Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014

Bọ xít hút máu người đã phát tán ra khắp Hà Nội. Tất cả các quận, huyện ở thủ đô đều ghi nhận có sự xuất hiện của loài này, ngay những nơi sạch sẽ nhất như tầng 7 một khu chung cư cao cấp cũng từng phát hiện.

Info.net
Con bọ xít cái được phát hiện tại nhà ông Quang ở đường Vương Thừa Vũ, Thanh Xuân, Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Hoài
Các nhà khoa học tại Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật cho biết, bọ xít hút máu người đã có mặt ở tất cả các quận, huyện ở Hà Nội với xu thế phát tán ngày càng rộng, thời gian lâu hơn, số lượng người bị đốt tăng.

Theo PGS.TS Trương Xuân Lam, Trưởng phòng Côn trùng học Thực nghiệm - Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, những năm trước, phải từ tháng 6, Viện của ông mới nhận được những cuộc gọi thông báo có bọ xít hút máu người xuất hiện trong nhà, nhưng năm nay, trong tháng 5, hàng trăm hộ ở Hà Nội đã gọi đến thông báo có bọ xít hút máu xuất hiện.

Sáng 4/6, nhận được điện thoại của gia đình ông Quang ở phố Vương Thừa Vũ (Thanh Xuân, Hà Nội), PGS Lam đến xem xét. Ông cho biết, con bọ xít xuất hiện trong gia đình ông Quang là con cái, chưa hút máu người. “Nếu đã hút máu người, chỉ 1-2 ngày sau, cá thể sẽ đẻ trứng. Mỗi đợt đẻ khoảng 150-200 quả. Trứng bọ xít hút máu nhỏ, rất khó phát hiện và khoảng 16-18 ngày sau sẽ nở thành cá thể bọ xít non.

Cá thể này ngay lập tức sẽ hút máu người. Nếu có một cá thể cái đẻ trứng trong nhà thì khoảng 20 ngày sau trong nhà có thể có hàng trăm cá thể bọ xít hút máu người xuất hiện”, PGS Lam nói. Tại Hà Nội, từng có gia đình phát hiện tới 8.000 con bọ xít hút máu trong nhà.

Ông Lam cho biết nếu trong cùng một khu vực có nhiều gia đình phát hiện ra bọ xít hút máu thì rất có thể ở gần đó có ổ bọ xít hút máu. Mỗi ổ thường có từ vài chục đến vài trăm con, cá biệt có những ổ lên đến hơn nghìn con.

Các ổ bọ xít hút máu thường được tạo lập ở những khu vực ẩm thấp, bỏ hoang, có vụn vải hoặc gỗ mục và có nhiều chuột. Từ ổ, bọ xít có thể phát tán xa 1,5-2km.

PGS Lam cho hay, bọ xít hút máu người đã phát tán ra khắp Hà Nội. Tất cả các quận, huyện ở thủ đô đều ghi nhận có sự xuất hiện của loài này, ngay những nơi sạch sẽ nhất như tầng 7 một khu chung cư cao cấp cũng từng phát hiện.

Đáng lo ngại, bọ xít hút máu đang có xu thế hung hăng hơn. Nghiên cứu của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật cho thấy, trước đây, thời gian phát tán trong ba tháng 6, 7, 8, nay kéo dài đến tháng 9. Từ một ổ, số hộ có bọ xít xuất hiện tăng lên. Trước đây, khi bị bọ xít đốt, thường chỉ có dấu hiệu sưng, ngứa, phù nề, nay có những trường hợp phải cấp cứu.

Chưa có thuốc đặc trị


“Bọ xít hút máu thường tấn công lúc nửa đêm (1-3h sáng) và chỉ hút máu đang chảy trong huyết quản của người. Khi đốt, bọ xít hút máu tiết ra một loại chất gây tê, nên chúng ta thường không cảm nhận được gì. Thời gian hút máu kéo dài 14-15 phút”.
PGS.TS Trương Xuân Lam, Trưởng phòng Côn trùng học Thực nghiệm, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
Theo PGS Lam, điều đáng lo ngại là hiện nay chưa có thuốc đặc trị loài côn trùng này. Bọ xít hút máu cũng không có loài thiên địch trong tự nhiên và rất khó phát hiện.

Một con bọ xít, khi phát tán vào nhà sẽ tìm chốn ẩn nấp. Sau đó xâm nhập khu vực giường ngủ, phục kích cho đến khi người ngủ say sẽ tấn công.

Chúng thường tấn công lúc nửa đêm (1-3h sáng) và chỉ hút máu đang chảy trong huyết quản của người. Khi đốt, chúng tiết ra một loại chất gây tê, nên chúng ta thường không cảm nhận được gì. Thời gian hút máu kéo dài 14-15 phút.

Bọ xít hút máu có lây bệnh không? Theo PGS Lam, hiện chưa có nghiên cứu khẳng định bọ xít hút máu ở Việt Nam có khả năng truyền bệnh hay không.

Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới, loài bọ xít hút máu người ở Nam Mỹ có khả năng truyền ký sinh trùng đơn bào Trypanosoma cruzi gây ra Chagas - căn bệnh có khả năng hủy hoại tim và gây rối loạn tiêu hóa.

Khoảng 7,8 triệu người Mỹ Latin từng mắc căn bệnh này vào thập niên 60. Ở Việt Nam cũng phát hiện sinh trùng đơn bào thuộc giống Trypanosoma sống trong bọ xít hút máu. Tuy nhiên, đó là ký sinh trùng gì, khả năng truyền bệnh ra sao thì chưa có nghiên cứu cụ thể.

Có một số loại thuốc có thể sử dụng để tiêu diệt loài này, nhưng theo PGS Lam, hiệu quả không cao và có thể gây độc cho con người. 

Các nhà khoa học khuyến cáo áp dụng các biện pháp thủ công để ngăn chặn bọ xít hút máu như thường xuyên vệ sinh trong và ngoài nhà, đặc biệt là khu vực giường ngủ, nơi mà bọ xít hút máu ẩn nấp và tấn công. Khi bị bọ xít đốt sẽ có cảm giác ngứa, rát và phù nề, cần rửa vết hút bằng xà phòng và đến trung tâm da liễu.


Bọ xít tấn công mạnh ở thành phố

Theo nghiên cứu của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, nếu như trước đây, bọ xít hút máu chủ yếu xuất hiện ở các trang trại, vùng đệm vườn quốc gia, vùng trung du thì nay chúng tấn công mạnh ở thành phố, nhất là Hà Nội, Đà Nẵng và TPHCM.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGUY CƠ TÁI DIỄN ..


Nguyễn Trung


Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta.


Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989 mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy.  
Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các nước Liên Xô Đông Âu cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị. 
 
Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như với bất cứ giá nào. 
 
Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt. 
 
Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-xít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.
 
Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài. 
 
Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân. 
 
Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc. 
 
Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy. 
 
Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen! 
 
Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!
 
Để mỗi chúng ta có những căn cứ xác đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990.
 

 
Phụ lục
 
Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu
 
Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990
 
Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011
Hình ảnh: Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990
 
Nguyễn Trung
 
          Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta. 

          Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989 mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy. 

          Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các nước Liên Xô Đông Âu cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị. 

          Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như với bất cứ giá nào. 

          Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt. 

          Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.

          Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.  

Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân. 

Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc. 

Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung  càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy. 

Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen! 

Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới! 

Để mỗi chúng ta có những căn cứ các đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990.

Phụ lục
 
Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu
 
Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990
Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011
 
 
“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề(hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979  do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay  “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”…
…
…
 
Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh (trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta  tại vùng 6 tỉnh  biên giới Việt Nam. Làm cho một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: “Việt Nam  xua đuổi nguời Hoa”, “Việt Nam xâm lược Cămpuchia”… là  đúng, việc thế giới “lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.
…
…
 
…Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc (ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên).
…
…
 
…Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt Nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc (tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được…
…
…
 
…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội để đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…
…
…
 
…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh  thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm….
…
…
 
…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời người lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)
 
Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề
…
…
 
 …Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.  “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả”
 
…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?
 
(1) Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc.  Từ  đó  đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
 
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên. Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới.  Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Hồi ký Trần Quang Cơ) 
 
Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ ... Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự (có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ). Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.  
 
(2) Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh “kiên cường, bất khuất, không sợ  địch” mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa  xã hội” “vì đại cục”… của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.
 
Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam  chúng ta hiện nay và trong tưong lai….
…
…”
 
Hết
 
Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012
 

“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”…
 
 
Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh (trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Làm cho một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: “Việt Nam xua đuổi nguời Hoa”, “Việt Nam xâm lược Cămpuchia”… là đúng, việc thế giới “lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng.
 
Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.
 
 
…Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc (ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên).
 
 
…Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt Nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc (tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được……
 
…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội để đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…
 
…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm...…
 
…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời người lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)
 
Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề…
 
…Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề. “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả”
 
…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?
 
Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
 
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên. Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Hồi ký Trần Quang Cơ) 
 
Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ ... Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự (có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ). Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa. 
 
(2) Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh “kiên cường, bất khuất, không sợ địch” mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa xã hội” “vì đại cục”… của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.
 
Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai…”
 
Hết
 
Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012
 Nguồn: Hatcat.blog



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Liệu có phải hậu duệ Chu Nguyên Chương?

Quê cha đất tổ của trùm “mafia” Chu Vĩnh Khang

cuvinhka0606

Trùm “mafia” Chu Vĩnh Khang

Quê cha đất tổ của trùm “mafia” Chu Vĩnh Khang
Lý Anh

Chu Vĩnh Khang là một trong chín tên trùm “mafia” từng thống trị trên tỉ dân Tàu từ năm 2002 đến 2012 với danh nghĩa là Ủy viên thường vụ Bộ chính trị, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Khi ông ta không còn là trùm “mafia”, lập tức bị đồng bọn đứng đầu là Tập Cận Bình quy kết tội tham ô, cướp đoạt tài sản của dân Tàu và nhà nước, hiện đang ngồi chờ ngày xét xử. Tuy nhà cầm quyền Trung Cộng chưa chính thức công bố tội trạng của ông ta, dư luận vẫn bàn tán xôn xao. Còn có nguồn tin, tương lai Chu Vĩnh Khang sẽ lãnh bản án tử hình.

Gia tộc họ Chu

Quê cha đất tổ của trùm “mafia” Chu Vĩnh Khang ở thôn Tây Tiền Đầu, thành phố Vô Tích, trực thuộc tỉnh Giang Tô. Họ Chu vốn là dòng họ nghèo nhất thôn này, nhờ Chu “đắc đạo”, đã biến từ một dòng họ nghèo xơ xác trở thành vinh hoa phú quý. Gặp người nhà họ Chu, dân Tàu trong thôn đều khép nép lo sợ.
Từ Vô Tích đi về hướng đông khoảng 20 cây số, đến ngã tư giữa hai con đường Tích Sơn và Hậu Đông, có thể nhìn thấy tảng đá cẩm thạch cao hơn 2 mét trên khắc 4 chữ “Tây Tiền Đầu Thôn” sơn màu đỏ. Sau khi vào thôn, đi bộ về hướng tây khoảng 3 phút, nhìn thấy một giòng sông nhỏ, trên bờ có một tòa biệt thự 2 tầng lộ rõ màu đen trắng. Đó là nhà thờ tổ nằm trong khuôn viên nhà họ Chu nổi tiếng khắp nước Tàu. So với các ngôi nhà khác trong thôn Tây Tiền Đầu, dinh thự anh em nhà họ Chu cao to hơn gấp nhiều lần.
Toàn bộ khu khuôn viên rộng trên 10.000 mét vuông, từ đông sang tây chia thành 3 khu vực, thuộc quyền sở hữu của 3 anh em họ Chu. Dinh thự trong khuôn viên này kiến trúc theo truyền thống người Giang Nam. Trong khuôn viên có hai cây cổ thụ cao sừng sững, nhìn lên mái nhà có thể đánh giá chủ nhà thuộc vào loại giàu sang phú quý. So với hai người em, dinh thự của Chu Vĩnh Khang càng hào hoa phong nhã. Dinh thự này nằm sâu phía trong khuôn viên, cửa đóng kín mít. Bốn góc đều có những khóm trúc quanh năm xanh tươi, gần đây không có người chăm nom, đã ngả màu vàng úa.
Đứng trước khu biệt thự của Chu Vĩnh Khang, nhìn thấy xung quanh tường có ít nhất 8 máy quay hình giấu kín và 16 máy do thám bằng hồng ngoại tuyến. Theo lời kể của cư dân trong vùng, những máy móc trên có từ ngày mới xây xong tòa biệt thự. Công an địa phương còn tịch thu nhà ở của một người dân ở đầu làng dùng làm nhà canh gác, trong có nhiều loại máy móc tinh vi và hiện đại, biết được kẻ nào xâm nhập vào khuôn viên nhà họ Chu, đặc biệt là khu dinh thự của trùm “mafia” Chu Vĩnh Khang.
Phía sau khuôn viên nhà họ Chu, là khu mồ mả của tổ tiên, ông cha họ Chu. Khu mộ này rộng trên 1.500 mét vuông, cây cối xum xuê, trông thật là đồ sộ. Trong khu mộ dựng 5 tấm bia đá, tấm lớn nhất ở giữa khắc dòng chữ mạ vàng: “Chu môn liệt tổ liệt tông chi mộ”, phía dưới góc trái khắc mấy dòng chữ nhỏ hơn: “Chu Nguyên Căn, Giả Hiểu Hoa, Chu Nguyên Hưng… cùng toàn thể con cháu kính dựng”, và ngày tháng dựng bia là “tháng 09/2011”. Bên cạnh có hai tấm bia ghi tên Chu Nguyên Căn và Vương Thục Hoa dựng bia năm 1990 và 1999.
Chu Nguyên Căn là tên của Chu Vĩnh Khang thời chưa thành đạt. Vương Thục Hoa là người vợ đầu tiên của ông ta, bạn cùng học ở Học viện Dầu khí Bắc Kinh. Sau khi kết hôn, họ sinh được 2 trai, 1 gái là Chu Bân, Chu Hàn và Chu Linh Anh. Bà là người luôn phiền lòng trước thói trăng hoa của chồng, đã chết bất ngờ trong một vụ tai nạn giao thông bí ẩn. Sau cái chết của bà, Chu Vĩnh Khang làm đám cưới với Giả Hiểu Hoa, cháu vợ Giang Trạch Dân. Các con đều phản đối đám cưới này, nhưng lại đem đến cho Chu Vĩnh Khang càng nhiều quyền lực.
Theo lời kể của một người dân trong thôn, 20 năm trước họ Chu bắt đầu tin phong thủy. Thập niên 90 của thế kỷ 20, khi Chu còn làm phó Tổng giám đốc dầu khí, một vị hòa thượng nói với ông ta, khuôn mặt của ông tướng số oai phong, nhưng vị thế của ngôi mộ tổ không đúng chỗ, suốt đời chỉ làm đến chức phó. Chu Vĩnh Khang lập tức đánh điện thoại về bảo các em sửa lại mồ mả của tổ tiên. Bên cạnh mồ mả của tổ tiên, có một cái hồ rộng lớn nước quanh năm trong xanh, thầy phong thủy nói cái hồ này đã ngăn cản con đường công danh của ông ta. Chu Vĩnh Khang lập tức hạ lệnh lấp cái hồ đó. Từ đó ông ta ngày càng thăng quan tiến chức, không bao lâu trở thành một trong chín tên “mafia” thống trị trên tỉ dân Tàu với cương vị là nhân vật thứ 2 trong Ban Thường vụ Bộ chính trị ĐCSTQ, chỉ đứng sau Hồ Cẩm Đào. Từ đó ông ta tha hồ tham ô cướp đoạt tài sản của dân Tàu. Sau khi Chu Vĩnh Khang bị bắt giữ để điều tra, lúc khám xét nhà của ông ta, khám phá “mafia” Chu và người thân sở hữu số tiền, vàng, cùng các tài khoản nội ngoại tệ, tổng cộng lên tới 16 tỉ Mỹ kim.
“Mafia” Chu Vĩnh Khang bị bắt về tội tham ô
Theo tờ South China Morning Post (Bưu điện Hoa Nam buổi sáng) phát hành ở Hương Cảng, đầu tháng 08/2013, trong cuộc họp kín ở khu nghỉ mát Bắc Đới Hà, tỉnh Hà Bắc, nhóm trùm mafia tại chức và nghỉ hưu, từng ủng hộ quyết định điều tra tội tham nhũng của Chu Vĩnh Khang. Đêm 04/12, tờ Minh Kính xuất bản tại Hương Cảng cũng đưa tin, chiều tối 01/12, Lênh Chiến Thư, Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương ĐCSTQ đã dẫn theo các nhân viên an ninh tới nhà Chu Vĩnh Khang đọc lệnh bắt, Chu Vĩnh Khang nghe tin ngất tại chỗ. Vợ của Chu Vĩnh Khang là Giả Hiểu Diệp cũng bị bắt cùng chồng.
Thông tin Chu Vĩnh Khang bị bắt còn được một tờ báo Đài Loan đăng tải đầu tiên vào sáng sớm ngày 02/12, nội dung cho hay ngày 01/12 Trung ương ĐCSTQ đã quyết định bắt Chu Vĩnh Khang vì tội tham ô, hủ bại.
Tối 02/12, tờ Singdao Daily phát hành tại Hương Cảng đăng bài báo nhan đề “Một sự kiện quan trọng”, còn cho biết, Chu Vĩnh Khang bị bắt vì có âm mưu đảo chính và hủ bại, đồng thời có vấn đề nghiêm trọng về chính trị, kinh tế và tác phong.
Tờ báo này còn đưa tin, ngày 04/12 Vương Kỳ Sơn công bố trước hội nghị Bộ chính trị ĐCSTQ về tiến triển của vụ Chu Vĩnh Khang, trong đó nói Chu Vĩnh Khang đã vi phạm 4 vấn đề nghiêm trọng: Một là chiếm đoạt tài sản và hủ bại. Hai là thông qua việc khống chế Bạc Hy Lai thực hiện âm mưu đẩy Bạc Hy Lai leo cao để làm con rối chính trị. Ba là tìm cách thay thế vai trò Giang Trạch Dân ở hậu trường. Tội nghiêm trọng thứ 4 là, Chu Vĩnh Khang đã lên kế hoạch ám sát Tập Cận Bình sau khi Tập được xác định là người kế nhiệm Hồ Cẩm Đào. Ngoài ra, Chu Vĩnh Khang còn phạm tội đã chỉ thị cho Quách Vĩnh Tường, Phó Tỉnh trưởng Tứ Xuyên, từng là Thư ký riêng của Chu, hạ lệnh cho 2 cảnh sát vũ trang lái xe tông chết vợ cũ là bà Vương Thục Hoa. Hai viên cảnh sát này đã bị bắt vài tháng trước và khai ra sự thật. Chu Hàn, con trai thứ hai của Chu Vĩnh Khang, vì việc mẹ mình bị sát hại đã tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ cha con.
Khi khám xét nhà Chu Vĩnh Khang, ban điều tra phát hiện ông ta và người thân sở hữu số tiền, vàng, cùng các tài khoản nội ngoại tệ, tổng cộng lên tới 16 tỉ Mỹ kim.
Ngày 29/03, tờ Oriental Daily News (Đông phương Nhật báo) và một số báo mạng đã đăng tải thông tin cho biết: các phóng viên đã có được bản Thông báo nội bộ của “Tổ chuyên án Chu Vĩnh Khang và gia đình” thuộc Ủy ban Chính trị – Pháp luật Trung ương về “Danh mục kiểm kê khám nhà” Chu Vĩnh Khang.
Bản Thông báo cho biết: Trong các ngày 02/12/2013, 10 và 22/01/2014, Viện Kiểm sát 7 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương là Bắc Kinh, Liêu Ninh, Giang Tô, Sơn Đông, Thượng Hải, Quảng Đông đã ra lệnh khám xét 29 khu nhà ở của gia tộc Chu Vĩnh Khang. Kết quả: Chu Vĩnh Khang và những người thân (vợ con, anh em) có tổng cộng 326 căn nhà với tổng trị giá 1 tỉ 760 triệu nhân dân tệ ở 12 thành phố.
Sau khi khám xét đã thu giữ 47,850 ký vàng, bạc; số lượng rất lớn tiền mặt gồm hơn 150 triệu nhân dân tệ, hơn 2 triệu 700 ngàn Mỹ kim, hơn 660 ngàn Euro, 110 ngàn Bảng Anh, 550 ngàn Franc Thụy sĩ (CHF). Ngoài số tiền, vàng, các nhân viên điều tra còn thu giữ số lượng lớn đồ cổ, 55 tranh, thư pháp quý, tổng trị giá ước tính từ 800 triệu đến 1 tỉ nhân dân tệ; 62 xe hơi các loại trong đó có cả xe quân sự và nhiều loại xe đắt tiền.
Nghiêm trọng hơn, họ đã phát hiện Chu Vĩnh Khang và người thân tàng trữ trái phép cả “kho vũ khí” gồm 27 khẩu súng: 15 khẩu súng ngắn K76, K96, K99 do Trung Quốc sản xuất, 12 khẩu súng ngắn của Đức, Nga, Anh, Bỉ và hơn 11 ngàn viên đạn các cỡ.
Các nhân viên điều tra còn phong tỏa 947 tài khoản tiền Trung Quốc, 117 tài khoản tiền ngoại quốc đặt tại 133 ngân hàng với tổng trị giá hơn 37,7 tỉ nhân dân tệ. Người ta còn thu giữ số cổ phiếu các ngành dầu khí, hàng không, ngân hàng, sản xuất rượu trị giá 51,3 tỉ nhân dân tệ và cổ phiếu nước ngoài trị giá 170 triệu nhân dân tệ. Theo thống kê bước đầu, tổng số của cải mà Chu Vĩnh Khang và gia tộc vơ vét được đã lên tới 16 tỉ Mỹ kim.
Thông báo này cho rằng, Chu Vĩnh Khang là kẻ cầm đầu Tập đoàn thế lực đen tối lớn nhất kể từ khi thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (1949). Từ tháng 02/2014, vụ án Chu Vĩnh Khang đã chuyển sang cơ quan tư pháp xử lý.
Tuy vụ án chưa được chính thức công bố, nhưng các nhà phân tích cho rằng, với phạm vi ảnh hưởng, những tội gây nguy hại cho xã hội, Chu Vĩnh Khang sẽ phải đối mặt với bản án tử hình.
Tính đến nay, 313 người liên quan đến vụ án tham ô của Chu Vĩnh Khang, gồm người thân trong gia tộc, quan chức trong hệ thống Dầu khí, hệ thống Chính Pháp, quan chức ở Tứ Xuyên, đã bị bắt.
Theo Oriental Daily News, Trung Quốc trì hoãn công khai vụ án nghiêm trọng Chu Vĩnh Khang có một số lý do: Thứ nhất, đang nghiên cứu xem có đưa từ “Tập đoàn” vào tên vụ án này hay không. Có ý kiến nên đặt tên là “Vụ án tập đoàn tham nhũng Chu Vĩnh Khang” và định tính là “Tập đoàn tham nhũng lớn nhất kể từ khi năm1949 đến nay”. Thứ hai, Chu Vĩnh Khang kiên quyết chống lại công tác điều tra của Ủy ban Kiểm Tra Kỷ Luật trung ương. Hiện Chu Vĩnh Khang đang bị giam ở Thiên Tân, trong thời gian bị điều tra đã kiên quyết không hợp tác, thậm chí đã uống thuốc độc định tự sát, may mà nhân viên quản lý phòng giam phát hiện được, kịp thời đưa đến bệnh viện súc ruột mới thoát chết.
Lý Anh
Bài nhận qua eMai từ NK


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mộng bành trướng Trung Hoa: Ăn thua đủ với Nga


Thời hậu Xô viết, Nga đã một số lần nhượng bộ, chuyển giao cho Trung Quốc nhiều phần lãnh thổ. Những láng giềng “khổ sở” vì Trung Quốc: Quá hung hãn trên biển! / Những láng giềng "khổ sở" vì Trung Quốc / Mấy khi Trung Quốc để láng giềng yên?
Nga được ví như gấu, còn Trung Quốc được ví là rồng, Ảnh: VIA-MIDGARD
Đường biên giới quốc tế giữa Nga và Trung Quốc (TQ) dài hơn 4.300 km, đứng thứ sáu trên thế giới, bao gồm 2 phần: phía Đông dài và phía Tây ngắn hơn. Bản thân đường biên giới này cũng như mối quan hệ Nga - Trung có một lịch sử lâu đời và gây ra khá nhiều xung đột, khởi thủy từ cuộc chinh phục Siberia. Biên giới Trung - Nga ngày nay hầu hết tồn tại từ thời Liên Xô trong khi đường biên giới Trung - Xô giống như biên giới giữa Nga và triều đại nhà Thanh, được xác lập bởi một số hiệp ước vào thế kỷ XVII cho đến hết thế kỷ XIX.
Suýt lãnh bom hạt nhân
Biên giới giữa Liên Xô (sau này là Nga) và TQ tồn tại tranh chấp lâu dài. Theo Hiệp ước Aigun (1858) và Hiệp ước Bắc Kinh (1860), Nga có được hơn 1 triệu km² vùng Manchuria rộng lớn ở miền Đông Bắc Á vốn thuộc về TQ và 500.000 km² khác ở phía Tây từ các hiệp ước khác.
Từ lâu, TQ đã xem những hiệp ước này là không công bằng và vấn đề này đã được nêu ra cùng với cuộc tranh chấp Trung - Xô. Cuối cùng, căng thẳng đã dẫn đến các cuộc đụng độ quân sự cấp sư đoàn dọc biên giới vào cuối những năm 1960.
Trung Quốc tranh chấp lãnh thổ với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ: Ấn Độ, Nhật Bản, Afghanistan, Bhutan, Myanmar, Đài Loan, Kazakhstan, Lào, Brunei, Tajikistan, Campuchia, Indonesia, Kyrgyzstan, Malaysia, Mông Cổ, Việt Nam, Nepal, CHDCND Triều Tiên, Philippines, Nga, Singapore, Hàn Quốc (theoThe Economic Times).
Nhà sử học TQ Liu Chenshan cho biết TQ đã 5 lần đối mặt với mối đe dọa hạt nhân và mối đe dọa nghiêm trọng nhất vào năm 1969, cao điểm của cuộc tranh chấp biên giới giữa Moscow và Bắc Kinh. Ông kể rằng các nhà ngoại giao Liên Xô đã cảnh báo Washington về kế hoạch tấn công TQ bằng vũ khí hạt nhân, đồng thời yêu cầu Mỹ đứng trung lập.
E ngại khả năng như nêu trên xảy ra, TQ đã xây dựng những căn hầm trú ẩn ngầm quy mô lớn, chẳng hạn như thành phố ngầm ở Bắc Kinh, trung tâm chỉ huy dự án ngầm 131 ở Hồ Bắc và trung tâm nghiên cứu hạt nhân dự án 816 ở Trùng Khánh.
Tuy nhiên, Moscow đã nghĩ lại sau khi Washington tuyên bố sẽ tấn công hạt nhân vào 130 thành phố ở Liên Xô nếu nước này tấn công TQ và Mỹ sẽ coi như đó là khởi đầu Thế chiến thứ ba. Nhà sử học Liu cho rằng Mỹ xem Liên Xô là mối đe dọa lớn hơn TQ và muốn giữ một đất nước TQ hùng mạnh làm thế đối trọng với Liên Xô.
Ngoài ra, Tổng thống Mỹ Richard Nixon lúc đó vẫn còn không bằng lòng vì 5 năm trước Liên Xô đã từ chối tổ chức cuộc tấn công phối hợp vào chương trình hạt nhân của TQ. Theo báo The Telegraph, những lời khẳng định trên của nhà sử học TQ nhiều khả năng làm dấy lên cuộc tranh luận về một giai đoạn lịch sử hiện đại vẫn còn nhiều tranh cãi.
Sau cuộc tranh chấp Trung - Xô vào những năm 1950-1960 và lên cao điểm trong cuộc xung đột biên giới năm 1969, đã xảy ra hiện tượng quân sự hóa một cách quy mô dọc theo biên giới. Năm 1990-1991, Nga và TQ đồng ý rút quân khỏi các vị trí đóng quân dọc theo biên giới.
Bắc Kinh lấn tới
Sau khi Liên Xô tan rã, 4 quốc gia Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Tajikistan thừa hưởng những phần biên giới khác nhau của Liên Xô trước đây. Về sau, qua nhiều giai đoạn, 2 bên Trung - Nga đã nhiều lần ký các thỏa thuận phân chia biên giới và Moscow đã nhiều lần nhượng bộ. Theo ước tính của nhà sử học Nga Boris Tkachenko, với thỏa thuận biên giới Trung - Xô 1991, TQ nhận được khoảng 720 km² lãnh thổ, kể cả khoảng 700 hòn đảo.
Vào năm 2005, qua việc phân chia biên giới Nga - Trung, TQ đã nhận được một loạt phần lãnh thổ có tổng diện tích lên đến 337 km2, bao gồm phần đất ở khu vực đảo Bolshoi (thượng nguồn sông Argun ở vùng Chita) và ở khu vực các đảo Tarabarov và Bolshoi Ussursky.
Người ta cho rằng với việc chuyển giao các hòn đảo như vừa nêu, bất đồng giữa Nga và TQ đã được giải quyết thỏa đáng. Đến năm 2008, Moscow ký kết các văn kiện tại Bắc Kinh khép lại vấn đề biên giới. Khi đó, TQ nhận được gần 74 km2 đất ở khu vực Khabarovsk. Như vậy, biên giới TQ lúc này đã dịch chuyển vào lãnh thổ nước Nga 50 km.
Đến năm 2012, khi kinh tế TQ phát triển song song với sức mạnh quân sự, Bắc Kinh đã lên tiếng yêu cầu Moscow thực hiện những sự nhượng bộ mới về lãnh thổ. Lần này, người ta nói về việc dịch chuyển đường biên giới vào sâu bên trong CH Altai thuộc Nga và khi đó, phần diện tích lãnh thổ mà phía Nga phải từ bỏ là 17 ha. Trong bản tin trên, hãng tin Regnum đã không cho biết lý lẽ do phía TQ đưa ra khi yêu cầu lấn biên giới như nêu trên.
Đáng chú ý là chẳng bao lâu sau khi công bố thông tin trên, chính phủ CH Altai đã thay đổi bản thông cáo báo chí của mình và con số 17 ha trên không còn xuất hiện trong văn bản đó nữa. Sau đó, 2 bên ký nghị định thư, đồng ý xem xét những bất đồng phát sinh tại phiên họp thường kỳ Ủy ban Nga - Trung về việc tiến hành kiểm tra chung đường biên giới…
Đó là chưa kể đến tham vọng thôn tính miền Viễn Đông mênh mông của Nga mà phía TQ vẫn ấp ủ từ lâu và tìm cơ hội thực hiện, như dư luận nước Nga đang lo ngại. 
Hàng ngàn người mất mạng
Năm 1961, Liên Xô tập trung 12 sư đoàn và 200 máy bay dọc theo biên giới 4.380 km giữa 2 nước, đặc biệt là tại khu vực biên giới Tây Tạng ở phía Tây Bắc TQ; năm 1968, Liên Xô điều động 25 sư đoàn và 1.200 máy bay cùng với 120 tên lửa tầm trung.
Tháng 3-1969, cuộc xung đột biên giới Trung - Xô diễn ra tại khu vực sông Ussuri và đảo Damansky - Zhenbao; chiến sự quy mô nhỏ hơn diễn ra ở Tielieketi vào tháng 8 cùng năm. Theo báo Pravda, cuộc xung đột biên giới đã phát triển thành những trận đánh khốc liệt với sự tham gia của xe tăng, pháo binh và tên lửa, lấy đi sinh mạng của hàng ngàn người, cả lính biên phòng Liên Xô và binh sĩ TQ.
Các năm sau đó, Moscow và Bắc Kinh đã nhiều lần cáo buộc nhau theo đuổi chủ nghĩa bá quyền và chủ nghĩa bành trướng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Mọi việc có nhà nước lo" - Câu này nghe quen quá nhở?

 Mọi việc có nhà nước lo

Chiến Thắng

 

 

 

 

Trụ sở Cục Thuế Thụy Điển, cơ quan được người dân yêu quý. Ảnh: C.T
(TBKTSG) - Chị Lệ Thanh, đã từng sống ở nhiều nước khác nhau và chưa nơi nào, chị cảm thấy vui vẻ khi phải nộp tiền đóng thuế như ở Thụy Điển.
Niềm tự hào
Lệ Thanh sống cùng với gia đình ở Stockholm từ tám năm nay. Là tiến sĩ kinh tế, từng học, sinh sống và làm việc nhiều năm ở Anh, Mỹ. Hiện giờ chị là công dân Thụy Điển.
Gặp người đồng hương từ Việt Nam sang, thay vì giới thiệu những thứ làm nên “thương hiệu” nổi tiếng cho đất nước xứ Bắc Âu này, như ban nhạc ABBA, đồ điện Electrolux, đồ gia dụng IKEA..., chị Thanh lại say sưa kể về... thuế. Là người nghiên cứu về kinh tế, với chị Thanh, thuế chính là điều đặc biệt nhất ở Thụy Điển.
Mẹ chồng chị Thanh năm nay ngoài 60 tuổi, đi lại khó khăn. Mỗi lần xuống thăm cháu nội ở cách xa 40 cây số, bà phải gọi taxi. Nhưng dù đi với khoảng cách như vậy, hay hơn nữa, bà cũng chỉ phải trả một khoản tiền tương đương giá mở cửa là 10 SEK (khoảng 30.000 đồng). Số tiền còn lại do... nhà nước (bảo hiểm xã hội) chi trả.
Khi chị Thanh sinh em bé, theo luật, cả hai vợ chồng sẽ được nghỉ 16 tháng, mà vẫn hưởng 80% thu nhập. Bố và mẹ có thể chọn cách nghỉ liên tục hoặc nghỉ cách quãng cho tới khi con được 8 tuổi. Người bố được nghỉ tối thiểu 60 ngày để chăm sóc vợ và con. Nếu bố và mẹ chia đôi mỗi người nghỉ tám tháng thì nhà nước sẽ thưởng thêm cho vợ chồng khoảng 1.000 đô la Mỹ. Mỗi đứa trẻ sinh ra được trợ cấp tiền đến 16 tuổi, mỗi tháng khoảng 150 đô la.
Chị Thanh cho biết, một người không có tài sản, cũng vẫn sống được ở Thụy Điển, bởi họ được hưởng trợ cấp xã hội. Nếu mắc bệnh, họ sẽ được nằm bệnh viện với đầy đủ chế độ chăm sóc y tế và thuốc men. Nếu không may qua đời, các cơ sở dịch vụ công sẽ đưa xe tới chở thi hài đi. Sau đó, họ sẽ lo liệu đầy đủ tang lễ, từ áo quan, tới các thủ tục nhà thờ, thậm chí cả hoa trong lễ tang đều được chuẩn bị chu đáo. Thân nhân của người đã khuất không phải chi bất cứ đồng nào, làm bất cứ việc gì, ngoại trừ... đứng đáp lễ.
“Tất cả những chính sách trên có được là nhờ... thuế”, chị Thanh nói. “Người dân vui vẻ đóng thuế vì họ được hưởng lợi rất nhiều từ những đồng tiền mà mình bỏ ra”, chị giải thích.
Xã hội của niềm tin
Trong tiếng Thụy Điển, từ thuế - skatt - còn có một nghĩa thứ hai, đó là: kho báu.
Thụy Điển là một trong những quốc gia có thuế suất cao nhất thế giới. Chẳng hạn, lương của người nghiên cứu giảng dạy và tư vấn giáo dục đại học như chị Thanh là 72.000 đô la Mỹ/năm (khoảng 6.000 đô la Mỹ/tháng). Chị sẽ phải trả 31% cho thuế thu nhập. Trên tổng số lương đó, người sử dụng lao động sẽ phải trả thêm 31,42% cho bảo hiểm xã hội của chị.
Như vậy, thuế thu nhập gồm hai nguồn chính là thu nhập của người lao động và từ phí bảo hiểm xã hội của người lao động do người sử dụng lao động đóng. Chị Thanh không ngần ngại tiết lộ về tiền lương, bởi theo chị, mọi thứ ở Thụy Điển đều được công khai theo luật về quyền được tiếp cận thông tin. “Gần như không có gì gọi là mật ở nước này”, chị Thanh nói.
Sau khi đóng thuế, chính quyền vùng có trách nhiệm đầu tư cơ sở hạ tầng liên vùng như đường sá, cầu cống, bệnh viện lớn. Chính quyền đô thị và tỉnh chịu trách nhiệm về an ninh, môi trường, chăm sóc y tế và giáo dục cho người dân, từ mầm non tới các cơ sở dưỡng lão.
Đóng thuế cao như vậy, nhưng mọi người dân Thụy Điển và cả những người nước ngoài sống ở Thụy Điển đều vui vẻ, không một chút phàn nàn. Ông Henrik Berggren, nhà báo, nhà sử học Thụy Điển lý giải, sở dĩ người dân hài lòng khi đóng thuế bởi họ tin chính quyền sử dụng tiền thuế của họ một cách đúng đắn và hiệu quả.
Thụy Điển từ lâu đã xây dựng được một hệ thống khế ước xã hội dựa trên niềm tin. Người dân có niềm tin cao vào các cơ quan công quyền. Để có được niềm tin đó, nhà nước và các cơ quan công quyền phải chịu trách nhiệm xây dựng và quản trị quốc gia một cách minh bạch, trong sạch và trao quyền kiểm soát thông tin cởi mở gần như tuyệt đối cho báo chí và công chúng.
Bất kỳ người dân nào cũng có quyền yêu cầu tiếp cận thông tin, kiểm soát từng khoản chi tiêu hay giám sát những quyết định của bất kỳ quan chức hay cơ quan công quyền nào. Báo chí Thụy Điển đã nhiều lần yêu cầu văn phòng chính phủ công khai những hóa đơn tiếp khách, trong đó có giá của từng món ăn, từng chai rượu, để dư luận đánh giá xem chi như vậy có lãng phí hay không.
Chồng chị Thanh từng là công chức làm việc tại cơ quan công quyền. Ông cho biết, văn phòng Chính phủ Thụy Điển chỉ có 4 xe công để thay phiên nhau sử dụng. Thủ tướng không có chế độ xe công đưa đón hàng ngày.
Yêu cơ quan thuế
Chiều muộn một ngày đầu tháng 5, chúng tôi có mặt tại Cục Thuế Thụy Điển (STA), đúng vào ngày kê khai thuế cuối cùng của năm tài chính 2013. Các điểm tiếp đón người tới kê khai thuế mở cửa tới nửa đêm, nhưng chỉ lác đác vài người vẫn giữ thói quen kê khai viết tay. Hầu hết những người khác đã hoàn tất thủ tục trước thời hạn chót.
Ông Arne Jakobsson, đại diện STA cho biết để tạo điều kiện cho người dân kê khai thuế, STA đã tổ chức kê khai qua mạng, tin nhắn, rất thuận tiện.
Đáng ngạc nhiên là, theo lời bà Charlotte Nilsson - Thư ký báo chí STA, cơ quan thuế của Thụy Điển được đa số người dân tin tưởng và yêu mến. Theo kết quả một cuộc khảo sát năm 2013, STA đã đứng thứ hai trong số 26 cơ quan dịch vụ công lớn của Thụy Điển được người dân tín nhiệm vì có những đóng góp tích cực cho xã hội.
Trên thực tế, STA không chỉ làm mỗi việc thu thuế. Cơ quan này gắn bó với mỗi người dân kể từ khi sinh ra tới lúc qua đời.
Bởi vì chính STA là nơi mà bố mẹ em bé tới để đăng ký khai sinh và sau đó là cấp mã định dạng cá nhân.
Khi trưởng thành, STA cũng sẽ là nơi cấp giấy chứng nhận một người “đủ điều kiện để kết hôn”. Và nếu ai đó qua đời, các bác sĩ sẽ phải thông báo cho cơ quan thuế để họ cấp giấy chứng tử.
Chị Lệ Thanh cho biết, trong tiếng Thụy Điển, từ thuế - skatt - còn có một nghĩa thứ hai, đó là: kho báu. Theo chị Thanh, ít thứ tiếng trên thế giới có từ đồng nghĩa với từ thuế, lại mang một ý nghĩa tích cực như vậy. Bởi ở nhiều nơi, nói đến thuế - thường là không mấy thiện cảm.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cờ Tổ quốc tung bay giữa Hoàng Sa


Vietnamnet.vn - 1 ngày trước

Ở nơi ấy - Hoàng Sa, lá cờ Tổ quốc đỏ thắm vẫn tung bay giữa biển trời, là minh chứng hùng hồn về chủ quyền dân tộc.




- Ở nơi ấy - Hoàng Sa, lá cờ Tổ quốc đỏ thắm vẫn tung bay giữa biển trời, là minh chứng hùng hồn về chủ quyền dân tộc. Chùm ảnh do PV VietNamNet ghi lại trong những ngày trên tàu cảnh sát biển Việt Nam.

Hoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dânHoàng Sa; cảnh sát biển; ngư dân

Hoàng Sang

Phần nhận xét hiển thị trên trang