Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014

Không vì lợi ích người dân, mọi cuộc cải tổ sẽ thành vô ích và chẳng thể thành công!

Tại sao các cuộc cải tổ của Trung Quốc đều thất bại?

Yang Hengjun, The Diplomat, 30-5-2014
 Trần Ngọc Cư dịch
Vương An Thạch
Suốt chiều dài lịch sử, các nhà cải cách Trung Quốc không đi đến đích và cuối cùng thường gặp kết cục thê thảm. Tại sao họ luôn luôn thất bại?

So với “các cuộc cách mạng” (nổi dậy của nông dân, binh biến, đảo chánh cung đình, v.v.) lật đổ các vương triều trong lịch sử Trung Quốc, thì mục tiêu của “cải tổ” mang một ý nghĩa ngược lại: duy trì vĩnh viễn vương triều đang cai trị. 


Người dân bình thường gần như có chung một cảm tưởng, là coi “cách mạng” và “cải tổ” như công cụ của “sự thay đổi.” Nhưng trên thực tế, trong 2000 năm lịch sử Trung Quốc, cải tổ chỉ có một mục đích duy nhất: tránh thay đổi. Cải tổ được sử dụng để duy trì hệ thống [chính tri] hiện hữu. Trong lịch sử Trung Quốc, “cải tổ” và “cách mạng” thay phiên nhau diễn ra qua thời gian. Các cuộc cách mạng thường thành công, do đó Trung Quốc đã trở nên nước có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân và nhiều cuộc thay đổi vương triều nhất thế giới. Nhưng cải tổ lại ít khi thành công.

Từ một quan điểm hiện đại, gần như tất cả những cuộc cải tổ trong lịch sử Trung Quốc có thể được xếp loại là “thất bại”: từ những cải cách của Thương Ưởng tại nước Tần đến các triều Văn Đế và Cảnh Đế nhà Hán; từ việc tiếm quyền của Vương Mãng đến các cải tổ của Vương An Thạch trong triều đại nhà Tống; từ quyết định bế quan tỏa cảng của nhà Minh và nhà Thanh đến phong trào Tây hóa vào cuối nhà Thanh… Không có lấy một phong trào nào trong số này có thể gọi là thực sự thành công. Tồi tệ hơn nữa, chính bản thân những nhà cải tổ thường gặp kết cục bi thảm.

Tại sao vậy? Nói giản dị, có ba yếu tố chung. Một là, khác hẳn các cuộc cải tổ khác được ghi lại trong lịch sử thế giới, gần như tất cả các cuộc cải tổ của Trung Quốc được thực hiện thuần túy vì lợi ích của người cai trị (hoàng đế). Các cuộc cải tổ này chỉ điều chỉnh chính sách về cách trị dân của vị hoàng đế, làm thế nào để quản lý bốn giai cấp xã hội (sĩ, nông, công, thương), làm thế nào để khai thác đất đai của nông dân, và làm thế nào để chất đầy ngân khố bằng tiền thuế của dân. Không một cải tổ nào đả động đến triết lý cầm quyền, hay phương pháp quản trị quốc gia, lại càng không đặt trọng tâm vào lợi ích công.

Các nhà cải tổ Trung Quốc lấy lợi ích của người dân bình thường làm đối tượng cải tổ, chứ không cải tổ chế độ để mang lại lợi ích cho người dân. Do đó, những cải tổ này không bao giờ đụng đến vương triều đang ngự trị, mà chỉ tạo ra các cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhóm lợi ích liên hệ. So với các cuộc cách mạng (hoặc được người dân ưa thích hoặc bị người dân sợ hãi), người dân thường dửng dưng với “cải tổ.” Và các cải tổ không được dân chúng hậu thuẫn sẽ hoàn toàn thất bại một khi chúng gặp phải sức phản công từ các nhóm lợi ích hay từ các phe phái đối lập. Đối với người dân bình thường, thất bại của các cuộc cải tổ này không phải là chuyện đáng than khóc.

Hai là, nhiều cải cách mạnh mẽ trong lịch sử Trung Quốc có một điểm chung: Những nhà cải cách không phải là kẻ thống trị cao nhất (hoàng đế). Nhiều nhân tài lúc đầu được hoàng đế (tạm thời) tuyển chọn đi tiên phong trong các cuộc cải tổ – nhưng về sau lại bị đem ra làm vật tế thần khi cải tổ thất bại. Những nhà cải cách như Thương Ưởng, Vương An Thạch và trường phái Tây hóa cuối đời nhà Thanh đều chịu chung số phận. Những người giữ quyền lực tối cao thường cai trị từ đằng sau hậu trường. Họ giữ một khoảng cách nhất định đối với công cuộc cải cách, thủ đoạn này giúp họ rộng đường điều động nhân sự. Nếu cải cách thành công, những người nắm quyền sẽ giành lấy công lao; nếu công cuộc đổi mới thất bại, họ hi sinh những nhà cải cách. Trong những tình huống này, các cuộc cải cách vốn đã mang tính nửa vời ngay từ đầu – các cuộc cải tổ “từ trên ban lệnh cho bên dưới” thường là như vậy. Trái lại, loạt cải tổ do Hán Vũ Đế và các hoàng đế đời Đường đích thân tiến hành lại đạt nhiều hiệu quả hơn.

Ba là, tất cả các cuộc cải cách trong lịch sử Trung Quốc đều có mục đích kéo dài vô hạn hệ thống cai trị đương thời, chứ không thay đổi chế độ đang có. Một số cải cách gặp phải thất bại, khiến những nhà cải cách chịu cảnh phanh thây xẻo thịt (như Thương Ưởng) hay chết trong tủi nhục (như Vương An Thạch). Nhưng thậm chí vào thời điểm đó, các hoàng đế vẫn giữ lại những bộ phận của chính sách cải tổ có khả năng giúp duy trì hệ thống cai trị hiện hữu, biến những phần này thành những con đinh ốc trong bộ máy độc đoán.

Những biện pháp cải tổ nhằm củng cố chính quyền trung ương thông thường là dễ thành công. Chẳng hạn, các công ty độc quyền của triều đình [nhà nước] về muối và sắt do Quản Trọng tổ chức vào thế kỷ 7 trước công nguyên có sự tương đồng với công ty độc quyền nhà nước về dầu lửa ngày nay. Tuy nhiên, những ý kiến như phân quyền và phân phối đồng đều của cải quốc gia (điều mà người dân bình thường quan tâm hơn) lại thường bị các nhóm lợi ích tranh đoạt hay bị nhà vua đình chỉ lập tức. Do đó, các phong trào cải tổ mạnh mẽ tại Trung Quốc, bất luận dù chính sách của chúng có ý nghĩa như thế nào vào buổi đầu, dần dà đều trở nên mai một. Sau một vài thập kỷ, các cải tổ này chỉ còn là những công cụ giúp nhà cầm quyền bóc lột nhân dân và kiểm soát công luận.

Dĩ nhiên, vấn đề lớn nhất mà các phong trào cải tổ Trung Quốc gặp phải là người ta không tìm ra phương cách nào để thay đổi chính bản thân cái hệ thống, và vấn đề này đã kéo dài cả 2000 năm nay. Tất cả những gì mà người ta có thể làm được là giúp cho hệ thống đó trở nên hoàn chỉnh hơn, tinh vi hơn – thâm độc hơn. Trong ý nghĩa này, tất cả mọi cải tổ trong 2000 năm lịch sử Trung Quốc đều không có cơ may thành công, và chúng ta phải cảm ơn Trời Đất vì chúng đã thất bại.

Ngày nay, nhiều học giả cho rằng nếu Tôn Dật Tiên không vội làm cách mạng, thì cuộc cải tổ hiến pháp của nhà Thanh có thể đã thành công. Những vị này có trí tưởng tượng học thuật quá phong phú, mà thiếu trí mất trí tưởng tượng văn chương: bạn có thể tưởng tượng nỗi một kịch bản trong đó, kể từ nhà Tần đến nhà Thanh, có cải tổ cơ chế nào thành công hay không? Nếu nó thành công, thì ngày nay chắc hẳn  mọi người Trung Quốc đều để tóc “đuôi lợn của đàn ông Mãn Châu” và mỗi buổi sáng đều khấu đầu hô to khẩu hiệu “dòng họ Ái Tân Giác La vạn tuế! Vạn vạn tuế!” [Ái Tân Giác La là họ của các hoàng đế nhà Thanh. Búi tóc đuôi lợn là kiểu tóc của đàn ông Mãn Châu; nhà Thanh có luật lệ buộc người Trung Hoa phải để tóc kiểu này – ND.]

Các cải tổ có thể thành công hay không là do hệ thống chính trị có thể thay đổi hay không và nhà cầm quyền có chịu thay đổi hệ thống để theo đuổi một mục tiêu cao cả hơn hay không… Nếu nhìn vào những cải tổ hiện nay của Trung Quốc theo góc nhìn từ lịch sử Trung Quốc, chúng ta có lý do để bi quan. Nhưng chúng ta không nên cho rằng tình thế là hoàn toàn tuyệt vọng hay không còn con đường tiến lên phía trước. Những nhà cải tổ cần phải học hỏi từ lịch sử Trung Quốc. Cải tổ cần phải đi “từ trên xuống dưới” [từ trung ương đến địa phương] và phải được hậu thuẫn bằng quyết tâm mạnh mẽ của giới lãnh đạo nòng cốt. Đồng thời, những nhà cải tổ phải bắt đầu bằng việc lấy lợi ích của nhân dân, tương lai của đất nước và an ninh quốc gia làm mục tiêu cao nhất. Họ phải tránh thái độ chỉ biết chăm lo lợi ích của giới cầm quyền hay phục vụ các quan tâm của những nhóm lợi ích.

Những điều này chính là những gì các nhà cải tổ trong lịch sử Trung Quốc đã không làm, và không muốn làm. Nếu trong thế kỷ 21 này, các nhà lãnh đạo vẫn còn giữ nguyên tư duy và sáng kiến của những nhà cải tổ trong lịch sử Trung Quốc. Nếu họ không táo bạo tìm cách cải tổ hệ thống vì lợi ích của quốc gia và nhân dân mà chỉ cố gắng duy trì hệ thống hiện hữu, thì họ cũng đừng nên cố gắng cải tổ làm chi. Bằng không, dù các cải tổ của họ không thất bại đi nữa, chúng cũng sẽ mang lại hỗn loạn, và có thể nhanh chóng đưa đến cách mạng.

Bài viết này xuất hiện đầu tiên bằng tiếng Trung trên blog của Yang Hengjun.

Yang Hengjun là một nhà nghiên cứu Trung Quốc độc lập, một tiểu thuyết gia, và là một blogger. Ông từng làm việc tại Bộ Ngoại giao Trung Quốc và từng là một nhà nghiên cứu thâm niên tại Atlantic Council ở Thủ đô Washington. Yang nhận bằng Tiến sĩ từ Đại học Công nghệ, tại Sydney, Australia. Trang blog tiếng Trung của ông trình bày các vấn đề Trung Quốc quan trọng hiện nay và các cổng điện tử về quan hệ quốc tế. Các bài viết của ông nhận hàng triệu lượt truy cập. Địa chỉ blog của Yang:www.yanghengjun.com.

改革为什么失败了?

排行榜 收藏 打印 发给朋友 举报来源: 杨恒均的独立博客 发布者:杨恒均
热度285票 【共26条评论】【我要评论时间:2014年4月25日 01:35
同中国历史上起到改朝换代作用的“革命”——农民起义、武装叛乱、宫廷政变等相比,“改革”的目标正好同革命相反,是为了延续朝代。我们一般人印象中“革命”与“改革”都是为了“变化”,但中国两千年历史上的改革却只有一个目标:不变——维护体制不变的改革。中国历史上“改革”与“革命”相互辉映,一路赛跑。革命往往能够成事,中国因此成为世界各国中发生最多农民起义与朝代更迭的国家,改革却鲜有成功。

从现代文明的角度与尺度来判断,中国历史上的改革几乎都可以归类为“失败”,从春秋战国时期各国为了生存而做的改变,经过商鞅变法、文景之治、王莽篡权、王安石变法、明清停止不前的“闭关锁国”到洋务运动等等,几乎没有一个可以称为成功,更有甚者,改革者的下场也都挺悲催的。

为什么会这样呢?简单概括三条共性:第一,与世界各国有历史记载的“改革”相比,中国历史上的改革几乎都是纯粹站在执政者(皇帝)立场上,对统治者如何控制民众、如何管理士农工商、如何剥削农民土地、如何征税充实国库的政策调整,几乎没有一次改革涉及到执政理念与执政者管理方式方法的,更无从民众利益出发的改革。

正因为历次改革都是以老百姓的利益为改革对象,而不是为了老百姓的利益去改变自己改革政权,从来不触及王权,牵涉到利益集团时也多因为权斗,所以相对于让一些人爱一些人怕的革命来说,老百姓对“改革”基本都保持了不冷不热的态度。没有民众支持的改革,一旦遭到利益集团与反对派的反击,也就立马一败涂地了。对于民众来说,历史上的历次改革,死不足惜。

第二,中国历史上轰轰烈烈的改革都有一个特点,那就是改革者都不是最高执政者(皇帝),很多是被皇帝(临时)看重用来做改革的急先锋与失败后的替罪羊的,例如商鞅、王安石和洋务派等。掌握最高权力的“皇帝们”几乎都手持大权垂帘听政,同改革保持一定的距离,改革效果不错,成绩是他们的,改革不好,就牺牲掉改革者,进退自如。这使得所有类似的改革从一开始就三心二意,更不用说“顶层设计”了 。与此相反的是汉武帝与唐朝皇帝亲自掌管的一系列改革,成效也相对显著。

第三,中国历史上所有的改革都是为了维系现有体制的“改革”,而不是改变现有体制的变革。有些改革即便失败,改革者被车裂(商鞅)与冷落致死(王安石),那些能够维系现有体制运转的措施也都被保留下来,为集权专制机器添加螺丝钉与润滑油。

以巩固专制集权为主的改革措施,往往会取得成功,例如管仲的盐铁专卖就延续至今,只不过变为“石油垄断”而已,但“分权让利与均富”等民间更期待的改革就常常被利益集团劫持或者被皇帝拦腰斩断。这使得历史上几场轰轰烈烈的改革,不管当初一些措施如何具有进步意义,十几年、几十年下来,改革的遗产就只剩下一些有利于剥削民众与控制国民大脑的糟粕了。

当然,中国历史上历次改革遇到的最大问题是延续了两千年的这个体制本身是根本无法改革与改变的,你能做的就是使之更加完善、更加精致,也更加邪恶。从这个意义上说,中国两千年历史上的那些改革是不可能成功,也不应该成功的。

现在很多学者研究说如果孙中山不急于把革命搞成功了,清朝的立宪改革就有可能成功了。这些人学术想象力太丰富,却缺乏了文学想象力:你能想像秦朝到清朝的制度改革成功,我们今天每个人脑袋后都拖着一条大辫子,每天早上起来跪在地上跷着屁股对满人爱新觉罗氏跪拜且高呼万岁?期盼微服私访的皇帝弄大几个民女的肚子造几个“还珠格格”博得小民们由衷的爱戴?

改革是否成功同体制能否改变,当局是否愿意改变体制来追寻更高的目标有很大的关系。对于当今中国的改革者来说,除了历史这面镜子之外,地球上同我们有相同政治体制的前苏联、东欧的改革历程也可以借鉴。苏联、东欧的改革都走在中国前面,但都没有逃脱改革被革命取代的命运,改革者失去了改革的主动权,给后来的改革者留下教训,但社会主义国家里唯一拒绝任何改革与改变而延续至今的也只有朝鲜,目前几乎成为地球上的孤儿……

从中国历史与周边国家的改革看中国今天的深化改革,有理由感到忧虑与悲观,但并不是说没有希望与出路。改革既要顺应历史潮流,也要有“顶层设计”,还要有一把手亲抓的决心与坚强的领导核心。改革者必须以人民利益、民族前途与国家安全为最高目标,避免仅仅从执政者利益出发,更不能为利益集团服务。

这一点恰恰是中国历史上所有的改革者都没有做到,也不想做到的。如果进入21世纪的今天,执政者还抱着历史上那些改革者的思想与思路,不是为了民族与民众的利益去大胆地改变、改革体制,而是竭力去维护现有体制,那还不如不做,否则,改革即便不失败,也会带来混乱,最终会加速革命的到来。

杨恒均 2014.4.24  (路边谈话:根据422日深圳部分聊天记录整理)

 推荐:
 这两本书大家买了没有?没买的快点买吧。链接:




如果你喜欢这个文章,就一起来分享吧!请点击>>分享家:Addthis中文版
TAG: 印象 中国历史 武装

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Quê Choa: Không phải dàn khoan. Gạc Ma mới là chuyện lớn!

Quê Choa: Không phải dàn khoan. Gạc Ma mới là chuyện lớn!: Nguyễn Khắc Mai Theo BVN   Trung Quốc đang xây đường băng trên đảo Gạc Ma Cả tháng nay, chúng ta tập trung vào vụ dàn khoan HY981.... Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc đang tự gây họa cho mình

Lời bàn của Ngu Dân: Liên Xô cũ đã mắc cái bẫy của Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua vũ trang, gồng mình quá sức để đi đến sụp đổ. Không biết Bắc Kinh có lúc nào tự hỏi họ đang lặp lại quá trình này không? Mềnh nghĩ Hoa Kỳ đã thành công khi kích hoạt chuyển trục sang Á châu và người Chệt đang mắc mẹo này. Thật buồn thay con cháu Gia Cát Lượng vì quá say mê giấc mộng bá quyền mà quên mất bài học lịch sử người Nga từng trải qua! 
Cập nhật: 08/06/2014 08:37
Giới chuyên gia quốc tế cho rằng Bắc Kinh không chỉ đang mất danh dự trên trường quốc tế khi những hành động gây hấn hung hăng của họ đối với tàu Việt Nam bị phơi bày ra trước cộng đồng quốc tế, mà giờ đây quốc gia này còn đang đứng trước thảm họa do chính mình gây ra ở biển Đông.
  • Trung Quốc đang tự gây họa cho mình
Tàu Trung Quốc tấn công tàu cá Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa ngày 7-6 - Ảnh: M.Quang
Giải thích về vấn đề này trên tạp chí National Interest (Mỹ), cố vấn chính trị Hạ viện Philippines Richard Javad Heydarian nhận định “thảm họa” đó chính là việc Trung Quốc đang tự làm vấn đề tranh chấp ở biển Đông được quốc tế hóa nhanh hơn, điều mà Bắc Kinh không bao giờ muốn thấy.

Càn quấy, bất chấp lý lẽ
Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) và Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ (OIF) đã bày tỏ quan ngại về những diễn biến căng thẳng tại biển Đông sau khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. UNESCO đề nghị các bên liên quan hết sức kiềm chế, giải quyết tranh chấp một cách hòa bình thông qua đối thoại và tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Phái đoàn thường trực của Việt Nam bên cạnh UNESCO và OIF đã gửi các công hàm và bản ghi nhớ lên lãnh đạo hai tổ chức này để lưu ý về những diễn biến đặc biệt căng thẳng trên biển Đông thời gian qua.

Ông Heydarian cho rằng với việc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam, Bắc Kinh đang chui đầu vào thảm họa do chính họ gây ra.

Bằng chứng là Trung Quốc càng “hung hăng tuyên bố chủ quyền” ở biển Đông thì càng khiến các vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở khu vực này được quốc tế hóa nhanh hơn.

“Bắc Kinh đang đẩy vấn đề đi chệch quỹ đạo do chính mình đặt ra là luôn muốn khép mọi cuộc đối thoại về tranh chấp ở biển Đông theo hướng song phương” - ông Heydarian cho biết.

Giới chuyên gia quốc tế cho rằng Bắc Kinh khá bất ngờ trước việc Chính phủ Việt Nam công bố đoạn phim cho thấy các tàu Trung Quốc đã dùng những biện pháp vũ lực, đe dọa chống lại lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam ngày 7-5.

Sau đó, truyền thông Việt Nam và quốc tế liên tục trưng ra những bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đang ngụy biện cho những hành động ức hiếp hung hăng của mình ở khu vực quanh nơi hạ đặt giàn khoan 981 trái phép.

“Hành động càn quấy, bất chấp lý lẽ của Bắc Kinh cho thấy nước này đang mưu đồ sản sinh ra thời đại mới trong việc đòi chủ quyền ở biển Đông” - giáo sư Lowell Bautista, giảng viên Đại học Wollongong (Úc), nhận định.

Chuyên gia Heydarian cho rằng đứng trước sự “cứng đầu” của Trung Quốc, các quốc gia Đông Nam Á đã xích lại gần nhau hơn nhằm tiến tới mối quan hệ đối tác chiến lược - cùng chống Trung Quốc.

Báo động trước nhiều hậu quả từ những hành động của Trung Quốc, đe dọa đến sự ổn định và tự do hàng hải ở các vùng biển quốc tế, các nước không có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông cũng đang tăng cường những nỗ lực “giảm căng thẳng ở biển Đông”.

Cụ thể, Mỹ, Nhật Bản cùng với các nước như Ấn Độ, Úc, Hàn Quốc đã tìm cách khẳng định vai trò nhiều hơn trong việc ổn định các tuyến thông thương trên biển (SLOC), khẳng định tầm quan trọng của biển Đông đối với an ninh năng lượng cũng như lợi ích thương mại của khu vực.

Ngụy biện bằng động cơ thương mại

Bắc Kinh cứ khăng khăng việc hạ đặt giàn khoan 981 ở cách đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, 17 hải lý là quyết định thương mại của Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC).

Trung Quốc còn tranh luận rằng động thái mới nhất của nước này đơn thuần chỉ là việc mở rộng “hợp lý” các cuộc thăm dò trong khu vực giàu khí đốt mà trước đó nước này đã làm.

Song theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) thì Việt Nam có toàn quyền tài phán ở khu vực mà giàn khoan 981 đang thăm dò. Do đó, Trung Quốc đã xâm phạm các đặc quyền trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Giới chuyên gia cho rằng chiến lược này đang khiến Trung Quốc phải trả giá đắt về danh dự trên trường quốc tế. Giáo sư Lowell Bautista nhận định nếu Trung Quốc không tuân thủ luật pháp quốc tế thì nước này không chỉ gây nguy hiểm và phá vỡ lề thói luật pháp, mà còn đe dọa đến hòa bình, an ninh và sự ổn định trong các mối quan hệ quốc tế.

“Trong tranh chấp lãnh thổ, thường các quốc gia trên thế giới tuân theo luật pháp quốc tế để giữ vị thế và danh tiếng của mình là một thành viên biết tuân thủ luật pháp của cộng đồng quốc tế, để tránh những lệnh trừng phạt gián tiếp hay trực tiếp khi họ vi phạm” - ông Bautista cho biết.

Ông Heydarian nhận định Bắc Kinh đã gián tiếp biện minh cho học thuyết “đường chín đoạn” của mình và sử dụng học thuyết này như một tài liệu cơ sở để nhai đi nhai lại vấn đề chủ quyền “cố hữu” và “không thể tranh chấp”, hòng chiếm trọn biển Đông.

Thừa biết “đường chín đoạn” của mình còn nhiều điểm yếu, Trung Quốc luôn sử dụng chiến lược “mập mờ” trong ngôn ngữ giải thích về quan điểm chủ quyền cũng như những vấn đề liên quan đến luật pháp, chứng cứ lịch sử về các đảo ở biển Đông mỗi khi có những hành động gây hấn với các nước dọc biển Đông, cụ thể là lần gây hấn hơn một tháng qua đối với Việt Nam.

TTO

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cái lý của kẻ trùm sò họ Đặng:

Chiến tranh Trung-Việt chủ yếu do một mình Đặng Tiểu Bình quyết định. Khi một người hoặc một vài người vội vàng quyết định tiến hành chiến tranh, khó có thể tránh khỏi việc quyết định đó mang màu sắc tình cảm phiến diện, chủ quan của cá nhân, rất dễ phạm phải sai lầm mang tính lịch sử và hậu quả cũng vô cùng đáng sợ.
Tạp chí Tuần san châu Á của Hồng Công số từ 11-18.7.2010 đăng bài của tác giả Giang Tấn về những ân oán trong quan hệ Trung – Việt. Theo Giang Tấn, cuộc chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1979 chủ yếu là do một mình Đặng Tiểu Bình quyết định nhằm củng cố địa vị của mình.
Dẫn lời ông Nghê Sáng Huy, một người từng trải qua những năm tháng chiến tranh Trung-Việt, tác giả cuốn Mười năm chiến tranh Trung-Việt vừa được Nhà xuất bản Thiên Hành Kiện (Hồng Công) ấn hành vào đầu tháng 6.2010, Giang Tấn cho biết vào năm 1977, Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương 3 khóa X, khôi phục các chức vụ lãnh đạo cho Đặng Tiểu Bình, gồm phó chủ tịch nước, phó thủ tướng Quốc vụ viện, phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương và tổng tham mưu trưởng quân đội. Một năm sau đó, Đặng Tiểu Bình lại được bầu làm chủ tịch Chính hiệp Toàn quốc. Cách mạng Văn hoá vừa kết thúc, Đặng Tiểu Bình muốn trước tiên phải lập lại trật tự, thúc đẩy đường lối tư tưởng, nên đưa ra trọng điểm công tác cho cả nước là chuyển dịch sang xây dựng kinh tế. Tuy nhiên, khi đó ở Trung Quốc, tư tưởng tả khuynh trong, ngoài đảng và ở quần chúng vẫn tiếp tục “trượt” theo quán tính. Đặc biệt là nhóm trong Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do Hoa Quốc Phong cầm đầu vẫn chủ trương tiếp tục duy trì lý luận và thực tiễn của Cách mạng Văn hoá thêm một thời gian. Trong quân đội Trung Quốc cũng có không ít cán bộ cao cấp tỏ ra không thông với chính sách và đường lối của Đặng Tiểu Bình. Chính vì thế, Đặng Tiểu Bình thấy rằng muốn phá vỡ cục diện này, phải tiến hành cải cách mở cửa. Nhưng nếu chỉ dựa vào chức vụ của Đặng Tiểu Bình khi đó thì khó có thể xoay chuyển được tình thế, mà phải cần đến một phương thức có thể quét sạch được mọi chướng ngại của thế lực cực tả đối với cải cách mở cửa.
Theo ông Nghê, nếu như khi đó đưa ra những đánh giá lịch sử về Mao Trạch Đông, phủ định đường lối “hai phàm là” của Hoa Quốc Phong (Phàm là quyết sách Mao Chủ tịch đưa ra, chúng ta phải kiên quyết bảo vệ; Phàm là chỉ thị của Mao Chủ tịch, chúng ta đều phải tuân thủ trước sau như một – P/v TTXVN), thời cơ vẫn chưa chín muồi. Do đó, Đặng Tiểu Bình quyết định lợi dụng chức vụ phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm tổng tham mưu trưởng và sự tín nhiệm của phái nguyên lão trong quân đội đối với mình để tìm kiến sự đột phá từ quân đội. Đặng Tiểu Bình cho rằng cần thiết phải phát động một cuộc chiến tranh chống lại “kẻ xâm lược”, thông qua chiến tranh để chuyển hướng đấu tranh trong nước, tái cố kết sự đoàn kết dân tộc của người dân. Đặng Tiểu Bình cũng muốn nhân cơ hội sau chiến tranh tiến hành điều chỉnh nhân sự trong quân đội. Quả nhiên, sau chiến tranh Trung-Việt, Đặng Tiểu Bình đã làm một cuộc “thay máu” đối với quân đội, đưa một loạt cán bộ trẻ, cán bộ trung niên vào vị trí lãnh đạo. Có thể nói, tiến hành chiến tranh là con đường nhanh nhất giúp Đặng Tiểu Bình xác lập quyền uy tuyệt đối trong Đảng Cộng sản và quân đội Trung Quốc, đẩy mạnh thực hiện kế hoạch cải cách mở cửa.
Ông Nghê cho rằng Trung Quốc đánh Việt Nam là do Việt Nam đưa quân vào Campuchia và Trung Quốc ủng hộ Campuchia chống lại Việt Nam. Ban đầu, Trung Quốc gọi đây là “phản kích tự vệ” sau đó lại đổi thành “đánh trả”. Cuộc chiến tranh biên giới Trung-Việt, theo ông Nghê, tuy đã khiến Việt Nam rút một phần quân khỏi Campuchia, phá vỡ thế bao vây chiến lược của Liên Xô đối với Trung Quốc, làm rõ quân bài chiến lược của Mỹ và Liên Xô, rèn luyện quân đội, nhưng kết quả đạt được rất hạn chế: Không lấy được đất đai của Việt Nam, cũng không lật đổ được chính quyền Việt Nam (nguyên văn là “tập đoàn thống trị Lê Duẩn”). Và mặc dù các mục đích mà Quân uỷ Trung ương Trung Quốc đề ra cơ bản đạt được, nhưng nếu xét về lợi ích chỉnh thể của quốc gia, cái hại vẫn lớn hơn cái lợi. Tại sao vậy? Ông Nghê cho rằng trước tiên là cuộc chiến tranh Trung-Việt đã được các nước phương Tây do Mỹ đứng đầu lấy làm cái cớ để cô lập Trung Quốc. Hai là, việc Trung Quốc xuất binh tấn công Việt Nam đã làm kinh động các nước Đông Nam Á. Ba là, cắt đứt quan hệ giữa Trung Quốc với thế giới thứ ba, khiến Bắc Kinh rơi vào thế cô lập. Bốn là, Trung Quốc mất đi uy tín trong xử lý quan hệ cấp quốc gia. Năm là, chiến tranh Trung-Việt gây tổn thất nặng nề về mặt kinh tế cả cho Việt Nam lẫn Trung Quốc.
Khi nói về trình tự tiến hành chiến tranh, ông Nghê cho biết một cuộc chiến tranh tất yếu phải đi theo những trình tự do pháp luật quy định. Trước đây, quan niệm pháp trị của người Trung Quốc không cao và nó được biểu hiện trong một số cuộc chiến tranh lớn. Ví dụ: Chiến tranh Triều Tiên chủ yếu do một mình Mao Trạch Đông quyết định, Chiến tranh Trung-Việt chủ yếu do một mình Đặng Tiểu Bình quyết định. Một người hoặc một vài người vội vàng quyết định tiến hành chiến tranh, theo ông Nghê, khó có thể tránh khỏi việc quyết định đó mang màu sắc tình cảm phiến diện, chủ quan của cá nhân, rất dễ phạm phải sai lầm mang tính lịch sử và hậu quả cũng vô cùng đáng sợ.
Ông Nghê cho biết chiến tranh Trung-Việt không những không được Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc (Quốc hội) thảo luận thông qua, mà cũng không được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Theo ông Nghê, chiến tranh phải công khai với nhân dân, cho phép nhân dân bày tỏ thái độ của mình. Nhân dân vốn là chủ nhân của đất nước, nên có quyền được biết tình hình, có quyền được bày tỏ thái độ. Việc nhân dân có thể bày tỏ thái độ một cách tự do đối với một cuộc chiến tranh cũng có lợi cho việc ngăn ngừa một số cá nhân nào đó đi ngược lại ý nguyện của đại đa số nhân dân, phát động chiến tranh.
Theo TTXVN / TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhưng Gạc Ma mới là chuyện lớn!

(Phản đối Trung Quốc xâm lược) - Thêm tài liệu cho thấy Trung Quốc đang ráo riết thực hiện kế hoạch lấn chiếm ở Biển Đông mà hiện đang lộ dần một đảo nhân tạo có cả phi trường, cảng biển ở Trường Sa.



Theo tờ South China Morning Post (SCMP) hôm Thứ Bảy, những gì tổng thống Phi Luật Tân Benigno Aquino tố cáo những ngày gần đây đang đang được giới chuyên viên Trung Quốc nhìn nhận.
Bắc Kinh đang biến bãi đá ngầm Gạc Ma cướp của Việt Nam năm 1988 thành một đảo nhân tạo khổng lồ. Trên đó có cả phi đạo cho máy bay lên xuống, cảng biển riêng cho tàu quân sự và tàu dân sự. Lại còn có cả khu vực gia cư, khu du lịch, tất cả xây dựng trên đảo nhân tạo đang được các máy hút cát dưới lòng biển làm thành dần dần.

Từ trái sang phải là ba rạn đá san hô có tên là đá Cô Lin, đá Gạc Ma và đá Len Đao. Ngày 14 tháng 3 năm 1988, một cuộc đụng độ quân sự đã diễn ra tại đây.
Khi tổng thống Phi tố cáo tuần trước, ông chỉ có những tấm hình chụp không ảnh các hoạt động hút cát để xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc ở khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Phi. Tấm đồ họa của báo SCMP cho người ta nhìn thấy rõ hơn về quy mô của đảo nổi Gạc Ma mà 64 người lính CSVN đã thiệt mạng năm 1988 vì bị tàu Trung Quốc xả súng bắn chết để cướp bãi đá ngầm này.
Khi Gạc Ma trở thành một căn cứ qui mô nổi trên biển rộng khoảng 30 hecta, căn cứ của Việt Nam xây dựng tại đảo đá Cô Lin ( khoảng 1.9 hải lý tây bắc Gạc Ma) chỉ là một chấm nhỏ trên bản đồ so với đảo nhân tạo Gạc Ma. Nó sẽ là nơi để Bắc Kinh phô diễn sức mạnh quân sự để uy hiếp cả Phi Luật Tân và Việt Nam ở quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Riêng với Phi Luật Tân thì an nguy quốc gia của họ bị đe dọa thật gần.
Theo các nhà phân tích thời sự, hành động đang thực hiện của Trung Quốc là đi từ phòng vệ sang tấn công. Khi phi trường ở Gạc Ma hoàn thành, với phi trường đã có sẵn ở đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa, Bắc Kinh sẽ có cớ thành lập “vùng nhận dạng phòng không trên biển” trùm cả Biển Đông. Đây là điều từng được nhiều nước lo ngại sẽ xảy ra khi Bắc Kinh tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông năm ngoái.
Bắc Kinh chối không lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông nhưng khi đã có phi trường ở cả hai đầu đông tây của Biển Đông rồi, chuyện gì cũng có thể xảy đến.
Cùng với việc gấp rút xây dựng căn cứ quy mô trên đảo nhân tạo Xích Qua Tiêu, theo SCMP, Trung Quốc đang có kế hoạch biến bãi đá ngầm Fiery Cross Reef (Việt nam gọi là đá Chữ Thập, Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử Tiêu (Yongshu Jiao) theo một kế hoạch tương tự. Bãi đá ngầm Gạc Ma (Xích Qua Tiêu) thuộc cụm đảo Sinh Tồn, trong khi đá Chữ Thập (Vĩnh Thử Tiêu) thuộc cụm Nam Yết.

Đồ họa đảo nhân tạo Johnson South Reef (Việt Nam gọi là Gạc Ma, Trung Quốc gọi là Xích Qua Tiêu) với phi trường, cảng biển hiện Trung Quốc đang ra sức tạo dựng từ bãi đá ngầm. (Hình: SCMP)
Bãi đá ngầm  Chữ Thập có chiều dài tính theo trục đông bắc-tây nam là 14 hải lý (gần 26 km) và chiều rộng là 4 hải lí (7.4 km); tổng diện tích đạt 110 km². Trừ một tảng đá cao 1 m nổi lên ở phần đuôi phía tây nam thì nhìn chung đá này chìm dưới nước khi thủy triều lên. Nếu Trung Quốc biến bãi đá ngầm này thành đảo nổi, nó có thể sẽ lớn gấp nhiều lần so với Gạc Ma.
Theo Kim Lạn Vinh (Jin Canrong), một giáo sư ngành bang giao quốc tế tại đại học Nhân Dân ở Bắc Kinh được SCMP thuật lời, đề án biến bãi đá ngầm Vĩnh Thử Tiêu (hay Chữ Thập theo cách gọi của Việt Nam) đã được đệ trình nhà cầm quyền trung ương Trung Quốc để chấp thuận. Khi kế hoạch xây dựng hoàn tất, nó sẽ lớn gấp đôi căn cứ quân sự Diego Garcia của Hoa Kỳ rộng 44 km2 trên Ấn Độ Dương.

Các đảo và bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. (Hình: Wikipedia)
Lý Kiệt, một chuyên viên hải quân tại Viện nghiên cứu Hải quân Trung Quốc, nói căn cứ trên đảo nhân tạo Vĩnh Thử Tiêu cũng sẽ gồm cả phi trường và cảng biển. Hiện nơi này đang là một căn cứ nhỏ mà hơn 20 năm trước, Bắc Kinh cho xây dựng một đài quan sát phục vụ cơ quan nghiên cứu hải dương của Unesco.
Theo Kim Lạn Vinh, việc xây dựng đảo nhân tạo tại Vĩnh Thử Tiêu sẽ được thực hiện tiếp theo và tùy thuộc sự tiến triển của đảo nhân tạo Gạc Ma. Tháng trước tin tức xì ra trên báo chí Trung Quốc cho hay đảo nhân tạo tại Xích Qua Tiêu ngoài phi trường, cảng biển có thể biếp nhận các tàu lên đến 5,000 tấn.
Tại quần đảo Trường Sa, bắt đầu từ năm 1988, Trung Quốc mới bắt đầu đi cướp của Việt Nam một số bãi đá ngầm gồm Đá Xu Bi  thuộc cụm Thị Tứ; Đá Chữ Thập , Đá Ga Ven thuộc cụm Nam Yết; Đá Gạc Ma, Đá Tư Nghĩa thuộc cụm Sinh Tồn; Đá Châu Viên thuộc cụm Trường Sa; và Đá Vành Khăn thuộc cụm Bình Nguyên.
Khởi kiện Trung Quốc: Giàn khoan ư, Gạc Ma mới là chuyện lớn!

Khởi kiện Trung Quốc: Giàn khoan ư, Gạc Ma mới là chuyện lớn!

Phải khởi kiện Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương 981. Nhưng Gạc Ma mới là chuyện lớn! Cả tháng nay, chúng ta tập trung vào vụ dàn khoan Hải Dương 981 (HY981). Dùng dư luận lên án, phản đối,...
TN (Theo Người Việt)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tránh bị đánh lạc hướng dư lộn!


Hóa ra ngoài ông Tiến đại biểu quốc hội lo nghĩ, băn khoăn, sốt sắng, say sưa bàn chuyện làm sao để kiểm tra các thí sinh dự thi hoa hậu chưa bị "giàn khoan" nào hạ đặt, thì nhiều báo cũng vẫn bám vào chuyện này viết lui viết tới, khéo dẫn dụ đọc giả theo ba chuyện tào lao, quên chuyện biển Đông.
Trên tinh thần đó, mình hỗ trợ phát cho xong đi, nhé, để tập trung vào việc đất nước: Mạ mình kể, xưa, để kiểm tra con dâu còn trinh hay không, mẹ chồng mang một bao cát đổ ra sau hồi nhà, khỏa tay phẳng phiu, bảo con dâu đái vào đấy, bà mẹ ngồi ngay cạnh giám sát, nếu tiếng đái nghe chiu chiu chiu và chỉ có một lỗ nhỏ, sâu, gọn gàng là còn trinh, còn đứa nào mà vừa ngồi xuống, xòa cái, xòa xòa xòa là đuổi cổ ra khỏi cổng.
Rứa đó, bổ sung nội quy, thí sinh dự thi mang theo bao cát 15 kg.
Nhé. Nếu kiểm tra cách này mà không có thí sinh nào đạt yêu cầu thì càng hay, hủy thi luôn cho đỡ nhọc.
Sốt cả ruột.
Hết.
(Chuyển BTC nghiên cứu, thử nghiệm trước khi đưa ra áp dụng đại trà)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất hay là quỷ đã ở với nguời từ bao giờ?

Featured Image: Wasfi Akab

Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất là chương X tác phẩm Đường Về Nô Lệ của F. A. Hayek do Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2009. Trong chương này, Hayek đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng đạo đức của chủ nghĩa tập thể không phải là, thậm chí còn trái ngược với, đạo đức truyền thống mà dân chúng các nước vẫn hiểu và vẫn theo. Nếu nền đạo đức truyền thống coi con người là mục đích, lấy nguyên tắc: Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì không làm cho người khác) làm kim chỉ nam cho hành động thì đạo đức tập thể lại coi: Salus revolutiae suprema lex[1] (Lợi ích của cách mạng là trên hết), con người chỉ còn là phương tiện, là một trong những nhân tố (nhân lực, tài lực, vật lực…) để đạt mục đích tối thượng của cách mạng (thế giới đại đồng hay là chiến thắng cuối cùng của dân tộc thượng đẳng thì cũng thế…)
Khi con người trong các nước theo chế độ tập thể (những nước mệnh danh là xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, phát xít và quốc xã) không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện cho những mục đích trừu tượng nào đó thì các nước đó nhất định phải trở thành miếng mồi béo bở cho những kẻ vô liêm xỉ nhất, xấu xa nhất. Chỉ có những kẻ như thế mới có thể thăng tiến, có thể leo lên các vị trí chóp bu mà thôi. Nói một cách hình tượng: Chúng ta đang ở trong một ngôi nhà đã bị mục nóc từ rất lâu rồi, quỷ đã ở với người [2] từ rất lâu rồi.
Quỷ ở với người thì xã hội sẽ như thế nào? Sẽ là xã hội của quỷ với đủ mọi hành động đê mạt mà những người chưa kịp thành quỷ coi là tệ nạn: Chỉ cần có con sắp vào mẫu giáo hay sắp đi làm, có vợ bị ốm phải đưa vào bệnh viện hay phải đến sở nhà đất để hợp thức hoá ngôi nhà vừa xây bằng mồ hội nước mắt của chính mình là ta gặp ngay một lũ quỷ sứ mang bộ mặt người. Nếu xem TV hàng ngày thì chắc chắn ta sẽ thấy những kẻ xoen xoét nó rằng: “Đảng là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân..” Nhưng chính chúng lại là giám đốc, tổng giám đốc các công ty xuất khẩu lao động, thậm chí còn ăn chặn ngay ít tiền còm của những người lao động đó nữa..
Còn nếu chịu khó đọc báo thì ta sẽ thấy đầy rẫy chuyện con giết cha, vợ chém chồng, người yêu giết người yêu, thầy giáo đánh học trò thành thương, một vụ va chạm nhẹ có thể trở thành án mạng, “nhìn đểu” có thể trở thành nguyên nhân ẩu đả dẫn đến chết người… Làm gì có “ngưỡng” cho những chuyện vô luân ấy mà có thể nói là “vượt”. Hiện tượng cướp vài bông hoa hay bẻ mấy cành cây anh đào có thể chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly chứa đầy uất ức đã bị kìm nén lâu ngày mà thôi.
Sống trong hoàn cảnh như thế thì làm sao mà không thành khỉ cho được?
Đọc chương này của Hayek rồi quan sát các hiện tượng hàng ngày, quan sát các quan chức, từ nhỏ đến to, tôi đành tự nhủ: đạo đức là câu chuyện quá xa vời, chỉ làm mất thì giờ vô ích. Theo tôi, thảo luận về hiện tượng băng hoại đạo đức lúc này cũng chẳng khác gì mang vài liều thuộc cao dán lên những vết lở loét khi cơ thể đã bị AIDS từ rất lâu rồi, khi bệnh đã vào đến cao hoang từ rất lâu rồi.
Vì lý do kỹ thuật, tôi không thể đưa toàn bộ chương X tác phẩm nói trên lên mạng. Độc giả nào quan tâm nhưng không có điều kiện tiếp cận trực tiếp với tác phẩm xin đọc ở đây phần rút gọn của Reader Digest:

Không nghi ngờ gì rằng hệ thống “phát xít” ở Anh hay ở Mỹ sẽ khác rất xa mô hình của Ý hay Đức; không nghi ngờ gì rằng nếu việc chuyển hoá được thực hiện một cách phi bạo lực thì chúng ta có thể hy vọng có được những nhà lãnh đạo tử tế hơn. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là hệ thống phát xít của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hay sẽ dễ chịu hơn nguyên mẫu của chúng. Có nhiều lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống toàn trị nói trên là những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra.
Khi một chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế thì ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn: chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ kế hoạch, còn nhà lãnh đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị, những kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế độ toàn trị và nền văn minh cá nhân chủ nghĩa phương Tây.
Lãnh tụ toàn trị phải tập hợp xung quanh ông ta những kẻ tự nguyện phục tùng cái kỹ luật mà họ sẽ dùng vũ lực áp đặt cho toàn bộ nhân dân. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà đa số những người xã hội chủ nghĩa phản đối, đấy chính là bài học của nhiều nhà cải cách xã hội trong quá khứ. Các đảng xã hội cổ điển hoạt động trong khuôn khổ của các lí tưởng dân chủ; họ không có tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi các nhiệm vụ mà họ đã chọn. Điều đặc biệt là cả ở Đức lẫn ở Ý, chủ nghĩa phát xít đã thành công sau khi các đảng xã hội từ chối nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo chính phủ. Họ không muốn áp dụng những biện pháp vì đã nhận ra khả năng phát triển của chúng. Họ vẫn hy vọng vào phép màu rằng đa số sẽ đồng ý về một kế hoạch tổ chức toàn bộ xã hội. Những người khác thì đã học được bài học rằng trong xã hội được kế hoạch hoá vấn đề không còn là đa số sẽ đồng ý cái gì mà là vấn đề nhóm lớn nhất là nhóm nào, chỉ cần các thành viên của nó đồng ý là đủ để hình thành đường lối thống nhất cho tất cả mọi công việc.
Có ba lý do vì sao cái nhóm có đông thành viên, với những quan điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất mà thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội.
Thứ nhất, trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu và quan điểm càng phân hoá. Nếu chúng ta muốn tìm một sự thống nhất cao về quan điểm thì chúng ta phải hạ thấp tiêu chuẩn đạo đức và tri thức của chúng ta xuống ngang hàng với những bản năng nguyên thuỷ. Điều đó không có nghĩa là đa số dân chúng có tiêu chuẩn đạo đức thấp; điều đó chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với những chuẩn mực giá trị giống nhau là những người có tiêu chuẩn đạo đức thấp.
Thứ hai, vì nhóm đó chưa đủ lớn để làm nghiêng cán cân sang phía lãnh tụ, ông ta sẽ phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách kết nạp thật nhiều người vào cùng tín điều với ông ta. Ông ta phải tìm được sự ủng hộ của những kẻ dễ bảo và cả tin, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp nhận các hệ thống giá trị sẵn có miễn là được rót vào tai họ một cách liên tục. Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một cách dở dang, những kẻ dễ dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào lại là thành phần đông nhất của các đảng toàn trị.
Thứ ba, để có thể đưa những người ủng hộ thành một tập thể cố kết, người lãnh đạo phải lợi dụng những nhược điểm của con người. Có vẻ như người ta dễ dàng đồng thuận về những vấn đề có tính tiêu cực như chí căm thù giặc, lòng ghen tức với những kẻ khá giả, hơn là về những nhiệm vụ có tính tích cực.
Sự tương phản giữa “chúng ta” và “chúng nó” luôn bị những kẻ săn tìm lòng trung thành của quần chúng lợi dụng. Kẻ thù có thể là bên trong như “Do Thái” ở Đức hay “Kulak” ở Nga, hay kẻ thù bên ngoài. Trong mọi trường hợp kỹ thuật này bao giờ cũng giành được ưu thế ở chỗ nó làm cho lãnh tụ có nhiều tự do hành động hơn bất kỳ chương trình mang tính tích cực nào khác.
Trong tổ chức hay đảng toàn trị, muốn thăng tiến thì phải dám làm những việc bất nhân. Trong đạo đức học cá nhân chủ nghĩa, nguyên tắc mục đích biện minh cho phương tiện được coi là sự phủ nhận mọi tiêu chuẩn đạo đức thì trong đạo đức học của chủ nghĩa tập thể lại trở thành nguyên tắc tối thượng. Một người theo chủ nghĩa tập thể kiên định phải sẵn sàng làm tất cả mọi việc nếu đó là việc “có ích cho tất cả mọi người” vì đối với anh ta đấy là tiêu chuẩn hành động duy nhất.
Một khi chấp nhận rằng cá nhân chỉ là phương tiện phục vụ cho một thực thể cao quý hơn, gọi là xã hội hay quốc gia cũng được, thì phần lớn các đặc trưng của chủ nghĩa toàn trị mà chúng ta kinh tởm tất yếu sẽ xuất hiện. Từ quan điểm của chủ nghĩa tập thể thì sự bất dung và đàn áp tàn bạo, dối trá và theo dõi, coi thường cuộc sống và hạnh phúc cá nhân là những việc thuộc về bản chất và không thể tránh được. Những hành động làm chúng ta ghê tởm như bắn giết con tin, giết người già hay người ốm được coi là những việc thích hợp; di dân cưỡng bức và bắt lưu đầy hàng trăm ngàn người trở thành biện pháp chính trị được hầu như tất cả mọi nguời, trừ các nạn nhân, ủng hộ.
Muốn trở thành người có ích cho sự vận hành của nhà nước toàn trị, để đạt được mục đích, con người phải sẵn sàng bước qua mọi nguyên tắc đạo đức mà anh ta từng biết. Trong bộ máy toàn trị những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ luôn giành được cơ hội tốt. Gestapo hay các ban quản lý các trại tập trung, Bộ tuyên truyền hay SA hoặc SS (hoặc những cơ quan tương ứng của Nga) không phải là chỗ thể hiện tình cảm của con người. Nhưng đấy chính là con đường tiến thân trong ban lãnh đạo của nhà nước toàn trị.
Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ, giáo sư Frank H. Knight, đã nhận xét rất đúng rằng chính quyền của nhà nước theo chế độ tập thể “dù muốn hay không cũng phải làm những việc đó: xác suất những người nắm chính quyền là các cá nhân không thích giữ và thể hiện quyền lực cũng ngang bằng với xác suất một người cực kỳ dịu dàng muốn làm công việc của cai đội trong trại nô lệ”.
Một vấn đề nữa cần phải làm rõ: Chủ nghĩa tập thể nghĩa là sự cáo chung của chân lý. Muốn cho hệ thống toàn trị hoạt động hữu hiệu thì việc mọi người đều buộc phải làm vì mục đích do những kẻ nắm quyền lựa chọn vẫn chưa đủ; điều quan trọng là người ta phải coi đấy là mục đích của chính mình. Chỉ có thể thực hiện được điều đó bằng tuyên truyền và kiểm soát toàn bộ các nguồn thông tin.
Cách tốt nhất để người dân chấp nhận các giá trị mà họ phải phục vụ là thuyết phục họ rằng đấy là các giá trị họ vẫn luôn luôn tin tưởng, chỉ có điều trước đây họ đã hiểu chưa thật đúng mà thôi. Và biện pháp tốt nhất là gán cho các ngôn từ cũ những ý nghĩa hoàn toàn mới. Điều đó đã trở thành đặc điểm chủ yếu của bầu không khí trí tuệ của chế độ toàn trị, làm cho những người quan sát hời hợt phải lúng túng: ngôn ngữ bị xuyên tạc, ý nghĩa của từ ngữ bị biến dạng.
Bị xuyên tạc nhiều nhất chính là từ “tự do”, một từ được các nhà nước toàn trị, cũng như mọi quốc gia khác, sử dụng thường xuyên. Trên thực tế, có thể nói rằng bất cứ khi nào tự do, theo nghĩa chúng ta hiểu, bị xâm hại thì bao giờ người ta cũng hứa hẹn cho nhân dân một nền tự do mới. Có những người ủng hộ kế hoạch hoá còn hứa cho nền “tự do tập thể”, nhưng đây cũng là khái niệm đáng ngờ như bất cứ khái niệm nào phát ra từ miệng các chính khách toàn trị mà thôi. “Tự do tập thể” không phải là tự do của từng thành viên trong xã hội mà là quyền tự do của người lập kế hoạch, được phép làm với xã hội tất cả những gì hắn muốn. Đây là tự do trong tay kẻ có quyền lực tuyệt đối.
Tuyệt đại đa số rất dễ bị tước đoạt khả năng suy nghĩ độc lập. Nhưng thiểu số những người còn giữ được khả năng phê bình cũng phải bị bịt miệng. Việc phê bình công khai hay thậm chí ngay cả những biểu hiện của sự nghi ngờ cũng bị ngăn chặn vì chúng có thể làm suy giảm sự ủng hộ chế độ. Như Sidney và Beatrice Webb viết về thái độ trong các doanh nghiệp Nga: “Khi công việc đang được tiến hành, bất kỳ biểu hiện công khai nào về sự ngờ vực về khả năng thành công của kế hoạch đều bị coi là sự bất trung, thậm chí phản bội vì nó có thể ảnh hưởng đến ý chí và nỗ lực của những người khác.”
Việc kiểm soát còn được thực hiện cả trong những lĩnh vực có vẻ như chẳng liên quan gì đến chính trị. Thí dụ như thuyết tương đối bị coi là “Cuộc tấn công của bọn Do Thái vào cơ sở của vật lý học Thiên chúa giáo và Bắc Âu” và vì nó “mâu thuẫn với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa Marx”. Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ mục tiêu tự giác của xã hội. Không thể có những hoạt động tự phát, thiếu lãnh đạo vì nó có thể tạo ra kết quả không thể dự đoán và không được kế hoạch trù liệu.
Nguyên tắc này còn bao trùm lên cả các trò chơi cũng như giải trí. Tôi xin mời bạn đọc đoán xem những người chơi cờ chính thức kêu gọi: “Chúng ta phải chấm dứt một lần và vĩnh viễn thái độ trung lập của môn cờ vua. Chúng ta phải lên án một lần và vĩnh viễn công thức ‘cờ chỉ là cờ’” này ở đâu.
Điều đáng lo ngại nhất là, thái độ khinh thường tự do trí thức không phải là việc chỉ xảy ra sau khi chế độ toàn trị được thành lập mà nó hiện diện trong những người tin vào chủ nghĩa tập thể trên khắp thế giới. Sự đàn áp tàn bạo nhất cũng vẫn được bỏ qua nếu nó được thực hiện nhân danh chủ nghĩa xã hội. Người ta công khai cổ vũ cho thái độ bất dung đối với những tư tưởng khác biệt. Bi kịch của tư tưởng tập thể là ở chỗ nó bắt đầu bằng việc coi lý trí là tối thượng nhưng lại kết thúc bằng việc tiêu diệt lý trí.
Một khía cạnh nữa của sự thay đổi các giá trị đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra cũng đáng phải suy nghĩ. Những đức tính tốt mà người Anglo-Saxon có quyền tự hào và nhờ chúng mà họ được coi là những người ưu tú lại đang càng ngày càng mất giá ở Anh và Mỹ. Đấy là những tính tốt như tính độc lập và tự lực cánh sinh, sáng kiến và trách nhiệm cá nhân, tin tưởng vào các hoạt động thiện nguyện, không can thiệp vào công việc của người khác và tinh thần khoan dung đối với sự khác biệt, tinh thần nghi ngờ lành mạnh đối với quyền lực và chính quyền.
Hầu như tất cả các truyền thống và thiết chế hun đúc nên bản sắc dân tộc và toàn bộ môi trường đạo đức của nước Anh và nước Mỹ đang bị chủ nghĩa tập thể và xu hướng tập quyền hàng ngày hàng giờ phá huỷ.
Phạm Minh Ngọc
Edit: THĐP
[1] Salus revolutiae suprema lex (Lợi ích của cách mạng là trên hết – tiếng Latin trong nguyên văn). – khẩu hiệu được G. V. Plekhanov đưa ra tại Đại hội II Đảng công nhân Xã hội Dân chủ Nga (1903) nhằm chống lại nguyên tắc của dân chủ Salus populi suprema lex (Lợi ích của nhân dân trên hết).
[2] Mượn tên một vở kịch của Nguyễn Huy Thiệp.
[3] Tên một bài thơ của Phùng Quán.

Phần nhận xét hiển thị trên trang