Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014

Nếu tác giả bài này đúng - Thì cuộc đời này sai toét rùi!

Cái thời công chức hầu hết đều là con cháu các cụ cả


vq0901
Ebola hiện đang là thứ dịch khó chữa trên thế giới. Việt Nam chưa phát hiện thứ bệnh quái ác đó và dù có chăng nữa thì nó cũng chỉ hoành hành trong một khoảng thời gian rồi lại có thể bị chặn đứng. Ở VN có một thứ bệnh nguy hiểm hơn đã hoành hành từ lâu mà đến bây giờ không những không thể ngăn chặn mà nó còn có nguy cơ phát triển mạnh mẽ ngày càng nặng. Đó là thứ bệnh gian dối.
Có người cho rằng người ta phải sống bằng hai mặt, bởi cái hội chứng “sợ đủ thứ” nên buộc người ta phải nói dối với khẩu hiệu “nói dối để tồn tại”. Lâu dần rồi thành thói quen: “nó nói thế mà không phải thế”, chẳng ai tin ai được cả. Điều nguy hiểm hơn, nó lây từ dân sự sang cả lĩnh vực hành chánh từ tỉnh đến bộ, nó nhảy cả sang lãnh vực giáo dục và nhân cách của giới trí thức.
Trong thời gian này dư luận lại đang sôi sục vì những vụ việc vừa được phát giác xung quanh những gian trá của lớp người được coi là “trí thức” trong xã hội. Những người có kiến thức, thường được kính nể thuộc vào hàng thượng đẳng trong xã hội, nhất là ở VN như một “định kiến” đã hình thành từ xa xưa.
Nhưng tiếc thay đến nay đã có quá nhiều những chuyện gian trá xảy ra trong cái “thế giới được kính trọng” ấy. Có những nhà trí thức đã đánh mất danh dự, bỏ quên nhân cách của mình chỉ vì đồng tiền. Như thế làm sao xã hội không đảo điên được. Lũ học trò và con cháu họ sẽ chịu ảnh hưởng khốc liệt vì những bài học phản phúc lương tâm này.
Mới đây dư luận lại rộ lên với những chuyện vừa khôi hài vừa quá “bẩn” ở mấy trường Đại học, ở cả cái gọi là “Trung tâm văn hóa” nhìn thật đồ sộ trang nghiêm và ngay đến cả kỳ thi tuyển công chức vào làm việc ở những bộ ngành quan trọng của đất nước cũng có gian lận.
Thật ra thì chẳng phải chỉ có mấy “trung tâm” ấy mà nó xảy ra ở nhiều nơi, chỉ có điều nơi nhỏ nơi lớn, nơi bị khám phá không thể che giấu được, nơi được che đậy kín đáo hoặc bị nhận “chìm xuồng” cho đỡ mất mặt. Nhưng chẳng có nơi nào che mắt được người dân, nó vẫn là những dư luận âm ỉ như ung thư ủ bệnh trong đời sống con người. Quá nhiều chuyện đáng nói, ở đây tôi chỉ tường thuật vài vụ gần nhất:
Nộp tiền “chống trượt”
Quý vị đã nghe thấy từ này bao giờ chưa? Từ thượng cổ tới nay, tôi mới chỉ nghe thấy nộp tiền “chống trượt” là lần đầu. Thoạt nghe tôi cứ nghĩ lại là môt thứ “thuế phí mới” ở nông thôn, người dân phải nộp thuế để các ủy ban sửa đường làng, vốn là những con đường đất, cho dân đi lại không bị trơn trượt. Nhưng không phải thế, nộp tiền “chống trượt” ở đây là “không bị giám khảo cuộc thi đánh trượt” hay còn gọi là “không bị thi rớt”. Rất rõ ràng đây là một kiểu ăn tiền công khai. Những thí sinh đi thi hoàn toàn tin rằng chỉ việc nộp thứ tiền này là chắc đậu trăm phần trăm.
Sự việc bắt đầu từ tháng 6/2013, nghe thông tin tuyển sinh lớp Thạc sĩ Quản lý kinh tế của ĐH Kinh tế (ĐH Quốc gia Hà Nội) từ Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Thanh Hóa, hơn 50 học viên đã nộp đơn dự thi. Trung tâm Giáo dục thường xuyên sau khi thu hồ sơ đã phối hợp với ĐH Kinh tế tổ chức cho các học viên học một số chuyên đề chuyển đổi kiến thức để họ có đủ điều kiện ghi tên dự thi.
Học xong phần chuyển đổi kiến thức, một số cán bộ Phòng Quản lý đào tạo đã thông báo: những ai muốn đỗ lớp Thạc sĩ Kinh tế sắp tới thì ngoài số tiền ôn thi nộp cho ĐH Kinh tế theo dự trù, cần nộp thêm 27 triệu đồng để được giúp “chống trượt”. Tổng cộng đã có 40 học viên nộp hơn một tỷ đồng để lo lót cho kỳ thi được tổ chức vào trung tuần tháng 9/2013 tại Hà Nội.
Quá nửa là các quan chức ở các cơ quan từ huyện đến tỉnh
Trong danh sách 40 học viên đóng tiền thì 29 người là cán bộ công chức nhà nước đang làm việc ở một số huyện, thị và sở, ban ngành trong tỉnh Thanh Hóa. Gồm có các quan chức đang làm việc tại Sở Công Thương có 3 người, Chi cục Thuế 5 người, Sở Kế hoạch Đầu tư 3 người, Sở Tài nguyên và Môi trường, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện mắt, Huyện ủy Quảng Xương, Huyện ủy Triệu Sơn, Đài Phát thanh Truyền hình Thanh Hóa… mỗi đơn vị có một người. Trong đó, nhiều người là cán bộ chủ chốt hoặc cán bộ thuộc diện có thể đưa lên làm sếp lớn ở các ban ngành. Có lẽ cũng chính vì thế nên các vị này cần phải có một tấm bằng thạc sĩ cho bọn cấp dưới nó sợ. Đối với các vị này thì số tiền 27 triệu để chống trượt chẳng thấm thía gì, như muỗi đốt gỗ.
Ba cán bộ Phòng Quản lý đào tạo của trung tâm gồm các ông Bùi Sỹ Hồng (Trưởng phòng), Lê Trọng Sơn (Phó trưởng phòng) và bà Lê Thị Liên (giáo viên) đã tổ chức thu tiền của 40 học viên.
Vì đâu nên nỗi?
Thế nhưng, khi có kết quả kỳ thi, trong số 40 vị đã nộp tiền chống trượt, chỉ có 7 vị đỗ, còn lại 33 vị trượt vẫn hoàn trượt. Tức mình vì bị lừa nên các vị này kéo đến trung tâm yêu cầu trả lại tiền, đồng thời tố cáo sự việc với cơ quan điều tra.
Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Thanh Hóa đã thành lập tổ công tác xác minh vụ việc, sau đó ra quyết định cảnh cáo ông Bùi Sỹ Hồng và bà Lê Thị Liên, ông Lê Trọng Sơn bị khiển trách.
Hình thức kỷ luật như thế là quá nhẹ. Ở một Trung tâm giáo dục mà quan chức quản lý lại đi lừa gạt thì cần phải áp dụng luật pháp nặng hơn mới đúng. Phạt cái kiểu cảnh cáo hay khiển trách qua loa như không phạt, chỉ là cách chạy tội cho nhau mà thôi. Dư luận một lần nữa lại bất bình nổi sóng.
Trước sức ép của dư luận, UBND Thanh Hóa sau đó đã yêu cầu Sở GD&ĐT phải kiểm tra, xử lý nghiêm.
Tại kết luận thanh tra mới ban hành, Sở Giáo dục đã đề nghị hủy bỏ quyết định kỷ luật với ba cán bộ Phòng Quản lý đào tạo ban hành ngày 18/12/2013, đồng thời yêu cầu lãnh đạo Trung tâm Giáo dục thường xuyên tổ chức xét kỷ luật ba cán bộ trên thật nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.
Cũng trong kết luận thanh tra, Sở Giáo dục đề nghị UBND tỉnh chỉ thị cho các sở, ban, ngành, huyện thị có học viên đã đóng tiền “chống trượt” phải tổ chức kiểm điểm, xử phạt nghiêm cán bộ công chức, viên chức thuộc đơn vị quản lý.
Nếu các vị bị trượt biết thân biết phận thì “cắn răng chịu đòn lừa” là êm re hết, chẳng ai biết ma ăn cỗ ở chỗ nào. Nhưng quá giận mất khôn, đến nay sự việc đã tóe tòe loe ra cả nước cùng biết nên cùng chịu phạt và mang tiếng xấu khó rửa sạch vì cái thói ham mê danh vọng. Ôi danh tiếng của cả một trung tâm giáo dục “hoành tráng” nay đã tan tành xíu oách.
Con cháu các cụ cả 
Chuyện thứ hai, cách đây 9 tháng (10/2013), lần đầu tiên Cục Quản lý Thị trường (QLTT) tổ chức thi tuyển công chức theo phân cấp của Bộ Công thương. Có tới 299 thí sinh ghi tên xin thi nhưng chỉ tuyển có 10 người (tỉ lệ chọi 1/30). Sau khi công bố kết quả, nhiều đơn thư khiếu nại tố giác cuộc thi lộ đề và cả 10 thí sinh trúng tuyển này đều được cho là “toàn 5C” tức là “con cháu các cụ cả” của những quan chức trong Cục!
Trước các nghi vấn trên, Cục An ninh kinh tế tổng hợp (A85) Bộ Công an vào cuộc và đã kết luận có vi phạm xảy ra trong kỳ thi này. Theo bản danh sách thí sinh trúng tuyển trong kỳ thi tuyển công chức Cục QLTT (Bộ Công Thương) công bố kèm theo công văn số 21 của Cục QLTT ngày 24/12/2013 có 10 người trúng tuyển. Thực tế, khi điều tra, PV báo Tiền Phong phát hiện trong 10 thí sinh trúng tuyển đã có 5 người là con, cháu, nhân viên trong ngành Công Thương.
Danh sách khá dài nên tôi chỉ tóm tắt đó là con cháu của các ông Đỗ Thanh Lam, Phó bí thư Đảng ủy, Phó cục trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Cục QLTT.
Cháu của ông Đào Minh Hải, nguyên Cục phó QLTT, nguyên Chánh văn phòng Bộ Công Thương, hiện là Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Bộ Công Thương. Con của ông Lưu Bách Chiến, Đội trưởng Đội QLTT số 2 (Chi cục QLTT Hà Nội). Ngoài ra, trong danh sách trúng tuyển còn có hai người trước khi dự thi là nhân viên hợp đồng tại Cục QLTT. Còn ai nữa thì chưa biết vì có thể họ trúng tuyển theo kiểu khác hoặc họ hàng xa tít mù tắp được gửi gấm.
Anh Trần Hưng Thái sinh năm 1984, đã lấy bằng thạc sĩ tại Singapore, ghi tên thi vào Phòng Tuyên truyền và quan hệ đối ngoại (phòng này chỉ lấy hai người). Trong 5 môn thi, anh Thái được miễn thi môn ngoại ngữ và tin học. Kết quả, anh Thái có tổng số điểm 297, xếp thứ ba. Nhưng vẫn trượt vì chỉ môn này chỉ lấy hai người.
Anh Thái còn cho biết người ta mang tài liệu vào phòng thi, mặc sức chép. Cũng theo anh Thái, tại phòng thi của anh, sau khi bóc đề thi, đã có thí sinh đứng dậy bỏ về ngay và tuyên bố “thi thế này thì gọi là kỳ thi công bằng hay không, khi có người đã biết trước mình đỗ”. Sau đó, thí sinh đó bỏ về mà không ai ngăn cản. Thậm chí ở phòng thi bên cạnh, có thí sinh dọa đánh giám thị, to tiếng rồi bỏ về.
Người dân thường nói “cái thời công chức hầu hết đều là con cháu các cụ cả” thì người dân không chằng không rễ không còn chỗ đứng, dù có tài giỏi đến đâu.
Trước những dư luận đó Bộ Công Thương ra thông báo quyết định hủy kết quả kỳ thi, đồng thời có hình thức xử lý kỷ luật những cán bộ Cục QLTT sai phạm.
Bộ Công Thương đồng ý với các hình thức kỷ luật, hạ bậc lương đối với ông Nguyễn Đăng Khoa (Trưởng phòng Pháp chế) và cảnh cáo đối với ông Nguyễn Đức Lê (Phó phòng Pháp chế) đã vi phạm nghiêm trọng quy định trong việc bảo mật đề thi (trao đổi với 4 thí sinh tham gia thi tuyển công chức. Hình thức kỷ luật nêu trên đã xét đến… tình tiết giảm nhẹ của cán bộ vi phạm như là thương binh, sắp nghỉ hưu và có nhiều đóng góp, có thái độ thành khẩn nhận sai phạm…
Là cán bộ sướng thật. Dân chỉ ăn cắp con gà con chó cũng tù vài năm, có khi còn bị đánh đấm tơi tả; quan gian dối chỉ bị phạt nhẹ vì có nhiều thành tích. Thế nên anh nào làm quan cũng thích lập thành tích, bất chấp thủ đoạn.
Chỉ cần 2 đến 3 triệu đồng mua được điểm đậu vào đại học
Đó là chuyện xảy ra tại Đại học Quy Nhơn. Sinh viên (SV) được nâng điểm có ở nhiều khoa, chủ yếu là khoa Kinh tế – Kế toán và Tài chính – Ngân hàng – Quản trị kinh doanh. Phòng Đào tạo và các khoa liên quan của Trường ĐH Quy Nhơn được xác định có dấu hiệu thực hiện việc nâng điểm. Khóa 33 Trường ĐH Quy Nhơn có 3.734 SV Đại học Cao đẳng hệ chính quy được công nhận kết quả tốt nghiệp. Đây cũng là khóa đầu tiên của trường đào tạo theo hình thức tín chỉ.
Giữa tháng 4/2014, khi biết số điểm tổng kết các môn học theo hình thức tín chỉ của mình không đủ điều kiện xét công nhận tốt nghiệp, S. rất lo lắng. Nghe nhiều người mách nước, S. tìm đến một SV học cùng khóa trong trường nhờ giúp đỡ. Sau khi “nghiên cứu” bảng điểm của S., SV này quả quyết chỉ cần chi 3 triệu đồng mua điểm môn tài chính doanh nghiệp thì điểm tổng kết sẽ đủ điều kiện xét công nhận tốt nghiệp.
S. liền đưa đủ số tiền cho bạn. Sau đó không lâu, S. kiểm tra trên mạng thì quả nhiên thấy điểm môn tài chính doanh nghiệp được nâng lên, dẫn đến điểm tổng kết đạt trung bình nên được xét công nhận tốt nghiệp. Chạy điểm trót lọt, cuối tháng 6-2014, S. nghiễm nhiên được nhận bằng tốt nghiệp ĐH.
Không chỉ chạy điểm để được vớt từ rớt thành đậu và thăng hạng tốt nghiệp từ trung bình lên khá, khá lên giỏi, nhiều SV Trường ĐH Quy Nhơn còn bỏ tiền mua bảng điểm đẹp (như tốt nghiệp loại khá, giỏi…) để dễ xin việc!
TS Nguyễn Hồng Anh, hiệu trưởng, cho biết hiện vụ việc vẫn đang trong thời gian thanh tra, chưa có kết luận chính thức. “Kết quả thanh tra sẽ được công bố rõ ràng, minh bạch. Nhà trường sẽ làm rõ có hay không tiêu cực. Nếu phát hiện sai phạm thì ai sai sẽ bị xử lý nghiêm”. Lại một lời hứa “sẽ bị xử lý nghiêm”. Nghe quen tai như cụ cố Hồng gắt lên: “Biết rồi khổ lắm , nói mãi”. Câu nói bất hủ trong tiểu thuyết Số Đỏ đến nay vẫn nguyên giá trị và những vị có số đỏ vẫn ung dung phè phỡn trên lưng đám dân ngu vì cố tình bị làm cho ngu.
200 triệu đồng lấy được bằng Tiến sĩ y khoa
Bạn khó có thể tin được chuyện “thần sầu” này nhưng nó vẫn xảy ra. Một anh lái gỗ chi 200 triệu được hứa sẽ có bằng tiến sĩ y khoa. Câu chuyện khá dài tôi chỉ tóm tắt những nét chính.
Một anh phóng viên (PV) trong Nhóm PV Điều tra (Dòng đời) giả làm “nghiên cứu sinh” tìm được người giới thiệu đã tìm gặp Phó Giáo sư (PGS) Đàm Khải Hoàn, Trưởng bộ môn Y học Cộng đồng, Đại học Y Thái Nguyên để nhờ vị Phó GS này tìm cách “tậu” cho tấm bằng Tiến sĩ Y khoa danh giá. Sau khi cá đã cắn câu anh PV lại thú thật mình chỉ là anh lái buôn gỗ. Tuy nhiên vị Phó giáo sư này vẫn thản nhiên hứa sẽ lấy cho anh ta cái bằng danh giá kia.
Sau khi câu chuyện đã cởi mở, ông Hoàn nói rõ trình tự trong “kỹ nghệ lấy bằng tiến sĩ” cho anh lái buôn gỗ: “Trước tiên, tôi sẽ viết cho cậu vài bài báo khoa học để đăng trên tạp chí Y học Thực hành. Mấy bài báo này sẽ ký tên cậu. Cậu chỉ việc tới tòa soạn, đưa cho họ mấy đồng rồi nhờ họ đăng bài, tôi sẽ có lời cho cậu.
Ông Hoàn còn cẩn thận dặn dò thêm: “Việc tiếp theo, cậu phải nhờ các mối quan hệ của gia đình mình để có tên trong một cơ quan hoặc tổ chức phi chính phủ nào đó để khi hội đồng xét duyệt hồ sơ, họ tin rằng cậu đã làm ở cơ quan, tổ chức đó chứ không phải là anh buôn gỗ. Tôi đã hướng dẫn nhiều người rồi! Cần gặp ai thì tôi sẽ bảo cậu đến gặp. Mấy người đó toàn… đàn em của tôi thôi mà!” (Ý nói mấy vị trong hội đồng xét tuyển). “Việc cậu đi làm, cậu cứ đi. Tôi sẽ làm đề cương đề tài cho cậu” (đây là phần quan trọng nhất mà thí sinh phải trình bày trước Hội đồng các Giáo sư, Phó GS để được chấp nhận đậu đầu vào Nghiên cứu sinh).
Trước tình hình trên, PV đồng ý sẽ lo giúp thầy Hoàn 100m2 gỗ nghiến loại dày 5cm.
Tại lần gặp thứ hai, PV đã một lần nữa hỏi về số tiền phải đưa cho Phó GS Đàm Khải Hoàn để lo chuyện đầu vào. Lần này, ông Hoàn đã đồng ý với mức giá 200 triệu đồng và cho tôi số tài khoản ngân hàng để chuyển tiền vào.
Ngày 4.8.2014, ông Đặng Kim Vui, Giám đốc Đại học Thái Nguyên nhìn nhận: “Việc anh Hoàn trao đổi chuyện làm bằng tiến sĩ kiểu đó là sặc mùi mua bán. Không thể chấp nhận được! Chúng tôi sẽ không bao che cho những hành động tiêu cực này!”
Chưa biết vụ này Trường Đại học Thái Nguyên sẽ xử ra sao. Dù xử thế nào thì đây cũng là vết nhơ cho trường và những bộ mặt thí thức đốn mạt đang làm tan nát lòng tin của thế hệ mai sau. Và vị Phó giáo sư này đã nổi tiếng như thế thì đã “sản xuất” ra bao nhiêu vị tiến sĩ giấy nằm rải rác ở các cơ quan nào đó rồi?
Đổ xô xin vào ngành thuế để được “ăn vặt”
Có lẽ chính vì được “ăn vặt” mà nơi tuyển công chức ngành thuế đang là niềm mơ ước của rất nhiều người.
Năm nay, toàn bộ ngành thuế chỉ cần tuyển dụng 1.700 nhân viên vào làm, phân bổ cho 21 Cục thuế các tỉnh, như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh. Năm 2011, toàn ngành thuế chỉ cần tuyển vào hơn 2.000 người, có 51 Cục thuế tỉnh tổ chức thi tuyển và 12 Cục thuế tỉnh, thành phố được xét tuyển. Con số ghi tên thi ban đầu cũng cao ngất ngưởng, với 43.000 hồ sơ.
Hàng ngàn người đã xếp hàng mấy ngày giữa tuần qua để nộp hồ sơ thi tuyển công chức ngành thuế của TP Hải Phòng. Cùng thời gian này, gần 9.000 hồ sơ cũng được nộp để dự tuyển vào Cục Thuế Hà Nội. Trong 5 ngày tuần qua, khu vực trụ sở Cục Thuế Hà Nội ở phố Giảng Võ lúc nào cũng đông nghịt người xếp hàng nộp hồ sơ thi tuyển công chức. Nắng cũng như mưa, những gương mặt trẻ ngồi chờ la liệt ngoài vệ đường, trên bãi cỏ của dải phân cách, trên vỉa hè chờ đến lượt nộp hồ sơ. Có người đi lại mất 3-4 ngày mới đưa hồ sơ qua cửa.
Nhiều địa phương khác cũng thế, cứ mỗi lần tuyển cán bộ, công chức thì lại ùn ùn người tham dự. Có một số sinh viên tốt nghiệp nhưng không tìm được việc làm, cứ thấy chỗ nào có thi tuyển là ghi tên. Nhưng thật ra còn có rất nhiều người vì ham chỗ làm “béo bở” trong số những “cửa quan nhiều bổng lộc và uy quyền” nhất tại VN hiện nay. Ngay cả Bộ trưởng Tài chính chính Đinh Tiến Dũng đã nói thẳng trước cán bộ ngành thuế: “Cán bộ thuế toàn ăn vặt. Ngay cả việc mua hóa đơn, người nộp thuế phải đi lại nhiều cơ quan, thậm chí nhiều trường hợp phải chi bồi dưỡng cho cán bộ thuế”.
Xã hội băng hoại
Một điều đáng sợ nữa là ngay từ gia đình, học đường họ cũng đã được dạy dỗ học để kiếm mảnh bằng rồi nhảy ra kiếm tiền và danh vọng chứ không phải là giá trị của tri thức và thiếu hẳn cách biết sống có trách nhiệm với cộng đồng. Không có tài, không có người nhà đỡ đầu thì có tiền, chạy chọt để được vào làm công chức. Bởi vậy mới có câu: “Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ…”. Đối với đại đa số dân chúng, kiểu này có lâu rồi, nó bình thường như người ta đi chợ mua mớ rau, con cá. Người ta phải chạy nhiều thứ lắm, nào chạy chức, chạy quyền, chạy án, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy vào đại học… thế thì chạy vào công chức không có gì lạ cả. Chỉ lạ là ngày càng có nhiều nhà trí thức trơ tráo ra sức kiếm đồng tiền bất lương bất cần đến nhân cách.
Hồi còi báo động về thời mạt vận của trí thức đang vang lên. Nếu các nhà trí thức không biết dừng lại hoặc các cơ quan có trách nhiệm về nền Giáo Dục VN không quyết tâm ngăn chặn thì xã hội sẽ băng hoại vô phương cứu chữa.
22 tháng 8- 2014
Văn Quang

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Âm mưu thực sự của Trung Quốc đằng sau việc xây căn cứ trái phép ở GạcMa


(VTC News) - Bên cạnh mục đích quân sự hiển nhiên mà ai cũng thấy được, việc Trung Quốc cấp tập xây dựng các căn cứ quân sự giữa Trường Sa còn được coi là âm mưu thâm hiểm nhắm đến nhiều mục tiêu khác.

Thời gian gần đây, báo chí Philipines  tiếp tục thông tin về việc Trung Quốc đang đẩy mạnh cải tạo đất trái phép tới 5 khu vực trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam - gồm Đá Gạc Ma, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa và Đá Én Đất. 

Theo truyền thông quốc tế, sau khi thành công trong việc cải tạo, làm nổi bãi ngầm Gạc Ma- Trung Quốc sẽ bắt đầu triển khai hành động tương tự tại bãi Chữ Thập với mục đích xây dựng căn cứ quân sự rộng đến 88km2. 

Bên cạnh mục đích quân sự hiển nhiên mà ai cũng thấy được, việc Trung Quốc cấp tập xây dựng các căn cứ quân sự giữa Trường Sa còn được coi là âm mưu thâm hiểm nhắm đến nhiều mục tiêu khác như: tuyên bố chủ quyền, tạo cớ để gây xung đột trong khu vực hay thậm chí là thiết lập một vùng nhận diện phòng không nhằm biến biển Đông thành ao nhà của họ.

Xem clip:

VTC14
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những ngày bình yên thực đáng ngờ và lắm lo ngại!

Có đường băng trên đảo Gạc Ma, chiến đấu cơ Trung Quốc vươn tới toàn miền Nam VN

Theo VTC News ngày 3/9/2014 - Hoàn cầu Thời báo nói nếu Trung Quốc xây đường băng 2km trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của VN, miền Nam VN sẽ nằm trong vùng tấn công của chiến đấu cơ Trung Quốc.
Hòn đảo này được Trung Quốc đổ thêm bê tông để biến thành đảo nhân tạo có diện tích bằng 17 sân bóng đá (khoảng 1.700m). Những bức ảnh được Hoàn Cầu thời báo Trung Quốc đăng tải cho thấy công việc xây dựng đang gấp rút diễn ra. 

Trung Quốc đang gấp rút xây dựng công trình trên đảo Gạc Ma 
‘Xe cơ giới chạy rầm rập, đất đá chất cao như núi, việc bê tông hóa hòn đảo đang diễn ra khẩn trương’, tờ Kanwa của Canada cho biết.
Toàn bộ hòn đảo có chiều dài 5.000m, rộng 400m, giới phân tích cho rằng Trung Quốc toan tính biến Gạc Ma thành cơ sở không quân.
Theo tính toán của Hoàn Cầu thời báo, đảo Gạc Ma cách TP.HCM 830km; cách Manila 890km; cách eo biển Malacca, cửa ngõ Biển Đông khoảng 1.500km. Nếu Trung Quốc cho xây đường băng dài 2.000m trên đảo Gạc Ma, các chiến đấu cơ Su-30; J-10; J-11 sẽ có khả năng tác chiến vươn tới tận Malacca.
Thậm chí toàn bộ miền Nam Việt Nam cũng nằm trong phạm vi tấn côngcủa các chiến đấu cơ này.
Theo Hoàn Cầu thời báo, Trung Quốc đang tập trung xây dựng nhiều công trình ở phía Tây đảo Gạc Ma, có chiều dài lên đến 4.04km. 
Mô hình xây dựng đảo Hoàng Sa trong tương lai (Trung Quốc chiếm đóng trái phép từ năm 1974 đến nay) 
Trong khi đó, phía Đông Bắc sẽ được xây thành cảng, cung cấp khả năng ra vào cho tàu khu trục hạm cỡ lớn. 
Đài Loan cũng sẽ chịu uy hiếp nhất định từ phía đảo Gạc Ma, bởi nơi này cách đảo Ba Bình do Đài Loan chiếm đóng trái phép của Việt Nam khoảng 72km. 
Tờ Kanwa nhận định với năng lực tác chiến hiện nay, Trung Quốc có thể ‘dễ dàng chiếm đảo Ba Bình’, bắt giữ toàn bộ quân nhân Đài Loan trên đảo để ra điều kiện đàm phán với Đài Bắc.
Trung Quốc cũng đang xây dựng, kiên cố hóa đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà nước này xâm chiếm trái phép năm 1974. 
Theo tờ Want China Times của Đài Loan, khi hai hòn đảo này được xây dựng xong, Trung Quốc hoàn toàn có thể lắp đặt radar tầm xa, sóng vô tuyến và các thiết bị giám sát trên không, trên biển. 
Toàn bộ các quốc gia Đông Nam Á, cho đến tận Singapore đều nằm trong tầm kiểm soát của radar Trung Quốc.
Trong khi Mỹ tuyên bố ‘xoay trục sang châu Á’, động thái mới này của Trung Quốc được cho là sẽ tạo áp lực đáng kể lên hạm đội Thái Bình Dương nổi tiếng của Mỹ.
Tờ Want China Times nhận xét, việc xây các căn cứ quân sự ở đảo Phú Lâm (Hoàng Sa) và đảo Gạc Ma (Trường Sa) sẽ giúp quân đội Trung Quốc tiến thêm 850km trên Biển Đông. 
Tờ báo này cho rằng ngay khi hải quân Mỹ qua eo biển Malacca vào Biển Đông, mọi động tĩnh sẽ khó lọt qua hệ thống radar Trung Quốc bố trí ở hai đảo nêu trên.
Tờ Want China Times dẫn nguồn tin Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết, từ nhiều năm qua, Trung Quốc đã cài đặt nhiều thiết bị dò sóng âm tàu ngầm, do thám tín hiệu tàu chiến ở nhiều điểm đảo trên Biển Đông. 
Trung Quốc cũng xây nhiều trạm radar có khả năng phát hiện tàu chiến và các hoạt động chuyển quân của Mỹ, Việt Nam và Malaysia.
Tờ báo của Đài Loan nói Trung Quốc cũng đang lên kế hoạch xây đảo nhân tạo trên nền một số đảo san hô mà nước này chiếm đóng trái phép, nhưng số lượng đảo là bao nhiêu thì không được Want China Times tiết lộ.
Theo trang tin quân sự Trung Quốc Chinamil, Bắc Kinh cũng đang xúc tiến xây dựng các công trình trên đảo đá Chữ Thập ở Trường Sa (Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Thử). 
Hiện tại, Trung Quốc đã cho xây dựng đảo nhân tạo rộng 90m2 ở đảo đá Chữ Thập, có sân bay trực thăng, radar, thiết bị giám sát vô tuyến, cung cấp chỗ neo đậu cho tàu khu trục hạm cỡ nhỏ.
Phóng viên: Phương Mai

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bạn Anh Còi vừa có đóng góp mới cho các bạn:

Phác họa ảnh qua facebook

HIHI~, Chào các bạn hôm nay mình sẽ giới thiệu các bạn cách vẽ ảnh đang NÓNG và HOT nhất hiện nay nghen  
 
Một Số Hình Ảnh Chứng Minh 
 

Hướng dẫn luôn nhé 
→  Đầu tiên :Các bạn truy cập vào địa chỉ http://anhdep.facebook.com  ←

→ Sau đó : Nhấn tổ hợp phím → | CTRL + A | ← rồi nhấn → | CTRL + C | ← để COPY toàn bộ CODE  


→Bước 3 : Quay trở lại → http://www.facebook.com ← 

→ Tiếp đến: Vào album ảnh chọn bức ảnh muốn làm (cái nào thệt đẹp í )

→Với bạn nào dùng trình duyệt GoogleChrome thì ấn tổ hợp phím: 
→ | Ctrl + Shift + J | 


→Với bạn nào dùng trình duyệt Firefox thì ấn tổ hợp phím: 
→ | Ctrl + Shift + K | 


→Cuối cùng : Nhấn tổ hợp phím → | Ctrl + V | ← rồi nhấn Enter để chạy CODE vừa COPY 
 
 Cơ mà còn một chuyện nữa → Hưởng thụ thành quả , tô điểm cho Facebook ← 
 Hihi~ , chụp hình khoe bạn bè luôn  
 Ai thấy hay thì Share hộ mình nhé 
 
 
 
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ảnh bạn tặng, thích tê cả người!



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tranh luận về thủy tổ của người Việt

THỦY TỔ NGƯỜI VIỆT THỰC SỰ Ở ĐÂU?


Hà Văn Thùy
6-8-2014
Trong bài “Kính gửi ông Tạ Đức và ông Nguyễn Dư” (xem ở đây) đăng trên Văn hóa Nghệ An, tác giả Phan Lan Hoa có viết: “Thiết nghĩ, khi mà sử sách, địa danh và di chỉ chứng tích đã trùng khớp, cớ sao lại có người còn muốn đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa là vì cớ chi? (Đoạn này, xin được gửi cả đến ông Hà Văn Thùy, người khẳng định Kinh Dương Vương và nước Xích Quỷ ở bên Trung Hoa?).”*
Từ lâu, tôi tâm niệm sẽ làm một khảo cứu nghiêm túc xác định nơi sinh thành của thủy tổ người Việt nhưng vì chưa đủ duyên nên chưa thành. Nay nhân có người “đòi”, xin được trả món nợ.
Tìm ra chính xác tổ tiên người Việt là việc vô cùng khó vì thế mà suốt 2000 năm qua, dù bỏ bao công sức và tâm trí, chúng ta vẫn đi tìm trong vô vọng. Nhìn lại cuộc tìm kiếm trong quá khứ, ta thấy, cả người xưa, cả hôm nay chỉ có tư liệu từ thời điểm quá gần, khoảng 2000 năm trở lại. Với một ngưỡng thời gian như vậy, không cho phép có cái nhìn xa hơn!
Sự thực là, muốn biết tổ tiên 5000 năm trước là ai, chỉ có thể đi tới tận cùng lịch sử, để biết con người đầu tiên xuất hiện trên đất Việt là ai?
I. Khởi đầu từ lịch sử
Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Trung Hoa cũng tự nhận là con cháu Thần Nông? Những hoài nghi ấy, nếu không hóa giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy, muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn.
Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó(Việt bộ Qua -).20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra đồ gốm sớm nhất thế giới và 12400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên của loài người. Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân cây lúa(Việt bộ Mễ -)!Rồi từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc tiến, người Việt vượt Dương Tử lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử ở Vũ Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen, tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam.
Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc. Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một cách tự nhiên nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông, khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết “Phục Hy thị một, Thần Nông thị xuất” chính là mô tả thời kỳ này. Truyền thuyết cho hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4000 năm TCN. Tiếp theo là Thần Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN... Trong bối cảnh như vậy, ta thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: phải chăng có điều gì đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh? Từ nhiều tư liệu, có thể suy ra, thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba nhà nước: Thần Nông Bắc của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà, Thần Nông Nam (Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và quốc gia Ba Thục ở phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và  Miến Điện.
Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Đây chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng, với mục đích gắn Hoàng Đế với Viêm Đế vào cùng chủng tộc để rồi cho ra đời thuyết Hoa Hạ là Viêm Hoàng tử tôn, trong đó  Hoàng Đế là chủ soái! Nhưng thực ra đó là cuộc xâm lăng của người bờ Bắc. Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Gợi cho chúng tôi ý tưởng này là đoạn chép trong Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.” (Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt được lập ra trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.)
Về Việt Nam, người Núi Thái-Trong Nguồn hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này.
Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau:  
Khoa học xác định mã di truyền của người Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là người Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi được đặt ra: người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất Việt Nam vào thời gian nào? Khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết: “Suốt Thời Đá Mới, chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư khu vực. Người Austrtaloid biến mất dần, không hiểu do di cư hay đồng hóa.” Khảo cổ học cũng cho thấy, người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất nước ta vào thời Phùng Nguyên, khoảng 4500 năm trước.
Một câu hỏi khác: họ từ đâu tới? Ta thấy, suốt Thời Đồ Đá, trên toàn bộ Đông Nam Á kể cả Việt Nam không có người Mongoloid. Trong khi đó, như phân tích ở trên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ (cửa sông Chiết Giang) từ 7000 năm trước. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ hai nơi này xuống Việt Nam. Nhưng do di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” ta hiểu, là từ Núi Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam.
Như vậy, có hai giai đoạn hình thành người Việt: giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Tại Núi Thái-Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Khoảng năm 2698 TCN, do thua trận Trác Lộc, người Việt của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam, lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ tiên trực tiếp của chúng ta.
Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ cũng hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Nhận được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim của văn hóa phương Đông. Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, bị các vương triều Trung Hoa chiếm dụng làm phương tiện thống trị các tộc người khác. Người Hoa đổi đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên. Sông nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Do mất đất mất tên nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là đâu?!
II.Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt.
1.Quá trình hình thành
Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh...  Chạy giặc, bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái-Trong Nguồn không thể ngờ rằng nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn làm để không quên người không trở về sau những chuyến đi! Khi khá giả hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi thành tộc phả, ngọc phả. Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin. Đọc một số thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói: “Tra mãi không thấy ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.” Anh tính, mất bao nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho họ làm!” Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc, chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm nay không?
Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt, loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án, những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng, cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”…
2. Đôi lời nhận định
Người viết bài này có lúc hăm hở theo dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định  bài vị các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” - cách gọi họ theo dòng cha ra đời! Thời đó, con người chỉ được đánh dấu bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh, Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều Minh, triều Thanh?! Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi không thể trả lời!
Khi không trả lời được những thắc mắc trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy? Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi nhận ra, những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân. Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên... Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa!
Những người chủ trương việc này nghĩ rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau!
Trước hết, là xuyên tạc lịch sử:
Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ. Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội!
Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng ngạo mạn: “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt đầu định cư..”  Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Trung Hoa bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp Trung Hoa. Nếu cứ theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị giáo sư thông thái nọ? Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống lại ông ta! Đó là do, cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi…
III. Kết luận
Có một thời tăm tối, chúng ta được cổ thư Trung Hoa và những vị thầy Tây dạy rằng, người từ Trung Hoa xuống đồng hóa dân Annam mông muội. Dân Việt là lũ Tàu lai. Tất cả văn hóa Việt là sự bắt chước Trung Hoa chưa trọn vẹn. Người Việt không có chữ, phải mượn chữ Trung Hoa, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán… Hàng nghìn năm ta tin như thế!
Trong cái thời tăm tối ấy, chúng ta tìm mọi cách “thoát Trung” bằng việc viết ra lịch sử riêng của mình. Trong đó có những ý tưởng “quy tụ” tổ tiên về đất Phong Châu để tạo ra một cội nguồn, một lịch sử hoàn toàn độc lập với phương Bắc. Ý tưởng như vậy được nuôi bởi  bằng chứng là những ngôi mộ, ngôi đền, những cuốn ngọc phả… khiến không ít người tin vì có nguồn cội “thoát Trung”!
Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối cùng của tổ tiên.
Vì vậy, trong những “đồ án phục dựng lịch sử Việt” ra đời lâu nay thì việc sa bàn hóa, quy tập tổ tiên về đất hẹp Phong Châu là sai lầm tai hại nhất. Trong khi những phương án khác chỉ là những ý tưởng trên giấy thì “đồ án” này tác động sâu rộng không chỉ tới lịch sử, tâm linh mà tới cả cuộc sống dân tộc.
Thưa ông Phan Lan Hoa, thời trẻ làm báo, tôi chỉ viết sự thực cho dù có rước lấy tai họa. Nay vào tuổi cổ lai hy, tôi chỉ viết sử theo sự thật vì biết rằng, chỉ sự thật là còn lại. Vì vậy, tôi không hề dám làm cái việc bạo thiên nghịch địa là “đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa” như ông ghép tội. Phải đâu là chuyện cá ao ai nấy được? Tôi chỉ làm cái việc trung thực là phát hiện sự việc của quá khứ rồi đặt nó vào đúng chỗ, thưa ông! Theo thiển ý, nếu như có ngôi mộ nào sớm nhất của tổ tiên trên đất Việt thì chỉ có thể là mộ Lạc Long Quân ở  Rào Rum-Ngàn Hống hay tại kinh đô Ao Việt!
Đáng buồn và đáng sợ là, những người “quy tập” tổ tiên về đất hẹp Phong Châu không ngờ rằng mình đang làm cái việc nguy hại tham bát bỏ mâm. Trong khi hất đi cái mâm thật, không chỉ đầy của cải quý giá mà còn có cả văn tự ghi quyền sở hữu giang sơn vĩ đại của tổ tiên xưa thì quý vị ôm lấy cái bát ảo! Cái mâm quẳng đi rồi, một khi cái bát được chứng minh là giả, không hiểu quý vị tính sao?!
                                                        
 Sài Gòn, Vu Lan năm Giáp Ngọ

Nguồn VHNA



MỘT LẦN NỮA XIN ĐƯỢC HỎI NHÀ VĂN HÀ VĂN THÙY


Đỗ Kiên Cường

Trên Văn hóa Nghệ An online ngày 6-8-2014 có đăng bài viết Thủy tổ người Việt thực sự ở đâu? của nhà văn Hà Văn Thùy, với những luận điểm đã khá quen tai về nguồn gốc người Việt. Theo Hà Văn Thùy, người hiện đại đã tới Việt Nam từ 70.000 năm trước và người Việt đã khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước. Tôi từng bác bỏ giả thuyết đó từ năm 2008 (xin lưu ý bạn đọc rằng, Hà Văn Thùy hoàn toàn im lặng trước sự bác bỏ đó); và mới đây lại yêu cầu Hà Văn Thùy đưa ra bằng chứng trong bài Bằng chứng đâu, thưa ông Hà Văn Thùy? (Văn hóa Nghệ An online, 21-7-2014). Vậy nay thì ông Hà Văn Thùy trả lời như thế nào?
1. Người Việt khai phá Trung Hoa 40.000 năm trước?
Trong bài vừa dẫn, Hà Văn Thùy viết: “không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá - hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó”. Bạn đọc có thể không biết rằng, Hà Văn Thùy đang chơi bài lập lờ đánh lận con đen, khi không dám tuyên bố rằng, ông đang trích dẫn xuyên tạc công trình Quan hệ di truyền của cư dân Trung Quốc của các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc do giáo sư Chu đứng đầu, được đăng tải trên tạp chí Thông báo của Viện hàn lâm khoa học Mỹ PNAS ngày 29-9-1998. Bạn đọc có thể không ngờ được rằng, trong công trình của Chu, không có một chữ nào nói về địa danh Việt Nam, người Việt hay thời điểm 40.000 năm cả! Nói cách khác, Hà Văn Thùy đã lập thuyết dựa trên sự ngụy tạo tài liệu! Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về sự ngụy tạo đó bằng cách truy cập bài báo gốc của nhóm nghiên cứu do Chu đứng đầu trên PNAS tại địa chỉ www.pnas.org/content/95/20/11763.full.pdf+html. Nếu không đồng ý với nhận định của tôi, xin ông Hà Văn Thùy vui lòng dẫn ra tài liệu gốc để bạn đọc phán xét.
Vậy người hiện đại tới Trung Hoa khi nào? Trong cuốn sách Human origins: What bones and genomes tell us about ourselves, do Đại học Texas xuất bản năm 2008, tại trang 152, các nhà khoa học Rob DeSalle, đồng giám đốc Phòng thí nghiệm các hệ thống phân tử, trưởng ban Động vật có xương sống, và Ian Tattersall, trưởng ban Nhân học tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Mỹđã viết:“phân tích 20.000 nhiễm sắc thể Y từ 58 dân tộc sống tại Trung Hoa, các nhà khoa họcTrung Quốcthấy rằng Homo sapiens tới Trung Quốc từ 30.000 năm trước, và Vân Nam và Quảng Tây là nơi đầu tiên nhìn thấy sự lan tỏa của họ”. Điều đó chứng tỏ giả thuyết của Hà Văn Thùy hoàn toàn sai sự thật; và bài viết mới trên Văn hóa Nghệ An online ngày 6-8-2014 chỉ là sự lặp lại các luận điểm đã bị bác bỏ mà thôi.
2. Bốn mươi ngàn năm trước đã có người Việt hay chưa?
Để không mất thời gian của bạn đọc, tôi xin khẳng định rằng, 40.000 năm trước, trên toàn bộ Trái Đất chỉ có người da đen mà thôi. Các đại chủng Âu (Caucasoid) hoặc Á (Mongoloid) chỉ xuất hiện hoàn chỉnh khoảng 12.000 - 10.000 năm trước, trong kỷ Toàn Tân (Klein RG, The Human Career: Human Biological and Cultural Origins, Second Edition, University of Chicago Press, 1999, p 502). Và do vậy các tộc người như chúng ta thấy ngày nay (người Việt, người Hán, người Thái, người Khmer…) chắc chắn phải xuất hiện muộn hơn nhiều, khi hình thành các quốc gia sơ khai.
3. Sáu ngàn năm trước, người Việt chiếm 60% nhân số thế giới?
Hà Văn Thùy viết: “Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử”. Có rất nhiều điều đáng bàn trong những nhận định tưởng như đơn giản đó.
Với tư cách một nhà khoa học thực chứng, tôi lại xin hỏi nhà văn Hà Văn Thùy mấy câu hỏi như sau: 1) Đâu là bằng chứng cho nhận định khoảng 6000 năm trước, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới? Xin ông vui lòng dẫn ra tài liệu gốc thật rõ ràng để mọi người cùng xem xét. 2) Trị thủy Hoàng Hà là công việc của người Hán, sao ông lại vơ vào cho người Việt như vậy? Ngay cả trị thủy sông Dương Tử cũng là công việc của các tộc Việt khác trong Bách Việt Hoa Nam (theo cách gọi phiếm chỉ của người Hán), chứ liên quan gì tới người Việt Nam ta?
4.Tại Trung Quốc, người Việt hòa huyết với người Mogoloid phương Bắc sinh ra người Mongoloid phương Nam?
Hà Văn Thùy cũng viết: “khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân”. Viết như vậy chứng tỏ Hà Văn Thùy không biết các thông tin mới của Dự án bản đồ gien Hội địa lý quốc gia Mỹ 2005 - 2010 và khám phá cách mạng của Tổ chức bộ gien người HUGO năm 2009. Theo đó thì Đông Nam Á là nguồn gốc chủ yếu của người Đông Á, sau kỷ băng hà cực đại (khoảng 15.000 - 10.000 năm trước). Và mặc dù thường xuyên nhắc tới công trình của nhóm Ballinger từ 1992 (người Việt Nam có sự đa dạng di truyền cao nhất trong số các sắc dân được nghiên cứu), nhưng ông Hà Văn Thùy không nhận thấy rằng, công trình đó giả định người châu Á có nguồn gốc Mongoloid phương Nam! (Nguyên văn nhận định quan trọng đó trong phần tóm tắt công trình như sau: “The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians”; và nó có thể dịch thành: “Sự đa dạng ADN ty thể lớn nhất và tần suất cao nhất của các ADN ty thể với gien HpaI/HincII morph 1 ở người Việt Nam dẫn tới giả định về nguồn gốc Mongoloid phương Nam của người châu Á”).
Nói cách khác, các bằng chứng nhân chủng học phân tử cho thấy, khác với tiền niệm về  nguồn gốc phương Bắc, chính Đông Nam Á mới là nơi phát tích đại chủng Á (Mongoloid). Tất cả những thông tin đó đã được tôi trình bày trong bài viết Một giả thuyết về nguồn gốc người Việt dựa trên bằng chứng nhân chủng học phân tử, đã được in kỳ đầu trên Văn hóa Nghệ An số 273 ngày 25-7-2014 (kỳ cuối sẽ được in trong số kế tiếp).
5.Hà Văn Thùy đồng thuận với Tạ Đức?
Mặc dù Hà Văn Thùy phản bác quan điểm thiên di của người Bách Việt Hoa Nam của Tạ Đức, xem đó là một kiến giải sai về nguồn gốc dân tộc, nhưng về thực chất quan điểm của ông cũng là một kiểu thiên di từ phương Bắc. Sự khác biệt giữa hai ông chỉ là ở chỗ, có (ông Hà Văn Thùy) hay không (ông Tạ Đức) xem xét nguồn gốc người Bách Việt Hoa Nam mà thôi.
6. Kết luận:
Bên cạnh việc ghi nhận nhiệt huyết với bài toán nguồn gốc dân tộc, chúng ta không thể đồng tình với các thao tác phi khoa học, thậm chí mang tính lừa gạt, trong cách lập luận của Hà Văn Thùy. Một lần nữa xin được hỏi nhà văn Hà Văn Thùy rằng, đâu là bằng chứng không thể bác bỏ cho các giả thuyết động trời của ông, theo đúng tiêu chí Carl Sagan trong khoa học (tuyên bố khác thường đòi hỏi chứng cứ khác thường)?
              
TP Hồ Chí Minh ngày 8-8-2014 



Phần nhận xét hiển thị trên trang