Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 15 tháng 6, 2015

Biển Đông có thể trở thành nơi thi thố nguy hiểm về sức mạnh quân sự



Dưới đây là cách Hoa Kì có thể ngăn chặn điều đó

HOWARD W. FRENCH
Foreing Policy (5/6/2015)



Năm 2009, trong vòng đầu của hành động Trung Quốc đẩy mạnh khẳng định quyền kiểm soát hầu hết các vùng Biển Đông, Bắc Kinh đánh cuợc yêu sách của mình lên một bản đồ mà họ nộp cho Liên Hiệp Quốc và chẳng bao lâu được công bố trong mỗi hộ chiếu mới cấp cho công dân họ.

Bản đồ này, trước đây là một di tích mơ hồ của thời Quốc Dân Đảng cai trị trong những năm đầu thế kỉ 20, nhanh chóng trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới vì đặc tính quan trọng nhất của nó, một đường vòng có dạng chín dấu vạch thòng xuống cách xa tỉnh cực Nam của Trung Quốc, đảo Hải Nam, hàng trăm dặm và tới gần sát bờ biển của một số nước Đông Nam Á, bọc kín một trong những thủy lộ quan trọng nhất của thế giới. Bản đồ đặt các nước láng giềng của Trung Quốc trong tình trạng báo động rằng đất nước lớn nhất của khu vực đã mạnh bạo chuyển thành xét lại khi sức mạnh của họ tăng lên. Dù vậy, vào lúc này, một số nước có thể vẫn an tâm bởi họ tin rằng hầu hết thế giới sẽ coi thuờng nỗ lực tuyên bố bản đồ của Trung Quốc như là vô căn cứ về cơ bản.

Sự thiếu tự tin của chính Bắc Kinh về "đường chín vạch" được phản ánh trong việc họ chưa bao giờ công bố tọa độ phận định giới hạn tuyên bố này, mà lại dựa vào một lập luận mơ hồ rằng Trung Quốc là nước đầu tiên trong thời xa xưa khám phá ra các nhóm đảo và rạn đá mà bây giờ được gọi là quần đảo Trường Sa - và đã thực hiện việc kiểm soát đối với chúng kể từ ngày đó. Hầu như không có yếu tố nào của lập luận này được thẩm định kĩ càng. Trước hết, nó đòi hỏi mọi người phải tin tưởng rằng dân của các nước ở gần những thể hình này hơn rất nhiều với so với Trung Quốc (nguời Malaysia, Chàm, và Malacca, liệt kê chưa đầy đủ ) không phải là những người đi biển dày dạn như người Trung Quốc.

Điều dễ thấy rõ khác là Trung Quốc thiếu niềm tin vào bất cứ cơ sở pháp lí nào cho khẳng định của họ nên đã từ chối tham gia vào vụ kiện do Philippines đưa ra toà trọng tài theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 2013 thách thức trực tiếp đường chín vạch. Bắc Kinh thông báo gần như ngay lập tức rằng bất kể kết quả thế nào, quyết định của tòa án sẽ không có liên quan tới hành vi của họ.

Dù vậy, thay vì thụ động chờ đợi phán quyết của tòa án, Trung Quốc đã bắt tay vào một chiến dịch ngoạn mục bồi đắp đất và xây dựng đảo nhân tạo ở Biển Đông, mà trong vòng chỉ hơn một năm chút ít đã gieo trên thủy lộ này nhiều vị trí đất mới, hầu hết trong số đó đủ to để có thể đóng quân và một số đã được trang bị đường băng đủ dài để phục vụ máy bay vận tải quân sự.

Trong tiến trình tạo ra “sự kiện trên biển,” Trung Quốc trên thực tế đã cho thấy họ không quan tâm tới việc thảo luận hay tranh luận theo lí  lẽ. Khi Ngoại trưởng Trung Quốc lúc đó là Yang Jiechi (Dương Khiết Trì) đưa ra một bài giảng hạ thấp các đối tác tại diễn đàn Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2010 vào lúc mà chủ đề về các quyền trên biển được đưa ra, nhiều nhà quan sát coi đó là một phát biểu hớ về ngoại giao . Yang tuyên bố  "Trung Quốc là nước lớn và các nước khác là nước nhỏ," - tất cả mọi người đều hiểu điều đó có nghĩa là họ sẽ phải cúi đầu trước ý muốn của Bắc Kinh. Nhưng sau một cuộc họp khu vực tương tự ở Singapore vào cuối tháng 5 năm 2015, khi một số người tham gia, trong đó có Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Ashton Carter, thúc giục Bắc Kinh phải ngừng việc xây dựng đảo lại, Bộ Ngoại Giao TQ lại lặp lại logic này, qua việc gọi TQ là “một nước chính yếu” - gợi ra rằng họ có những đặc quyền cá biệt.

Chủ quyền là một cái gì đó đã được định nghĩa trước nay một cách tập thể, nhưng Hua Chunying (Hoa Xuân Oánh), người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Bắc Kinh, sau này lại tuôn ra một loạt luận điểm cho thấy một cách hiểu ngày càng đơn phương về vấn đề này. Bà ta khẳng định thẳng thừng rằng yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông đã được hình thành qua “quá trình lịch sử lâu dài” và có “cơ sở lịch sử và pháp lí đầy đủ”. Công việc xây dựng của Trung Quốc là “hợp pháp, hợp lí và chính đáng”, và đang tiến hành “với tốc độ và với một quy mô phù hợp với trách nhiệm quốc tế của mình.” Tự do hàng hải chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là vấn đề, bà cho biết, trước khi thêm rằng khái niệm này không nên được sử dụng “như một cái cớ để xâm phạm chủ quyền, quyền hạn và an ninh của các nước ven biển”, một cảnh báo ngầm cho Hoa Kì, nước mà bà ấy nuốn nói là nên ngưng can dự vào.

Trong bài phát biểu của mình tại Singapore tháng này, Carter thẳng thắn đưa ra một cái nhìn khác hẳn, qua việc quả quyết rằng các phương tiện quân sự của Hoa Kì sẽ “đi lại trên biển, trên không và hoạt động bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép,”  nả cũng thẳng thắng nói thêm rằng “việc chuyển đá ngầm thành sân bay đơn giản là không đủ điều kiện để có quyền chủ quyền hoặc cho phép đưa ra các hạn chế đối với việc đi lại trên biển và trên không. "

Cách mỗi bên quan niệm vấn đề nẩy ra nhiều câu hỏi:

Tại sao Washington lại phải đầu tư sức mạnh và uy tín của mình vào một cuộc tranh chấp xa xôi như vậy? Lí do trực tiếp nhất là hiện nay, Hoa Kì là quốc gia duy nhất có cả phương tiện lẫn sự tự tin để làm như vậy. Các bên tranh chấp đối thủ của Trung Quốc, như Philippines và ngay cả Việt Nam đều biết rằng đối đầu quá trực tiếp với Bắc Kinh sẽ chuốt lấy thất bại hoặc bị sỉ nhục. Và chính vì vậy mà những người ủng hộ việc Mĩ hành động xem nó như là một mệnh lệnh.

Trên cơ bản, tranh chấp mở ra giữa Bắc Kinh và Washington là về hai vấn đề gắn bó chặt chẽ với nhau, hai vấn đề đó  đi xa trong việc xác định tương lai của trật tự quốc tế hơn mức mà hầu hết mọi nguời có thể nhận ra. Vấn đề đầu là các cường quốc lớn nên diễn giải luật biển thế nào - và Trung Quốc và Hoa Kì có lập trường hoàn toàn khác nhau về điều này, hợp với hoàn cảnh địa lí rất khác nhau của họ.

Hoa Kì đã trở thành một cường quốc toàn cầu trong hai bước. Thứ nhất, Hoa Kì đạt được ưu thế ở ngay bán cầu của mình. Và thứ hai, bắt đầu với việc kết thúc Chiến tranh Tây Ban Nha-Mĩ thế kỉ 19, qua việc triển khai  sức mạnh ra nước ngoài thông qua lực lượng hải quân, Hoa Kì có thể thống trị một trong hai đại dương lớn nhất thế giới - bằng cách bắt đầu từ bờ phía đông hoặc bờ biển phía tây (cộng với những bổ sung đáng chú ý của Alaska, Hawaii, và Guam) theo ý thích của mình.

Trung Quốc, trái lại, bị bao quanh bởi các láng giềng trên bộ có rắc rối về lịch sử, và bờ biển của nó ở phía Đông, từ Bắc tới Nam bị vây bọc bởi một chuỗi dài các nước từ bán đảo Triều Tiên tới Indonesia, mà họ gọi là “chuỗi đảo thứ nhất.” Hơn nữa, kể từ Thế chiến II, Mĩ đã duy trì liên minh quân sự với rất nhiều quốc gia chủ chốt ngoài khơi bờ biển Trung Quốc, đáng chú ý nhất là Nhật Bản và Philippines. Trong hơn bảy thập kỉ nay, các căn cứ của Mĩ trong khu vực đã giúp cho Hải quân của họ thành lực lượng ưu việt trong các vùng biển ngoài khơi Trung Quốc.

Trung Quốc hiện nay quyết tâm trở thành một cường hải quân hạng nhất, nhưng để làm được như vậy, trước hết Bắc Kinh phải bằng cách nào đó trở thành ưu việt trong vùng biển nhà của họ. Đối với hầu hết, đàm phán tự do hàng hải là chuyện lạc đề trong cuộc thi thố sức mạnh ngày càng tăng trong khu vực. Thống trị các vùng biển được bao bọc bởi chuỗi đảo thứ nhất là rất quan trọng đối với Bắc Kinh - vì hai lí do rất ít được thảo luận. Lí do thứ nhất là về việc đạt được sự thống trị chiến lược trong vùng biển nhà của họ, khiến cho họ thành cực kì nguy hiểm cho việc Hoa Kì triển khai Hạm đội 7 trong một cuộc xung đột về Đài Loan hay trong chiến tranh với Trung Quốc.

Lí do thứ hai được viện dẫn công khai thậm chí ít hơn nhưng lại có thể là quan trọng hơn. Trung Quốc sở hữu một kho vũ khí hạt nhân nhỏ hơn nhiều so với Hoa Kì. Khả năng sống sót cho một năng lực đánh trả đáng tin cậy của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào các tàu ngầm vũ trang hạt nhân hoạt động từ đảo Hải Nam. Hoa Kì tuần tra các vùng biển trong Biển Đông với nhiều khả năng giám sát chống tàu ngầm và tác chiến tiên tiến nhất thế giới, và - trước sự bực dọc to lớn của Trung Quốc - Lầu Năm Góc liên tục giám sát việc đi lại của  tàu ngầm từ đảo Hải Nam để thu thập thông tin tình báo về âm thanh và hoạt động.

Trung Quốc có thể từ bỏ lập luận về đường chín vạch, nhưng không có cách nào họ giảm bớt tham vọng kiểm soát Biển Đông. Để thắng thế ở đó, có thể dự kiến Bắc Kinh ​​sẽ tung ra một lí thuyết về luật biển mạnh mẽ đi ngược với lí thuyết của Hoa Kì, và thật ra cũng của hầu hết các nước. Sự đồng thuận chung cho rằng mức biên 200 hải lí được biết là vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mà mỗi quốc gia ven biển được phú cho theo UNCLOS, ngăn không cho nước khác đánh cá, khai thác mỏ, và vv - nhưng tàu quân sự được phép “đi qua vô hại”. Trung Quốc (cùng với, đáng chú ý nhất là Ấn Độ và Brazil) cho rằng hoạt động của tàu quân sự nước ngoài - kể cả việc thu thập thông tin tình báo - bị loại trừ trong EEZ của nước khác, trừ khi được cho phép trước.

Trong Biển Đông, các tác động của việc này là sâu sắc và tăng thêm đầy kịch tính hơn bao giờ hết với chiến dịch xây dựng đảo bận rộn của Trung Quốc. Hồi tháng 12 năm 2014, tôi đến thăm nhóm chuyên gia tư vấn thuộc Viện Nghiên Cứu Nam Hải đặt tại Hải Nam. Khi tôi hỏi Giám Đốc Wu Shicun (Ngô Sĩ Tồn) liệu các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng sẽ được hưởng quyền chủ quyền nào, chẳng hạn như EEZ hoặc không phận hay không thì ông trố mắt và trả lời: “Dĩ nhiên là không,” Tuy nhiên, trong khoảng một vài tháng, lập trường của Trung Quốc dường như đã bắt đầu thay đổi, như được xác nhận bởi những cảnh báo của hải quân Trung Quốc  “phải rời đi lập tức để tránh bị phán đoán lầm,” đưa ra cho một chuyến bay của Mĩ bên trên một trong những dự án bồi đắp đất mới của họ tại Đảo Chữ Thập (Fiery Cross).

Tại cuộc họp Singapore, Trung Quốc tránh đụng chạm tới câu hỏi về lí thuyết của họ về chủ quyền đối với các đảo nhân tạo được xây dựng trên các rạn san hô ngầm và các đảo san hô ở quần đảo Trường Sa. Trong chừng mức mà các giới hạn biển đó có thể được thiết lập xung quanh chúng, Trung Quốc sẽ có thể ngăn không cho hải quân nước ngoài đi vào những mảng lớn của Biển Đông, và nếu tiêu chuẩn 200 hải lí có thể được áp dụng đủ rộng khắp thì các vùng biển này sẽ trở thành vùng không-được-đi-lại đối với các bên khác - một "trường thành cát" mới như chỉ huy Mĩ ở Thái Bình Dương, Đô đốc Harry Harris gọi nó. Đó là lí do tại sao, theo quan điểm của Washington, đương đầu với Bắc Kinh và ngăn chặn không cho họ tạo ra bất kì tiền lệ nào, có vẻ rất thuyết phục.

Có một khoảnh khắc bộc trực bất thường tại buổi họp mặt ở Singapore mà có thể dễ dàng bị bác bỏ như điều khoác lác, khi Carter tuyên bố Hoa Kì “sẽ vẫn là thế lực an ninh chủ yếu trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong nhiều thập kỉ tới.” Dù đứng ở bất cứ nơi nào trên các vấn đề cơ bản này, quả thật đó là cái mà điều này lnói về. Có vài cuộc tranh chấp sẽ là trọng yếu hơn trong những năm trước mắt.

Nếu bản chất của cuộc thi thố này là rõ ràng thì cách tiến tới tốt nhất cho Hoa Kì vẫn chưa sáng tỏ. Các nhà phê bình chê trách Washington ít đầu tư  trong vấn đề này ít ra từ thập niên 1990 đã cổ vũ màn thể hiện quyết tâm này của Lầu Năm Góc. Mặc dù lựa chọn tốt nhất của Hoa Kì  có lẽ là tránh đối đầu lộ liễu mà thay vì vậy nhấn mạnh sự được thua cho hệ thống quốc tế.

Biện pháp tốt nhất duy nhất có sẵn là Quốc hội phê chuẩn UNCLOS - một động thái mà hiện nay hiếm khi thảo luận tại Washington. Từ đó, Hoa Kì cần phải thúc giục các nước đồng cảm ở Tây Thái Bình Dương xúc tiến hồ sơ kiện Trung Quốc trước toà Luật Biển, như Philippines đã làm. Nếu Trung Quốc tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo và trang bị quân sự cho chúng thì có lẽ cần phải cho tàu chạy vảo các vùng biển mà Bắc Kinh yêu sách trên cơ sở không rõ ràng. Nhưng việc kêu  gọi Trung Quốc bước ra theo pháp lí cho phép một loạt các quốc gia nhỏ bày tỏ lập trường trên một trật tự quốc tế dựa theo luật lệ - đó là những gì mà Hoa Kì nên ủng hộ - chứ không phải là biến điều này thành một cuộc thi thố nguy hiểm về sức mạnh quân sự.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Chúng ta có thể đã tạo ra một Frankenstein (quái vật giết chết người tạo ra nó' - Hệ quả của Mỹ!

Có thể ngăn chặn Trung Quốc được không?

Can China Be Contained?

Andrew Browne
WSJ (12/6/2015)


Khi căng thẳng với Trung Quốc tăng lên, các nhà tư tưởng chính sách đối ngoại của Mĩ đang đào bới lại những ý tưởng thời Chiến tranh Lạnh - và đặt câu hỏi về sự đồng thuận có từ lâu cho việc quan hệ với Bắc Kinh

For many Americans today, the promise of being diplomatic partners with China seems more remote than ever before.
Hiên nay đối với nhiều người Mĩ, hứa hẹn sẽ là một đối tác ngoại giao với TQ thật xa vời hơn bao giờ hết. ẢNH: Corbis


Viết vào năm 1967, lúc đỉnh cao của Chiến Tranh Lạnh, Richard Nixon nêu lên một tham vọng mới của Mĩ: "thuyết phục Trung Quốc rằng họ phải thay đổi”.

Ông viết “Với tầm nhìn lâu dài, chúng ta đơn giản là không thể kham được việc để Trung Quốc ở ngoài gia đình của các quốc gia mãi mãi, ở đó họ nuôi dưỡng cái ngông của họ, ấp ủ căm thù và đe dọa các nước láng giềng.” Bốn năm sau đó, khi ngồi vào Nhà Trắng, Nixon là kiến trúc sư mở ra một “lối mở cho Trung Quốc”, hứa hẹn sẽ chuyển nước cộng sản khổng lồ này thành một đối tác ngoại giao, một đối tác sẽ thừa nhận các giá trị của Mĩ và có thể cả hệ thống dân chủ của Mĩ.

Đối với nhiều người Mĩ hiện nay, khi thấy chính quyền Chủ tịch Tập Cận Bình trấn áp mạnh bạo bất đồng chính kiến trong nước đồng thời thách thức quyền lãnh đạo của Mĩ ở Châu Á, lời hứa hẹn đó có vẻ xa vời hơn bao giờ hết. Trong cuốn sách mới xuất bản “The Hundred-Year Marathon” (Cuộc chạy Marathon 100 năm), Michael Pillsbury - một chuyên gia Châu Á và là quan chức Lầu Năm Góc dưới thời Tổng thống Ronald Reagan và George H.W. Bush - viết rằng Trung Quốc “đã không đáp ứng hầu như tất cả những kì vọng màu hồng của chúng ta.”

Chính sách đối ngoại của Mĩ đã đi tới một bước ngoặt, khi các nhà phân tích từ khắp các xu hướng chính trị  bắt đầu đào bới lại các lập luận thời Chiến Tranh Lạnh và nói về sự cần thiết cho một chính sách ngăn chặn Trung Quốc. Đồng thuận vững chắc từng có của Washington trước lợi ích của “việc quan hệ (engagement) có tính xây dựng” với Bắc Kinh đã bị đổ vở.

Niềm xác tín rằng quan hệ là con đường hiện thực duy nhất để khuyến khích tự do hóa ở Trung Quốc đã kéo dài qua tám đời tổng thống Mĩ, Cộng hòa và Dân chủ đều vậy. Jimmy Carter để lại chính sách của Nixon cho Ronald Reagan; George W. Bush cho Barack Obama.

President Richard Nixon, right, toasts Chinese Prime Minister and Foreign Minister Zhou Enlai during a banquet in Hangzhou, China, on Feb. 27, 1972.

Tổng thống Richard Nixon, phải, nâng cốc chúc mừng Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Chu Ân Lai trong một bữa tiệc ở Hàng Châu, Trung Quốc, vào ngày 27 tháng 2, 1972. ẢNH: Corbis*

Sự rối loạn trong chính sách của Mĩ đã đặc biệt nổi rõ trong những tháng gần đây. Một luồng các báo cáo tư vấn chưa từng có từ các trung tâm học thuật và các nhóm tư vấn hàng đầu đã đề nghị tất cả mọi thứ từ lấn trả về quân sự chống lại Trung Quốc cho tới các nhượng bộ sâu rộng. Các đơn thuốc khác nhau, nhưng điểm khởi đầu của chúng đều như nhau: bi quan về tiến trình hiện tại trong quan hệ Mĩ-Trung.

Sự thay đổi tâm trạng ở Washington có thể kết thúc cơ bản giống y như sự thay đổi đến trên toàn nước Mĩ ngay sau Thế Chiến II, khi chợt nhận ra rằng Liên Xô sẽ không tiếp tục là một đồng minh. Đó là khi nhà ngoại giao huyền thoại và là nhà tư tưởng chính sách Mĩ George F. Kennan hình thành nên kế hoạch ngăn chặn.

Trong một bài báo năm 1947 trên tạp chí Foreign Affairs, ông đã viết rằng Mĩ “trong khả năng mình phải nâng căng thẳng lên thật lớn mà chính sách Liên Xô phải hoạt động dưa trên đó, để buộc Kremlin phải có mức độ tiết chế và thận trọng lớn hơn mức họ đã tuân theo trong những năm gần đây, và theo cách này thúc đẩy các xu hướng vốn cuối cùng phải tìm lối thoát qua việc bẽ gãy hoặc việc làm nhũn dần sức mạnh của Liên Xô.” Chiến lược của Kennan – hút máu Liên Xô thông qua việc kháng cự không khiêu khích – tạo ra sự thoải mái cho người Châu Âu vốn lo sợ rằng họ phải đối mặt với một lựa chọn khắc nghiệt giữa chiến tranh và đầu hàng.

Nỗi lo tương tự về những hành động và ý đồ của Trung Quốc hiện nay đang có trong lòng rất nhiều người Châu Á. Bạn bè và đồng minh của Mĩ trong khu vực đang đổ xô đến phía Mĩ để tìm kiếm sự bảo vệ khi Trung Quốc của Tập Cận Bình tăng cường hải quân, đưa các hạm đội của họ đi xa hơn vào đại dương xanh và đẩy mạnh chủ quyền lãnh thổ. Trong điều đúng là động thái quyết đoán mới nhất báo động khu vực, Trung Quốc hiện bồi đắp các rạn san hô nhỏ ở Biển Đông để tạo ra các đường băng, có vẻ cho các máy bay quân sự.

Hoa Kì đang chống lại. Dấu ấn ‘chuyển trục’ sang Châu Á của của Tổng thống Obama – đề ra vừa để làm yên lòng bạn bè đang lo lắng của Mĩ vừa để thừa nhận tầm quan trọng chiến lược lớn của khu vực trong thế kỉ 21 - là đưa tàu chiến tiên tiến tới Singapore, thủy quân lục chiến đến Úc và các cố vấn quân sự tới Philippines. Nhật Bản, đồng minh chủ chốt của Mĩ ở Châu Á, được tái vũ trang và đã điều chỉnh hiến pháp hòa bình sau chiến tranh cho phép quân đội của họ đóng một vai trò lớn hơn trong khu vực. Mục đích của phần lớn các hoạt động này là để bảo vệ sự độc lập của các nước Châu Á nhỏ hơn vốn đang lo sợ họ có thể không có lựa chọn nào khác ngoài việc rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc và khuất phục trước các tham vọng trong lãnh thổ của họ - nói cách khác, là đầu hàng.

Chinese leader Deng Xiaoping accepts a cowboy hat at a rodeo near Houston, Texas, during a tour of the U.S. in 1979. Lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nhận một chiếc mũ cao bồi ở một rodeo (ngày hôi súc vật) gần Houston, Texas, trong một chuyến du lịch  Mỹ vào năm 1979. ẢNH: Wally McNamee / Corbis

Về phần mình, Trung Quốc dứt khoát tin  rằng Hoa Kì đang theo đuổi một chính sách ngăn chặn. Kevin Rudd, cựu Thủ tướng Australia (và bản thân là một chuyên gia về Trung Quốc), tóm tắt nhận thức của Bắc Kinh về mục tiêu Mĩ trong năm điểm trong một nghiên cứu gần đây của Harvard: cô lập, ngăn chặn, làm suy giảm, gây chia rẻ nội bộ và phá hoại sự lãnh đạo chính trị của TQ.

Chắc chắn những căng thẳng mới trong quan hệ Mĩ-Trung không phải là điều gì giống như việc phải nhìn chằm chằm thời Chiến Tranh Lạnh vốn vướng bận tâm trí Châu Âu trong nhiều thập kỉ, khi xe tăng của NATO và của Hiệp ước Warsaw đối mặt nhau trên lằn ranh mà không bên nào dám vượt qua. Nhưng ở một khía cạnh quan trọng, lịch sử đang tự lặp lại: cả Trung Quốc lẫn Mĩ đều đã bắt đầu xem nhau không phải là đối tác, đấu thủ cạnh tranh hoặc đối thủ mà là kẻ thù.

Việc TQ tăng thêm tên lửa và hải quân cũng như phát triển các khả năng mới về chiến tranh mạng và không gian là nhằm thẳng vào việc ngăn chặn không để quân đội Mĩ can thiệp vào bất kỳ cuộc xung đột nào ở Châu Á. Trong khi đó, nhiều dự án tuỳ hứng của Lầu Năm Góc - công nghệ chiến tranh các vì sao (Star Wars) như laser và các hệ thống vũ khí tiên tiến và lasers như máy bay ném bom tầm xa - đang được phát triển với Trung Quốc trong đầu.

Thế thì cụ thể, Mĩ nên làm gì? Trong một trong những báo cáo diều hâu nhất từ các báo cáo của các nhóm chuyên gia tư vấn gần đây, Robert D. Blackwill, cựu phó cố vấn an ninh quốc gia Mĩ và đại sứ tại Ấn Độ dưới thời Tổng thống George W. Bush, và Ashley J. Tellis, nhà nghiên cứu cao cấp tại Carnegie Endowment for International Peace cũng từng là nhân viên Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời Tổng thống Bush,viết rằng việc quan hệ với Trung Quốc đã làm nhiệm vụ làm đối thủ cạnh tranh mạnh lên.

Hai ông cho rằng đã tới lúc cho một chiến lược mới: quan hệ ít và  “cân bằng” nhiều đảm bảo “mục tiêu trung tâm” là vị trí đứng đầu toàn cầu tiếp tục của Mĩ. Ngoài những việc khác, Mĩ nên tăng thêm quân ở Châu Á, chặn đứt việc Trung Quốc tiếp cận với công nghệ quân sự, đẩy nhanh tiến độ triển khai tên lửa phòng thủ và tăng khả năng tấn công mạng của Mĩ.

Đối với Michael D. Swaine, cũng thuộc Carnegie Endowment, đây là một dạng công thức cho một cuộc Chiến Tranh Lạnh khác, hoặc tệ hơn. Ông phát thảo một cách giải quyết sâu rộng, theo đó Mĩ sẽ nhường đi vị trí đứng đầu ở Đông Á, biến phần lớn khu vực thành một vùng đệm được kiểm soát bởi một sự cân bằng các lực lượng, gồm cả lực lượng từ một Nhật Bản đã tăng cường. Tất cả các lực lượng nước ngoài sẽ rút khỏi Hàn Quốc. Và Trung Quốc sẽ đưa ra đảm bảo rằng sẽ không tiến hành hoạt động thù địch chống lại Đài Loan, mà họ xem là một tỉnh li khai.

Những sắp xếp như vậy, ngay cả nếu xảy ra, sẽ mất hàng thập kỉ để triển khai. Trong khi đó, David M. Lampton, giáo sư Trường Nghiên Cứu Quốc Tế Cao Cấp Đại Học Johns Hopkins, cảnh báo quan hệ Mĩ-Trung đã đạt đến đỉnh điểm. “Nỗi sợ tương ứng của chúng ta gần vượt quá hi vọng của chúng ta hơn bất cứ lúc nào từ khi bình thường hóa,” ông nói trong một bài phát biểu gần đây.

Phương Tây đã ở vị thế này trước đây. Lạc quan về triển vọng chuyển một nền văn minh xa xưa qua quan hệ, tiếp theo sau là sự vỡ mộng sâu đậm, đã là khuôn mẫu từ bao giờ từ khi các nhà truyền đạo dòng Tên đầu tiên tìm cách chuyển người Trung Quốc sang đạo Thiên Chúa. Những phái viên này chấp nhận vận mũ áo quan lại Trung Hoa, để râu dài và thậm chí diễn đạt sứ điệp Tin Mừng bằng từ ngữ Nho giáo để làm cho nó dễ được chấp nhận hơn. Linh mục Đức Adam Schall thế kỉ 17 đã đi xa tới mức trở thành nhà thiên văn học đứng đầu của triều Thanh. Nhưng ông đã bị thất sủng, và các linh mục dòng Tên này sau đó đã bị trục xuất.

Thất vọng tại Mĩ hiện nay đã lên cao bởi thực tế là việc quan hệ với Trung Quốc đã hứa hẹn rất nhiều và tiến triển cho đến nay. Giao thương và công nghệ đã làm Trung Quốc thay đổi vượt quá bất cứ điều gì mà Nixon đã có thể tưởng tượng ra, và hai nước là đối tác thương mại lớn thứ hai của nhau. Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mĩ. Hơn 250 000 sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học Mĩ.

Nhưng khoảng cách về ý thức hệ đã không thu hẹp chút nào và bây giờ TậpCận Bình đã quay ngoặt chống phương Tây. Mao Trạch Đông đã  quyết định táo bạo ra thỏa thuận với Nixon, đủ tự tin để ôm lấy tư bản Mĩ ngay cả khi đang thúc đẩy chương trình quá khích về Cách mạng Văn hóa. Sau đó, Đặng Tiểu Bình đưa ra một sự cân bằng thực dụng giữa các cơ hội về liên kết kinh tế với phương Tây và các nguy hiểm do luồng tư tưởng phương Tây đi vào gây ra. “Khi mở cửa sổ, thì ruồi muỗi cũng theovào,” ông nhún vai.

Bây giờ, Tập Cận Bình đang hung hăng tiêu diệt ruồi nhặng. Một luật mới được đề xuất sẽ đặt toàn bộ khu vực phi lợi nhuận nước ngoài dưới sự quản lí của công an, thực tế là là coi các nhóm này như kẻ thù tiềm năng của nhà nước. Báo chí nhà nước chửi bới “các lực lượng thù địch nước ngoài” và cảm tình viên của họ trong nước. “Tài Liệu số 9” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cấm thảo luận về dân chủ phương Tây ở các trường đại học. Và khi Tập Cận Bình cổ vũ văn hoá truyền thống Trung Quốc, chính quyền ở Ôn Châu, một thành phố ven biển có rất nhiều người theo đạo Thiên Chúa - được gọi là “Jerusalem mới” của Trung Quốc, đã phá đổ thánh giá trên nóc các nhà thờ mà họ xem như là biểu tượng không mong muốn về ảnh hưởng phương Tây.

Phản ứng dữ dội chống lại phương Tây mở rộng vượt ra ngoài biên giới Trung Quốc. Trong nhiều thập kỉ, Trung Quốc chấp nhận vai trò của Mĩ như một cảnh sát khu vực để duy trì hòa bình và giữ cho các tuyến đường biển thông suốt. Nhưng năm ngoái ở Thượng Hải, Tập Cận Bình tuyên bố rằng “chính người Châu Á phải điều hành công việc của Châu Á, giải quyết các vấn đề của khu vực Châu Á và duy trì an ninh của Châu Á”.

Washington cảm thấy có một loại cảm giác bị phản bội. Xét cho cùng, thị trường mở cửa của Mĩ làm cho việc Trung Quộc nâng lên thành nền kinh tế dựa trên xuất khẩu lớn thứ hai thế giới diễn ra suôn sẻ, và hiện nay hai nền kinh tế phụ thuộc nhau sâu rộng.

Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm khi cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau nhất thiết sẽ ngăn chặn xung đột. Châu Âu trướcThế chiến I cũng quyện chặt với nhau qua thương mại và đầu tư.

Ngay cả cộng đồng doanh nghiệp Mĩ, từng ủng hộ trung thành nhất Bắc Kinh ở Washington, cũng đã mất một số nhiệt tình về việc quan hệ. James McGregor, cựu chủ tịch Phòng Thương Mại Mĩ tại Trung Quốc và bây giờ là chủ tịch APCO Worldwide Trung Quốc, nhà tư vấn kinh doanh, rút lại việc giúp thuyết phục các hiệp hội thương mại của Mĩ vận động cho Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế giới (WTO), điều đó xảy ra vào năm 2001.

Sự thống nhất về mục đích đó, ông nói “đã vỡ vụn từ đó.” Hiện nay, “tất cả đều tin rằng Trung Quốc ở đó để lừa đảo họ.”

Dù có các nỗi lo của Trung Quốc, chính quyền Obama vẫn còn rất ủng hộ việc quan hệ. Thỏa thuận cấp cao năm ngoái về biến đổi khí hậu đã cho thấy rằng sự hợp tác là vẫn có thể xảy ra. Trước hội nghị thượng đỉnh ở Mĩ dự định vào tháng 9, hai nước đang hoàn tất một thỏa thuận thương mại song phương đầy tham vọng. Và thường được chỉ ra rằng không một vấn đề đơn lẻ nào trên thế giới, từ cướp biển tới ô nhiễm, có thể được giải quyết mà không có nỗ lực phối hợp của hai nước.

Tuy nhiên, trong một điệu nhảy ngày càng lúng túng, chính quyền Obama đang cố gắng duy trì chính sách quan hệ này trong khi cũng gia tăng các lựa chọn quân sự ở Châu Á. Trung Quốc cũng đang chơi trò tương tự. Và chưa rõ cả hai bên sẽ có thể tiếp tục được bao lâu trước khi có một cuộc chạm trán, do sơ suất hoặc do chủ định.

Chính Obama đôi khi cũng tấn công tư thế đối đầu với Trung Quốc. Trong cố gắng thúc đẩy một khu vực thương mại tự do Châu Á-Thái Bình Dương rộng lớn thông qua một Quốc Hội chống đối, ông đã viện dẫn mối đe dọa Trung Quốc. “Nếu chúng ta không viết ra các quy tắc thì Trung Quốc sẽ vạch ra quy tắc cho khu vực này,” ông nói với The Wall Street Journal hồi tháng 4.

Ông cũng đã theo đuổi một chiến dịch – vô vọng - ngăn chặn các đồng minh như Anh và Úc không ký kết vào ngân hàng phát triển khu vực của Trung Quốc. Mặc dù ngân hàng này sẽ giúp cung cấp cơ sở hạ tầng rất cần thiết, Nhà Trắng diễn giải nó như một phần của một nỗ lực làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Mĩ trong tài chính toàn cầu.

Về phần mình, Trung Quốc tin rằng Mĩ sẽ không bao giờ chấp nhận tính hợp pháp của một chính phủ cộng sản.

Tập Cận Bình đã đề xuất một “mô hình quan hệ mới của hai cường quốc lớn”, được đề ra nhằm phá vỡ khuôn mẫu chiến tranh qua nhiều thời đại, nó xảy ra khi một cường quốc đang lên thách thức một cường quốc đang tại vị. Nhưng Mĩ đã bác bỏ, không muốn chấp nhận một công thức không những giả định rằng hai nước là ngang hàng mà dường như còn đặt hai nước trên cùng một mặt bằng đạo đức.

Một cách thích hợp, có lẽ, những căng thẳng đang đi đến giai đoạn tồi tệ phải can thiệp ở quần đảo Trường Sa, một quần đảo gồm các rạn đá ngầm và bãi cát trong Biển Đông nguy hiểm đến mức các hải đồ cũ của Hải Quân Anh đánh dấu toàn bộ khu vực là “Khu vực nguy hiểm” (Dangerous Ground).

Trong nghĩa địa này của những người đi biển, Trung Quốc đã ồ ạt mở rộng nhiều rạn san hô qua bồi đắp; một rạn có một đường băng đủ dài cho máy bay quân sự lớn nhất của Trung Quốc có thể đáp xuống. Các nước láng giềng của Trung Quốc coi chúng như là các tiền đồn cho việc Trung Quốc cuối cùng sẽ thu tóm toàn bộ Biển Đông. Lầu Năm Góc biểu đạt chúng như là một mối đe doạ cho quyền đi lại trên biển không bị thách thức của Hải quân Mĩ

Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Ash Carter đang xem xét việc biểu dương lực lượng - và đang chịu áp lực chính trị để làm như vậy. Tháng trước, Thượng nghị sĩ Bob Corker, Chủ tịch đảng Cộng hòa trong Ủy ban đối ngoại Thượng viện, phàn nàn rằng phản ứng của Mĩ đối với việc xây dựng đảo là quá thụ động. “Tôi không thấy Trung Quốc phải trả giá gì cho các hoạt động của họ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông,” ông Corker nói. “Chẳng có gì cả. Trên thực tế, tôi thấy chúng ta đang phải trả giá”.

Không bên nào muốn có chiến tranh. Tập Cận Bình không chống phương Tây theo cách của Tổng thống Nga Vladimir Putin, và cho đến nay, ông ta chưa hành động vội vàng như Putin với việc tóm lấy lãnh thổ ở Ukraina. Trung Quốc vẫn cần thị trường và bí quyết trỗi dậy của Mĩ. Một cuộc chiến tranh với Mĩ sẽ là một thảm họa kinh tế cho Trung Quốc.

Quan hệ Mĩ-Trung từng vượt qua giông bão trước đây. Nhớ lại những ngày sau khi quân đội Trung Quốc tấn công vào sinh viên ủng hộ dân chủ ở Quảng Trường Thiên An Môn năm 1989, khi đó hợp tác giữa hai nước đã đi vào đóng băng sâu đậm. Nhưng Tổng thống George H.W. Bush tính toán rằng quan hệ Mĩ-Trung là quá quan trọng để hi sinh, và ông đã nhanh chóng gửi phái viên đến Bắc Kinh để đảm bảo rằng nó vẫn không bị sứt mẻ.

Hiện nay, chắc chắn, tính toán đó vẫn không có ít hơn sức nặng. Hơn nữa, việc cố ngăn chận Trung Quốc sẽ vô cùng tốn kém: Một trong hai nước không thể thành công về mặt kinh tế mà không có nước kia. Chiến lược ngăn chặn Liên Xô của Kennan đã có tác dụng vì Liên Xô yếu về kinh tế và hầu như không có các ràng buộc thương mại với Mĩ. Nhưng Trung Quốc ngày nay là một cường quốc kinh tế và ngân sách quân sự hai chữ số của họ được một cơ sở công nghiệp sâu rộng và đa dạng chống đỡ.

Tuy nhiên, đối nghịch với các điều thực tế này là sự kiện rằng quan hệ Mĩ-Trung đã mất raison d'être (lí do tồn tại) chiến lược: Liên Xô, mối đe dọa chung vốn đã đưa hai nước lại với nhau [đã không còn].

Việc đối kháng với Moscow là logic thúc đẩy Nixon mở cửa cho Trung Quốc. Nhưng ngay cả Nixon, một người hiện thực chủ nghĩa cứng đầu vốn chú tâm vào việc cân bằng quyền lực, cũng không chắc việc mở cửa cho Trung Quốc cuối cùng sẽ diễn ra như thế nào. Như Nixon nói với nhà báo quá cố William Safire của tờ New York Timeskhông lâu trước khi ông mất vào năm 1994, “Chúng ta có thể đã tạo ra một Frankenstein (quái vật giết chết người tạo ra nó -ND)”.

----------------------------------
Có thê tác giả nhầm, Chu Ân Lai chỉ kiêm nhiệm BTNG trong những năm đầu (1949-1958) còn năm 1972 BTNG TQ là Cơ Bằng Phi

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

Công nghiệp điện tử nhắm ngôi đầu ASEAN:

 Giấc mơ bong bóng

(Doanh nghiệp) - Tự biến mình thành “đảo ngọc” để các DN nước ngoài khai thác. Cái VN có được thì chưa thấy gì - Th.s Bùi Ngọc Sơn.

 PV:- Thưa ông, Giám đốc Marketing của LG Electronics (Thailand) đánh giá: Công nghiệp điện tử Việt Nam nhắm ngôi vị số 1 ASEAN. Lời tiên đoán đến từ một giám đốc Thái Lan này có thể giải thích như thế nào? Nếu Việt Nam có đạt đến ngôi vị số 1 thì "ngai vàng" này có bao nhiêu phần đóng góp của Việt Nam, thưa ông?
Th.S Bùi Ngọc Sơn: - Tôi không hiểu Việt Nam hiện sản xuất được gì. Đã có một số dòng sản phẩm smartphone, điện thoại sản xuất ở Việt Nam nhưng DN Việt tham gia vào công đoạn nào trong cả dây truyền sản xuất ra sản phẩm này? Tôi không rõ.
Qua trường hợp của Samsung thì thấy DN Việt không đóng góp được gì vào thành quả xuất khẩu ngành công nghiệp điện tử đang có. Thành quả này là của các doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam chỉ góp mặt với tư cách là công nhân làm thuê, gia công, lắp ráp.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Chính phía Samsung cũng nói rõ chỉ có 5-6 doanh nghiệp Việt đủ tiêu chuẩn tham gia cung cấp linh kiện cho họ. Mà chỉ là cung cấp bao bì, vỏ nhựa, hộp xốp… thực chất là công việc của một học sinh lớp 3 cũng làm được.
Tôi nghe nhiều câu chuyện từ khu được gọi sản xuất công nghệ cao của Việt Nam. Đó là, sản xuất các thiết bị y tế xuất khẩu sang Nhật Bản. Sự đóng góp của công nhân Việt Nam trong mặt hàng đó chỉ là lấy một con chip đặt vào bo mạch trên cả một dây chuyền, với yêu cầu chưa cần tốt nghiệp hết lớp 5, và chỉ cần 3 đến 5 ngày để làm quen với dây chuyền sản xuất.
Không riêng các doanh nghiệp Nhật Bản, hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài khác cũng vậy. Thực chất, đây là cuộc chiến của người nắm công nghệ với nhà thu hút đầu tư. Bên nắm công nghệ không muốn chuyển giao công nghệ, không để lộ sự liên kết trong sản xuất, dẫn tới tình trạng công nhân làm 10 năm không biết công đoạn được thuê nằm trong dây chuyền sản xuất sản phẩm gì.
Cuối cùng, 10 năm làm công nhân công nghệ cao cũng chỉ là công nhân nhặt chip đặt lên dây chuyền mà không thể làm được gì khá hơn.
Trước đây còn có chủ trương thành lập khu công nghiệp cao ở Láng Hòa Lạc, ưu tiên những ngành công nghiệp sạch trong đó có cả lĩnh vực điện tử. Cuối cùng cũng chỉ lắp ráp, đóng bao bì, gia công vặt.
Đến nay đã 20 năm, ngành công nghiệp điện tử, ô tô...vẫn không thể phát triển được gì. Ngay cả dệt may, được coi là ngành xuất khẩu chủ lực của VN tới nay cũng hoàn toàn phụ thuộc vào TQ. Từ thiết bị, máy móc tới nguyên vật liệu, không sản xuất được, 90% nhập khẩu từ TQ. Thật lạ lùng. Những thứ đơn giản như vậy không làm được, làm sao mơ cái khó hơn.?
Đáng quan ngại, khi chúng ta còn lấy tỉ lệ xuất khẩu để làm con số thể hiện niềm tự hào. Thống kê đã cho thấy, các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam đang nắm giữ trên 80% thị trường trong nước và trên 90% kim ngạch xuất khẩu.
Tức là Việt Nam đã tự biến mình thành “đảo ngọc” cho các DN nước ngoài khai thác, còn cái Việt Nam có được từ các doanh nghiệp nước ngoài mang lại đang rất mù mờ, chưa thấy gì.
Tôi nghĩ rằng, lời khen của ai, đến từ ai trong bối cảnh công nghiệp phụ trợ không phát triển được gì, lời khen này cũng chỉ mang tính xã giao.
PV:- Không thể phủ nhận thành tích xuất khẩu sản phẩm điện tử của Việt Nam trong mấy năm gần đây, tuy nhiên, với những chính sách ưu đãi FDI và sự vắng bóng gần như hoàn toàn của doanh nghiệp Việt trong công nghiệp phụ trợ, phần Việt Nam có được từ thành tích này là gì?
Th.s Bùi Ngọc Sơn:- Không phải bàn cãi nhiều, cái Việt Nam có được ở khâu đóng gói bao bì, gia công thì lợi nhuận kiếm được là bao nhiêu?. Sẽ là rất nhỏ.
Những doanh FDI khi đầu tư vào Việt Nam chỉ tuyển dụng lao động phổ thông, trình độ thấp. DN Việt nếu được tham gia cũng chỉ được tham gia ở công đoạn thấp, không có môi trường công nghệ cao, lao động không có trình độ, chuyên môn, kỹ thuật… việc này đe dọa tới tính ổn định, bền vững của nhà đầu tư.
Tôi lấy ví dụ, nếu một doanh nghiệp FDI quyết định đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất tại Việt Nam như Samsung hay Nokia, Canon… Nếu DN Việt tham gia được vào các chuỗi sản xuất công nghệ cao của họ để cung cấp linh kiện, thiết bị hoặc cung ứng cho họ các sản phẩm bán thành phẩm phục vụ cho dây chuyền sản xuất của họ, nghĩa là đã tạo ra những chân rết giữ chặt doanh nghiệp nước ngoài.
Trong trường hợp, DN Việt Nam chỉ tham gia đóng gói, sản xuất bao bì. Công đoạn ai cũng làm được, không có cũng không sao, sẽ rất khó giữ chân nhà đầu tư.
Một số doanh nghiệp Nhật Bản cân nhắc chuyển từ VN sang Thái Lan là minh chứng. Ở đây tôi muốn nói là chính sách thu hút, phát triển không bền vững.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nước mình nó thế mà, giả dối đang có mặt ở nhiều nơi!

Giông lốc kinh hoàng vô tình tố vụ trồng cây Hà Nội

(Tin tức thời sự) - “Nhờ giông lốc mới thấy rõ lòng tham và sự cẩu thả dối trá.” - Nhiều người dân nói thẳng.

Cơn giông lốc tại Hà Nội chiều ngày 13/06 đã làm hai người đã tử vong, 10 người bị thương do cây đổ đè trúng.
Trong số các cây bị đổ có rất nhiều cây vừa mới được trồng trong dự án thay thế cây xanh ở Hà Nội vừa xảy ra tai tiếng.
Khi các cây này bị bật gốc nhiều người không khỏi bất ngờ về sự tắc trách của những người làm nhiệm vụ thay thế cây xanh.
Cây Vàng Tâm còn nguyên lưới bọc bầu vẫn được trồng xuống.
Cây còn nguyên lưới bọc bầu vẫn được trồng xuống rất nông.
Cụ thể, các cây được trồng mới tại khu vực đường Nguyễn Trãi đoạn qua trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Thanh Xuân, Hà Nội) bị bật gốc hàng loạt.
Các cây bị bật gốc này vẫn còn nguyên lưới bọc chặt bầu và rễ. 
Nhiều người đi qua ngao ngán bởi khi trồng cây phải mở lưới trước khi cho đất vào, khi thực hiện công đoạn này xong, tiến hành chống cừ cây trước khi tháo móc cẩu.
Việc không bóc lưới bọc bầu nhiều khả năng là nguyên nhân khiến cây Vàng Tâm bị đổ.
Rất nhiều cây không bóc lưới bọc bầu.
Bác Côn (60 tuổi) có cây mới trồng trước cửa nhà cho biết: “Trồng cây nông thế này, đổ là phải rồi, cái lưới để bọc bầu đúng ra phải tháo ra thì lại không tháo, rễ cây mọc thế nào được, cây chết nhiều là phải”.
Đến sáng nay thì không hiểu ai đã xé các lười bọc quanh bầy cây ra.
Đến sáng nay thì không hiểu ai đã xé các lưới bọc quanh bầu cây ra.
“Cơn giông hôm qua, nhìn các cây này đu đưa đến là sợ, lúc cây bật gốc lên vẫn còn nguyên cả lưới bọc xung quanh bầu, đến sáng nay thì không biết ai đã xé lưới ra.
Theo tôi việc không xé lưới bọc bầu là hoàn toàn sai, không chấp nhận được, rễ không mọc được nên cây dễ đổ, chẳng may có ai bị cây đổ đè vào thì có khác nào ngộ sát.” – Anh Định (36 tuổi), làm nghề ngay trước cổng trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn chia sẻ.
Rất nhiều vụ việc bị phát hiện sau khi các tai nạn xảy ra.
Rất nhiều vụ việc bị phát hiện sau khi các tai nạn xảy ra.
Trước đó, dư luận từng xôn xao trước nhiều sự kiện “bê tông lõi tre”. Nhiều ô tô vô tình đâm phải  cột mốc lộ giới hay nắp mương, thì mới phát hiện ra sai phạm. Các cột mốc lộ giới hay nắp mương được làm bằng “bê tông cốt tre” chứ không phải là cốt sắt.
Vì lòng tham mà nhiều người sẵn sàng dùng tre thay cho thép.
Ở Việt Nam có dùng tre thay cho thép.
  • Đoàn Minh Thái
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Quyền lịch sử nào của Trung Quốc tại biển Đông ?


Những tuyên bố chính thức của TQ về chủ quyền Biển Đông, lập luận thường xuyên được nhắc đi nhắc lại là : « TQ có chủ quyền bất khả tư nghị ở hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa và vùng biển chung quanh ». Tây Sa và Nam Sa là Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Vùng biển chung quanh tức vùng biển được giới hạn bởi 9 đoạn có hình chữ U, gọi là « đường chữ U », chiếm đến 90% diện tích Biển Đông.

Trên mặt báo chí, truyền thông, văn từ chính thức… của TQ mới đây cũng đã tuyên bố như thế.
Về chủ quyền hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của VN), những lập luận của TQ dầu ngang ngược nhưng người ta có thể hiểu. Nhưng « vùng biển chung quanh », TQ đã sử dụng những lý lẽ nào để chứng minh, hay thuyết phục dư luận thế giới rằng nó thuộc « chủ quyền » của TQ ?.

Theo tinh thần Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS), một quốc gia có danh nghĩa « chủ quyền » ở một vùng biển, nếu và chỉ nếu biển này thuộc nội hải của quốc gia đó. Trong vùng nội hải quốc gia có đầy đủ thẩm quyền như trên đất liền. Lấy thí dụ đảo Hải Nam, vùng biển chung quanh đảo này không hề thuộc « chủ quyền » của TQ, ngoại trừ vùng biển phía trong đường cơ bản. Từ đường cơ bản tính ra 12 hải lý là « lãnh hải », quốc gia có « chủ quyền » (tương đối) ở vùng trời, nước và đất trong vùng lãnh hải. Tương đối vì bị hạn chế do việc phải nhượng quyền « qua lại không gây hại » cho tàu bè các nước. Vùng biển có bề rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ bản, gọi là vùng kinh tế độc quyền. Trong khu vực biển này quốc gia chỉ có « quyền chủ quyền » về kinh tế mà thôi.

Lập luận của TQ thường thấy các học giả dẫn ra để biện hộ cho yêu sách « chủ quyền » về « vùng biển đường chữ U » là « Quyền lịch sử - droit historique ».

Vấn đề là UNCLOS không nhìn nhận « quyền lịch sử » của bất kỳ quốc gia nào ở một vùng biển nào đó. Luật Biển 1958 có nhắc về « vịnh lịch sử », nhưng Biển Đông rộng lớn như thế không thể gọi là một « vịnh ». Một số trường hợp ngoại lệ, « vùng biển lịch sử » giữa VN và Kampuchia, được hai bên đồng thuận xác định chung quanh đảo Phú Quốc và bờ biển hai nước. Không nước nào phản đối vùng biển lịch sử này của VN và Kampuchia. Hình thể địa lý, biển này chỉ quan hệ giữa hai nước mà không có tàu bè nước ngoài vãng lai. Trong khi Biển Đông là một biển chung, có đến 7 nước bao bọc chung quanh. Nơi đây cũng là một hải đạo quan trọng, chiếm đến hơn 40% trọng lượng hàng hóa lưu thông trên thế giới. Biển Đông vì vậy còn mang yếu tố quốc tế.

TQ sẽ không bao giờ thuyết phục được quốc gia nào nhìn nhận lý lẽ « quyền lịch sử » của họ. Nhưng dầu vậy ta cần tìm hiểu nguyên nhân xuất phát (lịch sử) và hiệu quả pháp lý của « quyền lịch sử » để có thể phản biện được lập luận của TQ một cách hữu hiệu.

1/ Quyền lịch sử.

Thuật ngữ « quyền lịch sử » có lẽ lần đầu sử dụng tại một số nước Châu Phi sau khi Thế chiến thứ II chấm dứt. Nguyên nhân bắt nguồn từ hậu quả các cuộc phân định biên giới tự tiện nhằm phân chia vùng ảnh hưởng giữa các đế quốc thực dân như Anh, Pháp.

Lục địa Phi Châu, ngoại trừ một phần nhỏ vùng Cận và Trung Đông (biên giới giữa Ba Tư và đế quốc Ottoman được phân định từ năm 1639), biên giới tại đây hầu hết chỉ được phân định trong khoản thời gian ngắn ngũi từ năm 1885 đến năm 1914. Việc phân định này được hoạch định giữa đại diện các cường quốc trong phòng giấy, thế nào để thuận tiện cho việc phòng thủ quân sự, hay cho việc quản lý hành chánh thuộc địa của các bên, mà không để ý đến địa bàn sinh hoạt của các bộ lạc dân tộc sinh sống trong vùng. Đường biên giới vì thế phần nhiều là các đường thẳng như kinh tuyến, vĩ tuyến, đường theo sống núi, đường phân thủy, đường theo trung tuyến con sông… Hậu quả việc này làm cho nhiều bộ tộc bị phân chia làm hai, làm ba… ngăn cách nhau bằng một đường gạch vô hình gọi là đường biên giới. Nhiều bộ tộc lớn lại không có lãnh thổ, hay nhiều bộ tộc khác nhau, thậm chí thù nghịch với nhau, bị gộp lại chung sống trong một quốc gia. Nhiều nơi chính quyền quốc gia lại do một bộ tộc thiểu số lãnh đạo. Các việc này là đầu mối của các xung đột đẫm máu về lãnh thổ hay chủng tộc trong thế kỷ qua tại lục địa Châu Phi.

Biên giới này gọi là biên giới theo tinh thần Hội nghị Berlin (1884-1885). Đế quốc Anh phân định khoảng 27,5% tổng số chiều dài đường biên giới trên thế giới, trong khi đế quốc Pháp trên 17%. Biên giới này còn gọi là biên giới thuộc địa.

Sau Thế chiến Thứ II, các cường quốc Đức, Ý thua trận phải từ bỏ các thuộc địa của họ tại Châu Á, Châu Phi… theo như nội dung các Hòa ước Hòa bình năm 1948. Biên giới lục địa Châu Phi lần nữa lại xáo trộn. Biên giới được phân chia lại, lần này theo tinh thần mật ước « Yalta » tháng 2-1945. Đó là biên giới « ý thức hệ », nhằm phân chia thế giới thành hai cực « tư bản – cộng sản ».

Sau khi các nước Châu Phi được trả độc lập, đường biên giới do các cường quốc thực dân thành lập trước kia lại được « luật quốc tế » công nhận. Các cường quốc trên thế giới e ngại việc đặt lại đường biên giới sẽ làm bùng nổ một cuộc chiến khác : cuộc chiến giữa các chủng tộc, hay giữa hai nước thuộc địa cũ, nhằm tranh dành lãnh thổ. Nguyên tắc « uti possidetis » (bắt nguồn từ Nam Mỹ) trở thành tập quán quốc tế, được các Tòa án quốc tế áp dụng trong mọi trường hợp giải quyết tranh chấp biên giới. Ý nghĩa nguyên tắc này là « trước (khi độc lập) anh làm chủ nó thì bây giờ anh tiếp tục làm chủ nó ».

Nhưng, trong vài trường hợp, một dân tộc đã sinh sống, đã chăn nuôi trên đồng cỏ, uống nước ở nguồn nước, trên một vùng đất từ bao ngàn năm nay. Bây giờ họ bị ngăn cấm không được đến nơi đó, với lý do mà họ khó có thể chấp nhận, là đất đó nay thuộc về một quốc gia khác. Trong khi vùng « đất mới » dành cho họ lại không có đồng cỏ, nguồn nước nào để họ sinh sống. Họ sẽ sống bằng cái gì ? Những xung đột như thế đưa đến đổ máu. Các bộ tộc đó lên tiếng đòi lại « quyền » của họ : « quyền lịch sử ».

Thuật ngữ « quyền lịch sử » từ đó ra đời.

Nhưng đối với công pháp quốc tế, « quyền lịch sử » không được nhìn nhận như là một « quyền », hay một « lý thuyết pháp lý », để có bất kỳ một hiệu lực pháp lý nào.

Một số trường hợp tranh chấp lãnh thổ Tòa quốc tế phân xử sau đây, « quyền lịch sử » được một bên nhắc đến như không được chấp nhận.

Vụ xử tranh chấp biên giới Burkina-Faso – Mali (CIJ ngày 22-12-1986). Tranh chấp hai bên là chủ quyền các ao hồ và các đồng cỏ chăn nuôi. Lý lẽ của Burkina-Faso dựa lên « quyền lịch sử ». Từ ngàn đời dân chúng của quốc gia này đã sống trên vùng đất đó. Tòa bác lý lẽ « quyền lịch sử » của Burkina-Faso nhưng Tòa phân xử rằng vùng đất đó thuộc về Burkina-Faso vì lý do dựa lên nguyên tắc « effectivité », (chứ không do « quyền lịch sử »). Trước Tòa phía Burkina-Faso đã dẫn ra những chứng cứ chứng tỏ được các hành vi thể hiện thẩm quyền quốc gia (thuế má, cảnh sát, các thủ tục hành chánh…) tại các vùng đất đó.

Thí dụ khác, trong vụ xử tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, một vùng khoảng 10% vùng tranh chấp được xem thuộc Pakistan do « quyền lịch sử ». Tòa Trọng tài (PCA, 19-12-1968) quyết định giao khoảng 10% vùng tranh chấp này cho Pakistan, cũng lý do « effectivité ». Nhưng thực ra vùng đất này không thể giao cho Ấn Độ. Từ bao đời nay dân phía (Pakistan) đã sinh sống và khai thác ở đó. Nguyên tắc « uti possodetis » ở đây được tòa áp dụng nhưng có điều chỉnh khéo léo để tránh gây xung đột cho đôi bên.

Ta có thể nhắc trường hợp của VN với nhóm dân tộc thiểu số Khmer sống ở miền Nam hay chủ quyền của VN tại một số đảo trong vịnh Thái Lan. Theo nguyên tắc « uti possidetis », sau khi độc lập, lãnh thổ của VN là lãnh thổ do hành chánh thuộc địa Pháp để lại. Dầu vậy, một đảng chính trị Khmer, nhân danh « quyền lịch sử » lên tiếng đòi lại các lãnh thổ hay đòi tự trị khu « Khmer Khrom ». Mặc dầu, phía Thái Lan cũng có thể nhân danh « quyền lịch sử » như vậy để đòi lại các tỉnh phía hữu ngạn sông Cửu Long, bao gồm khoảng ½ diện tích nước Kampuchia.

Ta cũng có thể nhắc thí dụ tranh chấp giữa Bolivie và Chili về đòi hỏi một « hành lang ra biển » cho Bolivie. Nguyên nhân, khoảng một thế kỷ rưởi trước, vùng đất phía bắc Chili thuộc Bolivie. Nhưng nước này thua trận phải bỏ vùng đất này cho Chili, do đó mất phần đất giáp biển. Hiện nay Bolivie nhân danh « quyền lịch sử » để đòi Chili nhượng một hành lang để nước này có đường thông ra biển.

2/ Trung Quốc có quyền lịch sử ở biển Đông ?

Để biện hộ « quyền lịch sử » của TQ trên biển Đông, các học giả TQ thường nhắc  đến các yếu tố : 1/ quan hệ thuợng quốc - chư hầu giữa VN và TQ. 2/ từ ngàn năm nay, ngư dân người Hoa vẫn đánh cá ở khu vực biển Đông. 3/ đường 9 đoạn chữ U, kế thừa từ chính phủ Trung Hoa Dân quốc. 4/ TQ có chủ quyền tại HS và TS do nội dung của hòa ước tháng 4-1952 ký kết với Nhật. Các học giả TQ cho rằng những sự kiện này chứng minh TQ có « quyền lịch sử » ở vùng biển này.

2.1 Do quan hệ thượng quốc – chư hầu giữa TQ và VN.

Trên phương diện pháp lý, quan hệ « thuợng quốc – chư hầu » giữa VN và TQ đã chấm dứt sauHiệp ước 15 tháng 3 năm 1874, còn gọi là hiệp ước « Hoà Bình và Liên Minh », ký kết giữa đại diện triều đình nhà Nguyễn với đại diện nước Pháp quốc. Điều 2 của Hiệp ước, phía VN đơn phương tuyên bố không còn thần phục TH nữa. Đến năm 1885, một Hiệp ước khác được ký giữa Pháp và nhà Thanh, còn gọi là Hiệp ước Thiên tân, nước TH chính thức từ bỏ quyền thượng quốc ở VN cho Pháp.

Về ý nghĩa của quan hệ « thuợng quốc – chư hầu », các học giả đương đại TQ thổi phồng quá lố về tính pháp lý của nó.  

Lần đầu tiên phía Trung Hoa chính thức nhắc đến quan hệ « thuợng quốc – chư hầu » trước các cường quốc Tây Phương là ông Tăng Kỷ Trạchđang nhiệm-sở ở St Péterbourg. Ông này nhân việc vua Tự Đức, sau khi đã ký hòa ước 1874 với Pháp, vẫn tiếp tục sai sứ triều cống, lên tiếng trước giới ngoại giao Tây Phương rằng hình thức « thượng quốc – chư hầu » giữa Trung Hoa và Việt Nam tương tự như hình thức bảo hộ (protectorat).

Việc so sánh này hoàn toàn sai. Trên thực tế, Trung Hoa chưa bao giờ có thể can thiệp trực tiếp hay ảnh hưởng vào nội bộ VN trong tất cả mọi lãnh vực, từ kinh tế, quân sự đến việc liên hệ ngoại giao với các nước khác. Việt Nam hành sử thực tế như một nước độc lập. Trong khi quan hệ "bảo hộ", phía bảo hộ có toàn quyền cai trị, từ pháp luật, kinh tế cho đến quân sự, ngoại giao...

Trên quan điểm công pháp quốc tế, việc triều cống (thể hiện quan hệ thuợng quốc – chư hầu) không nói lên được tính « effectivité », tức những hành vi hành sử quyền chủ tể của đế quốc trên vùng lãnh thổ của nước chư hầu.

2.2 Về lý do từ ngàn năm nay ngư dân người Hoa vẫn đánh cá ở khu vực biển Đông,

Các học giả TQ quên mất một điều là ngư dân các nước khác đồng thời cũng đánh cá ở đó. Vịn vào yếu tố này, phía TQ có thể « chơi dao hai lưỡi ». Vì nếu tính lùi thời gian, đâu phải lúc nào đất của TQ cũng mở rộng như vậy ? Trong khi lãnh thổ của VN có lúc mở ra giáp đến Phúc Kiến. Mặt khác, các vùng Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương... thậm chí Đài loan, hay các tỉnh Hoa Nam... đều có thể nhân danh « quyền lịch sử » để lên tiếng đòi độc lập. Nếu VN và các nước có tranh chấp với TQ, ủng hộ các đòi hỏi này thì TQ sẽ rất lúng túng.

2.3 Do kế thừa đường 9 đoạn chữ U do nhà nước Quốc Dân thành lập năm 1947.

Điều này có nhiều phần miễn cưỡng và thiếu minh bạch.

Nhà nước Quốc Dân đặt trên nền tảng lý thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên, được thành hình qua 3 giai đoạn: giai đoạn một là giai đoạn quân quản (1925-1927), thời kỳ chinh phục lãnh thổ từ các lãnh chúa địa phương. Giai đoạn hai là giai đoạn giám hộ, là giai đoạn giáo dục người dân để chuẩn bị cho sinh hoạt dân chủ. Giai đoạn ba là giai đoạn hiến định. Giai đoạn Hiến định bắt đầu do bản Hiến pháp được thành lập tháng 12 năm 1946 và có hiệu lực năm sau, tháng 12 năm 1947.

Theo tài liệu từ nguồn văn khố Pháp quốc, bầu cử Quốc hội Trung Hoa Dân quốc được tổ chức, từ 21 đến 23 tháng 11 năm 1947, trong 32 tỉnh, huyện trên tổng số 47 (vì các nơi khác do cộng sản kiểm soát). Cứ 500.000 dân thì một đại biểu được bầu. Mặt khác, các thành phần dân tộc Mông, Tạng, Hồi hay các hội đại diện phụ nữ, các liên đoàn công nhân, các tổ chức nghề nghiệp, các dân tộc thiểu số cũng được ưu tiên có đại diện tại quốc hội. Riêng ở những vùng bị CS chiếm đóng, các đại biểu được chỉ định.

Báo chí phía CS của Mao Tạch Đông chỉ trích, cho rằng đây là cuộc bầu bán “giả tạo”.

Quốc hội nhóm họp ngày 29-3, nhân ngày kỹ niệm 72 liệt sĩ Hoàng Hoa Cương (Quảng Đông) năm 1911. Buổi họp này biểu lộ đúng như bản chất mà báo CS đã phê bình. Tranh chấp quyền hành đã biểu lộ ngay từ ngày đầu. Hai đảng Thanh Hoa (Jeune Chine) và đảng Dân chủ Xã hội đảng (social-démocrate) đã được bảo đảm mỗi đảng được dành cho một số ghế, nhưng các đảng viên Quốc Dân đảng ở địa phương lại không tuân theo chỉ thị, do đó sinh ra việc đại biểu đắc cử nhưng không được tham gia vào quốc hội. Các đảng kia do đó tố cáo « việc bầu cử không hợp pháp ».

Dầu vậy, quốc hội này cũng làm được một số công việc, trong đó có việc khẳng định « các quyền bất khả thời hiệu (droits imprescriptibles) của TQ tại Hoàng Sa ». Hoàn toàn không hề nhắc đến « bản đồ 9 đoạn chữ U » cũng như không hề đề cập đến chủ quyền quần đảo Trường sa ở phía nam.

Như thế nhà nước TQ ở Bắc Kinh hiện nay « kế thừa » bản đồ chữ U (và quần đảo TS) là kế thừa từ ai ?

Một số học giả cho rằng nguồn gốc bản đồ chín đoạn chữ U đến từ sáng kiến của một tư nhân.
Theo công pháp quốc tế, một nhà nước chỉ có thể kế thừa các hành vi thuộc về lãnh thổ từ một nhà nước tiền nhiệm, chứ không thể kế thừa từ một « sáng kiến » của tư nhân.

Về lý do theo nội dung Hòa ước Nhật-Hoa ngày 24-4-1952, hai quần đảo HS và TS đã được Nhật trả cho TQ.

Điều này hoàn toàn không đúng. (Xem thêm ở đây http://nhantuantruong.blogspot.fr/2015/05/hoa-uoc-trung-nhat-1952-phai-chang-mac.html )

Hội nghị San Francisco được tổ chức một năm trước đó, 1951. Theo tinh thần Hòa ước này, Nhật tuyên bố từ bỏ các vùng đất đã chiếm, trong đó có HS và TS. Nhân dịp này, Thủ tướng VN là ông Trần Văn Hữu, long trọng tuyên bố thâu hồi hai quần đảo này về cho VN. Các nước hiện diện trong hội nghị không nước nào phản đối.

Năm sau, Nhật ký hòa ước với nhà nước TH Dân quốc. Ở thời điểm này Nhật đã từ bỏ HS và TS, phía VN đã tuyên bố thâu hồi, thì còn đâu mà giao lại cho TQ ? Nội dung hòa ước Nhật-Hoa chỉ nhắc lại nội dung của hòa ước San Francisco 1951, trong đó xác định Nhật phải từ bỏ vĩnh viễn chủ quyền ở Đài Loan, Bành Hồ, HS và TS nhưng không xác định là giao cho nước nào.

Các học giả Đài Loan cũng nại việc kế thừa và liên tục quốc gia để cho rằng HS và TS thuộc TQ.
Trước 1945, Nhật sát nhập TS vào Đài loan và cho một số lính gốc Đài loan canh giữ một số đảo. Nhưng người ta không thể kế thừa cái gì mà nhà nước tiền nhiệm đã từ bỏ. Nhật đã từ bỏ các đảo này theo tinh thần hòa ước San Francisco 1951.

Trong tranh chấp các đảo trong Hồng Hải giữa hai nước Yemen và Erythrée được tòa Trọng tài xử ngày 9-10-1998, phía Erythrée vịn vào lý do liên tục quốc gia. Trước kia chủ quyền các đảo thuộc về Ý, sau đó chuyển sang cho Ethiopie sau Thế chiến thứ II (Erythrée thuộc Liên bang Ethiopie từ năm 1962, đến năm 1993 thì tuyên bố độc lập). Nhưng tòa bác bỏ lý lẽ này, bởi vì nhà nước tiền nhiệm là Ý, chiếu theo hòa ước 1948 thì phải tuyên bố từ bỏ các lãnh thổ trong khu vực. Tòa cho rằng Erythrée không thể kế thừa cái mà nhà nước tiền nhiệp đã từ bỏ.  

Như thế, những lý lẽ mà học giả TQ cố gắng dung để chứng minh « quyền lịch sử » của nước họ tại biển Đông là hoàn toàn phí lý, không thuyết phục. Trong khi trên quan điểm quốc tế công pháp, đã nói trên, quyền này không hề được thừa nhận.

3/ Kết luận : Hiện nay, căn bản pháp lý của phía TQ là dựa lên tuyên bố đơn phương 1958 của ông Phạm Văn Đồng cũng như các tài liệu sách báo, bản đồ v.v... của nhà nước VNDCCH sản xuất. Các tài liệu này minh thị và mặc thị công nhận hai quần đảo HS và TS thuộc TQ.

Nhưng những « bằng chứng » này không có hiệu lực pháp lý.

Một văn bản pháp lý (như tuyên bố đơn phương 1958 của ông Phạm Văn Đồng) chỉ có hiệu lực pháp lý khi nó không đi ngược lại các nguyên tắc pháp lý.

Tuyên bố 1958 của ông Đồng đã vi phạm nội dung Hiệp định Genève (khai sinh ra hai miền nam và bắc VN) ở khoản : VN là một nước độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ba miền trung, nam, bắc. Khoản này được tái xác định theo Hiệp định Paris 1973. Tuyên bố 1958 (chỉ là ý kiến của một thành phần VN), có nội dung liên quan vấn đề lãnh thổ, hải phận quốc gia. Nếu nội dung văn bản đi ngược tinh thần hai hiệp định nền tảng, văn bản này không có hiệu lực pháp lý.


Các văn hóa phẩm, như các bài báo, bản đồ… xuất bản ở miền Bắc, trong khoản thời gian 1954-1975, cũng vậy. Nó không thể hiện ý nguyện toàn thể quốc dân Việt Nam. Nếu chúng đi ngược lại nội dung các văn kiện pháp lý nền tảng, chúng cũng đều không có giá trị pháp lý. 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ảo ảnh kỳ lạ xuất hiện 20 phút trên bầu trời ở Trung Quốc




Khoảng 18 giờ ngày 12/6, trên bầu trời Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc, miền Bắc Trung Quốc xuất hiện ảo ảnh kéo dài 20 phút. Khoảnh khắc này do Lý Băng Kiệt, một người dân địa phương, chụp lại. (Nguồn: QQ)
theo: Vietnamplus
Phần nhận xét hiển thị trên trang