Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

Diễn biến Trung Quốc trong thơ Tố Hữu

Lê Mai

Ngày ấy, các nước “XHCN anh em” đi vào thơ Tố Hữu khá là đậm nét và đầy thi vị. Trước tiên, có lẽ chúng ta phải nói đến Ba Lan. Mấy câu thơ của Tố Hữu trong Em ơi…Ba Lan thật khó mà hay hơn được, dù người ta có “chê” thơ ông ta đi chăng nữa, cũng phải công nhận, nó quá hay:
Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn
Nếu tôi không nhầm, bài thơ này Tố Hữu viết trong chuyến đi dự Đại hội đảng công nhân thống nhất Ba Lan, ông ta là Phó trưởng đoàn, còn Trưởng đoàn là Võ Nguyên Giáp. Cả hai ông lúc bấy giờ đều rất nổi tiếng. Tên tuổi tướng Giáp, sau trận Điện Biên, vang dội trên toàn thế giới và lần ấy, ông được hoan hô nhiệt liệt tại Ba Lan. Nghe Tố Hữu kể lại, trong chuyến đi ấy, hầu như việc gì ông Giáp cũng bàn bạc, trao đổi với ông ta.
Để tránh lạc đề, chúng ta quay lại với Trung Quốc. Người láng giềng khổng lồ phương Bắc – tất nhiên, được Tố Hữu ca ngợi hết lời. Đây, hai câu thơ cực kỳ quen thuộc về mối quan hệ Việt – Trung:
Bên ni biên giới là mình
Bên kia biên giới cũng tình quê hương…
Thật là thắm thiết, như anh em một nhà, bên ni hay bên kia thì cũng là quê hương mình cả! Vậy sao? Chúng ta đừng quên hai câu thơ trước đó:
Đồng Đăng đây, nọ Bằng Tường
Song song đôi mặt như gương với hình
Nhưng tháng 2 năm 1979, Tố Hữu là một nhà lãnh đạo cao cấp, đã chứng kiến cuộc xâm lược của những người anh em “bên kia biên giới”. Hai câu thơ ấy bỗng nhiên sụp đổ, cũng như mối quan hệ Việt – Trung vậy. Ông ta nhắc đến Đồng Đăng, lập tức ký ức đưa tôi về những trận đánh ác liệt ngày ấy còn lưu lại trong sử sách, dù bây giờ người ta muốn xóa nó đi. Nhưng điều đó là không thể được, tuyệt đối không thể được!
Đồng Đăng – thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung – Việt, là một trong những nơi chiến sự diễn ra ác liệt nhất. Quân VN bảo vệ Đồng Đăng chỉ có khoảng 200 người, trong khi đó quân TQ tấn công vào Đồng Đăng có tới 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, 6 trung đoàn pháo binh. Lực lượng phòng thủ VN chiến đấu hết sức ngoan cường dù không được chi viện. Họ hy sinh gần hết nhưng đã giữ vững trận địa cho đến ngày 22.2. 1979, góp phần ngăn chặn bước tiến của quân TQ. Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân TQ chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi giết hết tất cả. Quân TQ tàn ác hơn cả thời Trung cổ, đó là lời lên án của cả thế giới văn minh.
Thập kỷ sáu mươi, có lẽ nhà thơ không còn bất ngờ ở “lòng tốt” của người anh em nữa:
Thù bạn ngày nay có khác xưa,
Nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa?
Chợ trời thật giả đâu chân lý,
Hàng hoá lương tâm cũng thiếu thừa?
Tố Hữu đã nhận thấy sự đối xử giữa người và người với nhau qua cái gọi là “cách mạng văn hóa” TQ:
Trung Hoa ơi Trung Hoa!
Người đi đâu? chiều tà
Nghe Lỗ Tấn gào thét
Ăn thịt người, còn a?
Cách mạng văn hoá TQ mà Mao gọi là “Một trận gió mưa kinh thế giới” – thật khủng khiếp. Họ đối xử như thế với người dân nước họ, ngay trong hàng ngũ lãnh tụ của họ có thể hôm nay “lên voi” thế này, ngày mai đã “xuống chó”. Thế thì, họ đối xử với VN ta ra sao, có lạ gì? Nghe nói khi Lê Duẩn thăm TQ, có người khuyên nên đến chào Lâm Bưu, song ông từ chối. Lê Duẩn nói, hôm nay ông ta (Lâm Bưu) đang lên, nhưng biết đâu ngày mai lại thất sủng. Nếu tôi đến chào, sau này sẽ khó xử. Quả nhiên, sau đó, “người bạn chiến đấu thân thiết” của Mao Chủ tịch bất ngờ lên máy bay chạy trốn bị rơi để đến nỗi phải tan thây trên sa mạc Mông Cổ!
Trở lại với Đường sang nước bạn của Tố Hữu. Một bài thơ đầy sảng khoái, ca ngợi đất nước TQ và Mao Trạch Đông, ca ngợi mối quan hệ anh em hai nước Trung – Việt. Như thường lệ, bao giờ lời thơ Tố Hữu cũng bắt đầu nói về những ngày cơ cực, lầm than, đói khổ khi chưa có đảng, chưa có cách mạng, chưa có lãnh tụ. Rồi bỗng nhiên ta vươn vai đứng dậy, cuộc đời từ đây thay đổi khi đảng đưa ánh sáng về. Có lẽ lời thơ ấy khó có thể gây cho chúng ta cảm xúc gì đặc biệt cả.
Nhưng phải nói hình ảnh một nước TQ mới đẹp lạ thường:
Ôi, buổi bình minh dậy dọc đường
Mướt xanh bờ liễu, vút hàng dương
Trắng phau nội cỏ cừu phơi tuyết
Ngào ngạt đồng xuân mịn phấn hường
Vui nhỉ tiếng cười quanh giếng máy
Hoa đào đôi bím nở trong sương
Làng hay phố đó, tường vôi mới
Băng đã tan trên dòng Trường Giang…
Những câu thơ đầy màu sắc, hình ảnh và âm thanh. Chúng ta hãy ngắm “Hoa đào đôi bím nở trong sương” – một hình ảnh đẹp, rất TQ mà cũng có thể rất VN! Thế thì, ai có thể xoá được hình ảnh ấy, quan hệ ấy, tình cảm ấy?
Ngày 1.10.1949, trên lễ đài quảng trường Thiên An Môn, Mao vung tay tuyên bố: “Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ đây được thành lập”. Người ta khấp khởi hy vọng một nước TQ mới ra đời sẽ hứa hẹn đưa lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân TQ bao đời cực khổ. “Băng đã tan trên dòng Trường Giang…” -một trong những hình ảnh ẩn dụ mà Tố Hữu thường sử dụng.
Nhà thơ vui sướng thốt lên:
Mặt trời lên nắng chói lưng đồi
Hết khổ rồi em nhỉ, Hỉ Nhi ơi !
Em mặc áo hoa, em đi hài ấm
Em nói em cười, má em đỏ thắm
Em đẹp em thơm như quả táo đầu cành
Phơi phới đời em cao vút như dương xanh
Trung Quốc đó. Sức thanh xuân bừng dậy
Quả là Tố Hữu có tài ca ngợi. Đọc những dòng thơ ấy, chúng ta không thể không cảm thấy một sức sống mới, một cuộc đời mới, một ánh sáng mới chiếu rọi vào tâm hồn mỗi con người, cả TQ lẫn VN.
Nhưng liệu Hỉ Nhi đã hết khổ chưa? Người dân TQ đã hết khổ chưa? Còn lâu, hãy đợi đấy, cho đến tận bây giờ. Vào thời gian ấy, khi thăm TQ, không lẽ Tố Hữu không biết các phong trào “Đại nhảy vọt” và “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, “công xã nhân dân” do Mao phát động? Chúng ta không thấy hình ảnh của nó trong Đường sang nước bạn. Tất nhiên, chúng ta không đòi hỏi, bất cứ một sự kiện nào cũng phải đi vào thi ca, nhưng có lẽ sẽ có ích nếu điểm lại một vài sự kiện lịch sử ấy.
Tố Hữu ca ngợi Mao, chắc là dựa vào bài viết của Mao Một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cánh đồng:
Một tia lửa nhỏ
Trong xóm Tương Đàm
Cháy lan dần, đỏ khắp Hồ Nam
Sau ngày lập nước, rất nhanh chóng, những “Hỉ Nhi” và người dân TQ bị cuốn vào dòng xoáy của các phong trào nói trên. Toàn dân làm gang thép nhằm đuổi kịp và vượt Anh, Mỹ. Khẩu hiệu, người muốn bao nhiêu, đất sẽ cho sản lượng bấy nhiêu. Cả nước ăn chung một nồi cơm to bằng các nhà ăn tập thể. Rồi đến lúc tại các nhà ăn tập thể cháo loãng cũng không có mà ăn nữa.
Chu Đức phát biểu trong một cuộc họp, “nhà ăn tập thể có tan rã hết cũng chẳng sao” làm Mao rất tức giận, ông ta luôn ghim câu nói ấy trong bụng.
Mao:
- Tổng tư lệnh, tôi tán thành cách nói của ông, nhưng lại có chỗ khác với ông: không cần thì không tan rã, không thể tan rã nhiều, tôi thuộc phái trung gian.
Ấy thế mà khi Khơrútsốp thăm TQ lần thứ hai, sau Tố Hữu một thời gian ngắn, Mao và Lưu Thiếu Kỳ đón Khơrútsốp, vừa đi vừa nói chuyện, vào phòng khách sân bay.
Mao:
- Hiện nay, tại TQ quả thực đã xuất hiện đại nhảy vọt, tình hình nông thôn khá tốt.
Lưu Thiếu Kỳ tiếp lời:
- Hiện nay, điều chúng tôi lo không phải là vì lương thực không đủ ăn mà là lương thực đã nhiều, chưa biết làm thế nào.
Khơrútsốp mỉm cười khó hiểu nói:
- Dễ thôi. Lương thực nhiều, các đồng chí chưa biết làm thế nào thì có thể cho chúng tôi!?
Trên thưc tế, mấy chục triệu người dân TQ bị chết đói bởi sự lãnh đạo “sáng suốt” của ĐCS TQ và “Người cầm lái vĩ đại”. Phải chăng, đó là “sức thanh xuân bừng dậy” của TQ?
Trở lại với hội nghị Lư Sơn, Nguyên soái Bành Đức Hoài – người đã từng là Tổng tư lệnh Chí nguyện quân TQ tại chiến trường Triều Tiên, trong khi khảo sát tình hình trong nước, chứng kiến nhiều gia đình TQ năm người mặc chung một cái quần, rất đau lòng. Trong khi đó, Mao say sưa vào các báo cáo láo, thổi phồng thành tích, lại còn chìm đắm trong hoan lạc. Nhiều lần ông tìm gặp Mao để nói hết các vấn đề, song không thể gặp được. Cuối cùng, ông quyết định viết thư cho Mao.
Nhận được thư Bành Đức Hoài, khối óc sáng suốt và nhạy bén của Mao bắt đầu hoạt động. Ông ta suy xét giữa lịch sử và hiện thực, giữa hiện tượng và bản chất, giữa lý tưởng và ảo mộng, giữa sự nghiệp và uy quyền. Ông ta vận dụng thành thạo chủ nghĩa Mác, các quy luật lịch sử mà ông ta nhìn xuyên suốt được trong các bộ sách lịch sử TQ, đưa đến một nhận định: đây là một cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt! Và kể từ đó, Bành Đức Hoài phải rút khỏi hạt nhân lãnh đạo, biến mất trên vũ đài chính trị TQ.
Đó là “đại nhảy vọt”, còn “đại cách mạng văn hóa” thì sao? Hơn mười năm sau, trong Qua biên giới, Tố Hữu đã thấy rõ, cái gọi là “cách mạng văn hóa”:
Máy bay qua biên giới
Ghé tạm xuống Nam Ninh
“Cách mạng văn hóa” mới
Nhí nhố hồng vệ binh

Ảnh to và ảnh nhỏ
Nghìn triệu còn một Ông
Mấy chú giơ sách đỏ
Muôn năm Mao Trạch Đông !
Có vẻ như cách nhìn của Tố Hữu về Mao đã có chỗ khác trước, không phải theo kiểu một tia lửa nhỏ lan dần khắp TQ nữa.
Cách mạng văn hóa do Mao phát động và lãnh đạo. Luận điểm chủ yếu của ông ta là: một nhóm đông những người đại diện cho giai cấp tư sản và những phần tử theo chủ nghĩa xét lại phản cách mạng đã lọt vào đảng, chính phủ, quân đội. Phái chạy theo tư bản hiện đang nắm quyền trong đảng. Những cách đấu tranh trong thời gian qua đều không thể giải quyết vấn đề. Chỉ có thực hiện Đại cách mạng văn hóa, phát động quần chúng một cách công khai, toàn diện thì mới có thể đoạt lại quyền lực. Đó chính là luận điểm “tiếp tục làm cách mạng trong điều kiện chuyên chính vô sản” nổi tiếng của Mao.
Lần này, nhà thơ đã hiểu rõ nội tình TQ, đã chứng kiến không biết bao nhiêu sự kiện vừa lạ lùng, vừa khó hiểu, vừa đau lòng:
Phố lặng không tiếng cười
Tường dài đen chữ báo
Đăm đăm những mặt người
Giặc đâu mà nã pháo
Nhìn tổng quát, Qua biên giới là một tiếng thở dài, một sự thất vọng não nề với cuộc “cách mạng văn hóa” của “người anh em” TQ, một nỗi buồn ghê gớm xâm chiếm tâm hồn nhà thơ. Một cách gián tiếp, Tố Hữu cho chúng ta thấy, ông hiểu mặt trái của “cách mạng văn hóa”, không tán thành cách làm ấy của TQ; đồng thời, qua bài thơ, Tố Hữu cũng nêu lên nhiều sự kiện trái tai gai mắt, không thể chấp nhận được ở TQ.
TQ luôn luôn gây bất ngờ cho VN và thế giới, không phải chỉ thời Tố Hữu. Mới đây nhất, không cần che đậy những mỹ từ ca ngợi quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, TQ trả đũa việc VN thông qua Luật Biển bằng cách triệu đại sứ VN tại TQ lên phản đối, tuyên bố thông qua việc lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” ở cấp vùng nhằm quản lý các quần đảo trên Biển Đông, trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa của VN. Sự kiện nghiêm trọng nhất, Tổng công ty dầu khí hải dương TQ – tất nhiên, với sự cho phép của Chính phủ TQ, đã bất ngờ và ngang ngược thông báo chào thầu quốc tế tại 9 lô dầu khí nằm hoàn toàn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam, là vùng hoàn toàn không có tranh chấp. Chưa hết, Cảnh Nhạn Sinh tuyên bố TQ “sẵn sàng chiến đấu” trên các vùng nước mà họ cho là thuộc chủ quyền của TQ trên Biển Đông. Và, TQ có thể sẽ thành lập Bộ tư lệnh quân sự của cái gọi là “thành phố Tam Sa”. Chắc chắn, sự đe dọa của TQ không dừng lại ở đó.
Vậy thì cái nhìn “biện chứng” đối với TQ là cái nhìn như thế nào? Hãy nói với họ, các anh giống như những kẻ ăn cướp – đó mới thật sự là cái nhìn biện chứng.
Cho nên, ngay từ những năm sáu mươi, phải công nhận Tố Hữu đã có một cái nhìn khá sáng suốt khi theo dõi và chứng kiến cuộc “cách mạng văn hóa” TQ. Làm sao lại có thể mơ hồ về TQ được?
Không chỉ là Tố Hữu, ngay cả Chu Ân Lai cũng không dự đoán nổi điều gì sẽ xẩy ra tiếp theo trong “cách mạng văn hóa”. Ông ta nói, “cục diện lớn như thế, quả trong cơn mộng mị cũng không thể ngờ tới”.
Đối với Hồng vệ binh, Tố Hữu dùng từ “nhí nhố” để chỉ họ: “Nhí nhố Hồng vệ binh”, có ý châm biếm, tỏ ra không ưa họ, coi thường họ. Nhưng, Hồng vệ binh TQ ghê gớm hơn nhiều, đâu phải “nhí nhố” không thôi.
Chỉ trong một tháng, Hồng vệ binh Bắc Kinh đã nổi lên phong trào phá bỏ “tứ cựu”, đánh chết trên một ngàn người, trên mười ngàn gia đình bị lục soát, càn quét, đuổi khỏi nội thành. Lại cho rằng, các cửa hàng cắt tóc đều là giai cấp tư sản, không cần nữa. Tài sản của giai cấp tư sản không được sử dụng, phải đốt hết. Các nhà lão thành cách mạng, các giáo sư Đại học… bị đấu đến chết. Không khí khủng bố bao trùm cả nước TQ.
“Cách mạng văn hóa Trung ương” gọi Hồng vệ binh là “Đội tiên phong cách mạng của giai cấp vô sản”, chiến quả là đã đánh cho thế giới cũ tan nát, tơi bời, đánh cho giai cấp tư sản uy phong xuống bùn đen, diệt trừ mê tín, tiêu diệt chủ nghĩa tư bản…
Tố Hữu kết thúc bài thơ Qua biên giới với câu hỏi lớn:
Trung Hoa ơi Trung Hoa!
Người đi đâu? chiều tà
Nghe Lỗ Tấn gào thét
Ăn thịt người, còn a?
Ở đây, chúng ta chú ý chi tiết “ăn thịt người” mà Tố Hữu nhắc đến trong tiểu thuyết Nhật ký người điên của Lỗ Tấn, trùng hợp với suy nghĩ của Lê Duẩn trong ghi chép của ông. Lê Duẩn viết: “Phải xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân phải giàu mạnh và hùng cường. Đó là vì vị trí lịch sử và địa dư của Việt Nam. Không thể khác được. Vì chúng ta ở bên cạnh một nước mà lịch sử của nước đó chưa ra khỏi cuộc sống người ăn thịt người”.
Bài học lớn đối với chúng ta, kết bạn với một nước mà “nước đó chưa ra khỏi cuộc sống người ăn thịt người”, cần phải có đối sách ra sao?
Trong Qua biên giới, Tố Hữu nói về người TQ, còn Qua Liễu Châu, Tố Hữu lại nhớ về một người VN:
Tàu qua ga Liễu Châu
Bác xưa tù nơi đâu ?
Đêm rét, tê xiềng xích
Thương Nước, dài tóc râu.
Tháng 8.1942, Hồ Chí Minh qua TQ, bị bọn Quốc dân đảng bắt giam, bị trói và bị giải đi suốt 18 ngày, từ trại giam này đến trại giam khác, sau đó về giam ở Liễu Châu. Chính thời gian này, tập thơ Ngục trung nhật ký nổi tiếng của Hồ Chí Minh ra đời.
Qua Liễu Châu, Tố Hữu cảm khái về lãnh tụ của mình, song ông lại không nhắc đến một sự kiện đặc biệt tại Liễu Châu – tháng 7.1954, Hội nghị Liễu Châu giữa VN và TQ nhằm khai thông bế tắc cho Hội nghị Genève về Đông Dương. Trưởng đoàn đàm phán của VN ở Genève là Phạm Văn Đồng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Phạm Văn Đồng vạch ra ý tưởng táo bạo, giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai miền Nam Bắc VN là vĩ tuyến 13. Các nước phương Tây phản đối dữ dội phương án này, còn TQ cảm thấy vô cùng tế nhị nhưng không tiện nói.
Từ Genève, Chu Ân Lai gửi điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương, nhân dịp Ngoại trưởng các nước rời Hội nghị Genève, “tôi cần phải, sau khi thăm Ấn Độ và trên đường về nước, giữa đường cùng đoàn đi Nam Ninh, Quảng Tây, mời mấy vị phụ trách Trung ương ĐLĐ VN để tôi báo cáo tình hình với họ, thuyết minh trọng điểm phương châm chia vùng”. Nhận thấy Nam Ninh tương đối gần VN, khó bảo mật, Chu lại chỉ thị dời hội nghị về Liễu Châu.
Tham dự Hội nghị Liễu Châu, phía VN có Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Hoan. Trên đường đi Liễu Châu, các địa phương TQ chiêu đãi, ăn thịt gà rất nhiều. Người ta thấy Võ Nguyên Giáp thường gắp thức ăn cho Hồ Chí Minh, đủ thấy quan hệ thân thiết của họ. Còn phía TQ có Chu Ân Lai, các trợ thủ là Kiều Quán Hoa, Chương Văn Tấn, phiên dịch Trương Dực, thư ký đối ngoại Mã Liệt, các cố vấn trở về từ VN. Có thể thấy, nhân tài TQ tại Hội nghị Liễu Châu rất đông.
Phiên họp đầu tiên, Hồ Chí Minh mời Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình quân sự trên bản đồ. Lúc này, cả miền Bắc và miền Trung VN hầu như một màu đỏ, màu giải phóng. Quân Pháp chỉ còn giữ được hai khu vực: trên miền Bắc, Hà Nội và một số tỉnh chung quanh, vùng ven biển từ Hải Phòng đến Móng Cái; ở miền Trung, một số thành phố thị xã ven biển nam Quảng Bình, qua Huế, Đà Nẵng, Hội An.
Chu Ân Lai nói, “chúng ta nên tranh thủ hoà bình, mở rộng lực lượng hoà bình. Phải phát triển hoà bình khiến Mỹ không thể tìm được cớ gây chiến. Phải đề phòng Mỹ can thiệp vũ trang vào ba nước Đông Dương. Ông ta chỉ ra, áp dụng mô hình Triều Tiên vào vấn đề VN, vạch ra một giới tuyến tạm thời, xem ra phải cắt miền Nam, miền Nam tạm thời không có lợi. Nhưng có thể chờ đợi bầu cử, và có thể giành thắng lợi trong bầu cử. Vấn đề là phải nhìn về lâu dài, nếu Mỹ tiến hành can thiệp thì có khả năng mọi cái đều mất hết”.
Ông ta nói, Pháp khăng khăng đòi lấy vĩ tuyến 18 làm ranh giới tạm thời, nhưng trước sự đấu tranh kiên quyết của ta, Anh, Pháp, Mỹ đã đồng ý rút xuống vĩ tuyến 17.
Cả Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đều ngỡ ngàng. Hai người phải chăm chú nhìn trên bản đồ mới thấy dòng sông Bến Hải nhỏ ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị.
Hồ Chí Minh nói, so sánh lực lượng hiện nay cho thấy, VN đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 là không thể chấp nhận, chí ít phải vĩ tuyến 16.
Trước khi đoàn VN về nước, Chu nói với Hồ Chí Minh, “cố gắng hết sức thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch. Vì ở xa không có điều kiện trao đổi, nếu việc đấu tranh xác định ranh giới tạm thời gặp khó khăn, vạn bất dắc dĩ phải chọn vĩ tuyến 17, mong Hồ Chủ tịch chú ý vấn đề quan trọng nhất hiện nay là tranh thù cho được hòa bình và những điều kiện để hòa bình thống nhất VN”.
Lịch sử cho thấy, việc chia cắt VN đã diễn ra đúng như dự tính của Chu Ân Lai.
Rồi người Mỹ đổ quân vào VN. Thơ Tố Hữu bừng bừng cổ vũ mọi người VN Ra trận. Trong khi LX – thành trì của cách mạng thế giới còn im lặng, chưa tỏ thái độ ủng hộ VN thì TQ khác hẳn:
Sáng rồi ! Rộn rã trong tim
Đường về phơi phới, cánh chim tung hoành
Cờ bay Vạn lý trường thành
Bắc Kinh tay chị tay anh triệu vòng
Bạn mừng ta những chiến công
Vui như tiền tuyến giữa lòng hậu phương
(Nhật ký đường về)
Mao tuyên bố ủng hộ VN: “Bảy trăm triệu nhân dân TQ là hậu thuẫn vững chắc của nhân dân VN, đất nước TQ bao la rộng lớn là hậu phương đáng tin cậy của nhân dân VN”.
Nhưng sự việc không đơn giản như vậy. TQ làm gì đều có tính toán sâu xa. Hãy nghe Tố Hữu Tâm sự:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
Chuyện cô du kích xóm Lai Vu
Rắn quấn bên chân vẫn diệt thù
Mỹ hại trăm nhà lo diệt trước
Rắn mình em chịu có sao đâu
Rồi Tố Hữu tiễn người bạn chí thân Nguyễn Chí Thanh lên đường vào Nam:
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương
(Tiễn đưa)
Hoài Thanh không hiểu, hỏi Tố Hữu: “Sao anh lại “đả” văn chương như vậy?”. Số là, lúc bấy giờ, TQ hay dùng văn chương lý luận, luận đi luận lại rằng họ mới cách mạng, mới Mác-Lênin, còn VN không cách mạng bằng. Tố Hữu đáp lại, đánh Mỹ mới là cách mạng, mới là Mác-Lênin, chớ không phải lý luận suông bằng giấy, bằng mồm như TQ.
Nhưng hiên nay, trong bối cảnh TQ đang trở thành một siêu cường, một “đế quốc” mới, chắc rằng họ sẽ không “lý luận suông bằng mồm” nữa. Chính vì lẽ đó, tìm hiểu một chút về TQ trong thơ Tố Hữu cũng đưa đến cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Đó là đôi điều tôi muốn nói thêm khi kết thúc bài viết này.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

'Việt Nam và cơ hội thoát Trung lần 4'

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã

Trung Quốc đang tăng cường phát triển hải quân
Ngày 1/5 năm 2014, Trung Quốc hạ đặt Giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách đảo Tri Tôn 17 hải lý với sự hỗ trợ lực lượng trên trăm tàu đủ loại và cả không quân.

Thời gian này Trung Quốc cho là thời cơ tốt thực thi chủ quyền tại “Đường chín đoạn Lưỡi Bò” chiếm 80% Biển Đông, trước hết có thể lôi kéo Nga đang bị Mỹ các nước Phương Tây gây áp lực sau khủng hoảng ở Ukraine.


 Còn với Việt Nam thì Trung Quốc nắm rất kỹ nội tình, đang thu tóm kinh tế Việt Nam và nghĩ có thể xử ép, có khả năng xúi bẩy các cấp và cả người dân sau Hội nghị Thành Đô 1990.

Vì sao lúc này?

Thời điểm sau ngày 30/4 và trước ngày 7/5, kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày thất bại của Pháp và Mỹ ở Việt Nam, như nhắc nhở đến những khó khăn, khó chịu của các nước Phương Tây với Việt Nam.

Đồng thời họ cũng nhắc nhở Việt Nam những hệ lụy của ngày 30/4, Việt Nam thống nhất không theo ý của Trung Quốc, đã bị Trung Quốc dạy cho bài học mà cao nhất là cuộc chiến Tây Nam và Biên Giới Việt Trung năm 1979.

Trên đây có thể đúng hẳn hay chỉ một phần đúng theo cách suy nghĩ của Trung Quốc cho là thời cơ để thách thức Việt Nam với những gì mà Giàn khoan 981 đang và sẽ làm.

Thực tế đã diễn ra rất khác xa, có thể nói: lại trở thành thời cơ cho Việt Nam thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc.

Đây là khởi đầu một cuộc chiến không bằng súng như một luật sư đã phát biểu trong Buổi tập huấn về Luật biển của Liên Đoàn Luật sư Việt Nam ở Hà Nội hay các doanh nhân trẻ Việt Nam cho họ đang là các chiến sĩ trẻ trong cuộc trường kỳ kháng chiến thoát khỏi Bắc thuộc lần thứ tư trong lịch sử Việt Nam.

Những âm mưu biến Việt Nam trở thành thuộc quốc đã từ lâu nhất là từ khi có hội nghị Thành Đô năm 1990, ai cũng đã biết.

Ông Nguyễn Cơ Thạch cũng từng cho rằng việc Việt Nam thoát khỏi khỏi vòng tay Trung Quốc không dễ dàng chút nào. Bởi có cả một thời gian dài khi đánh đuổi thực dân đế quốc Phương Tây, các nhà cách mạng Việt Nam kể cả quốc gia lẫn cộng sản đều đã nhờ đất và người Trung Quốc trợ giúp. 

Song phải nói , nhất là năm 1972 Trung Quốc cùng Mỹ đưa ra Thông cáo chung Thượng Hải, nên đã quyết định dứt khoát với Trung Quốc.

Cụ thể là ngày 30/4/1975 thống nhất đất nước không theo ý Trung Quốc, đã bị Trung Quốc đáp trả, ngừng chi viện, cho Pol Pot đánh chiếm Thổ Chu và gây ra Mặt trận Tây Nam và Cuộc chiến 1979 sau đó.

Việt Nam càng ngày lại thấy vì lợi ích của Trung Quốc nên họ đã lôi kéo Việt Nam đối trọng với Liên Xô hay với Mỹ, và đã khiến Việt Nam khốn khổ.

Ví dụ như sau chiến thắng Điện Biện Phủ, đáng lẽ để Việt Nam toàn thắng họ lại dùng Hiệp định Geneva để chia cắt Việt Nam.
Mao biến chủ nghĩa Marx thành chủ nghĩa Mao cực quyền Đại Hán, khiến nhân dân Trung Quốc cơ cực

Hay sau 1972 Trung Quốc lại chiếm Hoàng Sa năm 1974, lợi dụng sự ủng hộ vô điều kiện của VNDCCH cho 'phe đồng chí' như Công Hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng tuy chẳng có gía trị pháp lý về từ bỏ chủ quyền vì Hiệp Định Geneva Điều 1 đã qui định rất rõ thuộc chính quyền Phía Nam quản lý.

Song ngay khi hạ đặt giàn khoan HD-981 Đài Tiếng Nói Nhân dân Trung Hoa lại nhắc đến Công Hàm Phạm Văn Đồng, cho là bằng chứng về lịch sử, pháp lý mạnh mẽ nhất, không thể chối cãi.
Tuy thế, Việt Nam đã rất khôn ngoan, ngay sau ngày 30/4/1975 đã tổ chức hiệp thương hai chính quyền Nam Bắc, bầu cử quốc hội và chính quyền Việt Nam thống nhất có giá trị pháp lý quốc tế rất cao.

Chính quyền thống nhất này đã thừa kế chính quyền ở Miền Nam về chủ quyền.

Tính chất pháp lý quốc tế của chính quyền Việt Nam thống nhất lại khác hẳn tính chất của chính quyền VNDCCH, mặc dù có rất nhiều nhân vật lãnh đạo của chính quyền VNDCCH.

Ngay khi Thống nhất chính quyền Thống Nhất đã đặt ngay vấn đề chủ quyền tại Hoàng Sa với lãnh đạo Đặng Tiểu Bình và năm 1979, Việt Nam thống nhất đã công bố Sách trắng phản bác Trung Quốc về chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định chủ quyền của mình vừa liên tục vừa hòa bình phù hợp với pháp lý quốc tế.

Chủ nghĩa Marx đã có vai trò lịch sử, có mặt tích cực giúp cho chủ nghĩa tư bản thay đổi ngày càng tốt hơn, như đời sống công nhân ngày càng cao và có thể tham gia cổ đông và chính trị dễ dàng, trong khi Mao biến chủ nghĩa Marx thành chủ nghĩa Mao cực quyền Đại Hán.

Những chuyện thâm cung bí sử sát hại lẫn nhau thời phong kiến xưa được Mao biến thành đại trà đem đến tận người dân bình thường, cụ thể là cảnh đấu tố trong cải cách ruộng đất, con đấu tố cha, giết cha; trò đấu tố thầy giết thầy; các đồng chí chung quanh Mao hầu hết đều bị giết hại thẳng tay.
Nhân dân Trung Quốc khi đó có đời sống cực khổ, một hình thức nô lệ, phong kiến kiểu mới cực quyền.

Cũng may Việt Nam đã nhanh chóng sửa sai, và khi Cách mạng Văn Hóa ở Trung Quốc giết hại các đồng chí thì Việt Nam không theo, chỉ có Pol Pot nhắm mắt theo, đã xảy ra đại họa diệt chủng.

Thoát vòng tay Trung Quốc

Thực tâm Trung Quốc không bao giờ muốn Việt Nam mạnh cả mà chỉ là thuộc quốc, bảo sao nghe vậy.

Giới trẻ Trung Quốc được giáo dục rất kỹ như học giả trẻ Trung Quốc Vương Hàn Lĩnh tuyên bố trên Tuần Việt Nam năm 2011 rằng trước năm 1885 Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc và do Đế quốc Phương Tây làm gián đoạn mà thôi.

Chỉ có ông Lê Duẩn là hiểu được suy nghĩ thực của Mao 
 Cũng như viên tướng Phó Tổng tham mưu Trung Quốc tuyên bố trong hội nghị tại Singapore vừa qua rằng từ thời Hán, 2000 năm trước, các đảo ở Nam Hải đều thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Như thế hẳn nhiên các nước Hy Lạp, La Mã, Thổ Nhĩ Kỳ chắc kiểu như thế sẽ tuyên bố cả châu Âu và Địa Trung Hải hiện cũng là thuộc nước họ từ lâu.

Trung Quốc không ngờ chính thời điểm đặt Giàn Khoan sau 30/4 lại khơi dậy tinh thần yêu nước vốn có của người Việt Nam lên cao chưa từng thấy, tạo thời cơ cho Việt Nam khẳng định Việt Nam không là sân sau của Trung Quốc, khiến Việt Nam dễ dàng vào khối Kinh tế TTP, thoát khỏi Trung Quốc thao túng về kinh tế, chính trị văn hóa.

Đây hẳn nhiên còn là thời cơ khiến Việt Nam có triển vọng trở thành cường quốc trong một tương lai không xa, nếu Việt Nam muốn xây dựng nội lực hùng cường, nếu trong và ngoài hiệp lực cùng nhau.
Cũng là thời cơ người Việt Nam bừng tỉnh thế kỷ qua Việt Nam là nạn nhân của thời cuộc quốc tế, bỏ qua thù hận, khời đầu kỳ nguyên Đại hòa cùng nhau cứu nước thoát Bắc thuộc lần thứ 4.

Việc Thủ tướng Việt Nam Bấm tuyên bố cứng rắn ở Philippines rằng không đổi chủ quyền thiêng liêng lấy hữu nghị viển vông và lệ thuộc nào đó, đã được đánh giá như khởi đầu giai đoạn lịch sử mới, mở đầu cuộc chiến không bằng súng mà toàn diện từ văn hóa tư tưởng, chính trị, kinh tế để Việt Nam thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc. 

Thời nào cũng có Trần Ích Tắc, Trần Di Ái, Lê Chiếu Thống, song những người ấy chỉ vì tư lợi sẽ thất bại và không còn ở lại trái tim người Việt.

Lịch sử đã khẳng định cho ta biết như thế.

Bất cứ ai làm cho đất nước suy hèn đều có tội với Tổ tông và Dân tộc.

Và đây là điều luôn luôn đúng.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

BẢN LĨNH VĂN HÓA, CÁI TÂM SÁNG CỦA NHÀ VĂN

ngominh 
     NV Tô Nhuận Vỹ     
                       
                                                                             Ngô Minh
              Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của  nhà văn Tô Nhuận Vỹ do NXB Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi. Xúc động vì cái TÂM sáng và thẳng thắn, bộc trực của tác giả, nên nhìn vấn đề gì cũng đúng đắn, sáng rõ. Hứng khởi vì những điều mà nhà văn đưa ra bàn luận là những vấn đề đang bức xúc của thế sự Việt, văn chương Việt. Đó là việc đánh giá các tác giả đổi mới, tác tác giả đã từng làm việc với chế độ phong kiến hay với Pháp xưa, việc đổi mới và hội nhập của văn học Việt Nam…. Anh bàn một cách rạch ròi, khí khái, có lý có tình, dù là những vấn đề “gay cấn”,”nhạy cảm”.  
        Từ nhiều năm nay ở Huế, có nhiều đêm tôi đã lên nhà nằm nghe Tô Nhuận Vỹ đọc bản thảo tiểu thuyết mới, nghe anh kể về những ý định tương lai của mình, tôi đã nhận ra sự mới mẻ trong quan niệm và tư duy của anh.. Anh mới đến mức đã tìm cách để đưa đoàn Ca Huế sang Mỹ biểu diễn trong lúc nước ta đang bị Mỹ cấm vận gắt gao. Anh là người đầu tiên “nối mạng thân thiện” với William Joiner Center - Đại học Massachusetts , từ đó “kết nối” Hội Nhà văn Việt Nam với Trung tâm này trong quá trình hội nhập văn học Việt Nam sang Mỹ. Rồi anh đứng ra tỉ tê vận động để tỉnh Thừa Thiên Huế chấp nhận và dành những căn nhà sang trọng nhất để nghệ thuật Điềm Phùng Thị, Lê Bá Đảng từ Pháp về với Huế. Mới hơn là trong tư duy Tô Nhuận Vỹ khi anh là Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Anh đã làm cho Tạp chí “tỉnh lẻ” này biến thành một tạp chí tầm cỡ quốc gia. Và tinh thần ấy Tạp chí Sông Hương vẫn giữ vững đến bây giờ.  
          
           Viết về bà Nguyễn Đình Chi (nhân sĩ Huế, từng là Đại biểu Quốc Hội), khi xảy ra sự cố Tạp chí Sông Hương, TBT bị cách chức, Tô Nhuận Vỹ viết :” Cho đến khi ăn chén chè đậu ván sau bữa cơm với cô, cô mới nhỏ nhẹ: - Vỹ có cách chi giúp Sông Hương tiếp tục tinh thần khi trước không?...Tôi hiểu cô muốn nói với tôi như vậy. Tôi thầm cảm ơn tấm lòng của một đại nhân nơi cô ( Gió vẫn thổi trên dòng sông, tr 7). Đó là tâm sự của những người hướng đến cái mới cho đất nước. Bàn về những điều băn khoan về cụ Phạm Quỳnh còn trong xã hội, nhà văn viết :” Đã có nhiều cuộc hội thảo…, đã có nhiều nhà xuất bản đã in lại nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh sau năm 1975… khẳng định sự đóng góp to lớn của Phạm Quỳnh đối với sự gìn giữ, phát huy nền quốc ngữ, nền văn học, văn hóa dân tộc. Ai cũng biết, băn khoăn còn lại, tựu trung là Phạm Quỳnh đã từng trực tiếp hợp tác với Pháp”. Tô Nhuận Vỹ có cái nhìn rất  mới, khi đả phá quan điểm “ai không theo ta là địch” tồn tại thời hậu chiến cho đến nay. Cách đây hơn 30 năm, anh đã viết tiểu thuyết Ngoại ô, với mục tiêu tối hậu là để đấu tranh với quan điểm sai trai này. Anh viết :” Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã chỉ rõ: không phải chỉ có những người cộng sản mới yêu nước. Sự giỏi dang nhất là người cộng sản đã tập hợp được cả những người không ưa cộng sản trong mặt trận chống Mỹ, đến cả tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn cũng có hành động có lợi cho Cách mạng”. Đó chính là TẦM NHÌN HỒ CHÍ MINH trong việc đãi cát tìm nhân tài, trong việc đối xử với các nhân vật lớn mà cả “địch” và “ta” đều chú ý“. Với Phạm Quỳnh, Bác Hồ đã thảng thốt khi nghe tin ông bị giết. “Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được ích lợi gì?” (Điều gì còn băn khoăn về Phạm Quỳnh? Tr.17). Phải có nhãn quan văn hóa như thế mới ứng xử có tình có lý, có nhân văn đối với những người có quan điểm trái chính thống. Vì trong những suy nghĩ của họ có nhiều điểm có lợi cho dân tộc, cho cách mạng. Chứ dồn tất cả họ vào một rọ là “địch” thì dễ quá, làm cách mạng để làm gì ?

            Về tổ chức bộ máy Hội văn nghệ hiện nay, Tô Nhuận Vỹ đã nói thẳng thừng những băn khoăn của mình. Một là “tới giờ chuyện chống bao cấp, chống xin – cho…cả nước đã tiến một bước dài. Riêng Văn học nghệ thuật, riêng Hội nhà văn là “ngoại lệ ?”.” Cả nước đã đẻ thêm gần đến ngàn hội lớn hội nhỏ”,  “với đủ các loại chức danh trưởng, phó, thường trực, tổng số cán bộ lành đạo hội gần bằng hội viên”. Dẫn đến một sự ĐẠI VÔ LÝ (anh viết chữ in hoa) là hệ thống văn học nghệ thuật đang theo đường hướng bao cấp triệt để hơn xưa nhiều”.  Về nhân sự điều hành hoạt động của Hội Nhà văn thì hết khóa này đến khóa khác, “chúng ta vẫn thấy một số gương mặt U80, U70”. Nhà văn trăn trở: ”…cái gì khiến lãnh đạo không còn thực tin anh em trẻ ( mà trẻ gì nữa khi họ cũng đã 45, 50 tuổi) “?( bài Đúng hướng không ?). Đó là băn băn của người có tấm nhìn và  trách nhiệm với văn học nước nhà.

         Tô Nhuận Vỹ nhiều năm là Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Một chức quan nhỏ hàng tỉnh. Nhưng theo anh “Thuận Hóa- Phú Xuân là một vùng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam”, vậy làm sao để phát huy truyền thống văn hóa ấy thông qua một tạp chí văn nghệ ? Anh khẳng định :” Phải có bản lĩnh, BẢN  LĨNH VĂN HÓA  in hoa) , mới có thể làm được nhưng việc ai cũng biết, ai cũng nói, nhưng không phải ai cũng làm được”. Đối tượng phục vụ là “công nông binh” thì an toàn tuyệt đối, nhưng sẽ dễ dãi trong  lựa chọn bài vở. Rồi người viết là ai ?. Tô Nhuận Vỹ đã “…âm thầm khẳng định Sông Hương là tờ tạp chí tầm cỡ quốc gia”. Từ đó người viết bài cho Sông Hương phải mở rộng ra cả nước và thế giới. Tạp chí đã tiếp cận được với các nhà văn hóa lớn, nhà văn nổi tiếng, các nhà cách tân hàng đầu trong và ngoài nước. Mục tiêu của sông Hương là “cái cũ phải sâu, cái mới phải mạnh và nhìn ra thế giới”. Đó chính là bản lĩnh mà người Tổng biên tập đã truyền cho các biên tập viên dưới quyền. Nhờ đó mà Tạp chí Sông Hương đã trở thành Tạp chí văn nghệ hàng đầu của đất nước. Tất nhiên cái “sâu”, cái “mạnh” và cái “hướng ra thế giới” đó không phải nhà quản lý nào cũng cũng đủ tầm nhìn để đồng cảm. Bởi thế mà Sông Hương đã bao phen lao đao. Tổng biên tập bị cách chức. Nhưng 30 năm Tạp chí Sông Hương vẫn luôn là một tạp chí văn nghệ hàng đầu của đất nước.

         Sách Bản lĩnh văn hóa đã dành phần lớn trang (154 trang) để bàn về “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và hội nhập”. Tô Nhuận Vỹ luôn day dứt :…”làm sao để các nhà văn trong nước và các nhà văn gốc Việt Nam ở nước ngoài có thể ngồi lại với nhau, để nói, để viết, để hoạt động, để bàn thảo tìm ra hướng đồng thuận, để hợp lực hợp tâm vì mục tiêu hưng thịnh đất nước, hưng thịnh nền văn hoá Việt Nam ? Trọng tâm cuốn sách là chuyên luận Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập là đề tài tham gia chương trình nghiên cứu của William Joiner Center-Đại học Massachusetts, Hoa Kỳ ( 2005- 2007). Đây là chuyên luận đã được nhà văn đầu tư rất công phu đã được in một phần trên Talawas. Đọc chuyên luận này, không ít người quản lý cho rằng tác giả “mất quan điểm lập trường”, thậm chí có người còn cho rằng bị “địch” dật giây, ngược lại lại có không ít nhà văn “chống cộng” nguyền rủa. Nhưng theo tôi đây là  nghiên cứu sâu sắc, chính xác, dũng cảm , có tấm nhìn xa và…hay !.
          
          Mở đầu chuyên luận, nhà văn nhận định :”Văn học Việt Nam có vị trí cao trong xã hội và trong lòng người đọc ở vào thời gian chiến tranh…. Nhưng nó đang đứng trước thách thức lớn buộc phải đổi mới mạnh mẽ, nếu không muốn tụt hậu”. Ai quan tâm tình hình văn học nước nhà trong gần 40 năm qua đều nhất trí với nhận định này. Theo Tô Nhuận Vỹ, văn học Việt Nam hiện này có 2 nhiệm vụ lớn :” Tự do sáng tác và dân chủ hóa trong hoạt động văn học; góp phần vào hòa hợp hòa giải dân tộc”. Những năm sau chiến tranh, do sự cấm vận quốc tế, do sai lầm trong chỉ đạo kinh tế (cải tạo công thương nghiệp miền Nam, đổi tiền…), đất nước đang đứng trên bờ vực thẳm, không đổi mới sẽ chết. Trước tình hình đó, Đảng đã ra nghị quyết về đổi mới kinh tế như  khoán 10 trong nông nghiệp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, ký kết thương mại Việt – Mỹ…Theo Tô Nhuận Vỹ, “Trong những năm xã hội  đau đớn, vật vả để thoát hiểm này, đã có một “Giai đoạn oanh liệt của văn học Việt Nam”. Nhiều vấn đề về văn học và quản lý văn học nảy sinh. Xuất hiện nhiều tác phẩm gây chấn động dư luận của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Nguyễn Khắc Trường, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc  Hiến, … báo hiệu một “thế hệ” nhà văn mới. Bên cạnh đó cũng có một số “vụ” mà tác giả sách Bản lĩnh văn hóa nhắc lại với sự trân trọng “chưa từng có”, “là một hành động dũng cảm phi thường”. Vì nó  thể hiện cái mới trong văn học. Đó là vụ “Đề dẫn” , vụ Báo Văn nghệ và vụ Tạp chí Sông Hương . Vụ “Đề dẫn” là Báo cáo  của Đảng Đoàn Hội Nhà văn  do Nguyên Ngọc dự thảo và đọc tại Hội nghị đảng viên nhà văn toàn quốc năm 1989. Trong đó có những nhận định sắc sảo và chính xác :”
       “Trong văn học lồ lộ khá rõ là số phận chung của cả dân tộc…, nhưng số phận riêng của từng người, từng thành viên trong đội ngũ lớn đó thì còn khá sơ lược, giản đơn… do vậy tính hiện thực của văn học bị hạn chế”; “Ít lâu nay trong người đọc và trong chính cả người viết,…cho rằng văn học ta đã có sự dừng lại. …”có người nói văn học đang thụt lùi, có người lại gọi là “có tình trạng trì trệ”. Cũng có người cho rằng đang có khủng hoảng.….có nhiều sách nhưng không có tác phẩm…”;.“Người là muối mà chính mình không mặn thì lấy gì để mà muối người”. Văn học, nói theo một cách nào đấy, là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không  bao giờ có văn học lớn”. Sau vụ đề dẫn nhà văn Nguyên Ngọc bị mất chức. Nhưng sách Bản lĩnh văn hóa cho rằng đó là sự đổi mới…. Từ đó Tô Nhuận Vỹ khẳng định :” Dĩ nhiên ngoài lòng dũng cảm, những con người như Kim Ngọc, Nguyên Ngọc phải có tầm nhìn xa. Họ đã dám và là người đi trước”. Đó là nhận định chính xác. Vụ Báo Văn Nghệ, vụ Tạp Chí Sông Hương bị “cấm vận”, Tổng biên tập bị cách chức cũng là do bài vở hay quá, mới mẻ quá . Qua 2 tờ báo các nhà văn đã thể hiện những khát vọng tư tưởng sáng tạo của mình. “Một phần thực tế tang thương của đất nước mà chính Đảng chứ không phải ai khác cũng đã báo động là “đất nước đứng bên bờ vực thẳm” đã được các nhà văn tài ba và tâm huyết vạch ra một cách sống động hơn, đau đớn hơn và có sức thuyết phục hơn”.  Nhưng do tầm của người quản lý không theo kịp, tư duy cũ kỹ, nên họ không chấp nhận. Bây giờ đọc lại những bài vở đó là nhân văn, không có một chũ nào là “phản động” cả.  Tô Nhuận Vỹ đã thở dài cay đắng:” Tôi cho rằng, hành động “xay bột” Tình yêu thời thổ tảvà bịa ra kiến nghị của 123 chị em chợ Đông Ba là hai sự kiện thê thảm và khôi hài nhất của văn học và báo chí Việt Nam, từ năm 1975 đến nay”.

            Bản lĩnh văn hóa đã lên tiếng báo động:”Văn học trước nguy cơ tụt hậu”. Đây là phần chuyên đề tác giả viết rất hay, chính luận xen hồi ức, đối thoại, làm cho câu chuyện sinh động và thuyết phục . Thậm chí không nhìn thẳng vào sự thật này thì sự tụt hậu sẽ còn tụt dài và tụt xa nữa. Về chất lượng tác phẩm, trước Đại Hội Nhà văn lần thứ 7 vừa qua, Nguyễn Duy nói: “Chúng ta đang có một thực tế văn chương rất mâu thuẫn. Những cái cũ kỹ giáo điều thì vẫn cũ kỹ giáo điều như cũ, người đọc chán rồi, không muốn tiếp nhận nữa. Mặt khác, lại xuất hiện những cái xa lạ, những cái u ơ, ú ớ, ù ờ thần kinh, người đọc không thể tiếp nhận nổi. Cả hai thái cực ấy làm người đọc vừa chán ngán, vừa lo ngại. Người ta ít  quan tâm đến văn học đến mức tôi có cảm giác người ta chả cần nhà văn nữa”.  Trước Đại Hội Nhà văn 7, nhà thơ Hữu Thỉnh, đã nói văn hoa về chất lượng hạn chế của tác phẩm văn học thời gian qua là “độ kết tinh chậm” và nhà văn đang “thiếu khát vọng sáng tạo” để vượt qua các trở lực khách quan và trở lực trong chính mình.” . “Thiếu khát vọng sáng tạo” do đâu ? Đó là dân chủ dành cho sáng tạo văn học đã thay đổi quá chậm, “. Do đó “Nhà văn vốn đã cô đơn, ngày nay càng cảm thấy cô đơn hơn trước dòng thác của các cuộc tìm kiếm lợi ích”. Vì thế mà sau các vụ “Đề dẫn”, “Báo Văn Nghệ”” Sông Hương”, mới bước vào thế kỷ XXI, đã có “vụ” Bùi Ngọc Tấn, “vụ” Nguyễn Khải, “vụ” Nguyễn Huy Thiệp… cũng với những cái mũ từ nửa thế kỷ trước chụp xuống đầu nhà văn: bôi nhọ chế độ, bôi nhọ nhân dân…!
        
         Vậy “phải thay đổi” thì thay đổi gì ? Sách Bản lĩnh văn hóa nêu ra hai vấn đề cốt lõi nhất : a. Thực hiện dân chủ và ủng hộ khát vọng của nhà văn; b. Các nhà văn trong và ngoài nước phải ngồi lại với nhau. Tô Nuận Vỹ kể một câu chuyện rất hay :”Tôi, Phạm Xuân Nguyên và Nguyễn Huy Thiệp đã có một cuộc chuyện trò khá lâu và vui vẻ tại nhà riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong một cái ngõ rất lắt léo mạn Khương Hạ.  Thiệp cười hì hì rồi lấy một ví dụ nữa rất hay: Cái thằng cầu thủ giỏi, có kỹ thuật khéo léo mới hay dẫn bóng chạy vù vù nơi đường biên, là nơi đối phương dễ nhầm là bóng đã ở ngoài sân, chỉ cần đối phương chần chừ một vài giây là chết mẹ với nó rồi, nó a lê kéo bóng tuốt xuống và tạt vào cầu môn! Lúc ấy mà tay trọng tài gà mờ cứ thấy bóng mới chạm tới đường biên, chưa qua nửa vạch, mà đã cho rằng bóng đã ở ngoài sân, lập tức toét còi thì giết chết hết mấy thằng “siêu” này rồi chứ gì nữa! “. Đó là  những ví dụ hay và chính xác về sự quản lý văn nghệ thô thiển, thiếu trình độ .
           Theo Tô Nuận Vỹ các nhà văn bị “trọng tài” thổi còi, từ “nhắc nhở” cho đến thẻ vàng, thẻ đỏ và sau đó còn có người bị treo giò vài ba trận, thậm chí treo giò cả đời thì thấy ôi chao! La liệt người tài trong số đó: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Hữu Loan, Phùng Quán, Nguyền Đình Thi, Nguyễn Công Hoan, Hà Minh Tuân, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên,… Vì lẽ đó mà nhà văn Nguyễn Minh Châu kể câu chuyện :”có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”.. Người như Phùng Quán, “Yêu Đảng hơn cả Đảng” làm hai bài thơ cực kỳ cách mạng là Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí , “thế mà bị chà đi xát lại mấy chục năm trời , ôi chao ôi là trời!”

           Làm sao để nhà văn  không phải “vừa viết vừa sợ”, vừa viết vừa tự biên tập mình” ? Câu hỏi lớn xin dành cho người quản lý văn nghệ, văn hóa. Ngoài ra để có cái mới về tư duy, nhận thức  thì “ Trong thái độ ủng hộ khát vọng sáng tạo, hiểu biết của nhà văn, việc mở rộng giao lưu quốc tế có một  tác dụng rất quan trọng” . “Dĩ nhiên, tôi không bao giờ nghĩ một cách ấu trĩ rằng, mọi cái hay về dân chủ của các nước phương Tây đều có thể áp dụng ở nước ta”

        Về chuyện Các nhà văn trong và ngoài nước phải ngồi lại với nhau, Tô Nhuận Vỹ có lý khi cho rằng :” đối với nhà văn Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất trong việc mở rộng quan hệ quốc tế là giao lưu với các nhà văn, các nhà  văn hoá, các nghệ sĩ người Việt đang sinh sống và hành  nghề ở các nước trên thế giới”. Mặt khác, làm được việc này thì, đội ngũ nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc hoà giải, hoà hợp dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến tranh”. Cho nên  phải nhận ra  những cản trở để vượt qua khó khăn. Trắc trở đầu tiên là dòng văn học “căm thù”, “căm hận” ( lẫn nhau) qua tác phẩm  của các nhà văn trong và ngoài nước. Rồi những chuyện kể cay đắng, đau xót, thê thảm, uất ức của những ngày ở các trại tù cải tạo, cảnh cùng quẫn buộc phải vượt biên để bị hải tặc hiếp vợ rồi quăng con xuống biển ngay trước mắt mình, cảnh bị tịch thu nhà cửa, tài sản ngay sau ngày chiến thắng, chuyện con cái tuyệt đường học tập vì lý lịch cha mẹ… Mà rất hiếm, quá hiếm hoi, những hiểu và biết về các địa ngục trần gian, những “chuồng cọp” đày đoạ những người cách mạng và yêu nước ở Sở thú Sài Gòn, Chín Hầm, Côn Đảo, Phú Quốc, về sự tan nát thê lương của hàng ngàn làng quê thành phố, về những nỗi đau khủng khiếp của hàng triệu bà mẹ mất con mất chồng “của phía bên kia” trong chiến tranh…”… Lại còn một thực tế thế này nữa: “Trừ đi số chống cộng cực đoan khó nói chuyện,  không hiếm trí thức Việt kiều cứ hễ nói đến chuyện trong nước, nói đến người cộng sản Việt Nam thì  đều cho là ngu dốt, bảo thủ và tay sai ngoại bang! “.
          Để “ngồi lại với nhau” các nhà văn Việt trrong nước cũng như hải ngoại, phải có suy nghĩ như cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Ba mươi năm qua, có những bà mẹ ngày ngày thắp hương cho những người con của mình, người là chiến sĩ giải phóng đã hy sinh, người là lính của chế độ Sài Gòn đã tử trận. Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần thấu hiểu tâm tình của người mẹ Việt Nam, cùng thắp nén nhang cầu cho linh hồn của những người con của mẹ được siêu thoát “…
           Kết thúc chuyên luận, nhà văn Tô Nhuân Vỹ dẫn lời của Giáo sư Cao Huy Thuần, một nhà văn Việt ở Pháp : “… Văn nghệ sĩ hãy làm đi, đừng chờ đợi ai khác. Tự mình mở ra không gian cho mình. Nếu đến bây giờ mà văn nghệ sĩ không cùng nhau ‘khoán’ được một xã hội dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau, ’đọc nhau’, như anh đề nghị, thì chúng ta còn làm cái gì được nữa? Chuyện đó, Nhà nước coi bộ cũng muốn, cũng thấy cần thiết. Nhà nước đã muốn, anh sáng tạo ra bước đi, đó chẳng phải là chức năng của anh sao? Anh chờ ai?”
          Hãy đọc Bản lĩnh nhà văn để hiểu bản lĩnh và sự dấn thân, tấm lòng và trách nhiệm, nguyện vọng và trăn trở của nhà văn Việt Nam hôm nay.
   
     



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đây là bằng chứng hiển nhiên, không thể chối cãi.





Bìa sách “Giải mã Dịch lí & chữ Vuông trong trống đồng – Tranh dân gian và truyện ngụ ngôn”


Vừa được tác giả Viên Như tặng cuốn sách “Giải mã Dịch lí & chữ Vuông trong trống đồng – Tranh dân gian và truyện ngụ ngôn”. 

Đây là một đề tài mà tác giả Viên Như đã từng viết trên blogs Chữ Nôm Mới và tôi cũng đã từng giới thiệu(XEM Ở ĐÂY). Lần này tôi ngỡ cuốn sách cũng chỉ là chính thức phát hành những gì mà tác giả đã nêu ra trước đây. Nhưng thật bất ngờ khi thấy tác giả đã đưa ra nhiều phát kiến hết sức cụ thể và thuyết phục căn cứ từ những thông điệp ghi sẵn trên trống đồng cùng các bức tranh, câu chuyện dân gian được lưu truyền nhiều đời qua mà hầu như bất cứ ngườii Việt nào cũng biết. Trong đó điều mà tôi cho rằng quan trọng nhất, là việc tác giả đã chứng minh hết sức cụ thể Thuyết âm dương, ngũ hành và dịch học cũng như chữ Vuông (Nho) là sản phẩm của người Lạc Việt. 

Tất cả bằng chứng đều nằm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ từ hàng ngàn năm qua.

Như thế là sau mấy ngàn năm, người Trung Quốc, một mặt tuyên truyền rằng Trung Hoa vĩ đại với nền văn hóa Dịch học uyên áo cùng chữ Hán thâm sâu, mặt khác tìm đủ mọi cách kể cả những phương thức tàn bạo nhất để xóa đi dấu vết nguồn gốc văn hóa của người Lạc Việt về Dịch học và chữ vuông, giờ đây có thể thấy rằng sự thật đã bắt đầu được phơi bày. 


Đây là bằng chứng hiển nhiên, không thể chối cãi. Những thông điệp mà tổ tiên người Việt cố tình ghi lại trên trống đồng cũng như qua các bức tranh dân gian và các câu chuyện truyền miệng rõ ràng là chứng cứ tố cáo việc mấy ngàn năm qua, kẻ cướp vĩ đại nhất hành tinh, đã ăn cướp không những đất đai, biển đảo mà còn cả nền văn hóa kỳ vĩ của người Lạc Việt. 

Thế mới biết chuyện "người khổng lồ" Trung Quốc vừa ăn cướp vừa la làng đâu phải chỉ là chuyện mới đây.

Trong phạm vi có hạn, xin trân trọng giới thiệu vài nét với quý vị tác phẩm này, với một số nội dung chính như sau:

1-     Hà đồ, nguồn gốc của Dịch học trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.



2 – Chữ Vuông trên trống đồng Ngọc Lũ.




Đây là chữ SƠN trên trống đồng Ngọc Lũ. 10 chiến binh với 10 chữ SƠN trên vai bao quanh Hà đồ. Giờ đây chúng ta mới hiều rằng SƠN HÀ không chỉ là sông núi mà còn có nghĩa là đất nước và văn hóa và người lính phải gánh lấy trọng trách trên vai bảo vệ đất nước và văn hóa của mình.

3 – Bằng chứng chữ Nòng Nọc tức chữ Vuông và chim Diệc tức Dịch, được người Lạc Việt khắc trên đá cách đây 5000 – 7000 ngàn năm tại di chỉ Xẻng đá lớn – Cảm Tang – Quảng Tây – Trung quốc.





4 -Trên là nòng nọc đen tượng trưng cho âm, đồng thời cũng là đầu và mắt con chim Diệc, người xưa đã đục thêm cái cổ để nối với đôi cánh. Dưới là nòng nọc trắng tượng trưng cho dương. Về sau người Việt đã cụ thể hóa hình ảnh này bằng chữ Cóc (Hán đọc là Giác). Đây cũng chính là thái cực, đồng thời cũng là hình ảnh của trống đồng.





Phần nhận xét hiển thị trên trang