Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2015

Cách mạng văn hóa là tội của ai?


1967_cultural_revolution
Hidematsu Hiyoshi[1]
(trao đổi với giáo sư Mao Vu Thức)
Trong thời đại Mao Trạch Đông, dân chúng không có quyền tự do ngôn luận, tự do theo đuổi nghề nghiệp, tự do cư trú và tự do đổi nơi cư trú. Điều mà người dân có thể làm chỉ là sự phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không có cơm ăn”, ai không phục tùng thì phải “đói mà chết dần”. Tất cả bi kịch cũng như mọi chuyện hoang đường xuất hiện trong thời Cách mạng Văn hóa không phải là trách nhiệm và lỗi lầm  của nhân dân Trung Quốc (trong đó có giáo sư  Mao Vu Thức[2]). Tạp chí Minh Kính số tháng 8 đăng bài “Kỉ niệm một vị nữ thánh” của Ngô Giá Tường.[3] Trong bài  có nhắc đến chuyện kinh tế gia Mao Vu Thức phát biểu trong lễ kỉ niệm tròn 90 năm ngày sinh Vương Bối Anh[4] rằng “Bi kịch Cách mạng Văn hóa dù do lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đích thân đạo diễn, cộng thêm nhóm tứ nhân bang cùng những kẻ tay sai trợ ác cùng lắm cũng chỉ mấy trăm người. Vậy mà cả nước sáu bảy trăm triệu người điên cuồng vào cuộc. Có một nửa trách nhiệm ở người dân.
Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm việc đó thì khẳng định là làm không nổi”.[5] Giáo sư Mao có dũng khí phản tỉnh như vậy thực đáng ca ngợi. Vậy mà người viết bài này quả thật không dám đồng ý với phát biểu cho rằng nhân dân phải gánh một nửa tránh nhiệm về bi kịch Cách mạng Văn hóa và nếu như là ở Mĩ thì không thể tiến hành được cuộc cách mạng đó. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó có  vấn đề về logic rất đáng được trao đổi thêm.
 “Kẻ không phục tùng không có cơm ăn”
Cách mạng Văn hóa sở dĩ có thể phát động và lôi cuốn dân chúng – việc này hoàn toàn có quan hệ với thể chế chính trị Trung Quốc. Dưới thời Mao, dân không chỉ mất quyền tự do ngôn luận. Đến quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do cư trú và di chuyển cũng chả có. Mỗi một người đều trở thành “chiếc đinh ốc” trong cỗ máy quốc gia. Còn Nhà nước thì trở thành người chủ nhân công duy nhất, người kinh doanh của tất cả các xí nghiệp. L.Trotsky nói từ 1937: “Trong những nước mà Nhà nước là người thuê nhân công duy nhất, phản kháng đồng nghĩa với việc “từ từ chết đói”. Nguyên tắc xưa cũ “kẻ không lao động không được ăn” đã bị thay thế bởi nguyên tắc mới “kẻ không phục tùng không được ăn”[6] (sách “Đường đến nô dịch”). Trong một xã hội như thế, việc mà dân chúng có thể làm chỉ có thể là phục tùng và phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không được ăn”, kẻ không phục tùng thì sẽ đối diện với uy hiếp của cái chết phải “từ từ chết đói”. 
Ta hãy xem tình cảnh xã hội Trung Quốc thời Mao. Chính quyền mới được thành lập sau 1949. Trong thập niên những năm 50 hàng loạt các cuộc vận động chính trị và trấn áp phản cách mạng do Mao phát động đã tiêu diệt triệt để giai cấp trí thức thân hào trong xã hội Trung Quốc truyền thống.
Những chức năng có tính truyền thống của xã hội Trung Quốc theo đó cũng tiêu vong. Trên một cơ  sở như thế Mao đã sử dụng năm thủ đoạn kể sau để khống chế chặt chẽ xã hội dưới tay  mình.
Thủ đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu
Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình.
Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”.
Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế
Thủ đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối
Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố.
Người ta không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết.Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc.
Thủ đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch
Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật.
Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận. 
Thủ đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải tạo
Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là  xử phạt hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội và chịu sự kì thị.
Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao.
Thủ đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị
Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công. Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công.
Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng.
Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những thủ đoạn như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là hết cuộc vận động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả khiến cho nhân dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi nữa. Cách mạng Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng cả xã hội vẫn được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một cuộc vận động chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực.
Nói cách khác Mao phát động Cách mạng văn hóa là nhằm mục đích biến giang sơn của một  đảng thành giang sơn của một nhà, chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7] (Xem Lưu Thông, “Mục đích của Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”). Trong Cách mạng Văn hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng tất cả đều bị cuốn vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc nhưng kẻ phát động thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định trước.
Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không sao hiểu được nguyên do, họ lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện dường như là “cách mạng gặp phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu bắt đầu công việc tự kiểm thảo đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn trận, khiến cho đám đông những là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không biết phải như thế nào cho phải, suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một không khí khủng bố chính trị như thế, quần chúng dân đen không chút quyền hành sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái mình phản ánh, tố giác.
Trong thời buổi Cách Văn hóa, ai cũng run sợ cho bản thân, ngay cả người thân cũng không được tin. Lúc bấy giờ, “tin tưởng” đã trở thành từ đồng nghĩa của từ “nguy hiểm”. Bạn bè tri âm trở thành người cáo giác, người dám nói thẳng chẳng khác gì đang đào huyệt cho mình. Cả nước từ trên xuống dưới chỉ mỗi Mao là người hưởng quyền “tự do ngôn luận” ghi trong hiến pháp. Mọi công dân của cộng hòa quốc này đều đã bị tước bỏ quyền phát ngôn. Mọi hành động đều chờ chỉ huy của Mao, vạn vật sinh trưởng cũng nhờ sự tưới tắm của “lời dạy của chủ tịch” (ngữ lục).
Trong những năm tháng gọi là “cách mạng” đó, mở miệng là “muôn năm”, kiểm thảo ngày nào cũng có, tự sát trở thành ước mơ. Tất cả là để làm gì? Vận động quần chúng là để chặn đánh tâm lí phản nghịch của quần chúng. Vận động lãnh đạo cao cấp là để chống lại “lửa bất bình” nơi họ, làm cho họ cụp tai cúi đầu cam nô lệ. Mao gây bao án oan, bức đồng chí không ngừng tự kiểm thảo. Mao muốn tinh thần “tội tổ tông” thấm sâu vào thần dân. Chỉ như thế thì mới có thể khiến cho dự trù chính trị của mình thực hiện thông suốt. Ham sống sợ chết là thiên tính của con người.
Trong một xã hội mà không khí khủng bố nhuốm mùi tanh của máu, dân chúng xô dạt theo dòng lớn là chuyện không khó hiểu cả về tình lẫn về lí. Hẵng xem một người tài năng tót vời như Quách Mạt Nhược đã phải sống một cuộc sống run rẩy kinh hãi ra sao là đủ biết quần chúng thường dân vì sao lại phải “ngây cuồng”. Hẵng xem biết bao nhà văn nổi tiếng bỗng chốc tất cả cùng im lặng tập thể, gác bút tập thể là đủ thấy Mao Trạch Đông đã không chế thành công xã hội Trung Quốc đến mức nào. Cũng đủ để thấy dân chúng vì sao phải “ba phải a dua”. Bởi vì họ chỉ mỗi việc phải phục tùng, “ngây cuồng” hay “ba phải vào hùa” là kết quả của việc phải phục tùng. Không thế thì sẽ “dần dần chết đói”.
Dám chắc giáo sư  Mao Vu Thức cũng ở trong đội ngũ đó. Đó quyết không phải là tội lỗi và trách nhiệm của nhân dân Trung Quốc (gồm cả giáo sư trong đó). Quả đúng như giáo sư đã nói: “Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm Cách mạng Văn hóa thì khẳng định là làm không nổi”. Sở dĩ những việc tương tự Cách mạng Văn hóa không thể phát động nổi ở Mĩ là bởi vì chế độ chính trị quốc gia này không cho phép các nhà chính trị muốn làm gì thì làm. Điều còn quan trọng là, các nhân vật chính trị ở Mĩ là do dân chúng bỏ phiếu chọn ra.
Tất cả những người đó (bao gồm cả tổng thống) đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Thế nên chính trị gia tại Mĩ không thể hành động khinh suất hay tùy ý trái phản ý dân. Ai cũng biết chính trị Trung Quốc thời Mao và chính trị Hoa Kì không giống nhau. Vậy đương nhiên là ngón nghề của Mao làm sao mà thi hành được ở Hoa Kì! Bản thân Mao cũng biết rõ điều đó. Sau lúc Liên Xô hạ bệ Stalin, chính Mao từng nói nếu như ở các nước phương Tây thì đã không có chuyện kiểu Stalin.[8] 
Thế nhưng Mao hoàn toàn không rút ra bài học gì cả. Sau vụ Watergate, Richard Nixon bị điều trần. Bill Clinton vì chuyện quan hệ ngoài hôn nhân mà bị quốc hội điều tra và ông đã buộc phải xin lỗi dân Mĩ.
 Ngược lại Mao chưahề có một lời xin lỗi nào về những việc sai lầm của mình. Bành Đức Hoài[9] dũng cảm vì dân cuối cùng cũng chỉ là “Tôi không uống thuốc của Mao Trạch Đông” “Tôi không ăn cơm của Mao Trạch Đông”.[10] Một nguyên soái chiến công hiển hách cũng chỉ biết dùng cách đó để phản kháng thì còn yêu cầu được người dân phải làm thế nào?
Một chế độ tốt đẹp có thể khiến một người xấu không dám làm việc hư, một chế độ bất lương có thể khiến người tốt làm việc xấu.
Đây là lí do vì sao người ta yêu cầu phải cải cách thể chế. Giả sử, nếu xưa kia các bậc tiên hiền buổi đầu nước Mĩ kiến quốc không dựng nên chế độ dân chủ, nếu  G.Washington sau 8 năm làm tổng thống không sáng suốt và dứt khoát rút lui khỏi đời sống chính trị, nếu không có việc những người kế thừa Washington thể chế hóa hành động của ông, nếu Washington thực hiện triệt để chế độ chính trị kiểu Mao thì hoàn toàn có thể khẳng định – việc xuất hiện thảm cảnh Cách mạng Văn hóa hay việc nảy sinh bi kịch tương tự bi kịch của những Trương Chí Tân[11], Vương Bối Anh là hoàn toàn có thể.
Vì vậy, tất cả những bi kịch hay những chuyện hoang đường xuất hiện trong Cách mạng Văn hóa chỉ có thể là trách nhiệm của kẻ phát minh Mao Trạch Đông. Nếu không sẽ là không công bằng đối với lịch sử và cũng là một điều sỉ nhục đối với người dân Trung Quốc – những kẻ không có chút quyền kinh tế và quyền chính trị nào trong tay.
Lê Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung 
(Nguồn: tạp chí Thế giới mới số 14-2013 (1031) ngày 22-4-2013)
đăng lại từ trang khoavanhoc-ngonngu.edu.vn 

[1]Học giả Nhật gốc Hoa. Bài đăng trên 《明鏡月刊》nhan đề “文革”究竟誰之罪:與茅于軾先生商榷” (xin xem city.mirrorbooks.com).
[2]茅于軾 (Mao Yushi 1929-  ), nhà kinh tế học Trung Quốc đương đại. Năm 1958 bị quy “phái hữu” đình chỉ công tác. Trong Cách mạng Văn hóa bị khám nhà và đấu tố rồi bắt đi lao động. Nhận Giải thưởng kinh tế học Milton FriedmanLiberty Prize của Mĩ năm 2012.
[3] 吳稼祥(Wu Jiaxiang 1955 –  ), nhà nghiên cứu kinh tế học, từng thỉnh giảng tại Đại học Harvard. Sau sự kiện mùa xuân Thiên An Môn bị bắt giam. Mãn hạn tù năm 1992. Ngô là một trong những học giả đề xuất sớm nhất ý hướng cải cách xí nghiệp quốc doanh và thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc.
[4] 王佩英(Wang Peiying 1915-1970), nguyên là một nữ nhân viên ngành  đường sắt, do phản đối Mao Trạch Đông mà bị bắt vào viện chữa bệnh tâm thần. Trong Cách mạng Văn hóa bị gán tội phản cách mạng, nhét gạch vụn vào mồm và giong phố đấu tố. Sau đó bị phán quyết “lập tức tử hình”. Cuộc xử bắn ngày 27/1/1970 được truyền hình làm gương. Năm 1980 sửa án sai,  kết luận bị bệnh nhân tâm thần không nên kết án hình sự. Năm 2011 kết luận lại Vương vô tội và rút lại lời kết luận Vương mắc bệnh tâm thần.
[5] Xem Ngô Giá Tường, 《雖億萬人,吾往矣 – 紀念一位聖女》đăng trên《明镜月刊》số tháng 8/2010 (kì 6), tr.78.
[6] Xem Vương Minh Nghị dịch, 《通向奴役之路》, Trung Quốc Xã hội Khoa học Xuất bản xã, 1997, tr.116 (The Road to Serfdom  của Friedrich August von Hayek có bản dịch tiếng Việt Đường về  lệ của Phạm Nguyên Trường, Hà Nội, Nxb Tri thức –ND).
[7]Xem劉松,《文化大革命的目的-確立繼承人》introng日本大學大學院國際關係研究科《大學院論集》, kì 11, 2001, tr.61~85. Hoặc xem 關心 dịch,《毛澤東最後的革命》, Thinker Publishing (HKLimited xuất bản, 2009, tr.328 (tức cuốn Mao’s Last Revolution của Mac Farquhar và Roderick – ND)                                                                                                                                        
[8] Xem《鄧小平文選》, quyển 2, tr.333
[9] Bành Đức Hoài (1898-1974), nguyên soái, từng là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chống lại chính sách Đại nhảy vọt của Mao từ Hội nghị Lư Sơn (1959). Bị quy tội phản đảng cách chức và kỉ luật. Trong Cách mạng Văn hóa bị đấu tố đánh đập rồi quy tội gián điệp. Bị thầm vấn hàng trăn lần. Mắc bệnh không được chạy chữa, chết ngày 29/11/1974. Trước lúc chết xin được gặp vợ đã li hôn đang lao động cải tạo ngoại ô Bắc Kinh nhưng bị vợ từ chối. Bình đựng tro cốt ghi thành họ tên khác. Được khôi phục danh dự năm 1978. Ghi chép trong tù xuất bản thành sách nhan đề “Bành Đức Hoài tự thuật” (ND).
[10] Xem 馬輅,佩璞,馬秦泉,《彭德懷廬山起禍》(Bành Đức Hoài – Tội khởi từ Hội nghị Lư Sơn), Nhã Lâm xuất bản xã, 1990, tr.36.
[11] Trương Chí Tân (1930-1975), đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Bị bắt tù từ 1969 cho đến 1975 vì dám phê phán sùng bái cá nhân và bệnh tả khuynh. Khác biệt giữa hai người phụ nữ Trương Chí Tân và Vương Bối Anh ở chỗ Trương trước sau không phủ nhận tư cách đảng viên của mình, trong lúc Vương sớm xin ra khỏi đảng. Trương trước lúc đem ra tử hình đã bị tra tấn đến phát điên nhưng vẫn bị cho là giả vờ trong lúc Vương khi đưa ra bắn bị xem là điên. Vương bị siết cổ khi đem ra pháp trường còn Trương bị cắt yết hầu trước khi xử tử. Năm 1978 Trương được khôi phục danh dự, năm 1979 công nhận liệt sĩ (ND).  

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt gian trong lịch sử -phần 2

Nguyễn Ngọc Lanh
– Một nguyên tắc “xét xử lại” ở đây là – nếu chứng cứ chưa rõ – cần suy đoán có lợi cho bị cáo; như vậy tránh được oan sai, nhất là bị cáo không còn cơ hội tự bào chữa.
– Một nguyên tắc khác là không dùng quan điểm thời nay phê phán các nhân vật thời xưa. Mỗi thời, mỗi xã hội có niềm tin, quan điểm và lẽ sống khác nhau. Cả xã hội thời xưa coi cướp ngôi là xấu, còn ngày nay coi “cướp chính quyền” là cách mạng.
Càng không dùng quan điểm của phe phái này để lên án phe phái đối địch – nhất là trong nội chiến.
– Nguyên tắc thứ ba: Ở đây, chỉ xét hành vi “bán nước”. Khi tổ quốc đã mất hẳn vào tay ngoại bang (không còn “nước” để mà “bán”) thì có thể phạm tội gì khác (ví dụ, tội cộng tác với giặc làm hại lợi ích của dân, của nước) chứ lấy đâu ra cái tội “bán nước”. Ông Hoàng Cao Khảikhông phạm tội “bán nước” – vì “nước đã mất từ lâu rồi”. Thậm chí đến nay có người cònthanh minh cho ông về quá trình “cộng tác với giặc đàn áp cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng“.
– Sử dụng Lịch Sử như một môn khoa học, để rút ra các bài học hữu ích; mà không lợi dụng Lịch Sử như một công cụ để làm chính trị.
Kiều Công Tiễn
Thời ông, chức tiết độ sứ và thứ sử do triều đình bên Tàu phong (từng nhiệm kỳ); còn hào trưởng (thủ lĩnh địa phương) là người Việt (hoặc đã việt-hóa) do gây dựng cơ nghiệp từ lâu đời mà có. Suốt 25 năm cả Kiều Công Tiễn và Dương Đình Nghệ đều là hào trưởng một châu, đều được họ Khúc – nhân danh Tiết độ Sứ – phong là thứ sử. Khi bên Tàu hết loạn (chia thành 10 nước) Khúc Thừa Mỹ (thiếu sáng suốt) đã thần phục nhà Lương (ở xa) mà “cứng đầu” với nhà Nam Hán ở ngay sát nách. Ông bị Nam Hán bắt mà không hào trưởng nào kịp (hoặc dám) cứu. Đây sẽ là cái cớ để sau này Kiều Công Tiễn đổ tội cho Dương Đình Nghệ.
Kiều Công Tiễn là hào trưởng và thứ sử châu Phong, cùng thời với Dương Đình Nghệ. Châu này rộng hơn, nhưng chủ yếu là đồi núi trung du, không trù phú bằng châu Ái của Dương Đình Nghệ (và sau này là Ngô Quyền). Thực lực của châu Phong không bao giờ đủ để nhòm ngó Đại La.
Khi Dương Đình Nghệ đem quân từ châu Ái ra chiếm Đại La, đuổi Lý Tiến về Tàu, chiếm chức Tiết Độ Sứ của ông ấy, rồi chuẩn bị đánh quân Hán sang cứu, Kiều Công Tiễn đã mang cả đạo quân từ châu Phong về Đại La hưởng ứng; trong khi Đinh Công Trứ, Đỗ Cảnh Thạc… chỉ tham gai chủ yếu bằng tài năng cá nhân. Có công lớn, Kiều Công Tiễn được phong thêm chức “tướng”, trong khi vẫn là thứ sử, hào trưởng. Thanh thế đứng ngay sau Dương Đình Nghệ. Gán cho Kiều Công Tiễn nằm trong số 3000 con nuôi của Dương Đình Nghệ là rất bậy.
Thực tế, Dương Đình Nghệ làm tiết độ sứ nhưng chưa chính danh – tức là chưa được triều đình bên Tàu phong cho. Ý thức dân tộc chưa đủ cao để ông vứt béng cái chức này, mà xưng vương. Cũng có lẽ ông chưa biết rằng triều Nam Hán không mạnh, thậm chí đang suy tàn, nên ông cứ cam chịu “tiết độ sứ” suốt 6 năm. Có lẽ “nếu” Nam Hán cho sứ sang phong ông “chính thức” làm tiết độ sứ, ông cũng mừng mà nhận… Tất cả, là những điều kiện để Kiều Công Tiễn nảy sinh tham vọng.
Khi Công Tiễn giết Đình Nghệ – với cái cớ “không cứu chủ họ Khúc” – đoạt chức Tiết Độ Sứ, ông vẫn mong được Nam Hán công nhận để có chính danh với các thế lực chống đối trong nước. Việc cầu cứu quân Nam Hán là vậy. Ông hy vọng, quân Nam Hán sẽ giúp ông chính thức làm Tiết Độ Sứ.
Dù xuất phát từ quan điểm thời xưa hay thời nay, Công Tiễn vẫn có tội – nặng hoặc cực nặng – mà công lao cũ không thể chuộc được. Ông bị giết là xứng tội. Sử sách ta ít nhắc vai trò “việt gian” của ông, vì chuyện đã lâu (thế kỷ X). Ngoài ra, ít còn tính thời sự. Để phục vụ việc chống Pháp (thế kỷ 19 và 20), người ta xây dựng các nhân vật hiện đại hơn: Nguyễn Ánh, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan… Đúng đến đâu chưa biết, nhưng (dù đã chết) họ vẫn phục vụ những mục đích chính trị nhất định. Cần nhất, làm cho ai cũng nhất trí nhận định.
Ngô Nhật Khánh
Về nhân cách riêng, ông là con người kiên định với niềm tin sắt đã và thực hiện nó với ý chí không gì lay chuyển nổi. Với loại người này, đối thủ không thể lung lạc được; do vậy, sẽ không thể dung tha mạng sống, và cũng không thể không kính phục và sợ hãi.
Ông Ngô Nhật Khánh tin rằng ngôi vua phải thuộc về họ Ngô, với chiến công mở ra nền độc lập cho nước ta. Hậu sinh chúng ta bị các nhà viết sử thuyết phục, chứ Ngô Nhật Khánh tận mắt thấy họ Ngô chống xâm lược, còn họ Đinh gây nội chiến. Công và tội khác nhau như trắng và đen. Do vậy, ông coi việc họ Đinh thôn tính cơ nghiệp họ Ngô là phi nghĩa, bất chính; là kẻ thù không thể chung sống.
Nếu chúng ta vẫn quen chê cười những người ăn phải “bả vinh hoa”, hay “bùa phú quý” mà quên lý tưởng, ắt  chúng ta phải khâm phục Ngô Nhật Khánh. Nhà Đinh mua chuộc ông tưởng đã ở mức tột đỉnh: Mẹ ông trở thành hoàng hậu, bản thân ông trở thành phò mã (em rể Đinh Liễn) và cũng là anh vợ Đinh Liễn; nhưng ông vẫn không quên mối thù dòng họ Ngô bị tước đoạt cơ nghiệp.
Có người viết: Ngô Nhật Khánh “xẻo má” vợ. Đó là sự dễ dãi, nông cạn, do lòng yêu ghét. Xẻo má và rạch mặt là hai việc khác nhau. Lệ xưa thế này: dùng mũi nhọn của dao (hoặc kiếm) rạch nông lên mặt (đủ để thành sẹo vĩnh viễn) để cảnh báo, để nói lên quyết tâm, ý chí… Ngô Nhật Khánh đã làm như vậy với mục đích gửi một thông điệp sắt đá tới họ Đinh. Hiểu vậy, vấn đề sẽ đơn giản hơn là tán rộng về… sự dã man (!).
Phẩm cách một người là chuyện cá nhân, có thể đáng khâm phục – cũng là chuyện cá nhân với nhau. Lợi ích dân tộc mới là cao nhất. Trên quan điểm này, hậu thế lên án Ngô Nhật Khánh, là đúng. Và hậu thế ca ngợi đức thánh Trần (quên thù riêng) càng đúng.
Lên án Ngô Nhật Khánh mức nào? Ông có “bán nước” không? Ông làm quái gì  có nước để mà bán (nước là của vua Đinh)?. Nhưng hẳn là ông đã thuyết phục rất giỏi và hứa hẹn “như thật” với vua Chiêm về những quyền lợi nếu ông lấy lại được nước. Cứ cho là hợp đồng đã được ký kết. Vua Chiêm đã đồng ý đánh bạc. Quân Chiêm đã được huy động trên thực tế, đã chuẩn bị đổ bộ lên đất ta. Nhưng hợp đồng đã bị Trời phá (bão). Chưa gây hậu quả cụ thể. Nếu Nhật Khánh không chết trong cơn bão, nếu ông không chạy thoát theo vua Chiêm, nếu ông bị vua Đinh bắt… (3 cái nếu) thì tử hình vẫn xứng với tội. Càng xứng tội, vì nước ta nhỏ, ngày đêm ngay ngáy lo bị xâm lược. Cảnh cáo nghiêm khắc là cần thiết.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt gian trong lịch sử

Nguyễn Ngọc Lanh
Từ ngữ
Việt-gian là tên gọi dành riêng cho người Việt phạm tội “bán nước”. Muốn bán, phải có người mua. Người “mua nước” chỉ có thể là ngoại bang.
Khái niệm “bán nước” khá mù mờ. Thôi thì cứ tạm hiểu thế này: Đó là hành vi mưu lợi riêng bằng cách giúp ngoại bang chiếm được một phần hoặc toàn bộ các loại chủ quyền khác nhau của quốc gia. Bán rẻ tài nguyên là có tội, nhưng có thể chưa tới mức gọi là “bán nước”. Nhưng để mặc cho ngọai bang chiếm một hòn đảo: Quá đủ để gọi là “bán nước”.
Âm mưu bán nước với hành vi thực tế bán nước là những mức độ rất khác nhau của tội phạm – cũng giống như “giết người” mới chỉ là âm mưu hay đã có hành vi thực hiện. Và nếu đã thực hiện, thì điều quan trọng nhất là hậu quả cụ thể.     
 Thời xa xưa: Ca ngợi đế quốc và hoàng đế…
Một nước, nếu mua được (chiếm, hoặc thôn tính được) nhiều nước khác, bờ cõi được mở rộng, được gọi là đế quốc. Người đứng đầu đế quốc được gọi là hoàng đế, được lịch sử bản địa ca ngợi hết lờiNói khác, làm nên nghiệp “đế” (mở mang bờ cõi) là thành công tột đỉnh của một cá nhân, đem lại vinh quang cho cả nước – với những trang sử hết lời tán tụng. Sử ta ca ngợi vua Lê Hoàn “đuổi Tống, bình Chiêm” – mà không nói ông “xâm lược Chiêm”. Đó là quan niệm xưa kia. Lịch sử từng thán phục hoàng đế Thành Cát Tư (gây dựng đế quốc Mông Cổ), Tần Thủy Hoàng (đế quốc Tần), Pyotr Đại đế (đế quốc Nga)…
Về sau, từ “hoàng đế” bị lạm dụng. Vua nước bé xíu (chỉ lo bị xâm lược) cũng xưng “đế”. Cách đây trên ngàn năm nước ta đã có Đinh Tiên Hoàng Đế.
 Thời nay: Tưởng là đế quốc, nhưng không phải…
Thời nay, từ “đế quốc” vẫn được sử dụng, nhưng nghĩa đã khác. Trước hết,  chẳng vinh dự gì; do vậy, hễ bị ai gọi thế, cứ chối đây đẩy. Có trường hợp, ghét nước nào cứ vu cho là “đế quốc”. “Đế quốc Mỹ” liệu có phải là tự xưng?. 
Nhiều trường hợp, nhìn hình thức cứ tưởng đó là đế quốc (gồm nước chúa và các chư hầu), nhưng không phải. Liên bang xô viết gồm Nga (khổng lồ) và 14 nước lắt nhắt xung quanh, thoạt nhìn rất giống đế quốc thời Pyotr Đại đế. Nhưng không phải: Đó là 15 nước anh em, keo sơn không gì có thể chia lìa…

Tương lai: Thế giới đại đồng, xóa biên giới…
Phải tồn tại nhiều nước mới có thể sinh ra đế quốc. Trong tương lai, nếu lý tưởng được kiên định, thế giới sẽ “đại đồng”, không còn biên giới, không còn khái niệm đế quốc nữa. Đó là mục tiêu tối cao, tối hậu của CNCS. Để tiến tới đó, lực lượng (hoặc cá nhân) nào càng xóa nhanh biên giới, càng có công. Hoàn toàn dễ hình dung – nếu kiên định lý tưởng – sẽ tới một lúc các nước nhỏ quanh Nga đồng hóa Nga vào mình; Trung Quốc xin gia nhập các nước chư hầu cũ…
 Chuyện trước mắt: Căm ghét “bọn” bán nước
Việt-gian chỉ đáng gọi là “bọn”, hoặc “bè lũ”: Bọn bán nước. Thật may mắn, tiếng Việt có vô số từ biểu cảm, nói lên lòng yêu ghét. “Bọn” nói lên sự khinh miệt. Xin nhớ rằng, “bọn” và “chúng” ở các sách (chữ Hán) xưa kia không hàm ý khinh rẻ. Nhưng dịch sang tiếng Việt – nhất là từ sau 1945 – các từ này mới mang ý nghĩa miệt thị và được sử dụng ngày càng nhiều, không những trong báo chí, văn thơ, nghị luận… mà cả trong khoa học: nhất là môn Lịch Sử. Các cháu học sinh cấp I và II khi học Lịch Sử đã gặp “chúng” “bọn”, bè lũ”… nhan nhản trong sách.
Nguyên nhân nào khiến từ “bọn” lên ngôi? Có lẽ trước 1945 chúng ta chưa phát hiện hết các loại kẻ thù (?), nay phải bổ sung cho đủ. Hoặc là, sau 1945 số kẻ thù của chúng ta cứ càng ngày càng đông đảo, khiến từ “bọn” càng đắc dụng?.
Căm ghét và cảnh giác với bọn bán nước đã thành tình cảm thường trực của dân Việt. Điều này có lý do. Bởi vì:
       – Chống xâm lược là mảng nổi bật trong Lịch Sử nước ta. Mỗi khi bị xâm lược, chuyện cảnh giác với hành vi bán nước là tất nhiên. Hơn nữa, không ai công khai bán nước; cho nên luôn nhắc nhở không bao giờ là thừa. 
       – Nội chiến cũng là mảng lớn khác trong Lịch Sử nước ta. Do “một mất, một còn”, mỗi phe đều phải huy động mọi khả năng – kể cả cầu cứu ngoại bang.
Chính do vậy, chúng ta đã chọn những nhân vật lịch sử “điển hình bán nước”, bắt họ sống mãi, để đời đời có đối tượng cụ thể mà nguyền rủa. Đây là “mặt phải” của vấn đề. Còn “mặt trái”? Đó là, tìm cách quy kết “phe đối địch” là bán nước. Chẳng biết quy kết đúng đến đâu, nhưng phe nào cũng cố làm cho dân tin như thế. Dường như cuộc nội chiến nào cũng có đấu khẩu “ai bán nước”. Đúng hay sai, có khi rất lâu về sau mới tỏ. Cứ tưởng quan tổng đốc Lê Hoan bán nước, té ra sai – khi hồ sơ của mật thám Pháp được giải mật.

Phải có vị trí tầm cỡ mới có thể bán nước
– Anh lính quèn tự ý đầu hàng địch: đúng là có tội; ví dụ, tội phản bội tổ quốc. Nhưng anh ta có rao ầm ỹ “bán nước” cũng chẳng ai dại mà bỏ tiền mua. 
– Một ông tướng đầu hàng quân địch thì chuyện đã khác. Nếu ông ta còn đem cả đội quân chạy sang phe địch thì chuyện lại càng khác. Thế là tội bán nước hay phản bội? Hay cả hai tội? Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, Trần Kiện đã đem cả vạn quân đầu hàng giặc – tội đáng chết vạn lần. Nhưng liệu trường hợp Trần Kiện (và các trường hợp tương tự) có dẫn đến mất nước không? Chưa chắc. Có người bảo, Trần Kiện đã “bán” cho giặc một cơ hội và Lịch Sử đã có nhiều bằng chứng.
– Trần Ích Tắc và Trần Kiện. Thực tế, khi hàng giặc Trần Ích Tắc chỉ đem theo gia đình; còn Trần Kiện đem theo cả đạo quân. Nếu (giả sử) vì Trần Kiện mà mất nước thì ngày nay Trần Kiện sẽ thành nhân vật điển hình bán nước, chẳng nhường cho Trần Ích Tắc. Nhưng thời Trần, nước ta không mất. Do vậy, đến nay, cứ 100 học sinh nhớ tên Trần Ích Tắc, có lẽ chỉ 1 học sinh biết đến Trần Kiện. Tại sao? Tại vì “tầm cỡ” hai người khác nhau trong vai trò bán nước. Nếu (giả sử) giặc Nguyên chiếm được nước ta, cần một một người đủ “tầm cỡ” làm vua (bù nhìn) thì Trần Ích Tắc là con bài phù hợp gấp trăm lần Trần Kiện.
– Sẽ rất nguy hiểm. nếu một người (hoặc một nhóm) nắm quyền lực tối cao mà rắp tâm bán nước. Hành vi bị che giấu cho tới khi khó cứu vãn. Lữ Gia, quan tể tướng 4 triều, khi phát hiện mẹ vua (Cù thị) âm mưu bán nước thì đã quá muộn.
 Vai trò ngoại bang trong nội chiến ở nước ta
Mục tiêu muôn thuở là “đắc lợi”, nhưng mỗi khi can thiệp, ngoại bang giương lên những chiêu bài đẹp đẽ. Ví dụ, “bênh vực chính thống” – tức là xuất phát từ lòng hào hiệp, vô tư. Thời nhà Hồ, giặc Minh chiếm được nước ta dưới chiêu bài “diệt Hồ, phục Trần”. Hoặc chiêu bài “ủng hộ chính nghĩa” – tức là cùng theo đuổi một ý thức hệ cao cả.
Bằng chính những chiêu bài ấy, nhiều vua nước ta đã từng “giúp” Chiêm Thành, Chân Lạp mỗi khi nội bộ các nước này hục-hặc nhau. Vậy thì, vua Tầu ắt phải thành thạo bài học kinh điển đó gấp ngàn lần vua ta.
 Vài trường hợp đã gặp
1) Trường hợp hai phe nội chiến ngang sức, cùng cầu cứu Thiên triều? Thiên triều sẽ không chối phắt phe nào, mà lừng khừng chờ đợi. Trong nội chiến Lê-Mạc, nhà Lê mất ngôi năm 1527, chỉ hai năm sau đã kiếm được người sang Tàu cầu cứu (1529). Rồi ngay khi vừa mới nhen nhóm lực lượng ở Thanh Hóa (1533) đã kịp cử Trịnh Duy Liêu đi cầu cứu lần nữa; nhưng nhà Minh vẫn chỉ ừ ào… Và đợi cơ hội. Trong khi đó, nhà Mạc cũng kịp sang nhà Minh tỏ ý thần phục, đồng thời tâu với nhà Minh rằng “vua” mà Nguyễn Kim dựng lên ở Thanh Hóa chỉ là kẻ giả mạo tôn thất nhà Lê… Rốt cuộc, nhà Minh đứng ngắm hai phe quần thảo suốt 60 năm. Máu chảy thành sông, xương chất thành núi. 
2) Nếu phe cầu cứu ngoại bang là phe đang lâm vào thế bĩ cực, cùng đường, cạn nẻo, thì… ngoại bang sẽ tùy hoàn cảnh và điều kiện mà lựa chọn.
  1. a) Nếu nhân cơ hội này mà chiếm được nước thì không bao giờ bỏ lỡ. Đó là trường hợp nhà Thanh cử ngay 20 vạn quân sang “giúp” vua Lê Chiêu Thống. Thực ra, tình cảnh ông vua này chưa thảm hại bằng tình cảnh ông Nguyễn Ánh khi bị Tây Sơn bao phen truy đuổi sát gót, đã cầu cứu Tây. Sự khác nhau là khoảng cách địa lý.
  2. b) Nếu giúp mà biết chắc không thể xoay chuyển tình thế thì… “xin đủ” (!). Đó là trường hợp sau khi Tôn Sĩ Nghị đại bại, Nguyễn Huệ đang hùng cường, vậy mà Lê Chiêu Thống vẫn vật nài “cứu tiếp” – với lý sự “suốt 200 năm qua, tổ tiên Chiêu Thống đã làm tròn chức phận bề tôi với Thiên Triều”. Té ra, ý thức hệ chẳng qua chỉ là chiêu bài của nhà Thanh, có thể vứt béng khi hết tác dụng.
3) Khoảng cách địa lý. Nước ta bao nhiêu lần là nạn nhân của ý đồ bành trướng chỉ vì nằm quá gần nước… bạn. Thời nội chiến Trịnh-Nguyễn, chúa Nguyễn hầu như bất cần, bất ngại nhà Minh, nhờ ở xa. Bầy tôi cũ của nhà Minh – khi muốn trốn nhà Thanh – đã tìm đến đất chúa Nguyễn, chứ không đến đất chúa Trịnh.
4) Hai ngoại bang khổng lồ, kình địch nhau, nhưng chưa dám xung đột trực tiếp (sợ thành chuyện lớn, không kiểm soát nổi); mỗi bên bèn giúp một phe trong nội chiến. Ví dụ, Mỹ và Liên Xô giúp Quốc và Cộng trong nội chiến Trung Hoa. Đây là chuyện của thời nay.
5) Trường hợp tổng hợp, ví dụ Nguyễn Ánh cầu cứu Tây khi hết đất cắm dùi. Khoảng cách: quá xa xôi, diệu vợi. Triển vọng cứu giúp: liệu có cứu vãn nổi số phận một kẻ cầu bơ cầu bất?. Mối lợi hứa hẹn: liệu có bõ với công sức bỏ ra…
 Những “đấng” Việt gian có tên trong lịch sử
Phần tiếp theo, chúng ta thử đánh giá các “đấng” sau đây:
– Kiều Công Tiễn
– Ngô Nhật Khánh
– Trần Ích Tắc
– Lê Chiêu Thống
– Nguyễn Ánh
– Ngô Đình Diệm
Nguyên tắc xét xử ở đây là suy đoán có lợi cho bị cáo. Nhất là bị cáo (đã chết theo nghĩa đen, chỉ còn “sống” trong sách vở) hết cơ hội tự bào chữa

Phần nhận xét hiển thị trên trang