Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014

Cuộc cạnh tranh cuối cùng

Mỹ nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một
Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này
Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam . Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ
Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
Lý Quang Diệu
Thứ Sáu, ngày 30 tháng 5 năm 2014
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra Toà trọng tài quốc tế thì điều đó sẽ gửi một thông điệp mạnh mẽ tới khu vực, tới Trung Quốc và cả thế giới là Việt Nam và cả ASEAN coi trọng một hệ thống vận hành theo luật pháp tại châu Á.

Tùng Linh (thực hiện) 

TVN - "Bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã cứng rắn hơn so với trước đó. Thái độ này thể hiện quan điểm rộng hơn trong chính sách đối ngoại của chính quyền tổng thống Obama".

Đó là khẳng định của tiến sỹ Ely Ratner, Phó giám đốc Chương trình an ninh châu Á - Thái Bình Dương thuộc Trung tâm nghiên cứu về một nền an ninh mới của Mỹ (Center for a New American Security), và cũng là chuyên viên của Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Mỹ.

Tiến sỹ Ely Ratner đã trả lời phỏng vấn của Tuần Việt Nam ngay sau khi trở về từ Đối thoại Shangri-la tại Singapore.

Có mối quan ngại chung về biển Đông

Là người tham dự Đối thoại Shangri-la ở Singapore, ông nhìn thấy vấn đề Biển Đông được đề cập như thế nào tại diễn đàn này?

Hầu như thất cả các cuộc đối thoại đều tập trung vào vấn đề an ninh hàng hải tại khu vực Biển Đông. Chủ đề này đã chi phối trong các cuộc thảo luận, cả các phiên thảo luận công khai lẫn các cuộc đối thoại kín.

Các vấn đề khác như Bắc Triều Tiên, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ trong thảm hoạ, về vấn đề Nga và Ukraina được đề cập rất hạn chế.

Vậy quan điểm chung của các đoàn tham dự đối thoại về tranh chấp tại Biển Đông hiện nay là như thế nào?

Rõ ràng Mỹ và Nhật Bản tại đối thoại đã sẵn sàng công khai phản đối thái độ cứng rắn của của Trung Quốc. Tôi nghĩ là tất cả các nước trong khu vực cũng đều lo ngại về thái độ đó, và đã trao đổi với với các quan chức đã tham gia vào các cuộc thảo luận giữa Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel với Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, cũng như giữa ông Hagel với các quan chức trong khu vực.

Rõ ràng là có mối quan ngại chung về những hành động hiện nay của Trung Quốc.

Tại đối thoại, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã chỉ trích mạnh mẽ hành động "đơn phương và gây bất ổn của Trung Quốc". Theo ông, tại sao lần này phía Mỹ lại tỏ thái độ mạnh mẽ đến vậy?

Đúng là Bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã cứng rắn hơn so với trước đó. Thái độ này thể hiện quan điểm rộng hơn trong chính sách đối ngoại của chính quyền tổng thống Obama.

Nếu ngược thời gian một chút, tháng 11 năm ngoái, chính quyền Mỹ đã bắt đầu tỏ thái độ cứng rắn với Trung Quốc, tôi nghĩ đầu tiên là để đáp trả lại tuyên bố về vùng nhận dạng phòng không (ADNZ) của Trung Quốc tại Biển Hoa Đông. Sau thời điểm đó thì quan điểm của chính quyền tổng thống Obama ngày càng cứng rắn hơn.

Thách thức mà TQ phải đối mặt

Tại đối thoại Shangri-la, Thủ tướng Nhật Bản đã tuyên bố Nhật Bản sẽ "hỗ trợ tối đa cho các nước ASEAN trong việc đảm bảo an ninh hàng không hải tại khu vực." Theo ông, Nhật có thể hỗ trợ gì cho các nước ASEAN?

Nhật Bản có quá trình can dự lâu dài và mang tính lịch sử tại Đông Nam Á. Họ giữ một vai trò lớn tại khu vực. Và rõ ràng đó cũng là ưu tiên của thủ tướng Shinzo Abe.

Từ khi lên nhậm chức, ông Abe đã thăm tất cả các nước trong khu vực, thảo luận về các biện pháp khác nhau để xây dựng quan hệ với các nước trong khu vực. Về những khía cạnh cụ thể mà Nhật có thể giúp để tăng cường an ninh, thứ nhất là can dự về thể chế. Thứ hai là hỗ trợ phát triển chính thức, giúp xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan đến các lực lượng an ninh trong khu vực. Và thứ 3 là các hỗ trợ trực tiếp hơn nhằm giúp tăng cường năng lực và đào tạo quân sự cho các nước, như việc hỗ trợ tàu tuần tra cho Việt Nam. Nên tôi nghĩ Nhật Bản có thể làm được nhiều và có những đóng góp quan trọng cho khu vực.

Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Vương Quán Trung tại Shangri-la phản đối lại phát biểu của ông Chuck Hagel, cho rằng bài phát biểu của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ "đầy rẫy những lời lẽ mang tính bá quyền và hăm doạ đối với Trung Quốc". Ông có bình luận gì về ý kiến này?

Tôi nghĩ rất ít người bên ngoài Trung Quốc đồng ý với bài phát biểu đó, và sự tham dự của đoàn Trung Quốc tại Shangri-la không chuyên nghiệp và không giúp ích gì cho các cuộc đối thoại. Tôi rất ngạc nhiên với bài phát biểu của tướng Vương Quán Trung khi ông ta nói rằng Trung Quốc không bao giờ là bên châm ngòi cho các rắc rối tại Biển Đông. Tôi cho rằng đó đơn thuần chỉ là chiêu bài tuyên truyền của Trung Quốc.

Nhưng xin nhắc lại, không ai bên ngoài Trung Quốc tin vào điều đó. Nên tôi nghĩ bài phát biểu của ông Vương không được coi trọng. Bài phát biểu đó chỉ nhắm vào công chúng Trung Quốc, và tướng Vương cố thể hiện với các đồng nghiệp và chính phủ trong nước là ông ta đang tỏ thái đội cứng rắn. Thực ra cho dù ông ta có kỳ vọng gì từ bài phát biểu này thì kết quả cuối cùng mà bài phát biểu mang lại vẫn là những suy nghĩ tiêu cực về hình ảnh của Trung Quốc.

Rất nhiều lần trong cuộc đối thoại Shangri-la, người điều hành phiên họp đã phải ngăn hoặc cố gắng ngăn các câu hỏi khiếm nhã và hung hăng mà các thành viên đoàn Trung Quốc đưa ra đối với các diễn giả, trong đó có bộ trưởng Mỹ Chuck Hagel. Không có thành viên của bất cứ đoàn nào có cách hành xử kỳ cục và không thể tưởng tượng nổi giống như đoàn Trung Quốc.

Tôi cho rằng cách hành xử của đoàn Trung Quốc tại Shangri-la rất không chuyên nghiệp và thể hiện sự thiếu tự tin của một cường quốc.

Theo ông, với cách hành xử như hiện nay tại Biển Đông, Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức gì?

Thách thức mà Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt, là nếu Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra Toà trọng tài quốc tế thì điều đó sẽ gửi một thông điệp mạnh mẽ tới khu vực, tới Trung Quốc và cả thế giới là Việt Nam và cả ASEAN coi trọng một hệ thống vận hành theo luật pháp tại châu Á.

Tiến sỹ Ely Ratner là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu và bài viết trên các tạp chí và tờ báo lớn như Foreign Affairs, Foreign Policy, The Washington Post, The New York Times, The Wall Street Journal, The Washington Quarterly, The National Interest, Journal of Conflict Resolution, International Studies Quarterly and Chinese Journal of International Politics.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Người Việt Nam nghĩ gì vào thời điểm này?

Liên minh để đảm bảo độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ: TẠI SAO KHÔNG???

my viet
Câu nói nổi tiếng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” được Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nhắc lại trong cuộc đối thoại với các nhà khoa học khi nổ ra khủng hoảng biển Đông.
Bất cứ ai cũng ý thức và nắm rõ điều này. Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là vô giá không có gì sánh bằng. Cao cả, thiêng liêng đến mức bất cứ ai cũng sẵn sàng nằm xuống, hy sinh để bảo vệ bằng được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Lịch sử ghi nhận từ hàng nghìn năm nay, không thể tính xuể số người đã ngã xuống để bảo vệ biên cương, bờ cõi, giữ gìn từng tấc đất của cha ông. Máu xương của con người đã ngấm vào từng centimet đất. Đó là lý do không bao giờ chúng ta chấp nhận bị xâm lấn.
Trước họa ngoại xâm thật gần, giặc đã vào tận trong nhà, nếu không đặt toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chủ quyền lên trên hết thì chứng tỏ con người đang toan tính mục đích khác, tư lợi, vị kỷ.
Vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền của Việt Nam đã được Công ước LHQ về luật biển 1982 công nhận nên đó không bao giờ là vùng tranh chấp. Ngang nhiên chiếm đóng là hành động xâm lược và Việt Nam không bao giờ được nhượng bộ, hạ mình. Nhưng Việt Nam hiện tại yếu kém không thể tự chống chọi, để đất nước bị xâm chiếm là sự thực phũ phàng đang hiện hữu từng ngày từng giờ.
Khủng hoảng biển Đông còn phơi bày sự thật cay đắng, đó là Việt Nam không có bạn bè nào dù chỉ là 1 người. Những kẻ trước đây Việt Nam luôn gọi là bạn là hão huyền, ngộ nhận. Chỗ dựa không ngờ trong lúc hoạn nạn, quẫn bách lại là những người luôn bị Việt Nam thù hận.
Những “kẻ thù” này muốn giúp Việt Nam bảo vệ điều thiêng liêng nhất: độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Nội chỉ điều đó thôi đã chứng minh họ không là “kẻ thù”. Và vì điều vô cùng thiêng liêng ấy, không có bất cứ lý do nào để từ chối khi tự mình không bảo vệ được cho mình. Nếu chối từ thì chắc chắn có âm mưu, thủ đoạn xấu xa.
Ngạn ngữ Nga có câu “nếu không biết nhìn xa thì mối họa luôn ở gần”. Tình hình Việt Nam bây giờ, muốn bảo vệ chủ quyền trước mắt và lâu dài, chỉ còn cách duy nhất là liên minh.
Tôi đồng ý với quan điểm “Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra trong chuyến đi Philippines hôm 21/5 vì Việt Nam yêu chuộng hòa bình, không bỗng dưng đi liên minh để… đánh nhau. Nhưng kẻ xâm lược đã vào chiếm đóng đất của mình, không tự bảo vệ nổi thì không có bất cứ ai, bất cứ lý do gì buộc chúng ta không được liên minh để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc.
Liên minh với người muốn chúng ta toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chủ quyền, TẠI SAO KHÔNG???
Fb- Nguyễn Văn Hoàng

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Nếu Trung Quốc quan tâm nhiều tới sức ép quốc tế, nước này đã không hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981”.

Trung Quốc lớn tiếng dọa cả G7

(Dân trí) - Trung Quốc đã lớn tiếng tuyên bố sẽ kiên quyết đáp trả các hành động khiêu khích đối với chủ quyền lãnh thổ nước này sau khi các lãnh đạo G7 bày tỏ lo ngại sâu sắc về các căng thẳng trên biển giữa Bắc Kinh và các láng giềng châu Á. 
 >>  Lãnh đạo G7 "quan ngại sâu sắc" về căng thẳng Biển Đông

Các lãnh đạo G7 họp tải Brussels, Bỉ.
Các lãnh đạo G7 họp tải Brussels, Bỉ.
 
Hãng thông tấn Xinhua của Trung Quốc ngày 5/6 dẫn lời phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói rằng các tranh chấp lãnh thổ nên được giải quyết thông qua đàm phán giữa các quốc gia liên quan trực tiếp và rằng sự can thiệp của các lực lượng bên ngoài chỉ làm phức tạp thêm tình hình.
 
"Trung Quốc kiên quyết đối mặt với bất kỳ thách thức nào vì chủ quyền và lợi ích của mình, và bất kỳ thách thức nào nhằm phá hoại hòa bình và ổn định trên biển", ông Hồng Lỗi lớn tiếng cảnh báo.
 
"Các quốc gia bên ngoài nên tôn trọng các sự thật khách quan và giữ thái độ công bằng trong các cuộc tranh chấp thay vì khuấy động căng thẳng và gây ra chia rẽ, làm phức tạp thêm tình hình khu vực”, ông Hồng nói.
“Trung Quốc sẽ có biện pháp đáp trả kiên quyết bất kỳ nỗ lực khiêu khích nào nhằm cố tình xâm phạm quyền và chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc và gây nguy hiểm cho hòa bình và sự ổn định trên biển”, phát ngôn viên nói.
Ông Hồng Lỗi đưa ra những bình luận trên trong bối cảnh Bắc Kinh gần đây cố tình gây leo thang căng thẳng khi liên tục có các hành động gây hấn nguy hiểm ở Biển Đông.
Hồi đầu tháng 5, Trung Quốc đã hạt đặt trái phép giàn khoan dầu Hải Dương-981 trong vùng lãnh của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã điều nhiều tàu, trong đó có tàu quân sự, ra ngăn cản tàu chấp pháp của Việt Nam trong khu vực đặt giàn khoan trái phép.
 
Các tàu của Trung Quốc còn chủ động đâm va, phun vòi rồng vào các tàu Việt Nam, khiến nhiều người bị thương và làm hư hỏng nhiều tàu. Một tàu của Trung Quốc còn hung hăng đâm chìm một tàu cá của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa.
 
Giàn khoan Hải Dương-981 mà Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển của Việt Nam.
Giàn khoan Hải Dương-981 mà Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển của Việt Nam.
Quốc tế đã mạnh mẽ lên án các hành động ngang ngược của Trung Quốc trên biển. Tại Đối thoại Shangri-La 13 ở Singapore mới đây, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel sử dụng các ngôn từ mạnh mẽ khác thường để cáo buộc Trung Quốc làm mất ổn định khu vực khi theo đuổi các tuyên bố chủ quyền.
Sau các cuộc hội đàm tại Brussel hôm 5/6, lãnh đạo các quốc gia G7, trong đó có Mỹ và Nhật Bản, đã đã ra tuyên bố bày tỏ quan ngại sâu sắc về căng thẳng trên Biển Đông và biển Hoa Đông, đồng thời kêu gọi các nước không sử dụng vũ lực mà giải quyết tranh chấp bằng luật pháp quốc tế.
“Chúng tôi quan ngại sâu sắc trước những căng thẳng tại biển Đông và Hoa Đông”, các nhà lãnh đạo khẳng định trong một tuyên bố chung. “Chúng tôi phản đối bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm khẳng định tuyên bố chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải thông qua việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa, ép buộc”, tuyên bố viết.
Trung Quốc có tranh chấp biển đảo với một loạt các quốc gia trong khu vực, vốn cáo buộc Bắc Kinh ngày càng ngạo ngược trong các tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc và Nhật Bản vướng vào cuộc tranh chấp lãnh thổ vì quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở Hoa Đông. Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền hầu hết Biển Đông và bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của các nước khác từ Brunei, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Đài Loan.
Thủ tướng Nhật Shinzo Abe cho biết bên lề hội nghị G7 tại Brussels rằng tự do hàng hải của các khu vực tranh chấp nên được bảo vệ và không nên sử dụng sự hăm dọa, Kyodo đưa tin.
Jia Xiudong, một nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu quốc tế Trung Quốc, cho hay cả Mỹ và Nhật Bản đều muốn gia tăng sức ép lên Trung Quốc thông qua nền tảng đa phương.
“Nhưng ảnh hưởng của G7 đang giảm dần và bị lu mờ bởi khối G20 (nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong đó có Trung Quốc”, ông Jia nói.
Shi Yinhong, một giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Renmin tại Bắc Kinh, cho rằng: “Nếu Trung Quốc quan tâm nhiều tới sức ép quốc tế, nước này đã không hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981”.
An BìnhTổng hợp

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngắn gọn đủ ý!



Phần nhận xét hiển thị trên trang

“công nghệ tẩm độc” vào thực phẩm của Trung Quốc (kỳ 4)


Congly.vn - “Không ăn sẽ chết, mà ăn sẽ chết nhanh hơn” - câu nói tỏ rõ sự bất lực về thực phẩm nhiễm độc tràn lan trên thị trường.

KỲ 4: CÁ, TÔM TẨM HÓA CHẤT VÀ SỰ THẬT VỀ LƯƠN NUÔI TĂNG TRƯỞNG BẰNG THUỐC NGỪA THAI
“Không ăn sẽ chết, mà ăn sẽ chết nhanh hơn” - câu nói tỏ rõ sự bất lực về thực phẩm nhiễm độc tràn lan trên thị trường. Họ bất lực vì không phân biệt được đâu là thật, đâu là giả, cứ nhắm mắt nuốt độc vào người. Người tiêu dùng thông thái bây giờ cũng chỉ còn biết than trời, trông mong vào sự may mắn. Còn những thủ thuật của một bộ phận nông dân Trung Quốc thì vô biên. Chim trời, cá nước cũng chết vì độc.
Cá tung tăng trong thùng hóa chất
Trung Quốc trong những thập niên gần đây đã vươn lên trở thành nhà cung cấp thực phẩm số một thế giới. Tuy nhiên, song song với đó, thực phẩm Trung Quốc cũng là mặt hàng chứa độc tố cao nhất toàn cầu. Họ cung cấp nguồn sống đồng thời cũng đưa đến cái chết. Môi trường Hoa Lục giờ như một bãi rác đầy chất độc hại như kim loại nặng, tiền chất gây ung thư. Có nghĩa rằng, mọi thứ có xuất xứ “made in China” khiến cả thế giới đang hết sức thận trọng.
Môi trường nước nuôi thủy sản của Trung Quốc đang ô nhiễm nghiêm trọng
Trung Quốc có tự hào hay không khi họ là quốc gia cung cấp thủy sản hàng đầu thế giới. Ngành thủy sản nước này đã trực tiếp bóp chết những nhà nuôi trồng trên chính đất Mỹ để chiếm lĩnh thị trường. Nhưng, chúng ta hãy xem họ đã làm thế giới phải khiếp đảm như thế nào khi nhồi độc vào thủy sản và cách thức họ sản xuất, chế biến quả đúng như một cơn ác mộng.
Sông Dương Tử chảy dài suốt mấy nghìn dặm qua các thành phố đang trên đà phát triển rực rỡ của Trung Quốc. Nguồn nước ngọt cực lớn này là điều kiện thuận lợi để mở rộng ngành nuôi trồng thủy sản. Chính tại đây, một khối lượng lớn thủy sản nhiễm bẩn được bung tỏa đi khắp thế giới. Vậy họ đã tạo ra sự bẩn thỉu, độc hại này như thế nào? Trước tiên hãy nhìn vào đất nước Hoa Lục rộng lớn hơn 1 tỷ người này. Người ta thống kê chỉ có một nửa trên tổng số hàng chục triệu địa điểm sản xuất công nghiệp, chế biến nông nghiệp là có cơ sở xử lý nước thải. Những khu công nghiệp ở Trùng Khánh, Thành Đô đang dồn chất độc ra sông Dương Tử. Dòng nước này đã mang chất độc hại đi khắp đồng bằng rộng lớn phía đông Trung Quốc.
Cẩn trọng với lươn uống thuốc ngừa thai của Trung Quốc
Không chỉ có 20 triệu người Trung Quốc đang uống nước thạch tín mà còn trên 60% tôm cá được nuôi trong môi trường nước cực kỳ độc hại. Để có một sản lượng cao, người chăn nuôi Trung Quốc đã dồn ứ hàng trăm loại tôm, cá vào trong cùng một bể nuôi. Chất thải của bể nuôi không được xử lý, những vi khuẩn ký sinh trên cơ thể tôm, cá sinh sôi. Họ đã xử lý việc này ra sao? Họ bơm vào bể nuôi hàng chục loại kháng sinh, thuốc kháng khuẩn, thuốc kháng nấm vô tội vạ. Đặc biệt là các loại thuốc nhuộm khiến cơ thể cá, tôm bị nhiễm độc cực nặng.
Thịt tôm, cá đồng loạt bị nhiễm các chất chloramphenicol, fluoroquinolones cho tới nitrofurans ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người sử dụng. Có thể nói rằng, con cá đã người Trung Quốc tẩm độc từ khi còn trong trứng cho đến khi nó nằm trên bàn ăn. Chúng ta tự hỏi, một con cá nuôi ở bể hóa chất khi được vớt lên bán đã là hết quy trình “tẩm độc” chưa? Xin trả lời là chưa. Những con cá nhiễm độc này khi vớt lên khỏi bể sẽ chết trong tích tắc. Người nuôi Trung Quốc đã làm gì để nó sống lâu? Họ đã cho thêm chất Malachite Green (MG), là phẩm nhuộm công nghiệp độc hại. Chất này có tác dụng diệt khuẩn và kéo dài thời gian sống của tôm cá. Ở Trung Quốc chất này được bán tràn lan với cái giá rất rẻ, và tất nhiên họ biết đó là chất gây ung thư. Ngoài ra nó còn gây ra các bệnh hiếm gặp như bệnh thiếu máu cho tới việc làm suy giảm khả năng sử dụng kháng sinh chữa bệnh của cơ thể con người.
Sự thâm độc trắng trợn hơn là ở chính những nhà máy chế biến thủy sản Trung Quốc. Họ ngang nhiên dùng những chất như khí carbon monoxide để làm cho miếng fi-lê cá có màu đỏ tươi. Trò lừa đảo rất “nghệ thuật” này đã khiến hàng triệu người lầm tưởng rằng con cá được đóng gói khi còn tươi nguyên. Những kẻ lừa đảo thì cười khoái trá nhét tiền vào đầy túi khi vừa ra tay “sát hại” được vô số người.
Sự thật nào tồn tại trong bụng con lươn
Phúc Kiến, Trung Quốc nổi tiếng là vùng nuôi trồng thủy sản lớn. Đất chật, người đông chưa đến thảm cảnh đạp lên đầu nhau mà thở nhưng sự thật là môi trường ở đây đã ô nhiễm nghiêm trọng. Những cơ sở nuôi trồng thủy sản ồ ạt xả thải ra môi trường khiến sinh vật tự nhiên chết ngay từ trong trứng. Con người đối diện với bệnh tật. Trong viễn cảnh đen tối đó, điều ngạc nhiên là những người nông dân Phúc Kiến vẫn giàu lên nhanh chóng nhờ chăn nuôi. Họ giàu lên nhờ nuôi lươn, nuôi ếch bằng những kinh nghiệm hết sức tinh vi.
Có một thời gian thương lái Trung Quốc sang Việt Nam thu gom ếch với giá cao. Người Việt Nam kéo nhau đi bắt ếch cho bằng sạch bán cho họ. Người dân đồn đãi rằng, Trung Quốc “chơi xỏ” Việt Nam. Bởi, con ếch là loài rất có lợi cho nông nghiệp, giúp nông dân diệt trừ sâu bọ hại hoa màu. Nhưng không biết họ “chơi xỏ” như thế nào. Hóa ra, thời đó, Trung Quốc lạm dụng thuốc trừ sâu, ếch chết không còn một bóng. Giờ thì, người Trung Quốc có cả vùng chuyên nuôi ếch xuất ngược sang việt Nam. Và người Việt Nam đang ăn con ếch mang trong mình hàng chục loại thuốc trừ sâu của Trung Quốc.
Trái với con ếch, con lươn chưa từng bị người Trung Quốc làm nên “cơn sốt” ở Việt Nam. Nhưng đến thời điểm này thì con lươn Trung Quốc đã thực sự nguy hiểm. Chính người nông dân Trung Quốc đã tiết lộ những “bí kíp” được cho là nguyên tắc bất di, bất dịch của người nuôi lươn.
Triệu Chính Chính là một nông dân có trang trại nuôi lươn ở Phúc Kiến. Nhờ nuôi lươn mà người nông dân họ Triệu này gây dựng được một cơ ngơi hoành tráng, đầy đủ tiện nghi. Ông ta được chính quyền địa phương tặng danh hiệu gương điển hình ưu tú trong lao động sản xuất. Thế nhưng, những gì ông ta làm để có cái danh hiệu như thế thì thật đáng sợ. Ông Triệu giới thiệu, nhà ông ta có 118 bể nuôi lươn. Tháng nào ông ta cũng có lươn xuất khẩu đi nhiều nước.
- Mỗi tháng ông xuất bao nhiêu lươn?
- Gần một tấn.
- Thị trường chính là ở đâu vậy?
- Tôi chỉ cung cấp thôi. Ở đây có những nhà chuyên xuất khẩu, tôi đảm bảo nguyên liệu cho họ. Tôi được biết họ xuất khẩu đi Mỹ, châu Âu và các nước trong khu vực.
- Nó thực sự an toàn chứ, ý chúng tôi là thịt lươn nuôi như thế này...
- Tất nhiên là an toàn. Nó rất ngon và được ưa chuộng.
Triệu Chính Chính cho biết những con lươn đồng và lươn nuôi có sự khác biệt rất lớn. Những con lươn đồng có màu da vàng óng nhưng lươn trong bể của ông ta lại có màu đen trắng. Lý giải cho điều này, ông ta cho biết là lượng bùn trong bể ít, lại bị nhiễm nhiều chất độc, trong đó có lượng thức ăn thừa làm cho lươn bị biến đổi màu da. Nhưng có một bí mật lớn hơn trong nghề nuôi lươn ở Phúc Kiến là những người nông dân này còn kiêm cả vai trò “bác sĩ sản khoa” cho lươn. Chính xác là họ đã thường xuyên cho lươn uống thuốc ngừa thai. Tại sao vậy?
Người nông dân ưu tú họ Triệu nói rằng, cho lươn uống thuốc ngừa thai để nó tăng trưởng nhanh. Trong chu kỳ sinh trưởng, nếu lươn mang thai sẽ làm chậm sự phát triển, giảm trọng lượng và người nông dân sẽ thất thu.
- Vậy đó là thuốc ngừa thai của người sao?
- Đúng thế. Chúng tôi chỉ dùng với lượng nhỏ, trộn lẫn thức ăn đã được làm ướt. Lươn sẽ không mang thai và lớn rất nhanh.
- Thuốc đó mua ở đâu?
- Người ta bán ở chợ. Nó được điều chế dạng lỏng hoặc dạng bột đóng gói. Giá chỉ từ 8 đến 35 tệ cho một gói trọng lượng 1kg.
- Nó vẫn an toàn ư?
- Nó vẫn an toàn.
Trên thực tế, chính quyền địa phương đã cấm người nông dân cho lươn uống thuốc ngừa thai của người. Lươn sẽ hấp thu vào cơ thể một lượng thuốc ngừa thai và điều này sẽ gây ngộ độc cho con người khi sử dụng. Và như thế tức là, khi chúng ta ăn những con lươn được nhập từ Trung Quốc tức là chúng ta đang ăn thuốc ngừa thai.
Dược phẩm Trung Quốc cũng có độc
Trung Quốc sản xuất cho thế giới đến 70% lượng penicillin, 50% lượng aspirin, và 33% lượng tylenol. Các công ty dược Trung Quốc cũng đã chiếm lĩnh phần lớn thị phần thế giới về kháng sinh, enzyme, các acid amin chính và vitamin tổng hợp. Trung Quốc thậm chí đã thống lĩnh đến 90% thị phần thế giới về vitamin C, dù rằng họ đang có vai trò áp đảo trong việc việc sản xuất các loại vitamin A, B12, và E, không kể nhiều loại nguyên liệu để sản xuất vitamin tổng hợp. Tuy nhiên, đó lại là một nỗi hoang mang cho thế giới. Bởi liên tục thời gian gần đây, một số nước đã phát hiện trong dược phẩm của Trung Quốc cũng tồn tại độc tố.

Biên Thùy

Phần nhận xét hiển thị trên trang

KHông nóng được đâu - Bác nhà văn thì khi nói chuyện võ phải biết miếng. Nói như bác là mắc mưu họ Tập đấy, nó chỉ cần như thế thôi đấy bác ạ. Nhà em cũng máu chiến lắm, nhưng oánh nhau chỉ là chuyện bần cùng. Bác viết thế này e không ổn. Nói thẳng đừng giận nhau nha!

Nhà văn Quân đội Nguyễn Đình Tú: AI BẢO THẦN DÂN CHỊU ĐƯỢC!!!!




AI BẢO THẦN DÂN CHỊU ĐƯỢC?
 
Nguyễn Đình Tú
Nhà văn  Quân đội

Có lẽ phải đánh nhau thôi!
 Tàu Khựa đã giết dân ta trên biển Đông, đã đâm nát mấy chục tàu hải giám và tàu cảnh sát biển, đã tuyên bố chọc mũi khoan xuống đáy biển của ta. 

Nhìn những người dân miền Trung đón xác ngư dân bị giặc Tàu giết, không ai không căm phẫn. Mọi phát biểu đã phát ra rồi, mọi cực lực lên án và hết sức quan ngại cũng đã được phát đi rồi. 

Hàng ngày, 90 triệu dân cứ ngóng ra biển, nghe tin máu báo về, nhìn đổ nát dội về, ngóng đau thương hồi đáp. Máu đã đổ, tàu đã vỡ, lãnh thổ đã bị xâm chiếm, sự nhẫn nhịn đã bị chà đạp đến giới hạn cuối cùng. 

Máy bay, tàu chiến của giặc Tàu cũng đã nghênh ngang tiến vào bờ cõi. 
Còn chịu được nữa không?
Đúng là "thằng nhãi con Tập Bình động binh không ngừng". 

Độc ác thay ! Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay ! Nước Nam Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?

Có nên đánh một trận để "ngàn năm vết nhục nhã sạch làu" không nhỉ?


Phần nhận xét hiển thị trên trang