.
Mang “đai trinh tiết”
Đai trinh tiết là dụng cụ quản thúc vợ trong lúc chồng đi vắng
Loại quần lót bằng sắt hay còn gọi là “đai trinh tiết” được đàn ông châu Âu thời trung cận đại sử dụng nhằm khóa âm hộ của vợ mỗi khi đi vắng. Vì thời này phụ nữ chỉ được coi là một loại tài sản của đàn ông. Phụ nữ bị nghiêm cấm liếc mắt đưa tình, gặp gỡ hay giao tiếp bình thường với một người đàn ông khác ngoài chồng. Nếu không sẽ bị mang loại đai này trong thời gian dài, nhất là khi chồng ra trận.
Tra tấn ngực
Dụng cụ hình răng cưa khiến ngực phụ nữ bị xẻ ra thành nhiều mảnh
Bất kỳ phụ nữ nào bị kết tội ngoại tình, phá thai hoặc có con ngoài giá thú sẽ phải trải qua sự đau đớn do những dụng cụ tra tấn được thiết kế riêng chỉ để tàn phá ngực. Một vật răng cưa có đầu nhọn (móng vuốt bằng sắt nhỏ) sẽ được nung nóng để tách hoặc cắt nhỏ ngực của nữ phạm nhân. Hoặc người phụ nữ phải bị gắn lên tường rồi từ từ đưa dụng cụ này vào ngực dẫn đến đau đớn cực độ trong thời gian dài.
Buồng giam trinh nữ
Buồng giam có kích thước bằng người phụ nữ, bên trong đầy gai nhọn
Dụng cụ tra tấn này có hình dáng như một người trinh nữ nên còn gọi là “trinh nữ sắt”, bên trong rỗng như một buồng nhỏ, phía trước có nắp đậy với mặt trong được bao phủ đầy gai nhọn và chỉ đủ chỗ cho 1 người. Khi phạm nhân bước vào sẽ không thể cử động vì gai nhọn liên tục đâm vào cơ thể. Người thẩm vấn còn có thể đâm xuyên các cọc nhọn bằng sắt vào bên trong buồng giam trong suốt quá trình hỏi cung.
Cái Nôi Judas
Tại Tây Ban Nha thời Trung đại, những Tòa án Dị giáo thường dùng một dụng cụ hình kim tự tháp và có đầu nhọn để tra tấn những phụ nữ bị cho là phản bội niềm tin tôn giáo.
Các sợi dây kéo tay chân nạn nhân cho tới khi hậu môn bị đỉnh nhọn của nôi đâm vào
Các sợi dây thừng được bện chặt sẽ dùng để trói tay, chân phạm nhân rồi từ từ kéo dài về nhiều phía khiến hậu môn của họ bị chọc sâu bởi đỉnh nhọn của cái nôi này. Bên cạnh đó, người hành xử còn lột hết quần áo phạm nhân để sỉ nhục họ, buộc phải chịu sự đau đớn với cơ thể trần truồng trước mặt mọi người.
Quả lê thống khổ
Đây là loại hình tra tấn dành cho các tội phạm tình dục, những phụ nữ bị kết tội “quan hệ với quỷ Satan” hoặc cho những người đồng tính nam thời Trung Cổ.
Những người phụ nữ bị kết tội “quan hệ với Satan” sẽ phải chịu hình phạt này
“Quả lê” sắt sẽ được đặt vào miệng, âm đạo hoặc hậu môn của nạn nhân và sau đó các đinh ốc sẽ giúp điều chỉnh độ mở của các lưỡi dao nhọn nhằm đâm nát phần cơ thể phải chịu tra tấn, đa phần các phạm nhân chịu hình phạt này đều dẫn đến tử vong.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dự án thép tỷ đô ở Dung Quất chính thức phá sản

Tập đoàn E-United  (TQ) chủ đầu tư của dự án thép Guang Lian (Quang Liên) đã chính thức có văn bản thông báo việc không thể thu xếp tài chính cho dự án.

Lại thêm dự án thép tỉ đô chờ chết
Loạt dự án thép tỷ đô chết yểu:Hệ quả xin thì... gật

Thông tin trên được báo Đầu tư dẫn nguồn từ Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) cho biết. Theo Ban Quản lý, trước mắt sẽ chấm dứt thực hiện dự án. Ban Quản lý sẽ hỏi ý kiến các bộ, ngành để tiến hành các thủ tục cần thiết cho việc thu hồi dự án này.

Như vậy, dự án thép Guang Lian đã chính thức phá sản dù các thủ tục cuối cùng vẫn chưa được thực hiện.

Dự án thép Guang Lian đã bị phá sản

Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn, được cấp giấy chứng nhận đầu tư năm 2006, dự án thép Guang Lian có số phận khá long đong. Khởi đầu dự án này do Công ty Tycoons của Đài Loan (Trung Quốc) đề xuất với công suất dự kiến 5 triệu tấn thép/năm, tổng vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD.

Không lâu sau đó, dự án có thêm nhà đầu tư mới là Công ty E-United. Hai nhà đầu tư đến từ Đài Loan này nâng vốn cam kết của dự án lên 3,3 tỷ USD nhưng vẫn giữ công suất như cũ và đổi tên thành dự án Nhà máy Thép Guang Lian. Theo giấy phép đầu tư, E-United trở thành nhà đầu tư chính nắm quyền chi phối dự án với tỷ lệ vốn góp lên đến 90%, Tycoons chỉ góp 10%.

Năm 2011, hai nhà đầu tư tiếp tục xin điều chỉnh quy mô công suất nhà máy từ 5 triệu tấn lên 7 triệu tấn thép/năm; đồng thời vốn đầu tư cũng tăng lên thành 4,5 tỷ USD. Đề xuất này của nhà đầu tư đã được Chính phủ đồng ý về nguyên tắc nhưng Ban Quản lý khu kinh tế Dung Quất chưa cấp lại giấy chứng nhận đầu tư vì nhà đầu tư chưa chứng minh được khả năng thu xếp vốn cho dự án.

Mất một khoảng thời gian khá dài, việc thu xếp vốn của E-United gần như bế tắc thì đầu năm 2012, dự án này được tập đoàn JFE (Nhật Bản) “để mắt” tới. JFE được đánh giá là tập đoàn sản xuất thép lớn trên thế giới, có năng lực tài chính, công nghệ, và kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất thép.

Tháng 4/2012, tập đoàn JFE cùng E-United đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác; theo đó JFE sẽ nghiên cứu tính khả thi của dự án, xác nhận các vấn đề liên quan đến thiết bị, sản phẩm, cơ sở hạ tầng, điều kiện ưu đãi đầu tư... trước khi quyết định đầu tư. Tuy nhiên, sau khoảng hai năm nghiên cứu, đến tháng 9/2014 JFE chính thức thông báo không tham gia đầu tư vào dự án.

Sau khi Tập đoàn JFE (Nhật Bản) tuyên bố dừng xem xét đầu tư vào dự án thép Guang Lian, nhà đầu tư lớn còn lại là E-United đã đề nghị điều chỉnh giảm vốn dự án này xuống còn 2 tỷ USD Mỹ.

Việc điều chỉnh xin giảm vốn này của tập đoàn E-United cũng đồng thời làm thay đổi sản phẩm thép làm ra. Nhà đầu tư đề xuất sẽ sản xuất thép tấm thay vì là thép kỹ thuật cho ngành công nghiệp cơ khí chế tạo. Điều này sẽ giúp nhà đầu tư giảm được nguồn vốn đầu tư.

Số phận của dự án thép Guang Lian đã nối dài thêm danh sách các dự án thép bị phá sản ở Việt Nam. Trước dự án này còn có dự án thép Cà Ná (Ninh Thuận) với số vốn lên tới 9,8 tỷ USD bị phá sản năm 2008; dự án Nhà máy Liên hợp gang thép Vạn Lợi ở Hà Tĩnh bị chấm dứt vào tháng 5/2015... Ngoài ra, còn nhiều dự án thép đang dậm chân tại chỗ.

Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, trong thời gian qua, Nhà nước để cho các địa phương được quyền chủ động cấp phép đầu tư rất nhiều mà không có quy hoạch tổng thể chung của cả nước được thực hiện nghiêm khắc. Cũng có những ngành, lĩnh vực có quy hoạch phát triển nhưng quy hoạch đó bị phá vỡ rất dễ dàng.

"Ví dụ, quy hoạch ở tỉnh A, tỉnh B không có dự án thép nhưng khi doanh nghiệp muốn làm ở đó thì địa phương lại ủng hộ cho doanh nghiệp làm để được tiếng là có dự án to. Địa phương, doanh nghiệp xin thì Trung ương lại "gật". Hiệp hội Thép đã hiều lầm cho rằng Nhà nước cấp quá nhiều dự án thép nhưng tiếng nói của Hiệp hội có bao giờ được coi trọng?!", bà Lan bức xúc trao đổi trên Đất Việt.

An Nhiên (Tổng hợp)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện hai nhà ngoại giao đặc biệt họ Trần



Hiệu Minh
Tuần VietNam
03/07/2015 02:00 GMT+7

Chỉ trong hai ngày cuối tháng 6, chúng ta đã mất đi hai nhà ngoại giao đáng kính. Một người là ngoại giao nhân dân, giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê (mất ngày 24/6/2015), và một người là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, nguyên Thứ trưởng Trần Quang Cơ (mất ngày 25/6/2015). Cả hai để lại di sản không nhỏ cho hậu thế.

Dùng âm nhạc giúp quốc gia hòa nhập nhưng không hòa tan

Sinh năm 1921 tại Mỹ Tho trong một gia đình có bốn đời làm nhạc sỹ, ngay từ nhỏ đã thừa hưởng nhạc dân tộc, sau này GS Trần Văn Khê trở thành nhà nghiên cứu tại Paris trong lĩnh vực văn hóa, âm nhạc cổ truyền của VN.

GS Trần Văn Khê. Ảnh: VnExpress

Ngoài chuyện từng là GS của ĐH Sorbonne (Pháp), thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, UNESCO, thông thạo nhiều ngoại ngữ, ông có công lao rất lớn trong việc quảng bá âm nhạc và văn hóa VN ra thế giới, từng đi gần 70 nước để nói chuyện và giảng dạy về âm nhạc dân tộc VN.


Khoảng năm 1983-1984, trong một lần đi công tác dài hạn tại TP. HCM, tôi được một người bạn tặng giấy mời đi nghe GS Trần Văn Khê nói chuyện về âm nhạc dân tộc.

Thời đó dân ăn bo bo thay gạo, thành phố hoa lệ mà điện đóm phập phù, quạt trần quay hết tốc độ không ngăn nổi cái nóng nực. Tuy thế, hội trường mấy trăm chỗ ngồi không còn chỗ trống. Nhiều người đến muộn phải đứng hai bên cánh gà. Người nghe ngồi im phắc, chỉ nghe thấy tiếng sang sảng của GS giảng về âm nhạc dân tộc, ông dùng cả lá tre làm nhạc cụ.

Ông cho rằng nhạc dân tộc VN độc đáo, nhạc cụ khí du nhập từ Trung Quốc nhưng trải qua mấy trăm năm bị người Việt thuần hóa. Đàn bầu một dây duy nhất trên thế giới. Ca trù với nhịp phách, chẳng đâu trên thế giới có được, một tiếng cao tiếng thấp, tiếng trong tiếng đục, tiếng tròn tiếng dẹp, tiếng dương tiếng âm...

Giáo sư Trần Văn Khê rất thạo các điệu hò hát của ba miền. Đang biểu diễn dân ca quan họ với liền anh liền chị, ông chuyển sang chầu văn, rồi dân ca Nam Bộ. Nhưng ấn tượng nhất khi ông giải thích về điệu hò “mái nhì mái đẩy” của vùng Thừa Thiên Huế.

Hò mái đẩy thường được dùng trong lúc thuyền bè phải vượt thác, xuống ghềnh, gặp mưa to, gió lớn, nên điệu hò phải mạnh mẽ, những người sống trên sông nước, mỗi lần chống sào, điệu hò phải đủ mạnh để đẩy thuyền đi. Trong khi đó hò mái nhì lại khoan thai như người chèo đò trên sông phẳng lặng, thường là những lời tình tứ, ngọt ngào

Vào đúng lúc ông đang... hò ơ thì điện phụt tắt, giọng ông vẫn khỏe vút lên, mấy người đệm đàn dân tộc vẫn tiếp tục biểu diễn như thường. Ông cười vui, nếu là dàn nhạc guitar điện tử, chắc chắn buổi biểu diễn phải ngừng lại.

Ngày nay, nhạc dân tộc VN đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Thế hệ trẻ thích nhạc hiện đại mang hơi hướng phương Tây. Những người yêu âm nhạc dân tộc như GS Trần Văn Khê đã làm hết sức mình để cố giữ lại những giá trị nghệ thuật đặc sắc của âm nhạc và văn hóa Việt.

Ông đã mang giá trị ấy đi khắp thế giới để quảng bá, khơi dậy nền âm nhạc dân tộc ngay trong lòng thế hệ trẻ tại quê nhà. Với người viết bài này, GS Trần Văn Khê là nhà ngoại giao nhân dân, mang chiếc va li đựng toàn các ấn phẩm văn hóa và âm nhạc giúp quốc gia hòa nhập nhưng không hòa tan.

Con chim báo bão về thế giới đang đổi thay

Sinh năm 1927 tại Nam Định, làm ngoại giao từ 1954 tới khi về hưu năm 1997, từng tham gia đàm phán tại Paris cho hòa bình tại VN, làm đại sứ tại Thái Lan, dự các cuộc thương lượng về Campuchia, đàm phán với ba nước lớn là Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ để bình thường hóa quan hệ, giới chính khách nhận xét, nguyên Thứ trưởng Trần Quang Cơ là một trong những nhà ngoại giao đầy kinh nghiệm và đáng kính trọng nhất của VN.

Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ. Ảnh: TTXVN

Nếu ai có dịp xem lại các phỏng vấn, bài viết và quan điểm của ông trong các vấn đề quốc tế, quan hệ Việt – Trung – Xô – Mỹ và gần hơn là khu vực trong đó có Campuchia, Lào và Thái Lan, sẽ thấy ông hội đủ các tố chất của nhà ngoại giao chuyên nghiệp.

Đó là người có độ xác tín cao, hiểu biết về lịch sử, văn hóa toàn cầu, biết đặt quyền lợi quốc gia lên hàng đầu trong việc giải quyết các bất đồng, phân tích chính xác các xu hướng thời đại nhất là sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Trung Quốc và ý đồ của họ tại châu Á, vai trò của VN trong khu vực và giữa các nước lớn.

Từ những năm 1990, ông đã đưa ra những thách thức đe dọa về an ninh và phát triển của VN, và đối sách mà cho tới nay sau 25 năm những giải pháp đó còn nguyên giá trị. Ông chỉ rõ các thách thức xuất xứ từ mấy quốc gia khu vực và dưới những dạng nào.

Riêng đối với Trung Quốc, người hàng xóm khổng lồ, ông đã nói rõ, nội bộ họ có chiến lược dài hạn “Thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đầu - thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau”.

Sau 25 năm, những gì xảy ra ở biển Đông, biên giới, cho thấy tầm nhìn thế kỷ của nhà ngoại giao họ Trần.

Người ta nói, nhà ngoại giao chuyên nghiệp và có tầm phải chỉ ra cho lãnh đạo quốc gia biết kẻ thù ngày mai là ai, chứ không phải tìm ra những người bạn hôm nay. Trong các cuộc đàm phán về Campuchia, về bình thường mối quan hệ với các nước lớn, ông Trần Quang Cơ đã chỉ rõ đâu là những khuôn mặt đáng ngờ, đâu là đồng minh đáng tin giúp một nước nghèo đi lên trong thế kìm kẹp về chính trị và kinh tế.

Việc Mỹ bỏ cấm vận năm 1994 là một thành công lớn trong ngành ngoại giao VN trong đó có cả tầm nhìn của ông. Và tới đây vào tháng 07 là chuyến thăm của TBT Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ mang tính biểu tượng quan trọng trong quan hệ Việt- Mỹ cũng nói lên nhiều suy ngẫm của nhà ngoại giao vừa qua đời.

Có người cho rằng, một chuyến thăm chưa giải quyết được nhiều nhưng để có chuyến thăm chính thức tới Nhà Trắng của một vị Tổng Bí thư ĐCSVN thì rất nhiều việc đã phải làm. Hẳn linh hồn ông Cơ sẽ mỉm cười nơi chín suối khi biết tin này.

Trong một lời khuyên làm thế nào để thành nhà ngoại giao nổi tiếng, ông Robert D. Blackwill từ ĐH Harvard – Kennedy đã viết “Hãy sẵn sàng bất đồng ý kiến với chính sách đang hình thành khi cần thiết, nhưng hãy khôn ngoan chọn đúng thời điểm mà bày tỏ. Nếu những khác biệt trở nên quá sức chịu đựng, chớ than van”.

Từng được đề bạt làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nhưng vì những lý do tế nhị, ông Trần Quang Cơ đã không nhận lời, một việc vô tiền khoáng hậu trong chính trường VN. Dường như vị ngoại giao kỳ cựu này còn đi trước cả lời khuyên của Robert Blackwill.

Chỉ trong hai ngày cuối tháng 6, hàng triệu người Việt tiếc thương vĩnh biệt hai nhà ngoại giao cùng họ, Trần Văn Khê và Trần Quang Cơ, đáng mặt là con cháu của đức thánh Trần. Họ “thành danh” trong dân chúng như một nhà báo kỳ cựu đã viết trên blog của mình.

Một quốc gia muốn hội nhập sâu rộng, ngành ngoại giao cần phải được ưu tiên số 01, đối ngoại phải nhất quán với đối nội, để từ đó ngoại giao nhân dân mang văn hóa, âm nhạc đi theo, như hai vị vừa trở về với tiên tổ đã cống hiến tận tâm suốt mấy thập kỷ qua.
Hiệu Minh

Phần nhận xét hiển thị trên trang