Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2014

Nói sai phải xin lỗi là đúng rồi, sao lại toét miệng cười hở nhà văn nhớn?

Tôi gửi lời xin lỗi Hội nhà văn Việt Nam

Nhà văn Nhật Tuấn/ Văn Việt 
2/ 2/Hội có công văn CAM KẾT VỚI CÔNG AN không đưa bản thảo tiểu thuyết nói trên vào diện xét thưởng cuộc thi tiểu thuyết của Hội? Nếu đúng như vậy thì: 3/ Quan hệ của Hội Nhà Văn VN với Công an là thứ quan hệ gì?

TÔI GỬI LỜI XIN LỖI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM

Mới đây, trên STT cua một blogger loan tin Hội nhà văn VN gửi công văn đề nghị công an  "truy tố nhà văn Phạm Thành".

Tôi đã viết comment:"Sao Hội nhà văn lại đòi truy tố hội viên của mình? Hèn nhát không bênh vực được thì im mồm, sao còn đánh anh em? Ai là chấp hành lên tiếng đi chớ ??? Không lẽ Hội nhà văn biến thành hội mật thám à ???"

Tôi đã gọi điện cho một người có trách nhiệm ơ HNV và được biết đó là văn bản công an soạn yêu cầu Hội nhà văn CAM KẾT không được tuyên truyền, không được đưa vào diện xét thưởng tiểu thuyết "Cò hồn xã nghĩa" của ông Phạm Thành. Ông Đỗ Hàng, Chánh văn phòng có ký vào bản cam kết đó

Chỉ thế thôi hoàn toàn không có chuyện Hội nhà văn gửi công văn cho công an yêu cầu truy tố nhà văn Phạm Thành.

Để rộng đường dư luận tôi gọi điện cho ông Phạm Thành. Ông trả lời: "KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC công văn đó mà chỉ nhìn thấy chữ ký của ông Đỗ Hàng. Còn chuyện "công văn đề nghị truy tố" là do ý kiến anh cán bộ an ninh nói lại.

Vậy đã rõ, không hề có cái gọi là công văn của Hội nhà văn VN đề nghị công an truy tố nhà văn Phạm Thành.

Tôi là người chỉ tôn trọng sự thật.

Vậy xin nói lại cho rõ.

NHẬT TUẤN
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đang trong vòng lao lý mà vẫn vẫn nghĩ đến đồng nghiệp xứ người, kể cũng đáng nể!

TUYÊN BỐ CỦA ĐIẾU CÀY VÀ TRƯƠNG DUY NHẤT TỪ TRẠI GIAM SỐ 6


Dưới đây là tuyên bố của Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và nhà báo Trương Duy Nhất được viết từ trại giam số 6 "khét tiếng", Bộ Công An. Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã giấu vào nẹp áo và mặc ra sân bay lên đường tới Nước Mỹ. Hình ảnh do Nguyễn Trí Dũng, con trai Anh Điếu Cày đăng tải trên Fb. 


"Chúng tôi, Nguyễn Văn Hải Điếu Cày và Nhà báo Trương Duy Nhất thay mặt các nhà báo Việt Nam đang bị cầm tù gửi lời chia buồn sâu sắc đến gia đình, đồng nghiệp của 2 nhà báo Mỹ bị lực lượng phiến quân Hồi giáo IS sát hại là James Poley và Steven Sotloff; gia đình, bạn bè của tình nguyện viên người Anh và công dân Pháp vừa bị sát hại.

Chúng tôi bày tỏ sự lo lắng và cảm thông sâu sắc đến gia đình các con tin đang bị giam giữ bởi các tổ chức khủng bố.

Chúng tôi ủng hộ mọi nỗ lực của cộng đồng quốc tế chống khủng bố và mọi nỗ lực để giải cứu và đòi trả tự do cho các con tin.

Chúng tôi kêu gọi các nhà báo Việt Nam, các tổ chức báo chí truyền thông, đồng nghiệp trên khắp thế giới lên tiếng mạnh mẽ để bảo vệ các nhà báo đang tác nghiệp tại những vùng chiến sự nguy hiểm và các quốc gia độc tài về truyền thông. Thúc đẩy quyền tự do ngôn luận, bảo vệ Nhân quyền. 
_________________________________________________


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

Mình cứ tưởng Nhất viết chữ đẹp lắm cơ, học cao mà..Hóa ra không phải. Chữ xấu đã đành, nét chữ vừa nát vừa yếu. Chả phải thầy xem tướng chữ cũng biết Nhất khổ là phải vì chữ viết đổ nghiêng ngửa, chả hoành tị nào!!

BÚT TÍCH TRƯƠNG DUY NHẤT THEO ĐIẾU CÀY ĐẾN MỸ



FB Nguyễn Trí Dũng: Những hình ảnh đầu tiên ngay khi bố mình vừa về nơi nghỉ ngơi tối hôm qua, đó là lấy những lá thư và đơn từ của anh em tù nhân mà ông đã khâu vào sau chiếc áo ra. Ai bảo ông không có hành trang, ai bảo hành trang của ông nhẹ nhàng ?!






Phần nhận xét hiển thị trên trang

Quảng Ngãi: Tàu cá Việt Nam bị tàu “lạ” đập phá ở Hoàng Sa

Thứ Tư, 22/10/2014 - 21:46
 
Dân trí - Ngư dân Lý Sơn đang khai thác rau chân vịt gần đảo Bom Bay (thuộc vùng biển Hoàng Sa), bất ngờ bị một tàu “lạ” tấn công, chặt phá dây neo, đập kính cabin và đổ toàn bộ rau châu vịt xuống biển.

Xác nhận với PV Dân trí, chiều tối ngày 22/10, bà Phạm Thị Hương - Phó Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn cho biết: “Sau khi cập cảng Lý Sơn, tàu cá QNg 96017-TS đã kịp thời trình báo sự việc. Hiện địa phương đang chỉ đạo lực lượng biên phòng xác minh, thẩm tra thiệt hại và báo cáo cho huyện”.

Phần kính cabin bị đập bể hoàn toàn.
Phần kính cabin bị đập bể hoàn toàn.

Trước đó, vào ngày 27/9, tàu cá QNg 96017-TS do ngư dân Nguyễn Ngọc Khánh (ngụ xã An Vĩnh, Lý Sơn) làm thuyền trưởng cùng 6 ngư dân ra vùng biển Hoàng Sa hành nghề. Đến khoảng 12h00 ngày 14/10, trong lúc đang khai thác rau chân vịt gần khu vực đảo Bom Bay, bất ngờ xuất hiện một tàu “lạ” có số hiệu 46106 tiến đến tấn công.

Hơn 400m dây hơi bị chặt đứt.
Hơn 400m dây hơi bị chặt đứt.
 

“Thấy chúng tiến đến bất thường, tôi linh tính đều chẳng lành, rồi cho tàu nổ máy chạy ra khỏi đó. Sau đó, bọn chúng dùng ca nô cùng 6 người rượt đuổi theo, áp sát mạn tàu và nhảy lên tàu dùng hung khí uy hiếp. Trước khi bỏ đi, bọn chúng chặt phá dụng cụ hành nghề và trút toàn bộ rau chân vịt xuống biển”, thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Khánh bức xúc kể lại.

Theo thống kê của tàu QNg 96017-TS, tổng thiệt hại khoảng 80 triệu đồng vì bị tàu “lạ” chặt phá 400m dây hơi, đập bể toàn bộ phần kính cabin, đâm thủng 1 thuyền thúng, lấy 1 mỏ neo cùng đòn dây neo và đổ 2 tấn rau chân vịt đã phơi khô xuống biển.

Hồng Long
______________
Bài trên Người Lao động  – Tàu cá của ngư dân bị đập phá tại Hoàng Sa (NLĐ). “Sau khi cập được mạn tàu cá, 6 người đã lên tàu cá, uy hiếp ngư dân và chặt phá 400 m dây hơi, làm hư hỏng 1 thuyền thúng, đập phá cửa kính ca bin và lấy đi 1 mỏ neo cùng một đòn dây neo“.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tô Văn Trường: ĐỪNG LẤY ĐỘC GIẢI ĐỘC - GIÁ NHƯ NỐI TIẾP GIÁ NHƯ




ĐỪNG LẤY ĐỘC GIẢI ĐỘC - GIÁ NHƯ NỐI TIẾP GIÁ NHƯ
Tô Văn Trường

Đất nước này không phải là của riêng,  tài sản sở hữu riêng của nhóm lợi ích  và những người cầm quyền. Những vấn đề kinh tế trọng đại đụng tới quốc kế dân sinh phải được công khai minh bạch trong cả nước và có sự đồng thuận, giám sát của cả nước. Trước hết, là phải tạo ra một cơ hội để cho các nhà quản lý, các nhà lập chính sách và các nhà khoa học cùng nhau thảo luận để có sự đồng thuận cao,  đáp ứng được lòng mong mỏi và kỳ vọng của nhân dân.

Giá như chủ trương khai thác bô xít chỉ có tính chất thử nghiệm, quy mô nhỏ, công nghệ tiên tiến, nhà máy đặt ở ven biển  (không phải vận chuyên xút, than lên Tây Nguyên và nếu có sự cố bùn đỏ thì thải ra biển) thì chắc công luận không phải chứng kiến việc tranh cãi dai dẳng, quyết liệt trong suốt thời gian qua.

Giá như lãnh đạo Đảng - Nhà nước và những người có trách nhiệm trực tiếp liên quan đến dự án bô xít Tây Nguyên phân biệt rõ ràng quyền lực và năng lực thì cũng không dẫn tới hậu quả, không thể che đậy được về mặt kinh tế và môi trường. Giá như những người có trách nhiệm quản lý điều hành đất nước thực sự coi trọng trí thức, thì lòng tin của giới trí thức không bị bị xói mòn như ngày nay.

Giá như nhiều quyết định đã được đưa ra không bởi những người có quyền lực làm việc theo nhiệm kỳ, không biết hay không chịu lắng nghe người có năng lực trong lĩnh vực cụ thể mà người lãnh đạo cần biết, thì người dân đã không phải gánh chịu mọi hệ lụy vv…Tiếc thay, lịch sử lại không có hai từ “giá như”! 

Khai thác mỏ

Tôi đọc tài liệu của người bạn, chuyên gia nước ngoài gửi về, thấy đào mỏ là đụng đến “long mạch” nghĩa là đến hệ thống nước tự nhiên đặc biệt là nước ngầm, phá vỡ sự trao đổi sinh học và hóa học giữa nước khoáng và đất.

Từ khoáng vật tinh chế sản phẩm dù theo quy trình hỏa luyện (pyrometallury), thủy luyện (hydrometallury) hay điện luyện (electrometallury) đều gây ô nhiễm môi trường thiên nhiên. Phương pháp hỏa luyện sinh ra nhiều bụi trộn với sulfur dioxyd và carbon dioxyd là hai khí có hiệu ứng nhà kính. Phương pháp thủy luyện ít gây ô nhiễm không khí nhưng lại làm ô nhiễm nguồn nước. Phương pháp điện luyện quy tụ cả 2 vấn đề về môi trường không khí và nước thải tuy khối lượng phải xử lý ít hơn phương pháp hỏa luyện và thủy luyện.

Khai thác mỏ thường cần dùng nhiều đến hóa chất và điện năng vì thế đối với những quốc gia không có khả năng tích tụ về vốn cần rút ra bài học “Dutch Disease – căn bệnh Hà Lan” hay là lời nguyên tài nguyên mà cộng hòa Nauru là ví dụ điển hình. 
 
Nhà máy điện phân nhôm 

Qua phương tiện thông tin đại chúng, người dân mới được biết gần đây đã động thổ xây dựng nhà máy điện phân nhôm ở Lâm Đồng. Theo tôi hiểu, người ta đã thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) nhưng bây giờ mới đang thành lập Hội đồng thẩm định cấp Nhà nước, chẳng khác gì coi như việc đã rồi. Tôi đã tham gia một số Hội đồng khoa học thẩm định cấp Nhà nước nên thấu hiểu nỗi éo le, trách nhiệm của các nhà khoa học dưới sức ép của chủ trương lớn! 

Theo tôi, việc luyện nhôm chỉ là hy vọng gỡ gạc được phần nào trong chuyện đã rồi của dự án bô xit Tây Nguyên (Nhân Cơ và Tân Rai) . Cần lưu ý, đừng lấy độc giải độc, dễ dẫn đến tiền mất, tật mang.   

Muốn làm nhôm phải nghiên cứu thật kỹ vì đòi hỏi tốn nhiều điện năng và tác động lớn đến môi trường. Ta có cryolite (làm chất trợ dung) không? Điện cực có sản xuất được không? Bây giờ người ta đã làm điện cực tự thiêu kết bằng than anthracite và vài chất hỗn hợp khác. 

Trước đây, Liên Xô  sản xuất nhiều nhôm vì có mấy thuận lợi : Giá thủy điện rất rẻ, nguyên liệu để sản xuất alumine lại là đá thải của một mỏ khai thác quặng để sản xuất phân lân ở bán đảo Kolskii, cũng không tốn kém gì thêm.

Thập niên 1960, người ta xây một nhà máy luyện nhôm ở Mourenx, tây nam nước Pháp để lợi dụng nguồn điện sản xuất từ mỏ khí tự nhiên gần đó. Sau khi nguồn khí tự nhiên đó cạn, người ta xây nhà máy luyện nhôm tại Dunkerque miền bắc nước Pháp và phải xây một nhà máy điện hạt nhân để phục vụ nhu cầu luyện nhôm.

Còn ta bây giờ thì rất khác, chỉ có một ưu thế là có bauxite (mà ngay việc khai thác nó và làm alumine đã lắm chuyện rồi).

Nhôm là kim loại thông dụng, rẻ tiền nhưng để sản xuất 1 tấn nhôm cần đến 2 tấn alumin, nửa tấn cacbon và 15.000 kwh, nhu cầu điện rất lớn mà điện khó tải đi xa.  

Trong chuỗi xử lý bauxite thành nhôm thì có khâu cần đến hydroxyt natrium nên nhà máy điện phân bauxite  thành nhôm phải được kèm thêm một nhà máy hóa chất này.

Nhưng luyện nhôm thì tốn điện nên mới nghĩ tới chuyện TKV làm thủy điện hoặc EVN chuyển vài nhà máy thủy điện cho TKV.  Cũng có thể đổi vài nhà máy thủy điện của EVN lấy mấy nhà máy nhiệt điện của TKV ở Cẩm Phả  vì giá thành điện từ thủy điện rẻ hơn từ nhiệt điện nhiều vv….Tuy nhiên, xin lưu ý đừng quên nước ta hiện đang thiếu điện (nhập khẩu của cả Trung Quốc), cần phải cân đối cho các ngành sản xuất ưu tiên (vì lý do an ninh và tính toán chi phí-lợi ích).

Chuyên gia  Trần Minh Huân, băn khoăn đặt vấn đề về luyện nhôm với  suất đầu tư US$ 575 triệu cho công suất 300 nghìn tấn là thấp nhất thế giới!? Thường suất đầu tư từ US$ 4.000 đến 5.000/tấn nhôm lỏng (molting-từ bể điện phân chẩy ra).  Doanh thu lên tới US$ 1,35 tỷ cho sản lượng 300 nghìn tấn, giá nhôm đến 2017 cao đến mức thế sao?. Vấn đề tiêu hao điện như thế nào? Mức tiên tiến thế giới hiện nay là 12.750 kWh/t Al (nhôm lỏng), 13.200 kWh/t Al (nhôm ingo-thỏi cục lớn).  Tiêu hao điện cực mức tiên tiến là 400-410 kg/t Al. Còn phát thải fluorine khoảng 0,5 kg/t Al.  Thông thường, nhà máy lớn như vậy có xưởng điện cực, có cán nhôm và làm billets.  Không rõ thiết bị điện 1 chiều  lấy từ nước nào, Rio Tinto-Alcan có công nghệ AP50 và 60 (dòng điện 570  và 600 kA) cho bể điện phân có công suất 4,3-4,5 tấn nhôm/ngày.  Công suất nhà máy điện phân nhôm lớn nhất thế giới hiện nay là 720 nghìn tấn Al, với 2 dãy bể, mỗi dãy 360 bể, áp dụng AP 500 ở Ả Rập và Ấn Độ.

Về vấn đề môi trường: Qúa trình điện phân thải ra một lượng chất thải fluorite: perfluorocarbons và hydrogen fluoride ở dạng khí, và sodium và fluoride nhôm và cryolite không dùng hết. Nhà máy điện phân nhôm tốt nhất thì có thể đạt 0,5 kg/tấn nhôm. Hydrogen fluorides rất độc đối với cây trồng quanh nhà máy. Khí perfluorocarbon là khí nhà kính mạnh và tồn tại lâu dài trong môi trường.

Nếu áp dụng qui trình Soderrburgh: điện cực anode được làm từ hỗn hợp than đá anthracite-coke-hắc ín và dầu mỏ là chất liên kết, thì sẽ tạo ra lượng khí phát thải lớn đó là polycyclic aromatic hydrocarbon vì hắc ín tiêu tan trong bể.

Bài học “kỳ tích sông Hàn”  

Từ bauxite nhìn rộng ra tình hình đất nước hôm nay vẫn loay hoay câu chuyện nợ công, nợ xấu, tái cấu trúc với áp lực “nguy cơ vỡ trận”, suy cho cùng vẫn là tài nguyên con người.

Thập niên 60 Hàn Quốc là một trong các nước nghèo đói, lạc hậu nhất Châu Á nhưng đã làm nên “Kỳ tích sông Hàn” là nhờ biết phát huy tổng lực của đội ngũ các nhà khoa học trong rất nhiều lĩnh vực, có vai trò vô cùng to lớn của lãnh đạo Hàn Quốc. Kỳ tích sông Hàn là một thành công dựa trên nhiều sự thất bại đắng cay và rút kinh nghiệm của rất nhiều nhà khoa học, cùng các nhà doanh nghiệp và hàng ngũ lãnh đạo. Họ dấn thân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không như ở ta làm dở, làm hư, có khi còn được điều chuyển hoặc quy hoạch lên chức cao hơn thì đừng có mơ đến “kỳ tích sông Hồng”!

Từ đầu thập niên 90, Việt Nam đã cử nhiều đoàn sang thăm quan học hỏi "mô hình tổ chức" và " mô hình sở hữu" của các Chebon ở Hàn Quốc  để làm các "quả đấm thép" cho nền kinh tế VN nhưng lại chỉ học mót được mỗi cái phần ngọn. Thay vì học "quản lý" theo đúng nghĩa của nó thì ta chỉ thích "quản trị"!

1. Hàn Quốc không thấy có ý định trở thành trung tâm tài chính của châu Á. Họ ăn phải “quả tạ” khủng khoảng tài chính năm 1997 nên  đã học được bài học nhớ đời.

2. Hàn Quốc ngay từ đầu đã đặt trọng tâm vào công nghiệp. Các đại học và trung tâm nghiên cứu tập trung vào khoa học, nghiên cứu công nghệ chứ không tập trung vào chủ nghĩa Mác-Lê hay kinh tế tài chính như ở ta. 

3. Hàn Quốc đề cao, coi trọng khoa học công nghệ. Số lượng các bằng phát minh, sáng chế mua của nước ngoài tăng liên tục trong những năm tiến hành công nghiệp hóa. Đáng chú ý là Hàn Quốc biết lựa chọn xu thế hiện đại của làn sóng công nghiệp và kết hợp với giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.

4. Hàn Quốc dựa vào vay vốn nước ngoài để phát triển chứ không khuyến khích FDI (đầu tư trực tiếp của nước ngoài). Họ muốn nắm công nghệ, do đó sẵn sàng mua, để học và từ đó phát triển lên. 

5.Việt Nam thì chỉ ham FDI vì để cho Tây làm hết mình chẳng cần làm, hay học, miễn là thu được vốn do góp đất và đem đầu tư vào địa ốc là tốt nhất. Thu hồi đất của dân không công khai, minh bạch, giá rẻ mạt, gây nên bất an, bất ổn xã hội, khiếu kiện triền miên của những người nông dân khốn cùng.

6. Hàn Quốc dựa vào phát huy doanh nghiệp tư nhân chứ không dựa vào doanh nghiệp quốc doanh. Tổng thống Pak Cheung He, thân sinh ra bà tổng thống hiện nay Pak Geun-hye, ông nổi tiếng là độc tài nhưng rất giỏi về kỹ trị, biết chọn những doanh nghiệp tư nhân có quá trình thành đạt, đẩy vốn cho vay, giúp họ phát triển vv... 

Các câu hỏi còn bỏ ngỏ

Từ dự án bô xit Tây Nguyên, nhìn rộng ra cả nước, còn biết bao nhiêu câu hỏi liên quan đến định hướng phát triển của đất nước, đến nhiệm vụ điều chỉnh mô hình tăng trưởng từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng xanh, bền vững. Câu hỏi được đặt ra là ngành kinh tế mũi nhọn của chúng ta là ngành nào? Có phải là ngành du lịch dẫn đến đầu tư phát triển các khách sạn, các sân gôn, các casino, các sân bay (Vân Đồn, Long Thành vv....), bến cảng mọc lên như nấm và các dịch vụ khác có liên quan kể cả dịch vụ xiếc?  Có phài là ngành lọc hóa dầu dẫn đến phải đưa Nhân Hội vào bổ xung quy hoạch không? Có phải là gang thép dẫn đến Formosa và khởi công xây dựng nhà máy luyện thép tại Lào Cai, thì với sản lượng đó, liệu các doanh nghiệp luyện cán thép Việt Nam có tồn tại, cạnh tranh được không? Miền Trung phải đi vào khai thác và phát huy thế mạnh là kinh tế rừng và kinh tế biển hay kinh tế du lịch? v.v…

Giá như chúng ta biết nhìn lại mình, vượt lên chính mình, rút kinh nghiệm từ tấm gương của ‘kỳ tích sông Hàn” và mô hình phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới “Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, xã hội dân sự” thì đã không phải cứ mãi loay hoay, mò  mẫm đi tìm mô hình phát triển cho đến cuối thể kỷ này vẫn chưa biết hài hình nó ra làm sao! 

Thay cho lời kết
 
Đất nước này không phải là của riêng, tài sản sở hữu riêng của nhóm lợi ích và những người cầm quyền. Những vấn đề kinh tế trọng đại, đụng tới quốc kế dân sinh phải được công khai minh bạch trong cả nước và có sự đồng thuận, giám sát của cả nước. Trước hết, là phải tạo ra một cơ hội để cho các nhà quản lý, các nhà lập chính sách và các nhà khoa học cùng nhau thảo luận để có sự đồng thuận cao đáp ứng được lòng mong mỏi và kỳ vọng của nhân dân.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyễn Thanh Sơn - Tôi đã ngu suốt chiều dài đất nước

Đất nước bốn nghìn năm
Đã có từng đêm chưa được ngủ yên
Có từ thời Trọng Thủy-Mỵ Châu
Cái ngu nó ở sau lưng mà ngươi không biết.
Lịch sử trải dài
Đinh Lê Lý Trần Lê
Bốn ngàn năm còn lặp lại mấy lần ngu
Trần Ích Tắc khom lưng quỳ gối.
Khi Nguyễn Huệ cỡi voi vào cửa Bắc
Có Lê Chiêu Thống ghi tên mình vào thế giới những thằng ngu

Tôi sinh năm năm lăm
Sau năm đình chiến có một ngày
Còn nằm trong nôi
Còn bú sữa mẹ
Nên chưa biết quanh mình đã có những thằng ngu.
Từ khi biết quẫy khóc, biết đòi bú, biết đái dầm
Biết nhìn ngắm cuộc đời
Tôi đã bắt đầu ngu
Ăn bo bo
Ghé củ mì
Thân thể gầy nhom suy dinh dưỡng
Tư duy còm cõi, mỏi mòn
Không ngủ khách sạn năm sao
Chưa ngồi phòng lạnh
Nên không xúi kẻ nhẹ dạ cả tin
Dụ khị ngư dân đóng vỏ sắt, sắm tàu đồng cầm gươm và đánh giặc
Thật thà như đềm, cung cúc làm ăn, những kẻ chưa biết mùi trận mạc
Không tấc sắt trong tay.
Làm lá chắn, vật hy sinh
Đừng rung cây nhát khỉ.

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để răng đen
Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ

Đừng để nó liếm dài liếm dài
Đến tận cùng đất nước
Khi nhắm mắt lìa đời trí chửa vỡ bung ra.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tìm hiểu chính sách đào tạo lớp trí thức mới của nhà nước Nga Xô Viết để hiểu trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954

 Tập tiểu luận  Về trí thức Nga ( La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch, nxb Tri thức H. 2009)  gồm có nhiều bài viết xuất sắc
+ Chân lý của triết học và sự thật của người trí thức 
+ Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh của tầng lớp trí thức cả hai cùng của  tác giả N.A. Berdaev
+ Tầng lớp kỹ giả -- Alekssandr Solzhenítsyn
+ Phẩm tính trí thức -- Dmitri Likhachev
Riêng bài Bàn về  số phận của tầng lớp có học ở Nga của Sergey Kirilov thì bàn sâu vào lớp trí thức Nga sau 1917. Tầng lớp này  đã được quan niệm như thế nào, nhà nước xô viết đã hình thành họ theo những cách thức ra sao, tại sao giới trí thức Nga  lại có bộ mặt như chúng ta đang thấy, tại sao trong thời đại mới,  đa số những người này dừng lại ở cái trình độ thảm hại và kèm theo  những suy đồi  về đạo đức quá rõ so với trí thức Nga trước Cách mạng.
Chúng tôi lược thuật  bài này, cốt để các bạn xa gần qua đó, từ trí thức Nga sau 1917, có thể hiểu thêm về lớp trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954.
Trong cơn thức tỉnh sau chiến tranh, nay là lúc xã hội thường hay chê trách lớp trí thức này về mọi mặt.  Nhưng nếu hiểu được người trí thức ở ta là thế và được nhào nặn như thế, chúng ta sẽ độ lượng với họ hơn với nghĩa… bớt hy vọng ở họ hơn.

Cũng như ở các nền văn hóa khác, nền văn hóa Nga trước 1917 mang tính thượng lưu. Lí do, chỉ có một số người có thể làm được việc mà đa số không thể làm nổi. Trí thức nói chung chỉ chiếm tối đa 10%, còn thấp nhất là 2 - 3%. Ở các cộng đồng khác đã vậy, ở Nga trước 1917 cũng vậy.
Đến thời Xô Viết, có một xu thế chỉ đạo việc đào tạo, đó là tạo nên giới tri thức không có sự tách biệt với dân chúng như thời Nga hoàng. Để làm được việc đó, người ta xóa bỏ những chuẩn mực cần thiết, tạo ra một lớp trí thức yếu ớt phàm tục, không có khả năng độc lập mà phụ thuộc nhà nước, do đó sống chết cũng phải trung thành với nhà nước. Tầng lớp trí thức này luôn luôn được bổ sung bởi các bộ phận ít học là quần chúng công nông, cho nên nó chỉ có trình độ rất thấp và một cấu trúc dễ bị phá vỡ.

Từ căm ghét đến tiêu diệt trí thức cũ và thay thế bằng trí thức mới
Chính quyền Xô Viết có một niềm căm ghét đặc biệt đối với nền văn hóa trước cách mạng, tồn tại trong lòng nó một giai tầng có học mang tính hiện đại. Do yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, những năm đầu, họ phải sử dụng tạm thời lớp trí thức đó, nhưng nhanh chóng tìm cách dần dần thủ tiêu những người này  -- cả với nghĩa đen lẫn nghĩa bóng là làm biến chất họ --, thay vào đó là những người của mình.
Cách mạng đặt ra mục đích tiêu diệt trí thức đồng thời tiêu diệt văn hóa cũ.
Mặc dù số trí thức tham gia nội chiến không nhiều, nhưng đại diện của tầng lớp trí thức vẫn chiếm từ 80 – 90% những người chống đối việc thiết lập chế độ Bolsevik. Lúc ấy  một phần lớn trí thức Nga  là người trong quân đội.
Vào năm 1917, tất cả những người có học, trong độ tuổi nghĩa vụ, đều là sĩ quan.
Những người Bolsevik nhận thức rõ kẻ thù thật sự của họ trong cuộc nội chiến không phải là bọn tư sản và địa chủ, mà chính là tầng lớp trí thức có quân hàm hoặc không đeo quân hàm.
Cuộc khủng bố đỏ được tiến hành nhằm vào tầng lớp trí thức ấy.
Các lãnh tụ Bolsevik coi việc giai cấp vô sản đã bẻ gãy được ý chí của tầng lớp trí thức là sự bảo vệ tốt nhất cho thắng lợi của cách mạng trong tương lai. Và cái mục đich cao cả ấy được dùng để biện hộ cho những hành động phản tiến hóa của họ.
Sự đàn áp thô bạo, nạn đói, bệnh dịch – vốn là hậu quả của cách mạng – làm mấy trăm ngàn trí thức thiệt mạng, một số thì lưu vong.
Những người còn sống sót thì bị thù ghét. Họ không có chỗ đứng trong các sơ đồ mác - xit bởi lúc nào cũng làm vướng cẳng các lí thuyết gia mác - xit. Theo quan niệm của những người xây dựng xã hội mới thì trong tương lai tầng lớp này sẽ không còn. Hệ thống giáo dục có mục đích tạo ra “một sự đồng nhất về mặt xã hội” (tương tự  như Việt Nam từng  có khẩu hiệu Trí thức hóa công nông và công nông hóa trí thức -- VTN)

Đào tạo lớp người thay thế.
Bùng nổ về số lượng đi đôi với sự hạ thấp chất lượng
Tầng lớp trí thức Nga trước cách mạng có số lượng tương đối nhỏ, khoảng từ 2- 3 triệu người tức khoảng 3% dân số.
 Ngược lại, dưới chính quyền Xô Viết, sự phát triển trí thức lại có tính cách ồ ạt, nhà nước chủ trương một sự phát triến nhanh chóng và giả tạo số người có học.
Tại sao cần vậy?
 Luôn luôn trong giới trí thức cũ, người ta nhận ra những chuyên gia nổi loạn.
Nảy sinh nhu cầu thay thế.
Nhưng cái mà người không thể làm được là chất lượng.
Vậy phải bù vào bằng sự  dư thừa số lượng để tạm an lòng.
Hầu như trong tất cả các giai đoạn lịch sử, người ta đều cố gắng thúc đẩy việc đào tạo các chuyên gia và phát triển hệ thống trường học. Mục đích là “biến tất cả mọi người thành trí thức” và không để cho giai tầng này được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa. Tốc độ đào tạo kỹ sư và chuyên gia các ngành khác nhau vượt xa nhu cầu của nền kinh tế và được quyết định chủ yếu bởi nhu cầu chính trị và tuyên truyền.


 Có thể thấy sự gia tăng đột ngột số lượng người có học diễn ra trong những năm 1930 qua các con số - chỉ trong một chục năm lớp người này đã gia tăng gần 300%, riêng số người có bằng đại học và trung học chuyên nghiệp gia tăng 360%.
 Cú bùng nổ thứ hai diễn ra trong những năm 1950 – 1960, lúc đó trong một số ngành tốc độ phát triển lên đến 100% trong có một chục năm.
 Nhưng đặc điểm chung của cả hai giai đoạn bùng nổ này là  lớp tri thức mới có trình độ thấp hơn rất nhiều so với chuẩn mực trên thế giới.

Những trí thức xa lạ với văn hóa
Cuối những năm 80, cả Liên Xô có 87 triệu chuyên gia, trong đó 16 triệu người tốt nghiệp đại học. Sự phình ra một cách vô giới hạn tầng lớp tri thức dẫn đến hiện tượng giả tạo là mặc dù mức độ phát triển khoa học kĩ thuật và văn hóa xã hội của Liên Xô thấp hơn so với các nước phát triển ở châu Âu, nhưng lại đứng đầu về số lượng bác sĩ kỹ sư cán bộ nghiên cứu khoa học. Không chỉ về số lượng tuyệt đối mà Liên Xô còn đứng đầu tỉ lệ trí thức tính theo đầu người. Đồng thời lớp trí thức này lại được trả lương ở mức thấp nhất. Sự thấp kém nói ở đây không phải về giá trị tuyệt đối mà là thấp hẳn so với mức lương trung bình của cả nước.

Trở lại với sự so sánh trí thức cũ và mới. Nét đặc biệt của người trí thức mới là họ phải phủ nhận bản chất tinh hoa của mình. Kết quả là không có gì chung giữa tầng lớp có học hiện nay với lớp tri thức của nước Nga xưa.
Trong xã hội Xô Viết, một người bình thường (không phải nhân vật mà nhà nước đào tạo) gần với văn hóa truyền thống hơn là người có học kiểu Xô Viết.
Người bình thường ấy còn giữ khái niệm về một nền văn hóa chân chính.
Nhưng người bình thường ấy lại không phải là nhân vật chủ đạo của xã hội.
Người có học thời Xô Viết không hiểu gì về người trí thức trước cách mạng, cũng chả hiểu gì về châu Âu và văn hóa cổ điển. Họ bịa đặt ra một số nét đặc thù của văn hóa Nga, mà thực tế chỉ là thứ văn hóa bị hạ thấp và  đứng ngoài mọi chuẩn mực.

Hợp thức hóa tình trạng vô học của giới quan chức.
Không chỉ đẩy mạnh đào tạo và tăng nhanh sinh viên, người ta còn đề cử những người không có bằng cấp làm những việc đòi hỏi trí thức, bằng cách đó tạo ra một sự hỗn loạn mà chỉ chủ nghĩa xã hội mới có.
 Môt đặc điểm của bộ máy quan chức Xô Viết là sự phình ra vô tội vạ. Số lượng nhân viên nhà nước thời Nga hoàng tính tới 1917 là 576.000, tới 1923 – 1925  con số quan chức đã lên tới 2.230.000.
Vấn đề cắt giảm bộ máy phải nói đến thường xuyên, nhưng sát nhập, giải tán… chỉ là trò đùa. Không thể tưởng tượng nổi chế độ Xô Viết mà không có quá trình quan liêu hóa.

Việc làm giảm trình độ giới trí thức nói chung còn được thúc đẩy bởi việc có một số chuyên gia thực hành chỉ học theo lối hàm thụ cũng được đề bạt đặc cách.
Sinh ra hàng loạt chức vụ đòi hỏi đại học, việc này tạo ra đơn đặt hàng giả tạo với ngành giáo dục.

Người ta đòi hỏi có bằng cấp ngay cả khi đó là nghề lao động bình thường (kiểu đại học phòng cháy chữa cháy của Việt Nam VTN).
 Do hệ thống lương bổng quái gỡ, lại sinh ra hiện tượng có những người chỉ làm công việc như công nhân cũng phải xoay sở bằng được lấy bằng đại học, vì chỉ nhờ thế họ mới được tăng lương, -- tuy đó chỉ là đồng lương chết đói ( nhưng lại đã là quá cao so với lao động của họ. VTN)

Sự tầm thường đã đến với lớp người  vốn được coi là cao quý
Người ta đã học như thế nào?
Phần lớn giới trí thức Liên Xô được đào tạo rất hời hợt. Nguyên tắc lớn nhất của giáo dục Xô Viết là tầm thường hóa lao động trí óc, tầm thường hóa quá trình đào tạo những kẻ  muốn phát triển về mặt trí tuệ.
Trong những năm 1920 – 1930 người ta sử dụng rộng rãi phương pháp “học theo đội”, chỉ cần một sinh viên trả lời đúng là cả nhóm được cho qua kỳ kiểm tra. Các chuyên gia được đào tạo theo kiểu đó vốn có trình độ khá thấp ngay trước khi nhập trường, sẽ không thể nào so sánh được với các trí thức trước cách mạng. Trình độ văn hóa chung, nhất là trình độ các môn khoa học nhân văn do hệ thống nhà trường Liên Xô đào tạo không những đơn sơ cổ lỗ mà còn sai lầm có hại, vì đó không phải là kiến thức văn hóa thực thụ, mà đã bị làm méo bởi các nguyên tắc tư tưởng của đảng. Các môn học nhằm tạo ra cơ sở văn hóa tổng quát được dạy rất ít. Các trường đại học khoa học tự nhiên không có môn này, còn trong các trường khoa học xã hội nhân văn thì sinh viên lại được học một số kiến thức giống như thần học.

Đặc trưng của trí thức Nga là tính chất quý phái, tức là sang trọng vượt lên sự tầm thường, kết quả của sự tu dưỡng nhiều đời, có sự tham gia của kiến thức sách vở.
Tất cả những người có học đều có phẩm chất quý tộc ấy. Có quý tộc một đời lại có quý tộc kế thế, nhiều đời – bộ phận nhiều đời này mới thật là tinh hoa ổn định.
Có chân trong giới thượng lưu, người ta dễ dàng giữ được sự độc lập về tinh thần, dễ tự tin, tin vào giá trị thật của mình, và giữ được tính độc lập trước mọi hệ thống quyền lực. Có điều lạ là cả một giáo sư đại học lẫn ông giáo làng dạy tiểu học, họ đều chia sẻ cảm giác tự hào mà trí thức vốn có. Khi người trí thức không có cảm giác về thân phận cao quý của mình thì họ cho phép mình làm bậy.

Ở trên chúng ta đã xét tới việc học ngày nay. Học như thế thì làm sao giới trí thức mới có được cảm giác quý phái mà trí thức cũ đã có.

Thời Xô Viết, người ta chỉ lo tri thức không quên nguồn gốc công nông của mình. Bộ phận trí thức xuất thân lớp trên bị hạ nhục, bị làm phiền: người ta chỉ muốn họ quên họ từ đâu tới.
Nguyên tắc giai cấp, chiếu cố giai cấp, ưu tiên giai cấp, cho phép tình trạng phi chuẩn mực đối với những con người thuộc giai cấp công nông bộc lộ khá lộ liễu và thô bạo.
Đầu cách mạng, số sinh viên xuất thân từ tầng lớp có học, tức là lớp thượng lưu cũ chiếm 2/3.
Tới 1923, số này chỉ còn lại ½
Tới đầu những nằm 30 thì còn lại 20 – 10%. 
Kết quả là ¾ trí thức Xô Viết là hạng F1 mới từ công nông lên. Đó là các trí thức một đời. Người trí thức khộng có khái niệm về sự cao quý của mình, về lòng tự trọng.

Trí thức cấp thấp và quan chức cấp cao. Xu thế bành trướng
Trước 1917, người trí thức giữ chức vụ cao trong bộ máy nhà nước không có bất động sản. Nhưng lương họ cao – cao gấp vài chục lần người lao động chân tay.

Sau cách mạng, thu nhập trí thức chỉ nhỉnh hơn chút ít so với thu nhập công nhân. Nếu thêm việc các quỹ gọi là “phúc lợi xã hội” cũng được tái phân phối theo hướng có lợi cho công nhân thì cho đến năm 1980, mức sống của tầng lớp trí thức chỉ bằng một nửa hoặc 40% mức sống của công nhân.

Ví dụ giáo viên thì lớp giáo viên tiểu học còn đỡ; lớp dạy đại học chỉ được nhận 20% mức lương trước cách mạng. Từ đó nảy sinh trong tầng lớp trí thức xu thế quan liêu hóa vì chỉ trở thành quan chức trong giới của mình thì mới có thể có mức thu nhập cao.

Sự xây dựng tri thức trong xã hội Xô Viết tiến hành theo nguyên tắc phản chọn lọc. Nó tiêu diệt những người ưu tú, lại cất nhắc những kẻ tồi tệ. Quá trình chọn lựa kéo dài hơn một nửa thế kỉ, những kẻ xấu xa nhất được nâng đỡ, việc này đã dẫn đến kết quả là, không những nhóm lãnh đạo chính trị chóp bu, mà cả những nấc thang thấp hơn của kim tự tháp quyền lực, đều nhung nhúc những kẻ không ra gì.
Đấy là lý do vì sao chế độ Xô Viết về nguyên tắc là không thể thay đổi được, dù lãnh đạo cao nhất bị thay đổi.
Nếu tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực quản lí trước cách mạng bao gồm những người được giáo dục và có học vấn tốt nhất trong thời đại của mình, và tầng lớp tinh hoa chính trị trong các nước châu Âu ngày nay cũng bao gồm chủ yếu là những người đã tốt nghiệp các trường đại học uy tín nhất, thì ở Liên Xô, bức tranh hoàn toàn ngược lại.
Tầng lớp lãnh đạo chính trị cao nhất gần như là những người có trình độ học vấn văn hóa kém nhất trong số những người lao động trí óc. 

Mặc dù trong thời Xô Viết cũng có một số trường đại học có chất lượng cao nhưng hiếm khi những người tốt nghiệp các trường đại học như thế được gia nhập vào bộ phận tinh hoa trong lĩnh vực quản lí. Tầng lớp quản lí thường chỉ bao gồm những người tốt nghiệp các trường đại học tỉnh lẻ cộng với các trường Đảng cao cấp, nghĩa là những trường đại học có trình độ văn hóa thấp nhất nếu không nói là giả đại học.
Trình độ học vấn kém cỏi của giới quan chức dẫn đến sự đối lập quan chức – trí thức. Bộ máy quản lí thời Khruchev là một ví dụ tiêu biểu của chất lượng giáo dục khi họ tham gia vào việc quản lí.
Đây là giai đoạn mà sự tầm thường hóa giáo dục đại học đạt đến đỉnh điểm. Lạm phát trí thức  bùng nổ với nghĩa hàng chục trường đại học không đủ điều kiện đã được thành lập.
Đây cũng chính là giai đoạn hình thành cơ sở cho việc sản xuất thừa các chuyên gia.
 Kết quả và quá trình bành trướng số người lao động trí óc đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng uy tín của lao động trí óc. Tương lai của khoa học cũng gánh chịu những hậu quả nặng nề. Biên chế của các viện nghiên cứu khoa học tăng theo cấp số nhân. 
Kể cả những kẻ tầm thường vốn không thể có hi vọng và bản thân không hề nghĩ việc nghiên cứu khoa học, cũng trở thành các “nhà khoa học”.
 Đến những năm 80 họ đã trở thành gánh nặng, khiến cho những dự định cải cách chỉ trở thành ảo tưởng. Hơn thế nữa, lúc đó do quá trình thay đổi thế hệ, lớp trẻ hãnh tiến này đã chiếm giữ hầu hết các vị trí lãnh đạo trong khoa học và thực hiện chính sách tri thức dội từ trên xuống theo đúng bản chất của mình.

Kết cục khó tránh
Chế độ Xô Viết, sau hàng chục năm phấn đấu đã gần đạt được thành công trong việc loại bỏ tầng lớp trí thức như một hiện tượng xã hội đặc thù, như một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh; hoàn toàn loại bỏ được đặc trưng mang tính thượng lưu của nó; và xóa bỏ được sự khác biệt về trình độ học vấn và vốn văn hóa giữa nó với đám quần chúng được gọi là nhân dân.
Có những khó khăn nhất định ngăn cản không cho tầng lớp có học hiện nay nhận thức được sự bất toàn về mặt xã hội của mình. Cơ sở tư tưởng của chế độ toàn trị cộng sản là sự sùng bái “con người bình thường”. Sau hàng chục năm bị thôi miên rằng chân tay quan trọng hơn đầu óc và đầu óc là để phục vụ cho chân tay, thì đầu óc – tức là lớp trí thức -- đã quen dần với định đề phản tự nhiên đó. Họ dần đánh mất phần lớn khả năng tư duy của mình và cho đến nay vẫn chưa có đủ dũng khí vươn lên để khẳng định vai trò của mình trong xã hội.

Những thành quả sáng chói của nền khoa học và văn hóa Nga thế kỉ XIX được tạo nên bởi những con người sinh ra trên những nguyên tắc có nguồn gốc từ sự phát triển xã hội ba thế kỉ trước.
Còn việc cố tình hạ thấp vai trò của trí thức và tiêu diệt trên thực tế tầng lớp này sau 1917 lại chỉ bắt nguồn từ sự trì trệ trong vận động lịch sử của những thập kỉ gần đây.
Kết quả là chúng ta có một tầng lớp có học nhưng không có khả năng thực hiện các thiên chức của nó.

Cuối cùng trong xã hội Xô Viết, chỉ có một chút ngoại lệ là các nhà trí thức hàn lâm và các nhà kĩ thuật quân sự, vốn được đào tạo như một khu vực tách rời khỏi xã hội. Sau năm 1991, chính bộ phận này khi ra nước ngoài đã hòa nhập được với giới khoa học của các nước phương Tây.

Muốn thay đổi được thực trạng nói trên thì chính nhà nước phải có một quan niệm khác đi về giới tri thức. Phải công nhận rằng trong xã hội Xô Viết đã hình thành một lớp kỹ giả ngu dốt – vô năng. Đoạn tuyệt với họ rất khó. Người trí thức chân chính sau 1991 vẫn không thể lọt vào cả giới chính trị lẫn giới kinh doanh – môi trường kinh doanh vốn đầy tính chất mafia của Nga.

Tầng lớp tinh hoa trí thức như một giai tầng xã hội chỉ có thể được hình thành nhờ những cố gắng mang tính chủ động của nhà nước. Phải bắt đầu bằng sự phủ nhận rằng chúng ta đã làm sai, đào tạo sai thì sau đó mới có thể bắt tay làm lại mọi việc. Không có sự cố gắng như thế, đất nước trong trường hợp tốt nhất chỉ biến thành người cung cấp chuyên gia cho các nước khác mà thôi. 

V.TR.N

Phần nhận xét hiển thị trên trang