Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

​Kịch bản không mong muốn cho biển Đông


TT - Các nhà lãnh đạo ASEAN cho rằng cần phải bảo đảm giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế. 


Các nhà lãnh đạo ASEAN tại Malaysia ngày 27-4. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng thứ ba từ trái sang. Ảnh: EPA

Hội nghị thượng đỉnh ASEAN kết thúc bằng tuyên bố của chủ tịch hội nghị, nhân danh các nhà lãnh đạo khác, có câu: “Chúng tôi chia sẻ những quan ngại nghiêm trọng được một số lãnh đạo bày tỏ về việc bồi lấp biển đang tiến hành trên biển Đông, làm xói mòn niềm tin, sự tin cậy và có thể hủy hoại hòa bình, an ninh và ổn định”, song không nêu đích danh Trung Quốc, AFP cho biết!

Đúng là ASEAN cũng đã có một tuyên bố tương tự tuyên bố chung của các ngoại trưởng nhóm các cường quốc G-7 như mong mỏi của tổng thống Philippines từng đề cập trước khi gặp nhau.

Tuy nhiên, tuyên bố của chủ tịch hội nghị ASEAN lại có phần nhẹ hơn: trong khi các ngoại trưởng G-7 cùng bày tỏ quan ngại thì ở hội nghị tại Malaysia chỉ là “chia sẻ những quan ngại của một số lãnh đạo đã nêu ra” mà thôi, tức phản ứng không phải là toàn thể! Dẫu sao các lãnh đạo cũng đã cùng nêu ra chung nguy cơ là biển Đông sẽ mất hòa bình, an ninh và ổn định.

Vấn đề là hòa bình, an ninh, ổn định hay chiến tranh, bất an và bất ổn lại tùy thuộc ở ý muốn hay tham vọng của Trung Quốc. Mà Trung Quốc thì không ngớt lấn tới bằng cách này hay cách khác: năm ngoái cắm giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam, năm nay lấp biển, mở rộng đảo lập căn cứ quân sự!

Lộ trình lấn áp đó của Trung Quốc chỉ dẫn tới hai chọn lựa: hoặc nhắm mắt cam chịu hoặc xung đột để Trung Quốc “lấy thịt đè người”.

Tính toán dồn ép này rõ như ban ngày, đến nỗi Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm 10-4 đã phải lên tiếng cảnh báo rằng điều làm ông quan ngại là việc Trung Quốc đang sử dụng kích thước tuyệt đối và cơ bắp của mình để buộc các nước vào thế lệ thuộc".

Thật ra, biển Đông chỉ là chặng đầu của lộ trình làm chủ Thái Bình Dương để rồi trở thành bá chủ thiên hạ sau khi quật ngã Mỹ bằng một trận Trân Châu cảng mới. Tất nhiên, nhanh hay chậm tùy thuộc vào:

(1) Khả năng làm chủ kỹ thuật sản xuất vũ khí tấn công của Trung Quốc. Như Nhật Bản vào những năm 1930 đã ào ạt sản xuất hết lớp tàu sân bay này đến lớp tàu sân bay khác để từ chỗ chỉ vài chiếc kéo tới “làm cỏ” Thượng Hải vào năm 1932, đến chỗ huy động cả một đoàn tàu sân bay nhấn chìm gần hết hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ ở Trân Châu cảng tháng 12-1941, rồi đánh tiếp trận đôi công bằng tàu sân bay ở Midway năm sau.

(2) Độ thuần thục của những đơn vị tấn công quân sự này. Thực tế cho thấy có lẽ cũng còn lâu Trung Quốc mới có được một hạm đội tàu sân bay thiện chiến để đánh trận sống mái. Thành ra, trong khi chờ đợi, “húc” các nước nhỏ là dễ làm nhất. Ít nhất các lãnh đạo ASEAN đã nhìn thấy nguy cơ “hủy hoại hòa bình, an ninh và ổn định” như nêu trên.

Lịch sử đầy rẫy những bài học tương tự. Năm 1939, khi xe tăng Đức tiến vào Ba Lan, một thượng nghị sĩ Mỹ tuyên bố hùng hồn: “Lạy Chúa, phải chi tôi đã có thể nói chuyện với Hitler! Tất cả chuyện này có thể tránh được". Quả là suy nghĩ ảo tưởng vì không chịu nhìn thấy rằng trước đó phe Trục đã liên tiếp ra tay!

Tháng 3-1936, quân Đức tiến vào vùng Rhineland, dù hòa ước Versailles cuối Thế chiến thứ nhất đã từng cấm quân Đức bước vào. Người Pháp không muốn mạo hiểm chiến tranh nên nín thinh, còn người Anh thì chủ trương nhịn để giữ lấy hòa bình cho bằng được.

Vụ tái chiếm Rhineland này của Đức thúc đẩy Đức chiếm Ba Lan ba năm sau đó, và rồi Thế chiến thứ hai nổ ra ngay trước mũi liên quân Pháp - Anh! Còn ở châu Á - Thái Bình Dương, năm 1931 Nhật tấn công vào Mãn Châu rồi đổi tên thành “Mãn Châu quốc". Mỹ cũng chỉ phản ứng bằng đàm phán để rồi bị đánh úp ở Trân Châu cảng 10 năm sau. 
DANH ĐỨC

Phần nhận xét hiển thị trên trang

bài phát biểu bị dừng 127 lần vì… tiếng vỗ tay


Op-Economica, 27-4-2015 — Đó là bài phát biểu được lan truyền chóng mặt và được ngưỡng mộ. Thực sự đã thấy có những trí thức TQ có tầm ảnh hưởng tới xã hội và có suy nghĩ trăn trở cho xã hội của họ. Dưới đây là ghi chép những phát ngôn của giáo sư Trịnh Cường (“Zheng Qiang” 鄭強) Đại học Chiết Giang (Trung Quốc).
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi.
2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
3. Nhật Bản xâm lược nước ta, vì nước ta có rất nhiều Hán gian. Sau này nếu Nhật lại xâm lược, thì chúng ta có Hán gian nữa không? Ai sau này sẽ là Hán gian của Trung Quốc? Đại bộ phận mọi người ở đây đều sẽ làm. Vì mọi người cười nhạo những người yêu nước, sùng bái quyền lực và tiền bạc, khinh bỉ lý tưởng và chí khí.
4. Hiện tại ai là Hán gian? Là sinh viên Thanh Hoa, Bắc Đại; vì họ dùng kiến thức học được để giúp người ngoại quốc khai thác thị trường nội quốc, đánh bại doanh nghiệp Trung Quốc.
5. Chúng ta coi thường giá trị lịch sử, cho rằng nhà cửa càng mới càng tốt, nhưng các bạn hãy đến các trung tâm thành phố ở Pháp mà xem, gần như không có công trình kiến trúc mới. Họ coi sự tích lũy lịch sử là đáng tự hào, còn chúng ta tự giày vò mình bằng cách không ngừng phá nhà xây nhà.
6. Bản chất của giáo dục không phải là để mưu sinh, mà là làm thức tỉnh sự hứng thú, cổ vũ tinh thần. Dựa vào giáo dục để mưu sinh và phát triển cũng được, nhưng chúng ta đã coi trọng lý do mưu sinh quá mức.
7. Cho dù sau này Trung Quốc phát triển, nhưng các bạn hãy nhìn những triệu phú lái xe đắt tiền, rồi mở cửa xe để nhổ đờm vứt rác. Các bạn sẽ hiểu rằng, nếu không có giáo dục, Trung Quốc giàu có đến mấy cũng không thể lớn mạnh.
8. Đi học là để biết gánh trách nhiệm. Nhưng giáo dục hiện nay làm cho nữ giới phải gánh vác quá nhiều trách nhiệm, còn nam giới thì trốn tránh quá nhiều trách nhiệm.
9. Lịch sử nhân loại thực ra là một loạt những hành động bồng bột, nên các bạn đừng coi khinh sự bồng bột; bồng bột là đáng yêu.
10. Bóng rổ Trung Quốc không thiếu kỹ thuật, không thiếu tiền, cái thiếu là tinh thần trách nhiệm, cho dù chỉ là trách nhiệm đối với khán giả.
11. Người biết hát thì phát âm bằng hơi, nên họ không mệt. Khi các bạn nói, tôi thấy thanh quản các bạn rung, nên tôi biết bạn hát không hay.
12. 20 năm nữa, người Trung Quốc sẽ sùng bái tri thức chứ không phải quan chức?! Điểm này chúng ta nên học người Nhật Bản. Người Nhật Bản luôn rất tôn trọng tri thức. Nhưng Trung Quốc ngày nay, người có tiền, người có chút uy quyền – dù chỉ là một ông trưởng phòng, cũng có thể làm cho một giáo sư đánh mất hết lòng tự trọng. Cái trí tuệ có vẻ thông minh ấy, cái đám con buôn giương giương tự đắc ấy, thật nông cạn biết bao.
13. Một người đàn ông, chỉ có thể quỳ trước cha mẹ và bạn đời, chỉ có thể cúi trước người thầy, chứ không thể cúi đầu trước uy quyền và tiền bạc. Nhưng ngày nay đại đa số lại làm điều ngược đời như thế.
14. Vì sao người Nhật Bản không xin lỗi, vì sao Thủ tướng Nhật Bản không tạ tội? Vì họ biết lòng tự tôn và coi lịch sử của Nhật Bản là quan trọng nhất, còn sự bất mãn của các nước Á châu là không có chút trọng lượng nào, không đáng cho họ cần phải để ý.
15. Điều giáo dục nên làm cho người Trung Quốc là biết tự trọng. Nhưng ngày nay khi nhìn thấy người ngoại quốc là chúng ta cúi đầu, con gái nhìn thấy đám con trai vớ vẩn ngoại quốc là đều muốn lấy lòng. Thưa các bạn, trước mặt người ngoại quốc, chúng ta đánh mất hết lòng tự trọng. Trong số những người du học tại Đại học Tokyo, tôi là người duy nhất quay về, nhưng người Nhật Bản lại kính trọng tôi, vì tôi sống có linh hồn, sống có khí phách.
* Short bio:
2015-04-27_Zheng Qiang
Ông Trịnh Cường tốt nghiệp khoa hóa, ĐH Chiết Giang năm 1982. Năm 1988, ông tốt nghiệp cao học tại Bộ môn vật liệu polymer của ĐH KH-CN Thành Đô. Ông tiếp tục học tiến sỹ ở đây, và có 2 năm nghiên cứu tiếp tại ĐH Kyoto (Nhật) trong khoảng 1992-94. Cuối cùng, ông nhận được bằng tiến sỹ về nghiên cứu Polymer của ĐH Tứ Xuyên.
Ông đã công bố 220 nghiên cứu KH trên các tạp chí quốc tế như Macromolecular, Polymer, Journal of Polymer Science, Polymer Physics: Part B, Macromolecular Chemistry and Physics, Chinese J. Polym. Sci. and J. Mater. Res., v.v..
Lĩnh vực nghiên cứu của ông là: 1. Cấu trúc và tính chất polymer đa thành phần; 2. Tính biến dạng polymer; 3. Các hợp chất polymer; và 4. Polymer chức năng.
Phone:+86-571-87952522; E-mail:zhengqiang@zju.edu.cn; Site của ông ấy:http://mypage.zju.edu.cn/en/zhengqiang
Phần nhận xét hiển thị trên trang


Nguyễn Văn Thọ

Nguyễn Văn ThọNhà văn



Thứ năm, 30/4/2015 | 06:06 GMT+7
Tôi là người lính từng tham gia chiến tranh, tự nguyện và hết lòng. Nhiệm vụ của người lính; trách nhiệm với đồng đội, đơn vị, tổ quốc; danh dự cá nhân, gia đình đã buộc tôi gắn kết với chiến tranh 12 năm.
Tôi có sự căm thù không? Không! Chúng tôi biết gì người Mỹ mà căm thù họ! Nhưng người Mỹ đã tới.
Khởi đầu của cuộc chiến, Mỹ ném bom miền Bắc và tuyên bố: “Đánh cho Việt Nam quay lại thời đại đồ đá”. Hãy hình dung, khi một con người bị sỉ nhục như thế, nhất là con người ấy yêu quê hương, yêu từng viên đá, gốc cây Hà Nội, sẽ hành xử ra sao nhất là khi anh ta trực tiếp nhìn rõ bom của người Mỹ ném xuống mảnh đất thân yêu, giết chết bao con người chưa một lần gây hấn với họ. Họ, người Mỹ đã ném chiến tranh xuống quê hương của tôi, của em, của ta và của chúng ta, khi Hà Nội là trái tim của cả nước.
Và khi ấy, hỏi ai lại cam tâm ngồi yên. Và chúng tôi đã ra trận chiến đấu với chỉ lòng dũng cảm vô song, bởi nếu không có lòng dũng cảm, sẽ không ai dám chống lại người Mỹ, khi thực sự nhìn chúng bay, rải thảm cái chết...
Chúng tôi phải đánh nhau với súng ống cổ lỗ, từ súng máy 12, 7 ly tới pháo 57, 100 ly, đều là loại súng ống của đại chiến II. Kể cả tận khi trang bị tên lửa thì Sam II cũng là loại tên lửa cổ lỗ. Trong khi đó, người Mỹ dùng tất cả sức mạnh của hải quân của không quân từ B52 tới F, A các loại siêu thanh, đều là phương tiện hiện đại nhất.
Thế hệ chúng tôi đã kế tục truyền thống chống Nguyên Mông của tiền nhân, thay vì thích trên cánh tay, chúng tôi thích hai từ Sát Thát vào tận trái tim từng người ra trận. Lứa Hà Nội khi ấy đều đa số có học, ý thức rất rõ việc chúng tôi đang làm, đang chiến đấu, theo đuổi. Chúng tôi đã đánh hàng trăm trận, bất kể khi người Mỹ với sức mạnh quân sự tưởng như ăn sống nuốt tươi đối thủ trên không và trên biển, trên bộ. Nhưng sự áp đảo của cả đạo quân gồm không quân hải quân, xe tăng và bộ binh trang bị tận răng, no đủ như ở nhà, vẫn không làm chúng tôi run sợ. Mãi tới năm 1971 họ mới nhận ra, khi anh làm nhục một dân tộc, tức là các anh đã khơi dậy một cơn giận dữ bất tận của một dân tộc.
Khi những hòa ước được ký kết, người Mỹ hạn chế và chấm dứt ném bom miền Bắc chúng tôi lại vào Nam chiến đấu. Hỏi tôi có hận thù gì với anh em binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa không? Không! Tôi không có hận thù gì với anh em binh sĩ miền Nam, nhưng tôi không muốn người Mỹ và tất cả binh lính nước ngoài chà đạp lên Tổ quốc tôi. Khi người Mỹ sát cánh với họ chà đạp 60 vạn gót giầy trên quê hương miền Nam, tôi đã một lần nữa vào Nam chiến đấu.
Tôi không có ân oán gì về cá nhân với anh em binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa cả, nhưng chúng tôi, những con người tường các quy luật của chiến tranh, cả sử nước nhà và lịch sử thế giới, ý thức rất rõ và cụ thể từng trận chiến rằng: Chiến tranh chỉ chấm dứt khi có một bên thắng bên thua, vì đất nước Việt Nam không thể chia cắt. Do vậy, tôi và bao người đã chiến đấu cho cánh quân bên chúng tôi - bộ đội miền Bắc, tới giọt máu, tới sức lực cuối cùng, nhằm chiến thắng để chấm dứt chiến tranh chứ không phải giải quyết thù hận. Ngày 30/4/1975, trước khi tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hàng vạn vạn binh sĩ chúng tôi đều muốn sống, cầu nguyện được là kẻ sống sót cuối cùng sau cuộc chiến; song không ai bảo đảm rằng, họ có thể chắc chắn sẽ còn lại trong trận chiến cuối ấy.
Cho tới hôm nay khi ngồi viết những dòng này tôi nhận ra, cuộc chiến ở Việt Nam đã gây ra một vết thương rất sâu và rất dài cho dân tộc Việt Nam. Hàng triệu người dân đã bỏ mình. Hàng triệu gia đình đã mất cha, mất chồng và mất con trên trận mạc. Cũng do chiến tranh để lại, hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, ly tán và mất mát đau khổ trên biển xanh, trong rừng rậm, để lại một vết hận không nhỏ trong một bộ phận không nhỏ những gia đình phía chiến tuyến bên kia. Đó là niềm đau vô cùng lớn không chỉ riêng ai khi họ còn yêu đất nước.
Sự mất mát của thế hệ chúng tôi cả hai bên, sự mất mát của cả dân tộc tới ngày 30/4 khi đất nước yên súng, giang sơn thu về một cõi là sự đòi hỏi tất yếu của lịch sử, của dân tộc nhưng đó cũng đã phải trả với giá quá đắt. Và một câu hỏi luôn luôn làm tôi đau nhức là tại sao cứ phải căm thù khi tất cả đều là nòi giống Việt, khi mà xu hướng chung của nhân loại tiến bộ là hòa bình cho tất cả các dân tộc, cởi bỏ tất cả nỗi niềm và xóa đi đau đớn giận hờn với chính nỗ lực của từng con người chúng ta.
Rồi đây thế hệ chúng tôi cả hai phía sẽ theo quy luật sinh bệnh lão tử, rồi đây đất nước này dành cho và chỉ là cho các thế hệ sau chúng tôi; chúng không liên quan gì tới những hận thù trận mạc bấy nay và cười diễu cha anh nếu còn cố chấp. Vậy lý do gì để con người Việt Nam vẫn chia tách và hận thù về những điều đã qua mà không thực sự chung tay hàn gắn, nếu thực sự yêu thương đất nước và dân tộc này?
Nguyễn Văn Thọ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc đưa giàn khoan thứ hai xuống Biển Đông ngay trong ngày Việt Nam kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước

Theo Bình Luận án Blog


Giàn khoan Hưng Vượng của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã rời Yên Đài, khởi hành xuống Biển Đông hoạt động vào 10h18 ngày 30/4/2015. Thông tin trên được Tân Hoa xã đăng tải cùng ngày và được nhiều tờ báo dẫn lại. Theo báo này, hệ thống định vị động lực độc đáo của nó có thể bảo đảm cho giàn khoan này hoạt động bình thường trong môi trường bão cấp 12 ở Biển Đông. Tuy nhiên, báo Trung Quốc không cho biết vị trí hoạt động cụ thể của giàn khoan này.

Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu thứ hai có tên Hưng Vượng xuống Biển Đông. Trong lễ kỷ niệm 30/4/2015, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố sau năm 1975, Việt Nam đã phải có cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Chính là bọn Trung Quốc xâm lược.

Bài báo cho hay, Hưng Vượng là giàn khoan nước sâu nửa chìm thứ tư do công ty CIMC Raffles bàn giao cho CNOOC. Giàn khoan này hoạt động sâu nhất là 1.500m, độ sâu tối đa của giếng khoan là 7.600m, nhân viên trên giàn khoan theo quy định là 130 người, tải trọng sàn tàu là 5.000 tấn.

Giàn khoan này từ khi ký kết hợp đồng đến khi bàn giao chỉ có 35 tháng. Đến đây, công ty CIMC Raffles đã có 9 giàn khoan nước sâu nửa chìm đến các vùng biển trên thế giới như biển Bắc Hải, Brazil, vịnh Mexico, Tây Phi để hoạt động.

Trước giàn khoan Hưng Vượng, từ tháng 5 đến tháng 7/2014, Trung Quốc đã kéo giàn khoan nước sâu Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và bị dư luận thế giới lên án mạnh mẽ.

Chuẩn bị mưu đồ mới?

Cũng trong năm 2014, truyền thông quốc tế đưa tin, các công ty dầu khí Trung Quốc đang mua sắm thêm nhiều tàu và giàn khoan mới.

Tờ Australian dẫn tin từ Cơ quan Tư vấn và Dữ liệu Hàng hải IHS Maritime của Mỹ cho biết, số hàng đặt mới trong nửa đầu năm 2014 nhiều hơn bất kỳ năm nào trong bốn năm qua. Và nhu cầu mua giàn khoan cùng tàu vẫn còn tiếp tục.

Theo báo này, năm 2013 Trung Quốc đã đặt hàng một giàn khoan lớn tải trọng 30.000 tấn, nhằm đưa ra khai thác ở Biển Đông năm 2016. Giàn khoan này có thể hoạt động ở độ sâu hơn 1.500m và có thể chịu được sóng lớn và giông bão. Bên cạnh đó còn hai chiếc nữa cũng được lên kế hoạch đặt hàng. Các giàn khoan này có quy mô tương đương giàn khoan nước sâu Hải Dương 981.

Việc này cho thấy Trung Quốc đang đẩy nhanh việc tăng cường thiết bị cho kế hoạch khai thác dầu ngoài khơi, và tăng cường các tàu bảo vệ, mạo hiểm hơn ở vùng nước giàu tài nguyên Biển Đông.

"Đây chỉ là khởi đầu của một kế hoạch lớn và có dự tính của Trung Quốc trong việc kiểm soát các nguồn tài nguyên ở Biển Đông", Gary Li, nhà phân tích của IHS nói.

Việc tăng cường thiết bị là một phần chính sách quốc gia, ở khu vực mà mục tiêu về chính trị và an ninh năng lượng của Bắc Kinh có chồng lấn với nước khác, Philip Andrews-Speed, một chuyên gia về an ninh năng lượng tại Viện nghiên cứu Năng lượng của Singapore nhận định. "Tôi chắc rằng họ sử dụng các giàn khoan này làm tuyên bố chính trị cũng như dùng để khai thác".

Năng lực mới cho phép Trung Quốc tiến vào Biển Đông, vượt qua các nước như Việt Nam và Philippines, vì các nước này phụ thuộc nhiều vào chuyên môn của nước ngoài, Andrews-Speed đánh giá.

......................

Giữa tháng 7/2014, khi Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình đã nhấn mạnh:

Nhằm tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định ở Biển Đông, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan Hải Dương 981 quay trở lại hoặc đưa bất cứ giàn khoan nào khác vào hoạt động ở khu vực lô dầu khí 143 của Việt Nam hoặc bất kỳ khu vực nào khác thuộc vùng biển của Việt Nam được quy định bởi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam.

"Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền theo đúng luật pháp quốc tế", ông Bình khẳng định.

----------------------------
Trung Quốc và âm mưu xâm lược Việt Nam

Điểm nóng Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam (cập nhật)
  1. Theo dõi quá trình hình thành và phát triển khu quân sự Trung Quốc trên đảo Gạc Ma của Việt Nam (từ 2/2014)
  2. Việt Nam cam chịu việc Trung Quốc đang ồ ạt xây dựng căn cứ quân sự trên đảo Gạc Ma? (Từ 6/2014)
  3. Bắc Kinh đang biến Đá Gạc Ma thành căn cứ lớn ở Trường Sa (5/2014)
  4. Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin: Ngày 14/3/1988 bi tráng
  5. "Cấp trên" đã ra lệnh cho bộ đội Việt Nam không nổ súng khi Trung Quốc tấn công chiếm đảo Gạc Ma?
  6. Mất Gạc Ma, ai có lỗi?
  7. Tướng Tàu nói gì về trận chiến chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam?
------

Cập nhật diễn tiến xâm lược của Trung Quốc 
  1. Trung Quốc đã lên kế hoạch xây đảo nổi khổng lồ ở biển Đông (4/2015)
  2. Trung Quốc lập ban vũ trang ở Hoàng Sa của Việt Nam (1/2015)
  3. Trung Quốc đã thiết lập ADIZ trên biển Đông? (12/2014)
  4. Tháng 11/2014: Trung Quốc xây khu định cư trái phép ở Hoàng Sa
  5. Vị trí của dự án Trung Quốc trên núi Hải Vân trọng yếu như thế nào? (11/2014)
  6. Trung Quốc đã sẵn sàng lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Đông (10/2014)
  7. Trung Quốc đã xây xong sân bay quân sự tại Hoàng Sa (10/2014)
  8. Trung Quốc đã mở rộng bán kính kiểm soát từ 3 lên 7 hải lý và đang ồ ạt xây dựng khu quân sự tại Gạc Ma (9/2014)
  9. Trung Quốc ngang nhiên khai trương tour du lịch trái phép tới Hoàng Sa ngay trong ngày Quốc khánh Việt Nam (8/2014)
  10. Hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đang cố gắng "khôi phục quan hệ" (8/2014)
  11. Hội đàm Việt - Trung trong bối cảnh căng thẳng vụ dàn khoan HD 981 và đảo Gạc Ma (18-6-2014)
  12. Sắp đủ 100 ngàn chữ ký kiến nghị Chính phủ Mỹ trừng phạt Trung Quốc vì hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng biển Việt Nam (5/2014)
  13. Việt Nam chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị (24/5/2014)
  14. Việt Nam gửi thông cáo về tình hình biển Đông lên Liên Hợp Quốc (20/5/2014)
  15. Trung Quốc lại vừa ngang ngược áp lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng biển của Việt Nam (5/2014)
  16. Lãnh tụ Tàu coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp, không bao giờ muốn VN lớn mạnh và chỉ đạo "đóng kịch" trong quan hệ với VN (1973)
  17. "Phong trào" tấn công, đốt phá nhà máy, công ty nước ngoài: đáng lo ngại, bất thường và liệu có ai đứng sau? (5/2014)
  18. Toàn cảnh biểu tình chống Trung Quốc xâm lược ngày 11-5-2014 trên Youtube
  19. Tường thuật biểu tình tuần hành hôm nay (11-5-2014) ở Sài Gòn
  20. Hàng ngàn người biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược tại Hà Nội, TP.HCM, Huế ... báo chí "lề phải" tường thuật trực tiếp! (11/5/2014)
  21. Mạng xã hội kêu gọi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược (5/2014)
  22. Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ chủ quyền
  23. Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm: TQ không bao giờ có tình nghĩa đồng chí, anh em với VN gì cả mà họ sẵn sàng tiêu diệt ta vì quyền lợi của họ (10/2014)
  24. Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm: Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông vì đã "hết lối ra biển" (6/2014)
  25. Báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân và Tạp chí cộng sản đăng gì trong ngày kỷ niệm 35 năm đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược?
  26. Nguồn gốc sự ra đời đường lưỡi bò của Trung Quốc trên biển Đông
  27. Năm 1979 Việt Nam từng "đánh bại 600 nghìn quân Trung Quốc xâm lược"
  28. Hoàng Thị Hồng Chiêm - người nữ anh hùng chống quân Trung Quốc xâm lược

Phần nhận xét hiển thị trên trang

ANH EM NHÀ GIAO CHỈ

tre-tho

(Tặng: Từ Vũ)
Anh em nhà Giao Chỉ
Vốn con Rồng, cháu Tiên
Phải cái hay đố kỵ
“Tự đại” dễ tức, ghen…
Phe Ngoại chửi phe Nội
đòi Dân Chủ, Nhân Quyền!
Cánh Nội “bài” cánh Ngoại
ghét Người nhưng thích “Tiền”.
Một bên chống cuồng điên
một bên “im” thúc thủ
Họ vốn là anh em
có chung cha mẹ đẻ.
(Bên vốn theo Tàu, Nga
bên “lời” theo Pháp , Mỹ (1)
cùng tôn thờ ông cha
“đánh nhau” thật ầm ĩ!?)
Bốn mươi năm rồi nhỉ? (2)
Họ vẫn chửi, kình nhau
Vẫn chơi thăm, tiếp tế
“làm lành” phải Đời sau!
Ôi cái dân Giao Chỉ
là Gà chung một Mẹ
Chỉ giỏi hoài đá nhau!
Ôi Việt Nam thống nhất
“hòa giải” khó làm sao?!
Anh em nhà Giao Chỉ
“bất hạnh” chắc còn lâu?!
(1) “lời” = lời lãi, kiếm ăn to – hết Dollar (viện trợ) là “tùy nghi di tản”, đầu hàng!?
(2) bài viết năm 2007 là 32 năm, đến 2015 sửa thành 40 năm
Viết tại London 3-8-2007
NGUYỄN KHÔI

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGÔI SAO BAN CHIỀU: SỰ THẬT VỀ MỘT BÀI HÁT NGA

 


Nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu
Thuở đất nước thống nhất (1975), người dân hai miền Nam Bắc háo hức tìm hiểu về nhau sao bao năm chia cắt. Tìm hiểu về âm nhạc cũng là một cách để hiểu biết văn hóa. Người sống ở miền Nam như mình thuở đó nghe những bài “Cô gái vót chông”, “Tiếng đàn Ta Lư” thấy rất… kinh ngạc vì lối hát cao vút và véo von nghe chẳng khác gì tiếng…Tàu :D
Thậm chí lúc đầu mình còn không nghe được lời hát nhưng nghe mãi thì cũng…quen tai, nhạc miền Bắc chủ yếu phục vụ chiến tranh nên giai điệu rất hào hùng (mà sau này ta hay gọi là Nhạc Đỏ).
Nhạc miền Nam bị xếp vào loại Nhạc Vàng và bị cấm hát vì tình cảm… ủy mị, làm người nghe mê muội, mất …ý chí phấn đấu :D
Vậy mà mình nhớ năm đó khoảng 1977, lúc chơi ở nhà cô bạn thì gặp hai anh bộ đội, hai anh chàng chơi Guitar và hát một bài hát được giới thiệu là Nhạc Nga: “Ngôi sao ban chiều”. Bài hát có giai điệu đẹp, êm đềm và lời hát cũng khá tình cảm, tha thiết.
“Màn chiều dần buông xuống, gió ngàn vi vu
Lấp ló đầu hiên, ngôi sao ban chiều
Gợi lòng ta thương nhớ, tới người yêu ở phương trời xa
Em thân yêu nơi nao có nhớ tới chăng, đôi ta năm xưa, chung lời nguyện ước
Bây lâu con tim ta vẫn nhớ tới em, như ngôi sao hôm, đêm ngày không mờ
vì lòng ta mãi mãi vẫn còn khắc ghi, bóng hình dáng em…”
Sau đó mình cũng nghe nhiều người hát bài này và đều được giới thiệu là nhạc Nga.
Nhưng thật bát ngờ, tác giả bài hát này lại là một người…Việt, dân Hà Nội chính hiệu con nai vàng :D
Nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu sinh năm 1944 tại Hải Phòng, yêu âm nhạc nhưng không thể thi vào trường Âm Nhạc Việt Nam chỉ vì lý lích của ông bị phê: Có người nhà di cư vào Nam. Sáng tác bài hát “Ngôi sao ban chiều” năm 1964, ông đã phải giả vờ cho bài hát của mình là…nhạc Nga, chấp nhận là một nhạc sĩ vô danh để thanh niên miền Bắc thuở ấy  có nhạc trữ tình hát lên mà không bị cấm đoán hay ..kiểm điểm.
Ông hiện vẫn còn sống ở Phố Bạch Đằng, Hà Nội. Mình có số điện thoại, bạn nào cần gọi để kiểm chứng, xin hãy liên hệ nhé.
Mời các bạn nghe lại bài hát “Ngôi sao ban chiều” bản nhạc Nga gốc…Việt nổi tiếng một thời:
 


Cảm ơn anh Trần Can đã cho biết thông tin rất thú vị về tác giả bài hát. Do ở Hà Nội nên lần theo thông tin đó, ngày 29/10/2011 vừa qua chúng tôi đã ghé thăm người nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu tại nhà riêng của ông ở ngõ 738 Bạch Đằng. Người nhạc sĩ nhỏ bé gày gò nhưng cởi mở, hồn hậu và tràn đầy năng lượng. Đây là lời hát tôi gõ lại từ bản nhạc do chính người nhạc sĩ đáng kính ký tặng (ông bảo lời có nhiều dị bản quá!).
Ngôi sao ban chiều
Màn chiều dần buông xuống, gió ngàn vi vu, lấp ló đầu hiên ngôi sao ban chiều.
Gợi lòng ta xao xuyến nhớ người yêu nơi phương trời xa.
Em thân yêu nơi đâu, có nhớ tới chăng, đôi ta năm xưa chung lời hẹn ước?
Bấy lâu con tim ta vẫn nhớ tới em, như ngôi sao hôm bao ngày không mờ.
Vì lòng ta mãi mãi vẫn còn yêu em không bao giờ phai.
Người mà tôi yêu mãi, nay ở chốn nao, tháng năm dần trôi, tôi vẫn mong chờ.
Giờ này em ở đâu, hỡi người yêu, ta mong chờ em.
Ôi không gian bao la, hãy nói cho ta, em yêu phương xa có còn chờ nữa?
Nơi xa xôi nghe chăng, tiếng hát nhắn em, không gian mang theo bao lời ân tình.
Vì lòng ta mãi mãi vẫn còn yêu em không bao giờ phai.

Ảnh chụp nhạc sĩ Đinh Tiến Hậu tại nhà riêng, 29/10/2011 - Vũ Ngọc Tiến

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

Nguyễn Đăng Mạnh viết về Trần Đăng Khoa


Nguồn: Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh

Trần Đăng Khoa từ bộ dạng, cách nói năng (lẫn lộn n với l), đến thói quen ăn uống đều đặc nông dân: chỉ thích món thịt lợn kho, cá kho, rau muống luộc, lòng lợn chấm mắm tôm, không thích thịt bò, gà vịt, hải sản, không thích bia...
Vào khoảng năm 1975, báo Phụ nữ Việt nam có đặt tôi viết một bài về trường ca Tiếng hát người anh hùng của Trần Đăng Khoa. Bài ấy, tôi ký tên con gái tôi: Nguyễn Thị Thanh Thuỷ. Nội dung cơ bản của bài viết là khẳng định Trần Đăng Khoa là nhà thơ nông dân. Tất cả tài năng của anh đều do nông thôn bồi dưỡng nên. Thành công hay thất bại của tác phẩm đều là do Khoa hoặc nói bằng tâm hồn và ngôn ngữ nông dân của mình, hoặc mượn ý tưởng, cách nói của tầng lớp xã hội khác.
Tôi tiếp xúc với Khoa lần đầu tại nhà Khoa ở Nam Sách. Lúc ấy Khoa học lớp Tám ở trường cấp III Nam Sách (Hồi ấy cấp III gồm 3 lớp 8, 9, 10). Một đoàn sinh viên sư phạm Hà Nội về đấy thực tập. Tôi về thăm đoàn thực tập này và nhân tiện tạt về nhà Khoa một lát.Tôi thấy Khoa ứng xử, tiếp đón, nói năng với khách rất đàng hoàng, chững chạc, không có vẻ một cậu học trò lớp Tám. Về sau này chính Khoa nói với tôi: “Người ta cứ bảo em hồi nhỏ rất hồn nhiên, nay không còn hồn nhiên nữa. Không đúng. Hồi nhỏ em chẳng hồn nhiên gì cả. Nói dối như ranh." Và Khoa kể chuyện này: “Một lần có một cuộc hội nghị y tế toàn miền Bắc họp ở tỉnh Hải Hưng. Các ông phụ trách hội nghị đưa Khoa đến để khoe “thần đồng” của tỉnh. Thường họ đề ra cho em làm thơ để thử tài. Ông Phạm Ngọc Thạch, bộ trưởng Bộ Y tế, tặng em một cái bật lửa. Không hiểu sao lại tặng mình bật lửa? Tặng trẻ con, lại tặng bật lửa để làm gì! Đúng là dớ dẩn. Em nghĩ bụng thế. Nhưng em lại phát biểu trước hội nghị: “Bác tặng em cái bật lửa là rất có ý nghĩa. Đây là ngọn lửa tượng trưng cho lý tưởng cách mạng. Em nguyện sẽ mang ngọn lửa này trong suốt cuộc đời mình...” Cả hội trường vỗ tay ầm ĩ, khen thằng bé giỏi quá!
Thần đồng Trần Đăng Khoa.
Từ ngày Khoa học trường viết văn Nguyễn Du, tôi tiếp xúc với Khoa luôn. Có năm Khoa đến ăn Tết với gia đình tôi, quan hệ rất thân mật.
Khoa đúng là có tài, rất thông minh. Có lẽ Khoa có ý thức mình là thần đồng nên chịu khó đọc sách, đọc sáng tác, đọc phê bình, để có một vốn tri thức đàng hoàng, có thể ăn nói với đời. Khoa tỏ ra rất hoạt bát. Mồm mép ghê gớm, phát biểu rất có chủ kiến, đầy tự tin, có phần kiêu ngạo nữa. Những năm gần đây, tôi với Khoa thường được mời tham gia hội đồng chung khảo của những cuộc thi sáng tác văn học do Nhà xuất bản Giáo dục, Hội nhà văn hay tổ chức Văn hoá doanh nhân của Lê Lựu tổ chức. Tôi thấy Khoa rất to mồm, nhiều khi tỏ ra muốn áp đặt tư tưởng của mình đối với hội đồng.
Khoa thường nói giọng khẳng định dứt khoát, nhiều ý kiến sắc sảo, nhưng cũng lắm nhận định không chính xác do vốn kiến thức còn lắm lỗ hổng. Tuy thế tôi vẫn thích nghe Khoa nói. Tôi thích người nói thẳng thắn, có chủ kiến riêng, dù không đúng cũng gợi cho mình suy nghĩ.
Dưới đây, tôi tường thuật vài đoạn Khoa nói chuyện với tôi (tôi muốn ghi lại đúng giọng điệu, khẩu khí của Khoa):
“Văn học đang đổi mới. Không thể viết như cũ được nữa. Tất cả cũ rồi, Các nhà thơ thời chống Mỹ vẫn khá hơn cả, song cũng tắc rồi. Nguyễn Duy triển lãm thơ bằng cách vất thơ vào rổ rá, cối xay... là vớ vẩn lắm rồi! Nguyễn Huy Thiệp cũng tắc. Vàng Anh cũng hết – một hồi ta đề cao hơi quá. Phạm Thị Hoài có khá hơn.
Nhưng cái mới chưa có, chưa xuất hiện. Văn xuôi có khá hơn. Thơ thì có lẽ thời buổi này không phải là thời của thơ. Đây là thời của truyện, của kịch, của phim, của tivi...”
“Hồ Xuân Hương không có. Không có Hồ Xuân Hương! Đàn bà không tả cái của đàn bà hấp dẫn như thế “Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”, đàn ông mới nói thế: “Cô gái ngủ ngày” là đàn ông viết”.
“Em đã ghép mười câu thơ của mười nhà thơ lại thành một bài hoàn chỉnh. Chứng tỏ thơ ta một thời rất giống nhau, cùng một gương mặt. Em cũng ghép lại những câu thơ của Huy Cận lại thành một bài thơ về vũ trụ. Lại ghép bốn nhà thơ, mỗi ông bốn câu, thành một bài hoàn chỉnh.
“Ngoài sân rơi cái lá đa, Lá rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Nhiều người khen, Thực ra không hay lắm, câu thơ trung bình thôi. Chỉ tả cảm giác. Thơ hay là nói cái nội tâm, cái tình, cái hồn. Như câu “Mái tranh ơi hỡi mái tranh, Trải bao mưa nắng mà thành quê hương”.
“Phê bình văn học chỉ có ba người: Hoài Thanh, Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Ngọc Trà. Trà thực ra là nhà lý luận. Cụ Mạnh lý luận không phải chỗ mạnh. Chỗ mạnh là phê bình tác phẩm. Cụ rất tinh”.
Em không thích bài Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi, cả bài Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Chả có gì hay. Cụ phản biện đi, hay ở chỗ nào?”. Tôi nói:
“Thơ hay không phân tích, không giảng được”. Khoa: “Không phải thế. Nếu hay là cụ phân tích được hết”.
 Khoa khen bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, không có gì mà hay. Tôi nói: “Đấy cậu nói không có gì mà hay đấy thôi!” Khoa: “Không phải, hai chuyện khác nhau, cụ đánh tráo khái niệm”. Nhật có bài thơ tên là Tiếng thu. Có bốn câu khác hẳn. Nguyễn Vỹ dịch ra giống thơ Lưu Trọng Lư, rồi người ta tưởng là Lưu Trọng Lư ăn cắp. Một vụ án văn học, oan cho Lưu Trọng Lư”.
“Nhà cổ Hà Nội không gọi là nhà cổ được. Một trăm năm, cổ gì! Tốt nhất là phá hết khu phố cổ Hà Nội đi. Hội An mới thực là nhà cổ”.
Khoa khi nói hay đế chữ “đấy!” như là một thứ dấu chấm câu vậy:
“Thầy hình dung không?
Em nói thật với thày, đấy!
Nguyễn Khải, Chế Lan Viên thông mình, là đầu bảng - đấy!
Cụ Mạnh viết ra tấm ra món. Thẩm văn rất tinh. Có văn. Nhiều người có ý mà không có văn. Có ý mà không tải được ra văn, cứ tải ra chữ lại hỏng - đấy! Cụ Hiến phát hiện thì đúng, nhưng triển khai ra thì như hụt hơi, như ngắn lưỡi - đấy! TĐX tiếp xúc tay bo thì rất khá. Nhưng viết ra thì không ra sao cả - đấy! Phải có mắt xanh, ông Xuân Diệu gọi là đầu mày cuối mắt”.
Phạm Xuân Nguyên thông minh, nhưng thẩm văn kém. Mai Quốc Liên cũng vậy - đấy. Sử có học, nhưng thẩm văn xoàng...”
Nói chung Khoa không thích văn trí thức như văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi. Khoa nói dứt khoát với tôi: “Đấy rồi thầy xem, mươi năm nữa người ta không đọc Nguyễn Tuân nữa đâu!”.
Trong Chân dung và đối thoại, Khoa chê Nguyễn Tuân không biết uống nước trà. Bà Ân con gái cả của Nguyễn Tuân tức lắm. Bà nói: “Cái thằng ấy chỉ biết ăn cua ăn cáy chứ nó biết uống trà là cái gì mà dám chê ông cụ tôi. Tôi đã phục vụ ông cụ uống trà, tôi biết chứ. Pha trà phải kén nước giếng ở một ngôi chùa là chuyện có thật (trong truyện Nguyễn Tuân gọi là chùa Đồi Mai). Rồi hầm củi ủ than để đun nước pha trà như thế nào... Nó biết cái gì mà dám nói láo!”. Hôm ấy, dự lễ trao giải thưởng Nguyễn Tuân cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, bà nói sôi sục. Anh Nguyễn Xuân Đào, con trai út Nguyễn Tuân, phải can mãi.
Nhưng Khoa là tay chống chế rất giỏi. Trong Chân dung và đối thoại, Khoa chê cụ Ngô Tất Tố, trong Tắt đèn cho chị Dậu bán con, so sánh với Fantine của V.Hugo bán tóc, là vô nhân đạo. Khoa bị phê phán là không hiểu ngày xưa người nông dân phải bán vợ đợ con là chuyện phổ biến. Khoa chắc thấy mình đuối lý nên tìm cách chống chế. Hôm ấy tôi và Khoa được trường chuyên Hùng Vương (Việt Trì) mời lên giao lưu với học sinh. Khoa nói: “Tôi không phải không biết chuyện bán vợ đợ con của nông dân nghèo ngày xưa. Chính tôi có một bà cô phải bán con. Nhưng cụ Ngô Tất Tố cho chị Dậu đem con đến nhà Nghị Quế, khi nó bắt cái Tý ăn cơm của chó, lẽ ra phải thôi, đem con về, chấm dứt luôn truyện ở đấy. Ai lại mẹ thấy con phải ăn cơm của chó mà chịu được!”.
Tôi biết đấy là mồm mép chống chế của Khoa, chứ trong Chân dung và đối thoại , Khoa có viết thế đâu!
Khoa có một hồi được mời đi nói chuyện khắp. Người nghe rât thích. Khoa biết cách nói rất hấp dẫn. Một trong thuật hấp dẫn của Khoa là giỏi hài hước. Khoa ghét cái gì là chế giễu rất ác. Thí dụ, Khoa định nghĩa thơ Lê Đạt: Người ta nói “Tôi đi ăn cơm”, thì Lê Đạt viết “Cơm đi ăn tôi”.

Trong một cuộc nói chuyện, Khoa dẫn thơ của Hoàng Hưng, Dương Tường để giễu cợt:

Anh lang thang em...Anh mini em...
Anh xanh xao em...
Anh tiết canh em...

Khoa cố tình tách những cụm từ ấy ra khỏi văn cảnh, biến chúng thành khôi hài.
Khoa có cách diễn đạt rất tinh quái khi nhận xét lối phê bình của Nguyễn Hoà: “Nguyễn Hoà là tay phê bình nghiệp dư, nhưng là nhà bóp dái chuyên nghiệp. Hoà thực hiện được hai “cú” rất ngoạn mục: bóp vú Hà Minh Đức và bóp dái Đoàn Thị Đặng Hương”.
Khoa kể câu chuyện này cũng vui: có một cô gái ở Sài Gòn kém Khoa hàng chục tuổi, nhưng vẫn tưởng Khoa là một em thiếu nhi làm thơ. Cô gửi thư cho Khoa gọi Khoa là em, muốn kết nghĩa chị em và khuyên Khoa chăm học, nghe lời cha mẹ, tập thể dục buổi sáng...
Nghe Khoa nói, chỉ nên tin một nửa. Rất có thể chỉ là bịa cho vui. Khoa đặc biệt có tật nói dối. Nói dối chẳng để làm gì cả. Một thói quen thế thôi.
Thí dụ Khoa khoe, tập II Chân dung và đối thoại đã viết xong. Có một bài viết về Nguyễn Đăng Mạnh. Có những bài trả lời những người phê phán Chân dung và đối thoại tập I... Sách in như thế nào, bìa ra sao, nhuận bút bao nhiêu. Khoa còn nói cho biết cả nội dung các bài viết nữa. Khoa nói với tôi chuyện này dễ đã sáu, bẩy năm rồi mà tới nay vẫn chẳng thấy mặt mũi tăm hơi gì. Mà khi nói, Khoa toàn báo cho biết sắp in đến nơi.
Tôi nhớ cách đây dăm năm, mồng một Tết, Khoa có đến tôi (ở Quan Hoa, Cầu Giấy). Khoa có kể cho vợ chồng tôi nghe anh sắp viết một vở kịch vui: “Thị Nở cưỡi trâu ra tỉnh”. Cho đến nay vẫn chưa thấy viết.

* **
Người ta thường xì xào về chuyện sinh lý của Khoa, giống như Xuân Diệu. Đã có người làm vè chế giễu.

Gia đình nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Nhưng Khoa đã lấy vợ. Tôi có được mời tới dự. Ngay hôm cưới, Lê Lựu, bạn chí cốt của Khoa, vẫn không tin Khoa có thể làm ăn được gì. Anh nói với tôi ngay ở tiệc cưới như thế. Nhưng vợ Khoa có mang và sinh con gái. Khoa được thể nói phét: “Mình từng rắc con nhiều nơi, con rơi con vãi của mình nay đã lớn, có thể bồ bịch với Trần Đăng Xuyền được”. Khoa nói với tôi hôm ấy ở Cần Thơ, có mặt Trần Đăng Xuyền.
Khoa bây giờ là tay khôn ngoan có tiếng, đối đáp rất sắc sảo. Tô Hoài nói, Khoa là quân sư quạt mo của Hữu Thỉnh. Trong ban chấp hành Hội nhà văn khoá 7, Vàng Anh hay gây sự với Hữu Thỉnh. Khoa là người đứng ra gỡ bí cho Hữu Thỉnh.
 Theo chỗ tôi biết, Khoa còn là quân sư quạt mo cho Lê Lựu nữa trong việc điều hành tổ chức Văn hoá doanh nhân.
 Hai tay nông dân này hợp nhau trên mọi phương diện.

Láng Hạ 15.6.2007.

Phần nhận xét hiển thị trên trang