Cả một thời gian dài, Thụy Lệ là một nơi chốn đầy tội lỗi ở biên giới giữa Trung Quốc và Myanmar. Một chốn mại dâm và nơi trú ẩn của giới mua bán ma túy. Người nhiễm HIV sống vật vờ. Không có người nước ngoài nào tới đây, dân du lịch ba lô cũng không.
Ngày nay, ở đó có những con đường được trồng dừa hai bên, khách sạn năm sao, sân golf và cửa hàng Armani cũng như Gucci thật. Bất động sản trong thành phố 110.000 dân này có giá gần bằng trong các thành phố lớn như Bắc Kinh hay Thượng Hải.
Cửa khẩu biên giới Myanmar-Trung Quốc ở Ruili/Thụy Lệ
Hiện nay, Thụy Lệ đã trở thành một trung tâm giữa Trung Quốc và Myanmar. Từ ở đây, người Trung Quốc thâm nhập – về kinh tế – ngày càng sâu vào trong Myanmar. Giờ Bắc Kinh đã thống trị ở miền Bắc của đất nước này rồi. Người Trung Quốc đặt dấu ấn và chi phối hình ảnh đường sá trong nhiều thành phố. Cùng một hình ảnh đó trong thủ đô Lào Vientiane hay trong thủ đô Campuchia Phnom Penh.
Myanmar, Lào, Campuchia – trong những nước này, sự hiện diện của Trung Quốc là rõ ràng nhất. Nhưng cả trong phần còn lại của Đông Nam Á, sự xuất hiện của Trung Quốc cũng để lại dấu vết. Tất cả mười quốc gia Đông Nam Á tạo thành liên minh các quốc gia ASEAN hiện giờ gắn kết rất chặt chẽ với Trung Quốc về kinh tế. Đối với tất cả, Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng nhất.
Nữ chuyên gia Trung Quốc Susan Shirk nói: “Trung Quốc nhìn Đông Nam Á như là vùng ảnh hưởng truyền thống của họ.” Trong đó, bà cũng nhìn thấy những điều tương tự với hệ thống triều cống của vương quốc các hoàng đế Trung Hoa ngày xưa. Thời đó, Bắc Kinh thống trị đã vạch những vòng tròn đồng tâm quanh vương quốc ở giữa. Quy định trong đó: càng gần Trung Quốc thì càng phải triều cống.
Ngày nay, sự lệ thuộc tinh vi hơn. Không ai còn phải tới khấu đầu công khai ở Bắc Kinh nữa. Ngày nay, người Trung Quốc thích ký kết hiệp định hơn. Ví dụ như Hiệp định Thương mại Tự do giữa Trung Quốc và mười quốc gia ASEAN. Vào ngày 1 tháng Giêng 2010, hiệp định về ASEAN-China Free Trade Area (ACFTA) bắt đầu có hiệu lực. Đó là vùng thương mại tự do lớn nhất thế giới với gần hai tỉ người.
Trong ACFTA, 90% tất cả hàng hóa có thể đi qua biên giới mà không cần phải đóng thuế. Mười phần trăm còn lại chỉ phải đóng thuế rất ít. Lần bãi bỏ các hàng rào thuế quan này đã đẩy mạnh thương mại giữa Trung QUốc và các quốc gia ASEAN. Ngay từ 2011, thương mại giữa hai bên đã vượt 400 tỉ dollar. Con số này lớn hơn thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản.
Và trao đổi hàng hóa chắc chắn sẽ còn tăng lên thêm nữa, nếu như các điều kiện tiếp vận cho việc này được tạo thành, tức là kết nối giao thông tốt hơn giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Vì vậy mà Trung Quốc đã có kế hoạch cho những dự án hạ tầng cơ sở khổng lồ, để gắn các quốc gia này chặt hơn nữa vào họ.
Như có kế hoạch cho một tuyến đường sắt xuyên suốt từ Trung Quốc qua Lào và Thái Lan cho tới Singapore. Các con tàu dự định sẽ lao qua những cánh đồng lúa với 250 km/h. Người ta đã bắt đầu xây nhiều đoạn. Ở Trung Quốc đã xây cho tới biên giới Lào, từ Bangkok cũng đã tới biên giới Lào. Chỉ ở Lào là các tín hiệu vẫn còn đỏ. Chính phủ đã ngưng công cuộc xây dựng. Người Trung Quốc yêu cầu cả đất đai ở hai bên của tuyến đường 480 kilômét xuyên qua Lào. Nông dân Lào chống lại điều đó – và chính phủ nghe theo lời họ.
Các con đường cao tốc đầu tiên cũng đã thành hình rồi. Hiện giờ, một con đường cao tốc từ Côn Minh, thủ phủ đang phát đạt của tỉnh Vân Nam Trung Quốc, về tới thủ đô Việt Nam Hà Nội. Thời gian đi được rút ngắn từ ba ngày xuống còn chưa tới một ngày.
Vì các quốc gia láng giềng của Trung Quốc không có khả năng gánh vác phí tổn cho những dự án nhiều tham vọng như thế nên Trung Quốc đã hào phóng tuyên bố rằng họ sẽ chi trả một phần lớn cho các dự án này.
Người ta tạo sự lệ thuộc như thế đó – cũng như ở Nga và Trung Á. Người Trung Quốc tuy không xây đường sá tới đó, nhưng xây đường ống dẫn dầu.
Wolfgang Hirn
Phan Ba trích dịch từ “Der nächste Kalte Krieg: China gegen den Westen” ["Cuộc Chiến tranh Lạnh kế tiếp - Trung Quốc chống Phương Tây"]
Thế giới hiện có nhiều cường quốc. Mỹ là số 1, cả kinh tế lẫn quân sự. Nga là cường quốc quân sự, Nhật là cường quốc kinh tế. Còn Trung Quốc là cường quốc gì?
Tàu Trung Quốc hung hăng tấn công tàu thực thi pháp luật của
Việt Nam tại khu vực giàn khoan Hải Dương-981 - Ảnh: Mai Thanh Hải
Về dân số, Trung Quốc bằng ¼ thế giới, bỏ xa các cường quốc Mỹ, Nga, Nhật. Chả lẽ gọi là cường quốc dân số? Về kinh tế, tổng GDP Trung Quốc xếp thứ 2, sau Mỹ và trước Nhật. Nhưng tài sản của Trung Quốc 1,4 tỉ dân nhiều hơn 130 triệu dân Nhật có gì đâu để nói?
Có người bảo Trung Quốc là cường quốc chơi xấu khắp thế giới, nhất là với các nước láng giềng mà đặc biệt Việt Nam với vô vàn trò đểu. Nếu Liên Hiệp Quốc có cuộc thống kê thì chắc chắn Trung Quốc là cường quốc bị thiên hạ ghét nhất? Chẳng có cường quốc nào lại hành xử hạ cấp như Trung Quốc. Lân bang của Trung Quốc, nếu không chịu thuần phục thì suốt đời phải đối phó vất vả vì đối phương không từ bỏ bất cứ thủ đoạn bẩn thỉu nào, miễn là ức hiếp được mấy nước nhỏ. Kẻ khác bảo Trung Quốc luôn nói một đằng, làm một nẻo, quen thói lật lọng. Điều này thiên hạ đã rất tỏ tường.
Ai đời là cường quốc, là 1 trong 5 thành viên có quyền phủ quyết của Liên Hiệp Quốc, đáng lẽ phải luôn gương mẫu tôn trọng các nước khác thì Trung Quốc cứ làm ngược lại. Ức hiếp và chiếm đảo của Philippines, bị kiện ra tòa án quốc tế, đường đường vỗ ngực là cường quốc mà không dám ló mặt đến tòa. Chỉ có kẻ gian mới sợ tòa án, sợ sự minh bạch và ánh sáng công lý. Mấy năm nay, cứ suốt ngày rình mò bắt nạt ngư dân Việt Nam không có nửa tấc sắt tự vệ. Từ đâm húc tàu, đánh đập ngư dân, bắt cóc đòi tiền chuộc, phá hỏng thiết bị, ăn cướp tài sản và cả tôm cá của ngư dân đánh bắt được. Hở một chút là lên giọng đe nẹt, cứ đòi dùng vũ lực dạy người thân cô. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh ngược lại, ai đã dạy ai. Gần nhất là “bài học dạy ngược lại” của người Việt dành cho quân xâm lược Trung Quốc vào tháng 2.1979.
Hà hiếp ngư dân Việt Nam chưa đủ, cả tháng nay Trung Quốc ngang ngược kéo giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng biển Việt Nam. Nếu biển của Trung Quốc sao cả thế giới lên án? Sao phải đưa hơn trăm tàu thuyền và máy bay hung hăng canh chừng, bảo vệ. Suốt ngày đâm, húc, xịt vòi rồng và cả ném đá vào tàu Việt Nam. Nếu giàn khoan này ở biển Trung Quốc, tàu các nước bén mảng tới, dù là vô tình, Trung Quốc đã thẳng thừng tiêu diệt. Vừa ăn cướp vừa la làng nhưng chỉ lừa được những người dân Trung Quốc bị nhồi sọ và bưng bít thông tin. Giàn khoan Hải Dương-981 đã vứt bỏ mặt nạ đạo đức giả cuối cùng của chính quyền Trung Quốc. Là dịp may hiếm có thức tỉnh những người Việt u mê và cả tin vào “hữu nghị viển vông”, là cơ hội xóa bỏ hiềm khích, đoàn kết hợp lực giữ nước và thoát dần sự lệ thuộc nguy hiểm vào Trung Quốc.
Từ năm 2000 đến nay, nhập khẩu Trung Quốc vào Việt Nam tăng hơn 110 lần. Nhập siêu thương mại Việt - Trung năm 2013 là 23,7 tỉ USD. Các dự án của Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam đa phần đều chậm tiến độ, đội giá, thiết bị lạc hậu, kém hiệu quả và kéo theo hàng chục ngàn lao động trái phép. Nhiều dự án còn xâm hại an ninh quốc phòng. Thoát dần sự lệ thuộc là thoát khỏi hiểm họa bị hàng Trung Quốc “ướp xác từ lúc còn sống”, bởi Việt Nam là thị trường béo bở của hàng thải, hàng độc hại "made in China". Việt Nam vẫn giao thương với Trung Quốc nhưng bình đẳng, tôn trọng nhau, cùng có lợi chứ không bị lép vế và thua thiệt đủ bề như hiện nay. Chơi với ma dễ thành tà. Việt Nam không thể chọn láng giềng nhưng có thể chọn bạn chí cốt.
Giàn khoan Hải Dương-981 trước sau cũng phải rút về. Cả thế giới sẽ không ngồi yên để Trung Quốc tự tung tự tác. Kẻ cướp, một khi không bị pháp luật xử lý, không được ngăn ngừa, thì sẽ cực kỳ nguy hiểm. Hôm nay Việt Nam là nạn nhân, ngày mai sẽ là những nước khác. Cái xấu phải được chặn đứng. Có người bảo Trung Quốc hành xử như con nít, như hàng tôm hàng cá. Nói vậy có tội vì con nít chưa làm chủ hành động của mình nhưng thật thà, có sao nói vậy. Hàng tôm hàng cá, có người ít học; đôi khi nói năng bốc đồng, đốp chát chứ không có kiểu “vừa ăn cướp vừa la làng”. Cả tháng nay, Trung Quốc đang chứng tỏ mình là cường quốc xịt vòi rồng và ném đá, từ tàu cá đến tàu cảnh sát biển và kiểm ngư Việt Nam.
Bùi Nguyễn Thiên Du (*) http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140608/cuong-quoc-gi.aspx
Đôi lời: Đây là bản gốc bài phỏng vấn nhà văn Nguyên Ngọc đăng trên báo Kiến Thức hôm qua: “Sợ nhất giàn khoan 981 lẳng lặng rút đi… rồi mọi chuyện chìm“. Tác giả cho biết, bài đăng trên báo Kiến Thức đã bị sửa và cắt xén rất nhiều. Mời bà con đọc và so sánh.
Tâm tư của người VN đã ít nhiều xáo trộn kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Xin ông chia sẻ những tâm tư của mình với tư cách một tri thức, một công dân của VN?
Nói rằng tâm tư người Việt “ít nhiều xáo trộn” vì vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc là nói quá nhẹ. Người Việt Nam nói “đất nước” để chỉ cái mà các dân tộc khác gọi là quốc gia. Một tấc dất, một tắc biển bị xâm phạm có thể khiến cả dân tộc này bừng bừng đứng dậy. Trải nghiệm bi tráng hàng nghìn đời cũng đã để lại trong óc và trong máu người Việt ý thức và tình cảm sâu sắc rằng nguy cơ lớn nhất, dai dẳng nhất, thậm chí mãi mãi không bao giờ dứt đối với chủ quyền của đất nước là đến từ phương bắc, từ bành trướng tham lam không đáy và không bao giờ dừng lại của tất cả các triều đại Trung Hoa, từ Trung Hoa phong kiến cho đến Trung Hoa cộng sản, không chút khác biệt, tuyệt đối không thể mơ hồ.
Chuyện Trung Quốc âm mưu xâm chiếm nước ta là chuyện không mới, tuy nhiên lần này có hai điểm nổi bật:
Một: Trong âm mưu bành trướng lâu dài đó, đây là một bước chuyển có tính đột phá: giặc đã vào tận trong nhà. Đây là lúc, đúng như thời Trần cách nay tám thế kỷ đối mặt với quân Nguyên từng dày đạp cả nửa thế giới văn minh, đã đến lúc cất lên lời khẩn báo “sơn hà nguy biến!”.
Hai: Nguy biến, hầu như bao giờ cũng vậy, như một quy luật kỳ lạ và tuyệt diệu của cuộc sống, lại mở ra thời cơ. Và theo tôi có thể lần này là thời cơ lớn mà bao người Việt Nam từng trằn trọc chờ đợi nhiều năm nay.
Hiểm nguy sống còn đồng thời lại là cơ hội lớn từng trằn trọc chờ đợi, ông có thể nói rõ hơn?
Hiểm nguy chết người thì rõ rồi. Còn thời cơ ư?
Số phận đã đặt đất nước ta đứng sát cạnh một đế quốc khổng lồ, và là một đế quốc cực kỳ tham lam. Suốt lịch sử lâu dài từng là vậy, ngày nay càng là vậy: ráo riết hơn, hung hăng tàn bạo hơn, hấp tấp nôn nóng hơn, vô liêm sĩ hơn. Cách đây hơn thế kỷ trên thế giới người ta đã từng nói đến cái gọi là “họa da vàng” (péril jaune). Không phải chuyện phân biệt chủng tộc đâu. “Da vàng” đây cụ thể là đế quốc Trung Hoa. Nhân loại văn minh đã từng lo lắng về hiểm họa ấy. Hãy tưởng tượng đến một ngày cái đế quốc đó – mà là người Việt, dân tộc dày dạn kinh nghiệm nhất với đối tượng quái đản này, chúng ta càng hiểu thấm thía hơn ai hết – đến một ngày cái đế quốc ấy sẽ làm chủ toàn thế giới! Vậy mà đó chính là ý đồ ngày càng không cần quá che dấu nửa của nó, và không phải hoàn toàn không là khả năng hiện thực! Còn sống ngày nào, nhất thiết không được quên điều đó, viễn cảnh kinh hoàng đó.
Người Việt Nam càng không, bởi vì ta, Việt Nam, ta là nút chặn đầu tiên phải vượt qua trên con đường bành trướng vô độ của nó, từ mấy nghìn năm trước, ngày nay càng trắng trợn hơn, quyết liệt hơn. Cho nên nếu Việt Nam còn tồn tại được cho đến ngày nay, thì chính là vì lịch sử suốt mấy nghìn năm của Việt Nam thực chất, căn bản là lịch sử THOÁT TRUNG. Một nghìn năm Bắc thuộc đằng đẳng mà không bị đồng hóa là gì, nếu không là một cuộc thoát Trung kỳ, một cuộc đấu tranh văn hóa kỳ diệu đến kinh ngạc, hầu như không có trường hợp tương tự trong lịch sử thế giới. Rồi một nghìn năm nữa chống xâm lược vũ trang của Trung Quốc, từ Ngô Quyền cho đến Quang Trung …, đương nhiên cũng là đấu tranh vũ trang trên nền tảng văn hóa. Thoát Trung hay là chết, là bị hủy diệt, là không còn Việt Nam. Hàng nghìn năm trước cha ông ta đã giữ trọn non sông đất nước cho ta bằng tư tưởng và hành động sống kiên định, thông minh và anh hùng ấy.
Tuy nhiên, đến thời hiện đại thực tế đã không còn được như vậy. Tôi nghĩ đã đến lúc cần bình tĩnh và sáng suốt nhìn lại: con đường chúng ta đã bắt buộc (?) phải chọn trong chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, éo le một cách tất yếu, đã khiến ta xao lãng, đến ảo tưởng, về kẻ thù bành trướng truyền kiếp, nguy cơ lâu dài không bao giờ hết đối với tồn vong của dân tộc. Cho đến nổi sự kiện Hoàng Sa năm 1974, chiến tranh biên giới 1979, vụ Trường Sa 1984 … vẫn còn chưa đủ để đánh thức chúng ta. Rồi còn phải ngẫm nghĩ thật kỹ hơn về sự bi tráng lịch sử và sự mê muội tội lỗi kéo dài này.
Nay thì, theo tôi, chính đối thủ đã “giúp” ta, và là một cú giúp rất căn bản. Sự nôn nống do tham vọng ngông cuồng vốn năm trong bản chất của kẻ bành trướng đã khiến tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh đi một nước cờ sai. Với vụ giàn khoan hỗn xược, nó đã dại dột đánh thức lòng tự tôn dân tộc thiêng liêng bị dồn nén của người Việt, sức mạnh đã từng quét sạch mọi cuộc xâm lăng của đế quốc Trung Hoa trong suốt lịch sử. Nó phơi trần mọi sự lừa bịp được công phu bày vẽ lâu nay của kẻ gian manh đi lừa và ở kẻ dại dột bị lừa. Ông Thủ tướng Việt Nam lần đầu tiên đã phải nói đến việc vứt đi cái thứ “hữu nghị viễn vông” mấy mươi năm nay được dùng để lừa nhau và lừa dân…
Tất cả những điều đó, diễn ra từ khi có chuyện giàn khoan, do chuyện dàn khoan, theo tôi là khá ngoạn mục. Tất nhiên có thể thấy vẫn còn mấy kẻ cố sức vá víu, vớ vẩn lo “làm đổ bát nước đầy” …Ai cũng thấy chỉ là trò hề diễn muộn.
Tuy nhiên, đằng sau những biểu hiện đó, còn có một điều gì đó to lớn hơn nhiều, quan trọng sống còn hơn nhiều vẫn kìm hãm dân tộc này, xã hội này, con người Việt Nam này, khiến không khí ở đây oi bức, cùng quẩn hầu đến nghẹt thở: một cái nút bít bùng đã bung ra, có thể bung ra, và một con đường mới đã có thể mở ra, đang mở ra cho tiền đồ dân tộc: THOÁT TRUNG. Thoát Trung để sống còn và phát triển!
Tôi nói thời cơ lớn vì rõ ràng con đường đã rộng mở. Vấn đề bây giờ là có đủ can đảm dấn bước lên con đường mới đã mở ra kia hay không?
Ông có dự kiến cụ thể gì về chuyện giàn khoan sắp tới?
Nói thì có thể lạ: tôi sợ nhất là nó … lẵng lặng rút đi, và ở ta mọi sự lại rơi trở lại trạng thái cũ. Điều quan trọng nhất lúc này là nhận thức rõ đã diễn ra một bước ngoặt, sư thật đã được bày ra, và quyết không quay lại tình trạng bí bức trước nay.
Làm sao để không quay lại?
Cho tôi nói điều này: Thủ tướng đã nói một câu rất quan trọng: “Không đánh đổi chủ quyền vì một thứ hữu nghị viễn vông và lệ thuộc”. Cho tôi được phép nói thêm: muốn không viễn vông và lệ thuộc nữa (cả hai từ này đều quan trọng) thì nhất thiết phải từ bỏ ý thức hệ hão huyền. Chính cái món ý thức hệ hão huyền đó đã khiến người ta tin vào một thứ hữu nghị viễn vông, lừa bịp, còn bành trướng Bắc Kinh thì thực chất đã vứt bỏ nó từ lâu rồi trong khi lại dùng làm mồi nhử kẻ ngây ngô lệ thuộc. Hữu nghị viễn vông và ý thức hệ hão huyền là hai thứ không thể tách nhau.
Tôi đã có lần đề nghị: (lẽ ra) sau năm 1975, cần một cuộc phục hung dân tộc căn bản, để đưa đất nước thực sự chuyển sang một thời đại mới, phát triển cùng nhân loại văn minh. Xin nói rõ hơn: Muốn vậy, nhất thiết phải THOÁT TRUNG. Vứt bỏ hữu nghị viễn vông. Và cởi bỏ ý thức hệ hão huyền.
Bài viết của tác giả Uông Xuyên, được nói là chuyên viên Viện nghiên cứu chiến lược và nhiệm vụ quốc phòng của Trung Quốc.
Mở đầu bài viết, Uông Xuyên nói ‘sư đoàn người nhái’ trong lực lượng đặc công nước Việt Nam có thể áp sát chiến hạm đối phương trong phạm vi 3m đến 4m sau đó đặt thủy lôi rồi sau đó kích nổ.
Đặc công nước Việt Nam được báo Trung Quốc nói là thiện chiến nhất Đông Nam Á
Tác giả bài báo thêu dệt chi tiết mang đầy tính không tưởng về đặc công nước Việt Nam. Xin trích dịch một đoạn như sau: Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam dường như có đội ngũ người nhái mạnh nhất. Đặc biệt là sư đoàn người nhái 126 cực tinh nhuệ của lực lượng đặc công nước Việt Nam.
Mỗi thành viên của sư đoàn 126 có thể mang theo 500kg trọng tải phụ, lặn sâu xuống nước 50m và ‘không gây tiếng động’ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, hoặc họ có thể đào hố rồi tự ẩn mình trong cát, phủ lên những lớp ngụy trang khiến đối thủ không thể phát hiện.
Sự thành lập và địa vị của lực lượng người nhái cho thấy quốc gia này (Việt Nam) rất coi trọng và đầu tư lớn cho chủ quyền biển đảo.
Nhằm mục đích gì?
Chưa rõ Tân Hoa Xã, hãng thông tấn nhà nước lớn nhất Trung Quốc đăng bài viết này nhằm mục đích gì. Tuy nhiên, hồi đầu tháng trước, một quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cũng trên Tân Hoa Xã, đã vu cho Việt Nam ‘đưa người nhái xuống nước’ ở khu vực Trung Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan trên vùng biển Việt Nam.
Dịch Tiên Lương – Vụ phó Vụ Biển đảo Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói, khi ở cự ly cách nhau khoảng 5m giữa tàu hai bên, Trung Quốc "phát hiện Việt Nam đưa nhiều người nhái xuống nước".
Lực lượng đặc công nước Việt Nam với bài tập huấn luyện
"Việt Nam thả lượng lớn lưới đánh cá, chướng ngại vật cỡ lớn khiến tàu thuyền Trung Quốc di chuyển khó khăn", Tân Hoa Xã, dẫn lời ông Dịch ngày 9/5.
Sáng 10/5, trả lời VTC News, Trung tá Đặng Hồng Quân, phụ trách công tác ban Tuyên huấn, Cảnh sát biển Việt Nam khẳng định thông tin về việc tàu Việt Nam thả lưới cỡ lớn, giăng mắc chướng ngại vật, đưa người nhái tấn công tàu Trung Quốc là hoàn toàn bịa đặt.
Như vậy, đã có cơ sở để nhận định, đằng sau bài phân tích này, Trung Quốc đang ẩn giấu âm mưu nào đó liên quan đến người nhái và giàn khoan.
6 đặc công tiêu diệt tàu sân bay Mỹ
Báo Trung Quốc nói trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước hồi thế kỷ trước, lực lượng đặc công nước Việt Nam có nhiệm vụ ngăn chặn lính Mỹ trên các ngả đường biển, sông, suối quan trọng.
Video: Trung Quốc mưu đồ dựng hiện trường giả trên biển
Mục tiêu tấn công của đặc công nước Việt Nam được Tân Hoa Xã mô tả là bao gồm tàu chiến, cầu phà, bến tàu và các căn cứ trên mặt nước, trên bờ của quân đội đối phương.
Đặc công nước Việt Nam tập ngụy trang trong cát
“Người nhái là thành phần cực quan trọng của đặc công nước. Họ sử dụng ống thở, thuyền nhỏ, hoặc sử dụng những thiết bị hô hấp đặc chủng để phục kích, gắn thiết bị nổ rồi sau đó hủy diệt mục tiêu”, Tân Hoa Xã viết.
‘Sư đoàn người nhái’ trong lực lượng đặc công nước Việt Nam có thể áp sát chiến hạm đối phương trong phạm vi 3m đến 4m sau đó đặt thủy lôi rồi sau đó kích nổ.
Tác giả Uông Xuyên nhắc tới trận đánh ngày 1/5/1964, khi đó 6 người nhái Việt Nam dùng thủy lôi từ tính làm nổ tung khoang máy của tàu sân bay ‘Card’ của Hải quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
20 phút sau, chiếc tàu tải trọng 15.000 tấn của hải quân Mỹ chìm nghỉm. Thống kê của Uông Xuyên cho rằng trong cả cuộc chiến, người nhái Việt Nam đã đánh chìm 1.000 tàu của hải quân Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn.
Theo Uông Xuyên, sư đoàn người nhái 126 được thành lập năm 1969, đây cũng là sư đoàn ra tiếp quản Trường Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sư đoàn này về sau được biết đến phổ biến với cái tên Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 126.
Uông Xuyên nói Lữ đoàn 126 được đầu tư cực lớn về tiền tài, con người và các trang bị chiến đấu hiện đại. Tuy nhiên, do không có thông tin gì về lực lượng đặc công Việt Nam, bài báo trên Tân Hoa Xã tiếp tục đưa ra những lý giải khá mơ hồ.
VTC News trích dịch:
Lữ đoàn 126 được một số người cho là ‘con át chủ bài’ của Việt nam trong việc gìn giữ chủ quyền biển đảo và các vùng nước thuộc vùng đặc quyền kinh tế. Một số thông tin nói lữ đoàn 126 có cơ sở huấn luyện ở giữ một ngon núi có sông lớn chảy qua.
Trước đây, từng có báo cáo cho rằng Lữ đoàn 126 có hai trụ sở đặt tại Long An và Khánh Hòa, mỗi năm huấn luyện khoảng 30-50 người nhái đặc biệt tinh nhuệ.
Sau khi đưa ra một vài số liệu mà Uông Xuyên nói là ‘tài liệu báo cáo’ và ‘tài liệu được Việt Nam’ công khai, tác giả tự kết luận rằng ở TP.HCM còn có các trung đoàn người nhái 11A, 11B với nhiệm vụ phản gián.
Trang thiết bị, chiến thuật và kỹ năng của hai đội người nhái 11A, 11B được Uông Xuyên cho rằng ‘không kém gì đặc nhiệm hải quân SEAL của Mỹ’.
Video: Trung Quốc trơ trẽn vu cáo Việt Nam lên Liên Hợp Quốc
Huấn luyện khắc nghiệt
Bài báo của Trung Quốc viết tiếp về quá trình huấn luyện người nhái trong lực lượng đặc công nước Việt Nam: Người nhái được tuyển chọn vô cùng khắt khe.
Thông thường, cứ 1.000 người mới lấy được 10 người, bình quân mỗi năm Lữ đoàn 126 chỉ tăng được 20-30 tân binh.
Chiến sỹ đặc công Việt Nam
Họ được coi là những tài năng đặc biệt trong quân đội Việt Nam, sở hữu khả năng tác chiến tầm xa trên mặt nước hoặc sâu dưới nước, được trang bị những vũ khí, khí tài hiện đại bậc nhất.
Theo báo cáo của Mỹ, năm 2004-2005, người nhái Việt nam nhận được 55 thiết bị nhìn đêm của Mỹ, được nhập khẩu qua đường ‘xách tay’.
Mang nửa tấn thiết bị lặn dưới nước (?!)
Tân Hoa Xã viết về chuyện huấn luyện của người nhái đặc công nước Việt Nam như sau:
Đây là quá trình huấn luyện khắc khổ nhất trong quân đội Việt Nam, mỗi người nhái ban đầu phải mang 200 kg thiết bị lặn dưới nước, sau khi đã thành thục, họ phải mang tổng cộng 500kg thiết bị.
Trong điều kiện xung quanh là màn đêm tối mù mịt, người nhái phải sử dụng những thiết bị đặc chủng để tìm hướng lặn. Do thủy triều mạnh, đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự tiêu hao thể năng rất lớn.
Trung Quốc nói đặc công nước Việt Nam được trang bị vũ khí, khí tài hiện đại
Người nhái còn phải trải qua khóa huấn luyện ‘bất động’ dưới nước, điều này giúp họ có thể tấn công những mục tiêu đặc biệt.
Hiện tại, kỷ lục được ghi nhận là một người nhái có thể mang theo 500kg thiết bị và bất động dưới nước suốt 24 tiếng đồng hồ.
Họ được coi là những tài năng đặc biệt trong quân đội Việt Nam, sở hữu khả năng tác chiến tầm xa trên mặt nước hoặc sâu dưới nước, được trang bị những vũ khí, khí tài hiện đại bậc nhất.
Trong điều kiện mùa đông, nhiệt độ dưới nước chỉ khoảng 8-10 độ C, nhưng những người nhái Việt Nam vẫn phải tập bơi như bình thường.
Sau khi rời khỏi mặt nước, màu da họ chuyển sang xanh thẫm hoặc trắng bợt, cơ miệng cũng mất khả năng cử động.
Mỗi năm, những người nhái phải ba lần ra Biển Đông huấn luyện, mỗi đợt huấn luyện dã chiến như thế kéo dài 30-50 ngày.
Hiện tại, kỷ lục bơi liên tục trên mặt biển được ghi nhận là 48 tiếng đồng hồ. Việc bơi và lặn giúp người nhái sở hữu khả năng tác chiến hoàn hảo.
Người nhái Việt Nam có khả năng thích nghi cực tốt trong điều kiện dòng hải lưu chảy xiết, dòng nước xoáy, họ thậm chí có thể đương đầu với sự tấn công cả mập.
Khả năng ngụy trang của đặc công Việt Nam
Thần kinh Tiền đình cũng là điều được đặc biệt chú trọng khi huấn luyện người nhái. Việc này giúp họ có khả năng hoàn thành nhiệm vụ với độ khó cao, duy trì thăng bằng, phương hướng trong điều kiện chịu nhiều tác động.
Vào mùa hè, người nhái Việt Nam được đưa đến những bãi cát để luyện giấu mình trong cát nóng bỏng. Khi vùi mình dưới lớp cát 35 độ C, thân nhiệt người nhái có thể lên đến mức 45 độ C.
Video: Trung Quốc điều thêm tàu chiến ra khu vực giàn khoantrái phép Hải Dương 981
Bài báo trên Tân Hoa Xã kết luận: Với sự huấn luyện khắc nghiệt, đặc công nước và người nhái Việt Nam có khả năng tác chiến cực cao, độc lập hoàn thành nhiệm vụ, giữ bí mật tuyệt đối.
Có rất nhiều nhiệm vụ mà người nhái Việt Nam hoàn thành xuất sắc tới mức các đồng nghiệp đặc nhiệm hải quân Mỹ không sao hiểu nổi.
Không nghi ngờ gì nữa, người nhái là một trong những lực lượng được Việt Nam xây dựng rất kỹ nhằm chuẩn bị cho các cuộc xung đột trên biển trong tương lai.
Lời nhắn của Trương Duy Nhất về tình hình Biển Đông từ nhà tù Hòa Sơn ( Đà Nẵng)
Trương Duy Nhất
Trương Duy Nhất tại phiên tòa sơ thẩm
Phạm Xuân Nguyên: "Từ trại tạm giam Hoà Sơn (Đà Nẵng), bằng vào những điều nghe vọng được về hành động gây hấn của Trung Quốc trên vùng biển chủ quyền của nước ta thời gian qua, nhà báo Trương Duy Nhất đã nhắn gửi qua vợ con vào thăm tấm lòng yêu nước của mình bằng ý kiến dưới đây, trong khi chờ phiên toà phúc thẩm.
Xin nhắc lại vụ án Trương Duy Nhất: Anh bị cơ quan an ninh điều tra Bộ Công An bắt ngày 26/5/2013 tại Đà Nẵng với tội danh theo điều 258 Bộ luật hình sự, bị đưa ra xét xử ngày 4/3/2014 tại toà sơ thẩm Đà Nẵngvới bản án hai năm tù giam. Anh đã kháng án và sẽ ra toà phúc thẩm tại Đà Nẵng vào sáng 26/6/2014." (Phạm Xuân Nguyên).
Về vấn đề biển Đông, Trương Duy Nhất nhắn gửi mấy lời:
1) Cho tôi góp một ngọn sóng cùng muôn vàn ngọn sóng sục sôi, căm giận của công dân nước Việt, để nếu cần sẽ biến thành những Bạch Đằng, Đống Đa, Chi Lăng trên biển.
2) Với những người giữ cương vị lãnh đạo quốc gia, ta luôn kêu gọi quá nhiều ở ý thức công dân, nhưng đã khi nào hỏi ngược lại ở ý thức nguyên thủ. Được lòng dân hay mất lòng dân thể hiện rất rõ ở những thời khắc như thế này. Biện pháp đấu tranh kiên quyết, khôn khéo hay mềm mỏng, nhưng chung quy lại đừng hèn với giặc mà ác với dân.
3) Với các sử gia, nhân sĩ trí thức, nhà báo, nhà văn, ... những lúc như thế này cần lên tiếng mạnh mẽ. Không những lên tiếng mà còn phải ghi chép chi tiết, trung thực để con cháu đời sau phân biệt được ai là Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung; còn ai là Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
Trung Quốc đưa ra bằng chứng: Sách Địa Lý Lớp 9 Việt Nam nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc
Hồi đó để đánh chiếm cho được miền Nam thì dân Việt Nam cần thiết phải hy sinh đến người cuối cùng, Trường Sơn cũng thiêu rụi thì ăn thua gì mấy hòn đảo trên biển Đông. Công hàm cũng ký được thì nhằm nhò gì mấy trang sách giáo khoa.
Chương về Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ... Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn... làm thành một bức "trường thành" bảo vệ lục địa Trung quốc... Trích Sách địa lý lớp 9 (1974)
Đây là một phần tài liệu mà Trung Quốc chuyển tới Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông Ban Ki-moon, và yêu cầu ông này chuyển tới tay các quốc gia thành viên vào hôm thứ Hai 9/6/2014. Đây là lần thứ hai Trung Quốc đệ trình tài liệu lên Liên Hiệp Quốc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, lần thứ nhất là vào tháng 5/2014.
Trung Quốc có một tàu sân bay – và đang làm các nước láng giềng lo ngại. Khắp Đông Nam Á hiện nay, từ Đài Loan đến Nam Hàn, và từ Australia đến Philippines, đến Nhật Bản, các nước đang lên kế hoạch đẩy mạnh ngân sách quốc phòng để đối trọng lại một hải quân Trung Quốc ngày càng hiếu chiến. Vào thời điểm này, có vẻ như một trong những quốc gia nói trên, là Nhật Bản, sẵn sàng đứng ra lãnh đạo một liên minh quân sự. Việc gì đã đưa đến sự thể này, và tình hình này có ý nghĩa gì đối với các nhà đầu tư?
“Đường chín đoạn” khét tiếng của Trung Quốc, một tuyên bố chủ quyền coi gần hết biển Đông như một lãnh hải độc quyền của Trung Quốc. Những vùng đóng khung biểu thị những vùng Trung Quốc đang có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam và Philippines. Ảnh của Wikimedia Commons. Bối cảnh
Trong mấy tuần qua, một hạm đội hỗn hợp gồm các chiến hạm và tàu đánh cá thương mại Trung Quốc đã và đang xô xát với tàu địa phương Việt Nam trong vùng biển Hoa Nam [Biển Đông], cố giành lấy vị trí chung quanh một giàn khoan dầu mà Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc đã hạ đặt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuần trước, cuộc giằng co đã leo thang khi một tàu Trung Quốc húc và làm chìm một tàu cá Việt Nam. (Thủy thủ trên tàu này được các tàu cá Việt Nam khác gần đó cứu sống, nhưng dù sao đi nữa vụ việc này đã đẩy các xung đột thêm một bước leo thang).
Cách đó không xa, bên ngoài duyên hải Philippines, các chiến hạm Trung Quốc đang hàng ngày đe dọa tàu cá ngư dân và đang phong tỏa một tiền đồn Philippines tại một bãi đá ngầm địa phương, không cho tàu Philippines vào tiếp tế lương thực cho binh lính của họ. Và về phía Bắc, sự phẫn nộ của các nước láng giềng tiếp tục bùng lên khi Trung Quốc tuyên bố một “khu nhận diện phòng không” trùm lên gần hết biển Hoa Đông – gồm lãnh thổ mà Nam Hàn và Nhật Bản tuyên bố chủ quyền.
Khi các tin tức thuộc loại này ngày một lan tràn, các nhà phân tích thị trường hải quân tại công ty tư vấn AMI International tiên đoán rằng các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ đầu tư khoảng 200 tỷ USD vào việc mua thêm trên 1000 tàu ngầm, các chiến hạm loại nhỏ, và cả các tàu sân bay để củng cố sức mạnh quân sự của mình trong vòng 20 năm tới – biến khu vực này thành một thị trường chiến hạm đứng thứ nhì thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Thậm chí đã có dư luận cho rằng những nước này sẽ liên minh với nhau để “bao vây ngăn chặn” ảnh hưởng của Trung Quốc.
Và Nhật Bản muốn giữ vai trò lãnh đạo trong nỗ lực này.
Mặt trời đang ló dạng
Tháng trước, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe kêu gọi “giải thích lại” Điều 9 Hiến pháp hậu chiến của Nhật Bản. Điều khoản này gồm tuyên bố nổi tiếng của Nhật Bản trong việc từ bỏ “đe dọa sử dụng vũ lực hay sử dụng vũ lực như một phương tiện để giải quyết các tranh chấp quốc tế”. Đó là một điều khoản – theo nghĩa đen – thậm chí ngăn cấm nước này có một quân đội gồm “các lực lượng hải, lục, không quân”, cũng như các tiềm năng gây chiến khác. Nhưng nó cũng là một điều khoản gây trở ngại lớn nhất cho khả năng Nhật Bản lãnh đạo một liên minh gồm các nước chống lại sự bắt nạt của Trung Quốc trong khu vực.
Mặc dù chưa đến nỗi phải thực sự viết lại hiến pháp, nhưng Thủ tướng Abe muốn giải thích điều khoản này theo tinh thần Hiến chương Liên Hợp Quốc. Điều 51 của Hiến chương rõ ràng cho phép các nước hành động “để tự vệ như một cá thể hay một tập thể nếu một cuộc tấn công vũ trang xảy ra chống lại một Thành viên của Liên Hợp Quốc.” Và Abe muốn đòi quyền tự vệ này cho Nhật Bản, bất chấp ngôn từ trong chính bản hiến pháp của nước mình.
Điều này có ý nghĩa gì đối với các nhà đầu tư?
Tờ Washington Post giải thích tầm quan trọng của động thái này như sau: “Bằng cách tạo điều kiện cho việc tự vệ tập thể, Nhật Bản sẽ được phép, chẳng hạn, giúp đỡ một tàu Mỹ đang bị tấn công trên đại dương.” Một cách tương tự, Nhật Bản có thể gửi các lực lượng vũ trang của mình đến giúp các quốc gia đồng minh đang bị tấn công và yêu cầu sự yểm trợ của Nhật Bản. Tiềm ẩn ở đây là cơ hội sinh lợi cho giới đầu tư.
Trước hết và hiển nhiên là, nếu Nhật Bản muốn có khả năng trợ giúp các nước láng giềng đang lâm nguy, họ cần có một quân đội có khả năng đảm nhận những sứ mệnh thuộc loại này. Vì thế, mặc dù các lực lượng tự vệ Nhật Bản vốn đã hoàn toàn có khả năng làm việc đó, nhưng quốc gia này cần phải có những biện pháp để củng cố khả năng này thêm nữa.
Năm ngoái, chính quyền Abe công bố các kế hoạch để đầu tư 240 tỷ USD (một con số khủng khiếp vào chi tiêu quốc phòng) nhằm củng cố quân đội của mình. Danh mục thu mua gồm có máy bay theo dõi tàu ngầm do hãng Boeing [Mỹ] chế tạo, máy bay thám thính không người lái do hãng Northrop Grumman [Mỹ] sản xuất, và máy bay cánh quạt nghiêng V-22 Osprey từ hãng Textron [Mỹ] – được đặc biệt chế tạo để hoạt động từ sàn tàu của hạm đội Nhật Bản mới nhất gồm những tàu khu trục chở trực thăng chiến đấu [helicopter destroyers].
Điều này còn có ý nghĩa gì khác đối với các nhà đầu tư?
Nhưng nói rộng ra, các nhà đầu tư cần xét đến những kết quả dây chuyền có thể xảy ra do việc Nhật Bản đi vào một liên minh mới với các nước láng giềng.
Từ một quan điểm thực tiễn, các liên minh quân sự hoạt động hữu hiệu nhất khi các thành viên sử dụng các loại vũ khí giống nhau. Việc này vừa gia tăng hiệu năng hợp tác trong các cuộc thao diễn quân sự và, ở một mức độ thậm chí cơ bản hơn, vừa giúp các vũ khí này “nói chuyện” dễ dàng với nhau hơn, nhằm ngăn ngừa các vụ bắn lầm do hỏa lực bạn. Đó là lý do tại sao bất cứ khi nào Cơ quan Hợp tác An ninh Quốc phòng Mỹ ra trước Quốc hội để xin phép bán một loại vũ khí nào đó cho một đồng minh trong khối NATO, chẳng hạn, cơ quan này chắc chắn phải chứng minh những lợi thế của thương vụ nhằm bảo đảm “khả năng tương tác giữa vũ khí Hoa Kỳ và vũ khí NATO”.
Nếu Nhật Bản tiến hành việc giải thích lại Điều 9 Hiến pháp, và nếu các nước láng giềng bắt đầu dựa vào những cam kết của Nhật Bản, rằng nước này sẽ yểm trợ trong một nỗ lực tự vệ tập thể [collective self-defense], kết quả hợp lý sẽ là, các quốc gia đồng minh sẽ bắt đầu sao chép các thương vụ vũ khí của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản [tương đương với Bộ Quốc phòng]. Như thế, mỗi khi một công ty quốc phòng Mỹ ký được hợp đồng để đưa loại vũ khí của mình vào trong kho vũ khí Nhật Bản, công ty đó sẽ tránh được phần nào sự cạnh tranh (của các loại vũ khí tương tự sản xuất tại châu Âu, Nga, hay, dĩ nhiên, tại chính Trung Quốc) khi tranh thầu để bán cùng một loại vũ khí cho các đồng minh của Nhật Bản trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Kết quả là: Các hành động của Trung Quốc càng trở nên hung hăng tại Biển Đông, thì đó càng là tin mừng cho các công ty sản xuất vũ khí tại Mỹ.
Từ đầu thế kỷ 21, mặc dù Mỹ đã dần dần chuyển từ một nền kinh tế chế tạo sang kinh tế dịch vụ, đưa nhiều hãng xưởng ra nước ngoài, khiến hàng triệu công nhân Mỹ phải thất nghiệp hay phải thay đổi nghề nghiệp một cách nghiệt ngã. Nhưng có một khu vực chế tạo vẫn giữ được thế bền vững của mình trong nội địa Mỹ, đó là công nghiệp quốc phòng, vì giản dị là, Mỹ không thể chia sẻ các công nghệ quốc phòng với các nước như Trung Quốc, chẳng hạn. Những hành động bành trướng hiếu chiến của Bắc Kinh trên các vùng biển trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đòi hỏi các nước láng giềng của Trung Quốc phải khẩn trương chỉnh đốn lại kho vũ khí của mình, đồng thời mở ra một vận hội mới cho các công ty quốc phòng Mỹ và qua đó kinh tế Mỹ sẽ hưởng nhiều lợi lộc – Người dịch.