Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014

Dân không đồng ý, khó mà xử phạt!

>> Ông Kim Jong-un giành được '100% số phiếu'

>> Trung Quốc quyết bảo vệ từng tấc đất "chủ quyền"
>> Đề phòng "chạy" để được luân chuyển
>> Lời kêu gọi ủng hộ chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa”

Tuần VNN - Ai dám đảm bảo rằng “phạt cho tồn tại” không cổ súy cho tình trạng xây dựng trái phép, không phép tiếp tục xảy ra trong cái cơ chế rất “linh hoạt” nhưng “lỗi thời” hiện nay. Đã thế, gọi là “lịch sử để lại” nhưng biết đâu cái “lịch sử” ấy vẫn đang tiếp diễn trong hiện tại.

Quản lý đô thị là việc cần thiết phải làm liên tục, thường xuyên, nhất là trong không khí “hừng hực” đô thị hóa tại Việt Nam. Người làm công tác quy hoạch đô thị, quản lý đô thị cũng cần phải hội nhập, tức là phải có sự chuyển đổi lớn về nhận thức cho phù hợp với quan điểm thế giới hiện đại về công năng và đà phát triển của đô thị.

“Hoàn cảnh lịch sử” là lời bào chữa “đúng quy trình”

Một đô thị tốt,  hiện đại cần đảm bảo hai yếu tố cùng song hành với nhau, cùng hỗ trợ cho nhau, đó là sự bền vững về sinh thái và sự bền vững về kinh tế…  Sự phát triển đô thị “muộn màng” của Việt Nam có khi lại là cái hay, cái thuận lợi. Vì rút được nhiều kinh nghiệm sai lầm của các nước đi trước, tránh được những tốn kém vô lý không đáng có, áp dụng được những phương pháp định hướng thông minh hơn, khoa học hơn…

Một người làm công tác quản lý đô thị trước tiên phải hiểu rõ đô thị nơi mình sinh sống có đặc thù “thương hiệu” gì, hướng quy hoạch trong tương lai ra sao, bên cạnh đó cần phải nắm thật chắc luật, các cơ sở pháp lý để mà điều chỉnh, giám sát kịp thời, không để những “con dấu, chữ ký” vội vàng, chủ quan dẫn đến những lỗi lầm không dễ dàng khắc phục được, buộc thế hệ sau không còn cách nào khác phải gọi đó là do “hoàn cảnh lịch sử” để lại.

Thực tế, sự “nát bươm” của bộ mặt đô thị Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi khác trong cả nước là một điều không thể phủ nhận. Nguyên nhân “hoàn cảnh lịch sử” luôn là lời bào chữa “đúng quy trình” cho mọi chất vấn, thắc mắc của cử tri, của người dân.

Và cũng chính cái nguyên nhân “hoàn cảnh lịch sử” khiến văn bản nhà nước “đau lòng” có thêm cụm từ “phạt cho tồn tại”. Từ đó, cũng cần có sự thông cảm ở cái thế khó xử của các tư lệnh ngành chuyên trách. Nghị định 121 ra đời gây xôn xao dư luận bởi những điều khoản chưa rõ ràng cụ thể. Đến nay, Thông tư 02 của Bộ Xây dựng như là sự “hợp pháp hóa” nghị định. Ngoài cái mục đích “tận thu” cho ngân sách nhà nước, siết các điều kiện “phạt cho tồn tại”, hạn chế tối đa sự vi phạm, tạo điều kiện cho cơ quan công quyền và người dân thực hiện tốt hơn.

Với mức phạt thấp nhất là 40% giá trị của số lợi bất hợp pháp có được từ việc xây dựng trái phép cùng những “ràng buộc” được bổ sung thêm, khiến cho việc thực thi công lý được minh bạch hơn, thu hồi được số lợi nhuận bất hợp pháp của người vi phạm.

Trong 05 nhóm vi phạm hành chính của nghị định, có 03 nhóm gây tranh cãi, nhiều nhất là kinh doanh nhà hàng, vũ trường, karaoke, sửa xe máy, kinh doanh gia cầm, gia súc, hoạt động giết mổ gia súc, kinh doanh gas hoặc các vật liệu nổ, dể cháy… vẫn chưa được quy định cụ thể về việc chế tài, xử phạt những vi phạm nói trên.

Thông tư 02 bắt đầu có hiệu lực vào ngày 2/4/2014. Thế nhưng sự đồng thuận của người dân lại là chuyện khác, mà người dân không đồng thuận sẽ khó có căn cứ xử phạt. Ai dám đảm bảo rằng “phạt cho tồn tại” không cổ súy cho tình trạng xây dựng trái phép, không phép tiếp tục xảy ra trong cái cơ chế rất “linh hoạt” nhưng “lỗi thời” hiện nay. Đã thế, gọi là “lịch sử để lại” nhưng biết đâu cái “lịch sử” ấy vẫn đang tiếp diễn trong hiện tại.

“Phạt cho tồn tại” sẽ… tồn tại mãi mãi?

Luật trong tiến trình của nó ngoài sự tịnh tiến liên tục sự hợp lý của thực tiễn và khoa học, nó còn đòi hỏi nghiêm khắc tính thượng tôn công lý của bất kỳ một cá nhân nào. Đã trái luật là phải cấm hẳn, đã sai là phải dỡ bỏ. Người làm công tác quản lý cần phải hiểu thật rõ cái nguyên tắc đơn giản và công bằng ấy để mà giám sát, thực thi.

Câu hỏi đặt ra là “phạt cho tồn tại” sẽ tiếp diễn cho đến bao giờ nếu như những cái “hậu quả ngày xưa” vẫn không được khắc phục. Sợ nhất là cái tình trạng cấp phép dựa vào “chủ quan” của một số cơ quan hoặc một số cá nhân có thẩm quyền. Đã thế, nhìn rộng ra khắp các tỉnh thành trong cả nước đã có đủ, có được cái hoạch định chi tiết cụ thể “thương hiệu đô thị” của mình là gì chưa, hướng phát triển trong tương lai là thế nào? Nếu như chưa có thì “phạt cho tồn tại” sẽ tồn tại mãi mãi.

Cận cảnh, ví dụ những dãy nhà siêu mỏng ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, sau khi “phạt xong” chúng sẽ tồn tại, tồn tại vài chục năm trở lên trong sự “khó coi” của bộ mặt mỹ quan đô thị. “Thương hiệu” của những dãy nhà phản cảm ấy xin dành cho những nhà quản lý đô thị đặt tên, nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là đô thị ấy có đẹp không, có tốt không nếu như những ngôi nhà lép kẹp vẫn chình ình trên mặt tiền những con phố.

Cần phải hiểu “phạt cho tồn tại” chỉ là biện pháp tình huống, ngắn hạn, nếu nó cứ tiếp diễn dài lâu tức là hiện tượng tiêu cực do “lịch sử để lại” vẫn tiếp diễn. Nhà nước lại “mang tiếng” là tận thu mà kỷ cương vẫn bị xói mòn, chức năng sinh thái và chức năng kinh tế của đô thị không bao giờ đạt được hiệu quả. Khi đó, dân càng bất bình, càng không đồng thuận thì việc thực thi pháp luật sẽ vô cùng khó khăn, bế tắc.

MP


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dư luận xung quanh tuyên bố vận động "Văn Đoàn Việt Nam độc lâp", bạn đọc và tự tìm câu trả lời cho một vấn đề không đơn giản:

(hài vãi, hỏi xong rồi đã tự trả lời trong bài rồi ;))

Hôm 3/3/14 nhà văn Nguyên Ngọc đã thay mặt cho 61 cây bút trong và ngoài nước tuyên bố kêu gọi thành lập “Văn đoàn độc lập Việt Nam” trên mạng internet. Cùng với tuyên bố kêu gọi là sự ra mắt của trang web cùng tên. Ngay lập tức, các trang có xu hướng chống chính quyền Việt Nam ra sức tâng bốc như một sự kiện chính trị động trời.

Phóng viên Kính Hòa có ngay bài trên RFA với tựa đề “một bước tiến của xã hội dân sự“. Tuy nhiên, ngoài việc đăng bố cáo trên của nhà văn Nguyên Ngọc, trang Ba Sàm lại không mấy tỏ ra mặn mà với thông tin này. Giới quan sát cho đó là hành động thận trọng của Ba Sàm vì ông Vinh quá hiểu tính khí cũng như thực lực của các nhà văn có tên trong danh sách.
Vậy “Văn đoàn độc lập Việt Nam” là cái gì? Xin được bàn luận về một số điểm sau:

Thứ nhất: Ngay trong cách đặt vấn đề là “Tuyên Bố Vận Động” cũng đã cho thấy tính thiếu chính danh của “Hội” này. Nó cho thấy sự láu cá luồn lách với mục đích thăm dò dư luận, đặc biệt là phản ứng của chính quyền. Điều này chứng tỏ, các nhà văn chưa hiểu kỹ luật pháp, chưa nắm chắc phản ứng của chính quyền và chưa thật sẵn sàng cho ra đời cái hội như thế này. Một “Hội” đường đường chính chính sẽ không bao giờ làm cái công việc nửa nạc nửa mỡ như vậy.

Đọc kĩ tuyên bố vận động của Nguyên Ngọc, thông qua những gì bản tuyên bố liệt kê và phát biểu của ông Phạm Xuân Nguyên, người ta dễ dàng hiểu ra mục đích chính của nó là để đối lập với Hội nhà văn Việt Nam, và dĩ nhiên nó không muốn chịu sự quản lý của chính quyền. Cái từ “Độc lập” có ý muốn tách ra khỏi sự quản lý của nhà nước và nó chỉ ra mục đích đen tối của những người đứng ra vận động thành lập “Văn đoàn độc lập Việt Nam”.

Thứ hai, về thành phần của “Văn đoàn độc lập Việt Nam”.

Thành phần của “Văn đoàn”, gồm nhà văn Nguyên Ngọc, cùng nhiều cây bút khác là thành viên Ban vận động như Bùi Chát, Bùi Minh Quốc, Bùi Ngọc Tấn, Dương Tường, Đặng Tiến, Đỗ Lai Thúy, Đỗ Trung Quân, Giáng Vân, Hoàng Hưng, Nguyễn Duy, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Quang Lập, Phạm Đình Trọng, Phạm Xuân Nguyên, Lưu Trọng Văn, Võ Thị Hảo, Vũ Thư Hiên.v.v.. Với thành phần này, Văn đoàn không chỉ là tập hợp các nhà văn Việt Nam ở trong nước mà còn có có sự tham gia của các nhà văn ở hải ngoại, trong đó có cả nhà văn Vũ Thư Hiên, được coi là kẻ đào tẩu muộn màng.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong thành phần ô hợp ấy có những cái tên mà dư luận xã hội thường lên án vì chuyên vu cáo xuyên tạc hoặc đả kích chế độ như: Hà Sĩ Phu Nguyễn Quang Lập, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Huệ Chi…Việc để những nhân vật tai tiếng trong “Văn đoàn” này là một trò câu viu, liên kết trong ngoài hoặc quảng bá thương hiệu với giới zân chủ hải ngoại, mặt khác là để tạo hiệu ứng ủng hộ trong xã hội.
Nhà văn Nguyên Ngọc

Riêng nhà văn Nguyên Ngọc, tôi dành cho ông một sự kính trọng bởi những tác phẩm văn học để đời ông viết thời kháng chiến, thời bao cấp. Không ai có thể tưởng tượng được một cây bút thuộc hạng lão làng như ông lại có thể trở thành một thành viên của cái gọi là “Văn đoàn độc lập Việt Nam”, và không những thế, ông còn đóng vai trò cốt cán thay mặt ban vận động… Thật tiếc cho một tên tuổi lớn!

Bất luận như thế nào, thành phần kiểu “Mặt trận” như thế này sẽ đặt dấu hỏi nghi ngờ về động cơ và mục đích của “Văn đoàn độc lập Việt Nam” cho những cây bút chân chính.

Thứ ba, về lý do thành lập “Văn đoàn độc lập Việt Nam”

Theo như bản tuyên bố kêu gọi, các nhà văn cho rằng: Sau năm 1975, kết thúc một thời kỳ lịch sử kéo dài hơn trăm năm, đất nước cần một cuộc phục hưng dân tộc căn bản, mà nền tảng là phục hưng văn hóa. Tiếc thay công cuộc cần thiết và nghiêm trang ấy đã không diễn ra như mong đợi. Trái lại văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc. Những người viết văn tiếng Việt không thể nói rằng mình hoàn toàn không có phần trách nhiệm về thực trạng đó. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội. Trong bước ngoặt lớn này của lịch sử, văn học Việt Nam đã không làm đúng được vai trò của mình.

Thật nực cười, khi chính các nhà văn ăn cơm nhà nước, ở nhà của nhà nước và làm việc cho nhà nước lại có thể phủ nhận sạch trơn những gì ông cha ta và ngay chính họ đã làm cho nền văn hóa của dân tộc. Tại sao họ lại nhố nhăng tới mức quay lưng lại với lịch sử, và phủ nhận sạch trơn thành quả lao động nghệ thuật của biết bao thế hệ trước đó?

Còn nữa, các các nhà văn phán bừa vô căn cứ rằng, “văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến sự tồn vong của dân tộc”? Không phủ nhận rằng trong vài năm qua, nền văn học nước nhà không có lấy một tác phẩm nào cho ra hồn, nhưng tôi nghĩ, ở đâu và lúc nào đi chăng nữa, dù không có các nhà văn như các vị thì bản sắc văn hóa Việt Nam vẫn luôn được trân trọng giữ gìn và ngày càng được phát huy. Tôi không thể đồng ý với các vị rằng, văn hóa Việt Nam đang suy thoái nghiêm trọng, và tôi cũng tin rằng, văn hóa Việt Nam chưa bao giờ đánh mất giá trị nhân bản căn cốt nhất.

Khi lý giải nguyên nhân dẫn đến văn chương Việt Nam yếu kém, tôi đồng ý với các vị rằng, “Văn chương Việt Nam yếu kém có nguyên nhân chủ quan trước tiên thuộc chính người cầm bút là sự thờ ơ đối với trách nhiệm xã hội, vô cảm trước thời cuộc, quan trọng hơn nữa là thiếu độc lập tư duy, từ đó mà tự hạn chế năng lực sáng tạo”. Các vị có lý, và nhân dân cũng nhận thấy điều này. Chính các vị thờ ơ và thiếu trách nhiệm với cộng đồng, các vị vô cảm với thân phận của con người, và chính các vị quen sống dựa dẫm vào nồi cơm của người khác, quen đi trên đôi chân người khác dẫn đến thiếu sáng tạo, và thui chột khả năng lao động nghệ thuật.

Nhưng chính kết luận này của các vị lại vô tình bóc mẽ cái tâm địa đen tối của các vị khi các vị đổ lỗi cho nguyên nhân khác quan. Thực ra, các vị là những kẻ thiếu đàng hoàng. Điều này làm nhớ đến câu nói của đạo diễn Lê Hoàng khi nói về khả năng sáng tạo của nghệ sĩ, rằng: “tè dầm, đừng đổ tại chim“.

Các vị thanh minh thanh nga với nhau rằng không có được một nền văn học đàng hoàng vì: “một xã hội như chúng ta đang có, trong đó các quyền tự do cơ bản của con người thực tế bị vi phạm trầm trọng, đương nhiên đè nặng lên tâm lý sáng tạo của người cầm bút, làm mờ nhạt và tắt lụi các tài năng“. Hóa ra, tài năng các vị không có hoặc có nhưng nó tắt lụi đi vì quyền con người bị xâm hại? Xin hỏi các vị, tác phẩm “người cùng khổ” ra đời trong hoàn cảnh nào? Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ra đời trong một xã hội mà quyền con người có được tôn trọng hay không? Cũng hỏi luôn các vị rằng, “Đất nước đứng lên” của chính Nguyên Ngọc ra đời trong điều kiện nào? và còn bao nhiêu tác phẩm “bom tấn” để đời khác chưa cần nhắc đến. Trong thâm tâm, tôi hiểu rằng các vị đang muốn được nổi tiếng sau khi tàn lụi tài năng bằng chiêu bài dân chủ nhân quyền.

Tiếp nữa, các vị còn cho rằng, quyền tự do sáng tác và công bố tác phẩm đang là đòi hỏi sống còn của từng nhà văn và của cả nền văn học. Không có các quyền tự do tối thiểu đó thì không thể có nền văn học đàng hoàng. Ô hay, ở Việt Nam có ai cấm các vị sáng tác đâu, miễn là các tác phẩm đó thực hiện đúng “chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội” như các vị tuyên bố.

Và đây nữa, các nhà văn lại một lần nữa đổ lỗi cho “Một thể chế tổ chức đời sống văn học mang nặng tính quan liêu và bao cấp càng làm nặng nề thêm tình hình, đồng thời không tạo được mối liên kết lành mạnh giữa những người viết văn để nâng đỡ và thúc đẩy lẫn nhau trong công việc và hỗ trợ nhau trong khó khăn“. Xin thưa các vị, Hội nhà văn Việt Nam hoạt động theo quyết định 325 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ từ năm 1957, và đã qua gần 30 năm đổi mới, Hội đã có rất nhiều cống hiến cho nền văn học nước nhà, góp phần vào sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước cũng như giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đã có hàng ngàn tác phẩm để đời trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật, từ sách báo, điện ảnh, hội họa và âm nhạc.

Vậy các vị có hỏi tại sao, hoạt động trong trong cơ chế đó họ vẫn có những tác phẩm đi vào cuộc sống và đến tận bây giờ người ta còn nhắc đến? Các vị đã bao giờ tự hỏi rằng chính các vị được sống trong thời bình, được hưởng bổng lộc của nhà nước, được sự chăm lo của nhân dân, được đi đây đi đó, năm nào cũng trại hè, trại sáng tác dài ngày mà không làm ra nổi một tác phẩm gọi là “bom bi” chứ đừng nói đến “bom tấn”? Có bao giờ các vị tự thấy xấu hổ chưa? hay các vị chỉ tìm cách đục khoét của dân? Vậy nên, đừng đổ hết lỗi cho cơ chế, bởi mỗi một cơ chế có những ưu điểm và hạn chế của mình, điều quan trọng là nhà văn chân chính phải biết bổn phận của mình chứ không chỉ rong chơi nhảy múa, hò hét rượu chè và phét lác.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều khi trả lời phỏng vấn phóng viên Nguyễn Hiền về sự quan tâm của nhà nước đối với nhà văn, nhà thơ đã trả lời thế này:

Xét về mặt đầu tư cho nhà văn thì trên thế giới tôi đi: Anh, Nga, Nhật, Úc, Na Uy, Tây Ban Nha thì chưa ở đâu nhà nước tài trợ cho các nhà văn sáng tác như ở Việt Nam. Các nước trên hầu như họ tự túc hết. Có thể cá nhân họ nhận được trợ giúp từ các quỹ văn học, văn hoá chứ không phải của nhà nước. Vậy mà chúng ta lại không có tác phẩm hay bằng các nước đó. Có lẽ nên hiểu việc nhà nước trợ giúp, đầu tư cho các nhà văn hiện nay là bày tỏ sự tôn trọng và quan tâm đến phát triển văn học nghệ thuật trong nước. Chứ còn số phận mỗi tác phẩm phải do nhà văn quyết định lấy.

Xin hỏi các nhà văn tham gia “Văn đoàn độc lập Việt Nam”, các vị có thấy được các nhà văn nước ngoài khổ sở thế nào khi không nhận được sự quan tâm của nhà nước không?

Thứ tư, nhiệm vụ của “Văn đoàn độc lập Việt Nam”

Xin trích nguyên văn:
  • Đoàn kết tương trợ giữa những người viết văn tiếng Việt trong và ngoài nước.
  • Tạo điều kiện nâng cao về nghề nghiệp, thúc đẩy sáng tạo cá nhân, khuyến khích đổi mới trong sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học và ngôn ngữ.
  • Bảo vệ mọi quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng, hợp pháp của hội viên, đặc biệt là quyền tự do sáng tác và công bố tác phẩm, cũng như quyền tự do tiếp cận tác phẩm văn học của mọi người.
Vâng, nhiệm vụ như thế thật cao cả, đẹp đẽ và long lanh. Nhưng tôi nghĩ chả có gì mới mẻ. Vì những thứ đó đã được xác định trong Điều lệ hội Nhà Văn Việt Nam theo Quyết định số 69, ngày 14/7/1005. Thậm chí, Điều lệ Hội nhà văn Việt Nam còn cụ thể hơn tuyên bố của “Văn đoàn”. Nguyên văn Điều 7. Những nhiệm vụ cơ bản của Hội Nhà văn Việt Nam:

1. Bảo vệ quyền lợi xã hội, nghề nghiệp và quyền tác giả được quy định trong pháp luật nhằm phát huy tự do sáng tạo với tinh thần trách nhiệm cao của mỗi nhà văn trước sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và quyền lợi của nhân dân. 

2. Tạo điều kiện tinh thần và vật chất để hỗ trợ công việc sáng tác, giúp các nhà văn gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt chính trị xã hội của đất nước, với đời sống của nhân dân. 

3. Chú trọng, phát hiện và giúp đỡ các tài năng văn học trẻ và văn học các dân tộc thiểu số. 

4. Tổ chức tương trợ trong hoạt động, trong sinh hoạt của hội viên. Quan tâm đến đời sống các nhà văn cao tuổi, đau yếu gặp khó khăn và có biện pháp giúp đỡ thích hợp. 

5. Đề xuất với các cơ quan Đảng, Nhà nước những chủ trương, phương hướng phát triển sự nghiệp văn học và các chế độ, chính sách đối với nhà văn. 

6. Mở rộng quan hệ hợp tác, tiến hành trao đổi thông tin, kinh nghiệm nghề nghiệp với các tổ chức văn học và các nhà văn nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Vậy nên, người ta mới đặt câu hỏi, các vị này lập “Văn đoàn độc lập Việt Nam” để làm gì? Câu trả lời không khó: Đó là làm chính trị và đối lập với Hội nhà văn Việt Nam. Điều này được minh chứng rõ ràng khi nhà Phê bình Phạm Xuân Nguyên trả lời Kính Hòa của RFA: “Sự cạnh tranh đó sẽ trên hoạt động, mà trên hoạt động rồi thì sẽ thấy cái chuyện cạnh tranh hay không”.

Bạn Tuấn Nguyễn rất có lý khi bóc trần mục đích của cái gọi là “Văn đoàn độc lập Việt Nam”: “Thoạt nghe có vẻ cũng rất văn minh và tiến bộ. Song đó là những tấm vải thưa che mắt, là sự ngụy trang cho những âm mưu thâm độc: Mục tiêu 1, đó là xu hướng câu kết để dễ bề hoạt động và xây dựng thực lực mạnh hơn. Mục tiêu 2, “Đổi mới” của chúng là vượt ra ngoài giá trị định hướng của văn học nước nhà, tức là theo những cái khác có hại cho dân tộc, nhưng là hay đối với chúng. Mục tiêu 3, hòng thoát khỏi sự kiểm soát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Đó là một nhận xét xác đáng về bản chất của “Văn đoàn độc lập Việt Nam”.

Thứ năm, về tính pháp lý của “Văn đoàn độc lập Việt Nam”

Tuyên bố vận động của nhà văn Nguyên Ngọc thực tế như đã nói ở phần đầu chưa phải là tuyên bố thành lập một hội, mà mới chỉ là vận động thành lập hội vì thế nó chưa được ra đời. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát cho rằng, nó đã ra đời dạng “nửa dơi nửa chuột” để thăm dò dư luận và phản ứng của nhà nước, và cũng vì thế tính pháp lý của nó vô cùng mong manh. Blogger Mõ Làng có nhận định trong bài “lời khuyên cho nhà văn làm chính trị” như sau:

Nay xuất hiện cuộc vận động thành lập hội mới nhưng hầu hết thành viên trong danh sách ban đầu đều là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Vậy hội này là tổ chức trực thuộc Hội nhà văn VN hay là hội độc lập. Có lẽ là hội độc lập vì thấy trong đó có nhiều vị không phải là hội viên Hội nhà văn VN. Để tham gia hội này, liệu họ có phải xin ra khỏi Hội nhà văn VN đã không? Vì rằng chính họ đã biểu quyết cho những quy định trong điều lệ Hội. Và, đã là hội độc lập thì phải tuân thủ luật pháp về thành lập hội, có nghĩa là phải xin phép.

Như vậy, để tránh cái kết cục đẻ non hoặc chết yểu, “Văn đoàn độc lập Việt Nam” nên tỏ ra thông minh bằng cách xin phép thành lập hội của mình với đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định.

Tôi tin rằng, với thành phần ô hợp đó, với những lý do và mục đích đã tuyên thì “Văn đoàn độc lập Việt Nam” sẽ không có chỗ đứng trên văn đàn đất Việt. Nếu nó có tồn tại, thì cũng chỉ như một cái quái thai ngoài hôn thú vất vưởng ngoài lề xã hội.
(nguyentandung.org)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Truyện thứ ba:


Như mềnh đã thông báo từ bài trước, lần này tiếp đăng truyện thứ ba. Để các bạn thấy trình của của các pác nhờ văn lớn "hàng đầu" thẩm văn thế nào. Có thật họ "vô tư, trong sáng và làm việc hết sức khoa học" hay không? Hay còn mấy thứ ngoằn ngèo, ngoắt ngéo, quanh co khác? Trách gì các "nhà máy văn" mỗi ngày sản phẩm mỗi kém. 
Chúng ta là con người, không phải trâu bò, không có bộ phận nhai lại trong bộ tiêu hóa và càng không dễ nghe những lời bịa tạc, sáo rỗng.. không còn muốn nghe. Nếu mình sai mời bạn góp ý cho mình nha!

NGÔI NHÀ KHÔNG GẮN MÁY LẠNH
   Truyện ngắn của Hồng Giang

Nhà chúng tôi không có máy lạnh. Không phải vì giá điện hiện nay thường xuyên quá đắt, hao phí đường dây quá cao, do nhà tôi ở cuối nguồn. Cũng không phải “công tơ” thuộc loại rởm, luôn nghiêng phần lợi về phía các công ty điện, thiệt phía khách hàng. Không phải máy lạnh giá đắt hay vì khó mua.. Những thứ đó thời bây giờ còn dễ kiếm hơn chiếc “quạt “tai voi” của thế kỷ trước. Chỉ cần hó hé vài tiếng trên điện thoại là có người mang nó đến tận nhà. Xã hội tiêu dùng ngày nay, ba cái thứ đó chỉ là  “thò tay túi áo”, muốn lúc nào có ngay lúc đấy!
Ngôi nhà của chúng tôi, nếu chỉ nhìn bề ngoài, ai cũng thấy nhất thiết là bên trong đã gắn máy lạnh, hoặc “phải” có máy lạnh rồi. Nếu điều đó chưa xảy ra thật vô lý và buồn cười vì ngôi nhà khá trang trang, theo mốt thời hiện đại, lại cất ngay sát bên đường, đẹp mắt và lại cao tầng nữa!
Nó không có vì những lý do khác, nói ra thì thật buồn. Phải đắn đo rất lâu, tôi mới viết câu chuyện này. Viết để “thanh thải” chính mình, chứ không phải “giải tỏa” tâm trạng như người ta thường vẫn hay nói.
Bởi vì, xét cho cùng, nào có ai bao vây, phong tỏa chúng tôi đâu? Có chăng là chúng tôi tự phong tỏa chính mình vì những lý do hết sức vớ vẩn. Kiểu như “Người ta sinh ra để làm khổ lẫn nhau”.
Dù điều đó thật chẳng cần thiết và chẳng có lợi ích gì! Hoặc vì những lý do từ quá khứ, nguồn cơn của nó chẳng mấy rõ ràng, có khi lại hết sức vớ vẩn, không đâu vào đâu!
Mẹ tôi luôn vắng nhà. Bà đã về hưu mấy năm nay nhưng vẫn như còn những lý do của thời trước, khi còn đứng lớp, thường xuyên vắng mặt ở nhà..
Bà có về cũng rất ít khi cười nói, dù không có việc gì phải lo, phải buồn. Mẹ tôi không hiểu sao thường ít nói. Nhất là với bố tôi, khi hai người gần nhau cũng ít khi chuyện trò. Có chăng chỉ đôi ba câu gượng gạo. Xong. Rồi lại đi.
Bà mắc bệnh viêm xoang mũi. Một thứ bệnh dị ứng cao với các thiết bị điều hòa. Bà bảo “mùi nó khai, chịu một tý là váng vất, xây xẩm mặt mày, rất khó chịu.  Nếu bố con ông thích máy lạnh, cứ lắp. Nhưng nhớ để riêng cho tôi một phòng, để ngày nào tôi có nhà, tôi ở”.
Một nhà mà có hai mức hưởng thụ khác nhau là việc chẳng nên làm. Đó là một trong những lý do khiến nhà chúng tôi cho đến tận bây giờ vẫn không gắn máy lạnh, thi đua với một số nhà có gắn máy lạnh xung quanh.
Tuy đã có một phòng dành riêng, mẹ tôi vẫn không hay ở nhà. Lúc bà đi thăm con gái mãi trên vùng cao, nơi có hồ thủy điện mới xây được vài năm nay. Bà bảo “Thương con gái vất vả một mình nuôi con nhỏ. Thằng chồng nó có một “tý chức” bắt đầu học đòi bồ bịch, “mốt” thời thượng theo người ta” bây giờ.
Lúc mẹ tôi nói hội “Cựu giáo chức” của bà có công việc gì đấy. Cần thăm hỏi một người nào đó có hoàn cảnh khó khăn. Ông A hay bà B.. vừa qua đời, hay có đám cưới xin gì gì đó.
Cũng có khi, bà lẳng lặng không nói gì. Sắp xếp đồ đoàn vào cái túi xắc có nhiều pẹc mơ tuya, khoác lên vai, dắt xe ra đường, mẹ tôi đi.
Những lúc ấy bố tôi chỉ nhìn theo, không nói không rằng. Ông đứng ngây người rất lâu, vẻ mặt đơ đẫn. da mặt như dày hơn, như người bị “thũng”.
Cũng chỉ sau đấy một hai ngày, bố tôi mang xe ra đường. Ông đi gặp đồng đội cũ, “thăm thân” bên kia quả núi chắn trước mặt ngôi nhà của chúng tôi. Mỗi lần đi năm bảy ngày. Khi về lại lầm lì, không nói một câu.
Lão Xây lác cùng thôn bảo bố tôi hâm, dạo này đang học làm thơ, chỉ thích vắng vẻ một mình. Nhưng tôi biết, chắc là không phải vậy.
Có lẽ bởi vết thương cũ tái phát. Ông đau nhức trong người vì những mảnh đạn không thể lấy ra và không muốn ai chứng kiến cảnh đau nhức của mình.
**
Phía bên kia đường là một dãy dài những ngôi nhà hoang hai ba tầng. Nhà nào cũng gắn máy lạnh đàng hoàng. Không người ở mà lại không phải nhà vô chủ. Chỉ đơn giản chủ nhân của nó vắng nhà. Người thì sau hợp đồng xuất khẩu lao động ba năm, lại tìm cách xuất ngoại một lần nữa. Có người vi phạm hợp đồng không thể tái xuất làm thuê xứ người, không thể đi đâu thì tìm cách vào Đắc Nông, Đắc Lắc trồng khoai. Nghe nói bán được cho người Nhật với giá rất cao.Người Nhật đang nhập khẩu và đầu tư cho giống khoai lang đặc biệt ngon của vùng này. Nhờ thế, trồng khoai lang tím đang là công việc hái ra tiền. Chẳng biết mai ngày công việc trồng khoai này kết cục như thế nào? Hay lại như ngàn thứ công việc “Đầu voi đuôi chuột” ở xứ chúng tôi?
Nhưng trước mắt nó giải quyết được nạn thất nghiệp mỗi năm thêm trầm trọng, lại nhất thời kiếm tiền “hơi bị dễ”, nói như kiểu các nhà “khoai lang học” nói với nhau!
Một, hai căn khác lai lịch không rõ và minh bạch lắm. Một trùm ma túy bị xử chết cách đây vài năm. Hai căn có chủ bị bệnh “ết” chết gần hết cả nhà. Những người sống sót không ai biết họ bỏ đi đâu?
Dù có gắn máy lạnh, tất cả số máy đó từ lâu hoàn toàn không dùng đến điện, dù nguồn điện vẫn còn, dây dẫn đến tận nơi.
Đêm nào có việc bần cùng phải đi qua đây, tôi cứ thấy rờn rợn người. Rõ ràng là lúc ấy không có gió, vẫn nghe thấy lào xào, lao xao ở sau lưng. Tôi không dám ngoái nhìn vào những cánh cửa đóng im ỉm từ lâu như thế.
Chỉ sợ bước ra từ những căn nhà đó không phải bóng dáng con người! Mà là thứ gì khác chưa quen với tâm thế con người!
Chỉ có duy nhất cuối dãy nhà ấy là có ngôi cấp bốn là của bố tôi là có người ở. Nhà có một gian gắn điều hòa cỡ nhỏ dùng cá nhân ở phía bên trong cùng. Bên ngoài là một phòng khách và một gian thờ, trên bàn thờ nhang khói suốt ngày. Bố tôi nhớ ngày giỗ các đồng đội cũ không thiếu một ai hồi ông ở chiến trường Quảng Đà, trong phiên đội đặc công đặc biệt.
Trước nhà có con suối nhỏ nước chảy quanh năm. Hai bên cây cối xanh um. Bố tôi thuê người xây chắn hai  đầu của khúc suối chảy quanh nhà, đặt tấm lưới, tạo một khoảng ao tự nhiên có nước chảy ra, chảy vào.
Cá nuôi chỗ này cực kỳ chóng lớn, mùi cá khi chín rất thơm, không tanh, miếng cá không bở như nuôi chỗ khác. Gần như chả phải chăm sóc gì nhiều.
Cá nuôi một năm, có con nặng bảy tám cân và chỉ toàn nuôi chép đỏ.
Nhờ có dòng nước này, “tiểu khí hậu” cho ngôi nhà của bố tôi mát mẻ quanh năm. Lại thêm mấy cây sấu, cây trám già che nắng. Kể như không có máy lạnh cũng chẳng sao, vẫn dễ chịu như thường. Đêm gần về sáng, mùa hè, có hôm ông vẫn phải đắp thêm cái chăn mỏng.
Bố tôi ở đây một mình.
Chỉ khi nào mẹ tôi có mặt ở nhà ông mới lên ngôi nhà không máy lạnh, bề thế của chúng tôi.
Ông nói ông muốn yên tĩnh, ở chung với chúng tôi ồn ào quá, ảnh hưởng đến vết thương còn mảnh đạn trong đầu.
Cạnh bờ ao lạ kiểu ấy có một phiến đá vuông vắn, nhẵn, phẳng xung quanh có khắc những chữ cổ, cho đến bây giờ vẫn chưa có ai đọc được nó có ý nghĩa gì? Bố tôi mất gần một tháng trời với nó. Ông dùng chiếc đục cũ, mòn gần hết lưỡi chạm một bàn cờ trên phiến đá này. Bên cạnh đó ông xây một cây hương nhỏ, đêm nào cũng thắp nhang. Dưới chân cây hương là bộ quân cờ bằng sừng trâu đủ hai màu đen, trắng tự nhiên không phải dùng đến sơn hay bất cứ chất nhuộm màu nào. Những quân cờ to gần bằng miệng chén. Quân, tướng bằng nhau, không phân biệt cấp bậc to nhỏ.
Những đêm không ngủ được ông thường ra đây, thoát khỏi gian có máy lạnh, ngồi một mình “đánh cờ với đồng đội” của ông. ( Là ông bảo thế chứ tuyệt nhiên không thấy ai ngoài bố tôi ngồi mỗi mình).
Ông dùng đèn pin soi và sắp quân cờ ra hai bên. Thỉnh thoảng lẩm nhẩm như bàn thảo với với một người nào đó, rồi cầm quân của phía bên kia đi  một nước. Lại cầm quân phía bên này đi một nước. Hôm thì bên này được, hôm kia được và thường là hòa nhau không bên nào thắng bên nào..
Cho đến lúc gần sáng, như thể cầm đang tay một người nào đó, ông cười không ra tiếng, nét mặt tươi, đi về gian phòng có máy lạnh của mình.
Thỉnh thoảng có đêm không đánh cờ, ông cầm theo cuốn sách. Trong đêm tối, núi rừng chỉ còn những vệt đen xẫm in lên nền trời mờ mịt, bố tôi bật đèn pin lên, làm thơ!
 Xong được tứ thơ nào là ông khập khễnh đi vội vào nhà, sửa chữa, chép lại như sợ bị vuột mất khổ thơ chợt đến bất ngờ, quý báu.
Cả ngày hôm sau, gần như ông cài chặt cửa phòng, không dậy.
Người nhà không thấy ông sang căn nhà không máy lạnh, tới xem ông thế nào? Nhưng không dám gọi. Đành để cơm, nước ngoài gian khách cho ông.
Có hôm đến chiều, thức ăn, đồ uống vẫn còn nguyên..
Lạ một nỗi, những ngày như thế, bố tôi có vẻ khỏe hơn thường ngày. Ông không hề có vẻ gì mệt mỏi hay đau nhức.
Tôi thật không hiểu thơ là cái gì, hay còn cái gì khác ngoài thơ, sao mang đến được cho ông nhiều sinh lực đến thế? Không ăn uống, thức cả đêm mà lại có vẻ khỏe khoắn hơn ngày thường?
**
Vùng tôi ở gần như cách biệt với bên ngoài. Nó là một địa danh ít người qua lại, ít người biết tới nếu không có đỉnh núi cao nhất tỉnh được đánh số. Núi cũng chỉ có số thôi chứ chưa có tên trên bản đồ khu vực.
Vì thế, thông tin hiếm hoi như thú rừng thời bây giờ.
Tôi hầu như chỉ biết rất ít về thế giới mình đang có mặt. Nhất là cách đây mấy năm, khi chưa mở con đường ngang qua nhà tôi bây giờ.
Ngay hiểu biết về cha mẹ mình, tôi cũng rất mù mờ.
Có những câu chuyện cha mẹ chỉ có thể nói với nhau, không thể nói với con cái! Thậm chí không thể nói với bất cứ ai khác ngoài bản thân mình, kể cả người má ấp môi kề..
Kiến thức sống này quá ít ỏi, khiến tôi rất băn khoăn.
Cha mẹ tôi là ai? Họ thực sự như thế nào, là điều tôi luôn day dứt trong lòng.
***
Không phải bỗng dưng mà tôi có ý nghĩ u ám, thắc mắc về cha mẹ mình. Như thế quả là không hiểu đạo làm người, còn bất hiếu nữa.
Nhưng những gì tôi thấy, khiến tôi không yên lòng.
Bao nhiêu năm sống chung một mái nhà, thực tình tôi chẳng mấy hiểu biết về gia đình mình.
Một gia đình nhìn bề ngoài còn bao người ước muốn mà chưa có được.
Bố mẹ tôi có cả trai lẫn gái, chẳng “thất mùa” nếp hay tẻ để phải bận tâm sinh con một bề, hay cô đơn cô quả.
Hai ông bà đều có lương hưu đủ để sống quãng đời còn lại. Nhà cao cửa rộng, đất đai hàng mẫu ta, chỉ cây trái trong vườn thôi đủ để nuôi sống cả nhà. Làm ra thêm bao nhiêu là của để dành..
 Tôi và người chị gái đều có công ăn việc làm nhờ sự ưu đãi là “con thương binh”. Chúng tôi đều có gia thất đàng hoàng.
Vợ tôi là chủ một tiệm tạp hóa trong vùng, doanh thu khá. Nói chung so với mọi người xung quanh thua kém chỉ một vài người là cùng.
Thiên hạ có thứ gì nhà chúng tôi có thứ nấy. Chỉ không gắn máy lạnh như một vài nhà bên cạnh, mà lý do tôi đã nói ở phần trước rồi. Nếu không vì lý do ấy, vài ba cái máy điều hòa với gia đình tôi lúc này chỉ là chuyện rất muỗi.
Ai một lần đến đây, nhìn cơ ngơi của chúng tôi bên ngoài cũng có ý thán phục, thậm chí tỏ ý thèm thuồng. Thật ít có gia đình nào được “nhiều bề” đến thế!

Vậy sao cha mẹ tôi lại không như mọi người, thanh thản, sống vui cái “sống đời” cùng thiên hạ?

Tôi lấy làm lạ, mỗi bận bố tôi kêu khó ở trong người. Mẹ tôi thường điện cho cậu tôi cách cả chục cây số đến, mặc dù nhà cậu rất neo người, còn khó khăn.Cậu sẽ thay mẹ tôi chăm sóc ông chứ không phải ai khác.
Cậu tôi ở cho đến khi bố tôi khỏi hẳn  bệnh mới về.
Tất tật mọi việc từ xoa bóp, giặt giũ, cơm cháo đều do một tay cậu tôi làm. Buổi tối cậu ngủ lại luôn, chung giường với bố tôi.
Hoàn toàn không phiền đến bất cứ ai trong nhà.
Mẹ tôi bảo: “ Anh em ông ấy hợp nhau. Có người nói chuyện, bố mày mau khỏi”. Còn nói: “Ông ấy thích phòng máy lạnh, mẹ chịu không quen”!
Tôi nghĩ không phải.
“Con chăm ông bà, hay dù ai chăng nữa cũng không bằng vợ chồng già chăm nhau” là nghĩa đời.
Dù có cực khổ đến đâu vợ hay chồng cũng đều không nề hà, không đùn đẩy vất vả cho người khác chăm bạn đời của mình.
Những người, những việc như thế ở vùng sơn cước quê tôi bao đời nay là lẽ tự nhiên. Bảo mẹ tôi ngại khó ngại khổ lại càng không ổn, đều trái với tính cách và thói quen của bà.

Vả lại nếp sống, cách thể hiện trong gia đình tôi như bây giờ mới có ba năm nay, sau lần bố tôi đi giám định lại thương tật.
Hôm đó bố tôi đi đến tối, không thấy về nhà..
       Mấy mẹ con chúng tôi phải vất vả ngược xuôi tìm kiếm mãi mới thấy, nói mãi ông mới chịu về. Không nói lý do vì sao. Không ai hiểu căn cớ gì,  bỗng dưng lại thành ra thế?

Chứ ngày mới về, bố mẹ tôi đâu có sống với nhau như vậy?
 Vợ chồng thương nhau, chăm sóc cho nhau hơn cả vợ chồng son đang còn trẻ, yêu quý nhau không thể tả hết..như dân làng hồi ấy kể. Hạnh phúc ít khi thấy ai hơn cha mẹ tôi ở đất này!

Ngôi nhà chúng tôi ở không có máy lạnh bây giờ chính là kết quả của cuộc sống chung hạnh phúc, chung sức chung lòng  của hai người một thời gian dài như thế giữa cha mẹ chúng tôi mà có. Tuy kiểu kiến trúc đã cũ, không được thanh thoát như nhiều nhà thời bây giờ. Hai mươi năm trước nó là ngôi nhà to, đẹp nhất vùng!
Nhiều người còn nhớ chuyện bố tôi sau ngày ở chiến trường về, “bắt chước Tô Vũ chăn dê”.

Thời bao cấp, nhiều người khốn khổ, khó khăn như thế mà ông nuôi được đàn dê mấy trăm con là hy hữu, duy nhất tỉnh này. Đàn dê ấy là nguồn tài lực duy nhất để có được ngôi nhà vợ chồng tôi đang ở bây giờ. Khi cả vùng chưa ai có nhà xây, chưa chỗ nào có điện. Ra thành phố phải qua mười mấy con suối, vượt qua chặng đèo dài, heo hút và xa..

****
Một chiều phố núi, tôi đi cầu lông về. Thói quen này tôi mới học được theo lối “thời thượng” của một tay trưởng cự mới nổi. Y vốn là con bạc phất lên nhờ bịp bợm, đỏ đen ở vùng này học làm sang. Y mua một miếng đất ngoài trung tâm xã, mở sân đánh cầu lông. Mục đích thể thao chỉ là hình thức bề ngoài. Cái chính tạo bình phong để che mắt mọi người, làm những việc chỉ trời biết, đất biết và y biết!.

Buổi chiều nào ở đây cũng tụ bạ năm ba người, trong đó có tôi. Tôi thì tôi biết học làm sang là thứ không ra gì và không dễ học. Người ta có thể một đời người đã làm được giàu. Nhưng để sang trọng, cao quý phải mất ba bốn đời mới nổi.
Vả lại tôi đến đây không phải vì câu chuyện đó. Sang hay hèn như mẹ tôi nói có phận số cả rồi, có có muốn cũng chẳng khác được.
Tôi đến đây vì lẽ khác.
Ở nhà, trong căn hộ không có máy lạnh, bức bối thời tiết chỉ là chuyện nhỏ. Trai núi, sống miền rừng, nóng lạnh đâu có cái gì đáng phải quan tâm?
Lý do tôi đến chỗ như thế này là để quên đi sự áy náy phân vân trong lòng. Không thể làm ngơ đi được khi cách xử sự của bố tôi mỗi ngày mỗi khang khác.

Mới sáng nay thôi, vừa xảy ra chuyện, tôi ái ngại vô cùng..
Bố tôi có khách.
Có mấy ông nhà văn nhà báo mãi trên tỉnh đưa hai ông từ Hà Nội lên. Người ta muốn gặp bố tôi để viết bài “ Hậu Clip Người anh hùng đặc công” mà bố tôi là một trong số các nhân vật phóng sự truyền hình vừa được giải “Bông sen bạc”.
Bố tôi có vẻ rất vui. Nom mặt ông rạng rỡ hơn cả ngày thường. Đứng bên ngôi nhà không gắn máy lạnh bên này nhìn sang phía căn nhà cấp bốn ông ở rõ mồn một, vì thế đất cao hơn.
Thấy ông đi ra đi vào, cười nói rộn rạo, bốc máy gọi đi chỗ này, chỗ kia.
Đầu tiên là cậu tôi đến. ( Thường vẫn vậy, cậu là người ông nhớ đến đầu tiên, bất kể chuyện gì ). Sau đấy là mấy ông bạn đồng ngũ người các xã lân cận.
Mọi người xuống khúc suối làm ao gần bàn cờ đá của bố tôi bắt cá, mang nỏ ra bắn gà. Một ông chạy ra chợ mua thêm thức ăn. Hai ông chạy sang nhà không máy lạnh của chúng tôi hỏi chỗ làm bếp.
Rồi đun. Rồi nấu. Rồi bưng lên..
Đến lúc hoàn thành mâm rượu, tôi và vợ tôi mới được gọi đến ngồi vào mâm cho đông đủ cả nhà.
Hình như không ai để ý đến chi tiết là lạ này: Chúng tôi như thể hàng xóm sang chơi chứ không phải con ông vậy?
Nhậu nhẹt chỗ nào chẳng như chỗ nào? Tưng bừng. Bông bốc. Nói cả những chuyện lúc không nhậu sẽ không nói ra.
Một ông Hà Nội có ý quan tâm hỏi bố tôi về chuyện gia đình. Bố tôi làm như vẻ không nghe rõ, hay chuyện này không cần thiết, không quan trọng gì, ông lảng sang chuyện khác:
- Các bạn thông cảm. Chuyện về “lực lượng đặc biệt” của ta thì nhiều. Kể cả đời chưa hết. Có chuyện sống để dạ, chết mang đi. Có những thứ lá quanh đây rất nhiều, bôi vào người chó khôn đến mấy cũng không phát hiện ra được. Những chuyện đấy ngay đến vợ con anh em ruột bây giờ cũng không dám nói. Chiến tranh kết thúc gần bốn mươi năm rồi, vẫn còn những điều bí mật. Nguyên tắc quân sự là như thế. Nên các anh có hỏi điều gì đó không thể trình bày, cũng xin được thông cảm..
Ông Hà Nội kia cứ há hốc, ông đang hỏi về gia cảnh chúng tôi chứ có tò mò bí mật quân sự gì đâu?
Lúc đó tôi tái mặt, tai như ù đi. Hình như bố tôi cố tình lảng tránh, không muốn nhắc đến chúng tôi.
Thường nhà ai cũng vậy. Có khách tới nhà, vợ chồng con cái đều vui vẻ đón tiếp. Sao bố tôi không đả động gì đến vợ con mình?
Mẹ tôi ngồi chơi bên nhà cô giáo năm xưa là học trò của mình chỉ cách mấy nhà, ông cũng không cho gọi về.
Thế là làm sao? Bố tôi không muốn phiền, hay ông giận điều gì?

Khách về hết. Bố tôi lại sang căn nhà cấp bốn bên kia đường. Tôi ngồi một mình. Bứt dứt, bức bối, tôi vớ cái vợt và ra đây. Chơi thì chơi chứ không bụng dạ nào để ý đến xung quanh. Tôi liên tục thua. Cho mãi gần nhá nhem tối mới quay về.
Chút nữa thì tôi đâm xầm vào một người.. Một người dính líu nghiêm trọng cuộc đời tôi, cho đến giây phút này, tôi vẫn ngỡ lão là người dưng nước lã, chả liên quan gì đến mình! Mặc dù đôi lúc có lờ mờ , nghi nghi, nghĩ có chuyện chi đó..

****
Có một cuộc đấu cờ bí mật xảy ra đã lâu, mãi đến sau này tôi mới biết. Cuộc đấu giữa bố tôi với một người đàn ông khác, khi đêm đã khuya lắm rồi.
Đêm đó không trăng sao. Bố tôi không ngủ, nghĩ mãi chưa trọn vẹn bài thơ về “tình đồng đội”. Ông lấy cây đèn pin thập thễnh đi ra bờ ao, nơi có bàn cờ bằng đá vừa tạc xong được mấy ngày.
Bố tôi vừa bày xong quân của cả hai bên thì phía sau có tiếng động. Theo phản xạ, thói quen của người lính đặc công, ông quay lại. Bố tôi nhận ra ngay có người đang nấp sau cây me già cổ thụ, gần sát bờ đường. Ông bấm đèn. Bóng người ấy lò dò hiện ra trước sự kinh ngạc của bố tôi.
Ông lên tiếng:
- Ra bác Xây, bác đi đâu vào giờ này?
- Tôi cũng không ngủ được.Tính ra chơi với chú ván cờ cho chóng hết đêm.
- Nếu vì lý do ấy, mời bác về nhà ngủ. Không ai chơi cờ với nhau ngoài trời đêm hôm khuya khoắt thế này.
Lão kia cứ nài nỉ, đòi chơi bằng được, hình như có chuyện gì khác chứ không phải chuyện chơi hay không chơi một ván cờ. Bố tôi đứng lên, bảo lão đi vào nhà. Lão ngần ngừ một lúc rồi theo sau.
Bố tôi không bật điện, chỉ thắp một cây nến đủ để hai người ngồi nói chuyện. ( Đây là cây nến mua từ lâu phòng khi mất điện. Đường rừng điện mất là chuyện cơm bữa, không như ở thành phố ).
Cặp mắt bị lác một bên của lão đảo quanh một lượt. Hai tay lão thu trước vạt áo đại cán bốn túi, ngận ngự chưa muốn ra lời.
Bố tôi phải gặng hỏi lão mới nói:
- Quân tử một lời như dao chém đá! Tôi đã hứa với chú từ đấy đến giờ chưa  hề nói với ai vì đã nhận tiền bồi dưỡng của chú khá hậu hĩnh rồi. Nếu cảnh ngộ tôi không như bây giờ, có lẽ tôi không bao giờ dám nói lại với chú. Như thế nó muối mặt lắm..

Bố tôi nhìn ông thợ hoạn phương phi béo tốt ngày nào. Sao bây giờ ông ta nom thảm hại thế kia ? Chả nhẽ hũ rượu ngâm toàn “pín chó, pín lợn” bây giờ không còn tác dụng nữa sao?
Không phải đợi lâu nhà “Pín học” ra lời:
-  Cứ tưởng chú mới là người khó khăn về đường con cái. Cái khổ đó, đến cùng lại là tôi chú ạ. Không nói chú cũng biết tôi giai gái đủ cả, lại hơn chú một đứa. Có ai ngờ chúng lần lượt bỏ tôi mà đi. Đứa con gái lũ cuốn mất năm xưa không kể đến. Hai thằng bằng gậy bằng sào giờ cũng hỏng cả hai..

Lão không kể, việc trong làng ai cũng biết. Thằng trai lớn nhà lão lái xe năm ngoái đâm đầu xuống vực. Thằng trai út giờ đang học gì bên Thái Nguyên kia mà?
Trên gò má cao dưới đôi mắt lác về bên trái của lão lăn ra mấy giọt nước mắt, nước mắt thực sự chứ không phải của cá sấu, khiến bố tôi mủi lòng. Lão nức nở như trẻ nhỏ:
- Ấy cái thằng út nhà này giỏi trai, làng này ai cũng khen nó học giỏi, giờ cũng hỏng nốt rồi chú ạ. Chả biết nó đua đòi chúng bạn thế nào giờ trúng bệnh vô phương cứu chữa! Chả biết nó bỏ vợ chồng tôi đi ngày nào. Vì thế anh mới phải đánh liều sang đây xin chú lại cho nó làm “con nuôi” một đứa.. Dẫu gì nó cũng là giọt máu của anh, chú vẫn còn đứa nữa cơ mà.. Sợ rằng sau già không nơi nương tựa thì nhục lắm chú ạ!
Bố tôi giận run lên. Phút chốc ông không kìm chế được mình, túm cổ áo đại cán của lão, gầm khe khẽ:
- Vậy là ông nuốt lời? Năm chỉ vàng tiêu hết, giờ đòi lại con? Tôi ..tôi truyền hồn cho ông biết: Ông muốn gì cũng được, kể cả cái mạng thương tật này của tôi.. Nhưng con thì không được, không khi nào được, ông nhớ chứ?

Lão lác người mềm như cái dưa. Lão biết bố tôi bề ngoài nhũn nhặn, ân cần với tất cả mọi người, lớn cũng như bé, nhưng không phải là người nói chơi! Lão lắp bắp xin lỗi. Thề sống chết từ nay không dám đụng đến chuyện này nữa!
Bố tôi đẩy lão ra, ông như người tuyệt vọng, ngồi phịch xuống ghế. Hai người im lặng khá lâu. Lão lác chào để về, bố tôi gọi lại:
- Ông cứ ngồi đấy đã! Ông thừa biết sẽ xảy ra chuyện gì nếu điều này tiết lộ ra ngoài. Cả hai nhà sẽ bị xáo trộn ghê gớm, không biết đâu mà lường! Vả lại cả hai đứa con tôi giờ đều có vợ có chồng. Vợ chồng chúng nó sẽ ăn ở với nhau ra sao nếu biết chuyện này?
- Thì tôi sẽ nhận con Huyền là con nuôi, con kết nghĩa chẳng hạn.Thiên hạ nhận đầy trường hợp như thế mà?
Lần đầu trong đời, bố tôi cười không ra tiếng, có ý mỉa mai:
- Ông thử hình dung xem, liệu nó có dám nhận làm con kết nghĩa của ông bà không?
Bố tôi không nói hết, nhưng lão lác biết ông định nói gì?  Một lão làm nghề thiến chó, thiến lợn dong, cứ nhà nào có đàn bà hóa là lân la gạ gẫm. Có lần dân quân xã bắt dẫn lên ủy ban về tội vồ phụ nữ tắm tiên ngoài suối. Gia sản chỉ là cái nhà tình nghĩa giúp đỡ người nghèo dân làng xây cho.. Người như thế liệu cô giáo Huyền em gái tôi có chịu nhận làm bố nuôi hay bố kết nghĩa không?
-          Tôi sẽ có cách. Cổ nhân có câu: “Máu chảy đến đâu.. “ mà!
Bố tôi im lặng hồi lâu không nói gì. Không biết có phải vì tự tin bởi điều kể trên không, hay muốn tỏ ra là người cao thượng, ( cũng có thể trong lúc bất ngờ, bố tôi cũng bị nhầm. “Con cái với cha mẹ” là câu chuyện dài, khó nói trước được điều gì. Kể cả cha mẹ không ra sao, với chúng vẫn luôn là cha mẹ ) lúc sau ông nói:
- Ban nãy bác bảo sang đây muốn chơi một ván cờ phải không?
- Chú cho anh xin phép. Là lúc nãy vui miệng nói thế. Bây giờ chú cho anh về, chả còn lòng bọng nào để cờ với quạt nữa..
- Làm người không nói thì thôi, nói là phải nhớ, phải giữ lời. Từ ngày có bàn cờ này, trong làng tôi chưa hề đánh với ai, chỉ đêm vui mới chơi với đồng đội đã khuất. Giờ tôi sẽ chơi với bác. Nếu bác thắng tôi sẽ nhận lời yêu cầu vừa rồi. Còn thua đừng có bao giờ nói đi nói lại chuyện này nữa!
 Bàn cờ đá lần đầu có hai người ngồi đối diện. Mỗi người một cây đèn bấm trong tay. Đến tảng sáng cuộc cờ kết thúc trong eo óc tiếng gà gáy cuối thôn.
Lão thua ba ván liền!
Không ngờ bố tôi lại là kỳ thủ cao cơ đến thế.. Hay là còn có thế lực hỗ trợ nào từ các đồng đội của bố tôi mà tháng nào ông cũng chơi với họ năm, mười đêm?

Tôi đâm vào lão Lác. Lão ngã bổ chửng ra phía sau, lão lồm cồm bò dậy. Lão không la lối hay chửi bới câu nào như chuyện thường xảy ra trong trường hợp này. Hình như lão cố ý đợi tôi ở đây đã lâu và biết người vừa đâm xầm vào mình là ai?
Lại còn hỏi tôi có làm sao không? Tôi nói tôi không sao, định nhảy lên xe luôn về nhà. Lão chạy theo níu tôi lại: “ Tôi có chuyện muốn nói với cậu..”. Tôi quay đi: “ Tôi biết hết cả rồi. Ông không cần nói. Từ giờ đừng tìm tôi nữa”!

Tôi ga hết tốc lực. Xe như điên chạy trên đường. May mà lúc đó quãng đường này không có người hay xe cộ chạy qua. Nếu không chưa biết xảy ra chuyện gì.
Đến nhà, tự nhiên tôi không muốn vào nhà.
Ngôi nhà không máy lạnh lặng im trong bóng tối, như chưa xảy ra chuyện gì. Bốn bề vẫn im ắng như không. Chỉ nghe thấy tiếng suối róc rách chảy.Tiếng nước đi thật là êm.
Không chủ ý, tôi dựng xe đi đến bên bàn cờ bằng đá của bố tôi bên gốc me già.
Ngồi một mình.. Tôi đang đúng hay tôi đang sai? Đúng sai thế nào từ những câu chuyện của thế hệ sinh thành?

Đêm nay bố tôi khỏe, không đau nhức như mọi khi. Có lẽ là ông đã ngủ say và không biết vừa xảy ra chuyện gì!

********



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phiên tòa xét xử năm công an dùng nhục hình, khiến anh Ngô Thanh Kiều (32 tuổi, Phú Yên) mất mạng

(PLO) – Phiên tòa xét xử năm công an dùng nhục hình, khiến anh Ngô Thanh Kiều (32 tuổi, Phú Yên) mất mạng bắt đầu từ sáng sớm ngày 10-3. Tuy nhiên, đến hơn 10h , 19 trong số 23 nhân chứng được tòa triệu tập vẫn không đến dự phiên xử. HĐXX nhận định việc vắng mặt quá nhiều nhân chứng sẽ bất lợi cho việc xét xử nên quyết định tạm hoãn phiên tòa đến 26-3. 

10g10, Hoãn phiên tòa để triệu tập thêm nhân chứng
Sau gần một tiếng đồng hồ HĐXX thảo luận, hội ý, thẩm phán Lý Thơ Hiền, chủ tọa phiên tòa, công bố quyết định hoãn phiên tòa. 

 Năm bị can dùng nhục hình đánh chết anh Kiều trước vành móng ngựa. Ở bàn bên cạnh, chị Tâm - vợ của nạn nhân, người phụ nữ khốn khổ giờ đây không biết nương tựa vào đâu để nuôi dưỡng hai con còn rất nhỏ
Theo đó, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa để triệu tập thêm các nhân chứng. Phiên tòa sẽ mở lại vào lúc 8g ngày 26-3. Thẩm phán Lý Thơ Hiền cũng cho rằng yêu cầu của LS Võ An Đôn (người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho gia đình bị hại) về thay đổi chủ tọa phiên tòa là không có căn cứ nên tòa bác yêu cầu.

 Lực lượng chức năng có mặt để giữ an ninh cho phiên tòa
10 giờ
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, LS Nguyễn Văn Thắng (Đoàn Luật sư Hà Nội), bào chữa cho bị cáo Thành cho biết cáo trạng đã được thay đổi mà dựa vào bất cứ căn cứ nào  là một điều rất bất thường.
Theo đó, toàn bộ nội dung vụ án không có gì thay đổi, mà chỉ thay đổi điểu khoản truy tố đối với 4 bị can được tại ngoại (Quyền, Quang, Mẫn và Huy) từ truy tố theo khoản 2 Điều 298 Bộ luật Hình sự
thành khoảng 1 Điều 298 Bộ luật Hình sự. Như vậy, khung hình phạt cho bốn bị can này được giảm từ hai đến bảy năm tù xuống còn từ 6 tháng đến 3 năm tù.
Ông Lê Ngọc Hoàng (Đoàn Luật sư TP Hà Nội), luật sư thứ hai bào chữa cho bị can Thành, cho cũng biết khi gia đình vào trại tạm giam thăm bị can Thành đã phát hiện bị can này bị giam không có lệnh từ tháng 8-2013 đến ngày 13-1-2014. Trước đó, lệnh tạm giam Thành đã hết hiệu lực từ tháng 8-2012 nhưng không có quyết định gia hạn.
9h15 phút
Trong phần làm thủ tục, hai bị cáo Thành và Quang đề nghị hoãn phiên tòa để triệu tập thêm các nhân chứng vì phiên tòa hôm nay vắng đến 19 trong 23 nhân chứng được tòa triệu tập.
Chị Ngô Thị Tuyết, chị ruột anh Kiều cũng đề nghị thay đổi chủ tọa phiên tòa do thẩm phán chủ tọa Lý Thơ Hiền nhiều lần gây khó khăn cho luật sư bên bị hại. Chị Tuyết cũng lo ngại HĐXX này xét xử không khách quan. Ngoài ra, chị Tuyết muốn cung cấp thêm băng ghi âm lúc khám nghiệm tử thi anh Kiều để tòa xem xét.

 Chị Tuyết (chị nạn nhân-bên phải) và chị Tâm (vợ nạn nhân) tại tòa. 
LS Võ An Đôn (Đoàn Luật sư Phú Yên), người bào chữa miễn phí cho bên bị hại, cũng đề nghị thay đổi chủ tọa phiên tòa do đã nhiều lần bị vị thẩm phán này gây khó khăn. “Tôi đã hơn 10 lần đến tòa nhưng thẩm phán Hiền không cho đọc hồ sơ. Thẩm phán Hiền luôn gây khó khăn. Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng không có tên LS bên bị hại.

 Năm bị can là cán bộ công an trước vành móng ngựa
Bà Ngô Thị Hồng Minh, đại diện Viện KSND TP Tuy Hòa tại phiên tòa đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa vì hai bị cáo Thành và Quang đề nghị tòa triệu tập thêm nhân chứng. Việc vắng 19 nhân chứng sẽ không đảm bảo việc xét xử.

 Chủ tọa phiên tòa
9h 
Cáo trạng nêu: Năm sĩ quan công an chuẩn bị ra hầu tòa, gồm Nguyễn Minh Quyền (thiếu tá, Đội phó Đội trinh sát Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội- PC45, Công an tỉnh Phú Yên), Nguyễn Tấn Quang (thiếu tá, Đội phó Đội điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP Tuy Hòa), Phạm Ngọc Mẫn (thượng úy), Đỗ Như Huy (trung úy), Nguyễn Thân Thảo Thành (thiếu úy, đều là cán bộ điều tra, trinh sát của Công an TP Tuy Hòa). 
Bốn bị can là cán bộ công an tại tòa. Ảnh: T.Lộc 
Trong đó, bị cáo Thành bị bắt tạm giam từ ngày 15-1-2013, bị Viện KSND TP Tuy Hòa truy tố tội dùng nhục hình theo quy định tại khoản 3 Điều 298 Bộ luật Hình sự, có mức án từ 5 năm đến 12 năm tù; các bị cáo còn lại bị truy tố tội dùng nhục hình theo quy định tại khoản 1 Điều 298 Bộ luật Hình sự có mức án từ sáu tháng đến ba năm tù. 
8g35: HĐXX bước vào phòng xử án
Chủ tọa phiên tòa, thẩm phán Lý Thơ Hiền công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử. Theo báo cáo của thư ký phiên tòa, phần lớn trong 23 nhân chứng là cán bộ Công an Phú Yên và Công an TP Tuy Hòa đều vắng mặt. Tòa đang thâm tra lý lịch 5 bị cáo. Ông Lê Đức Hoàn, Phó Công an TP Tuy Hòa, được tòa triệu tập với tư cách nhân chứng, cũng không có mặt. 

 Rất đông người dân quan tâm đến vụ án đã có mặt tại phiên tòa. Ảnh: T.Lộc
 7h30: Theo luật sư Võ An Đôn (Đoàn Luật sư Phú Yên), mặc dù người nhà anh Kiều đã mời ông bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho gia đình người bị hại nhưng trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, TAND TP Tuy Hòa không đưa luật sư này vào tham gia tố tụng. Cách đây mấy ngày, tòa chỉ gọi điện đề nghị Luật sư Đôn đến tham gia phiên tòa. Luật sư Đôn cũng xác nhận gia đình bị hại và luật sư không hề nhận được cáo trạng của Viện KSND TP Tuy Hòa.
6h30 sáng 10-3: Nhiều người quặn lòng khi thấy chị Trần Thị Tâm (29 tuổi, vợ anh Kiều) đưa hai con nhỏ đội khăn tang đến theo dõi phiên tòa. Chị Tâm bế đứa con nhỏ đứng ở một góc sân tòa; đó là cháu Ngô Thị Kim Oanh, chào đời ngày 1-6-2012, tức 17 ngày sau khi cha cháu bị công an đánh chết. Đứa con lớn của anh chị là cháu Ngô Thị Thanh Thảo (8 tuổi) ngơ ngác nhìn mọi người xung quanh. “Con tôi ra đời mà không thấy mặt cha vì họ đã cướp đi mạng sống của cha nó rồi!”- chị Tâm nói trong nước mắt.


Chị Tâm và hai con nhỏ trước tòa. Ảnh: Tấn Lộc 
Thảm cảnh của gia đình nạn nhân bị công an đánh chết:
Chị Tâm cho biết hôm nay chị xin chủ quán nghỉ một ngày rửa chén thuê để đi dự tòa. Sau khi anh Kiều chết, chị Tâm sinh con một mình trong hoàn cảnh hết sức khốn khó. Khi cháu bé được ba tháng, ba mẹ con về ở với ông bà nội các cháu. Hàng ngày, chị Tâm đi rửa chén thuê cho các quán ăn, đến 9-10 giờ đêm mới về, mỗi tháng chỉ kiếm được 1,2 triệu đồng.

 Hai con anh Kiều còn quá nhỏ để hiểu hết mất mát mà các em phải chịu.  Ảnh: Tấn Lộc
Thấy các cháu thiếu ăn, thiếu sữa, ông Ngô Văn Cộ (cha anh Kiều) dù đã 70 tuổi, thường xuyên đau bệnh đã cố gắng đi làm phụ hồ để kiếm tiền thêm nuôi các cháu. Từ khi anh Kiều mất, bệnh tim của mẹ anh ngày càng nặng nhưng hàng ngày vẫn chăm giữ hai cháu nhỏ để chị Tâm đi làm thuê.

 Người cha già cầm di ảnh những vết thương  trí mạng của con mình.  Ảnh: Tấn Lộc
Chị Ngô Thị Tuyết (45 tuổi, chị ruột anh Kiều) kể: “Phải nhiều ngày sau khi em tôi chết, gia đình mời bác sĩ đến nhà rồi mới dám nói cho mẹ tôi biết sự việc. Từ đó, mẹ tôi suy sụp hẳn”. Chị Tuyết là người phát hiện những bất thường về cái chết của em trai mình. Suốt nhiều tháng liền, chị là người đại diện gia đình gửi đơn khiếu nại đến nhiều cơ quan chức năng, yêu cầu điều tra, xử lý hành vi đánh người các cán bộ công an. “Nếu em tội phạm tội thì có luật pháp xử lý. Tại sao giữa đêm khuya, dù không có lệnh bắt, họ lại ngang nhiên đến nhà còng tay bắt em tôi đi, rồi họ tự cho mình cái quyền được đánh đập người khác”- chị Tuyết uất ức.

 Gia đình người bị hại  và những hình ảnh cuối cùng đầy đau đớn của anh Kiều. Ảnh: Tấn Lộc
Ngồi đợi đến giờ tòa xử, chị Tâm bức xúc cho biết trong suốt quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan chức năng không cho gia đình biết gì cả. “Tôi nghe nói viện kiểm sát có hai cáo trạng về vụ án này nhưng đến giờ gia đình tôi không thấy, không biết vì họ không gửi. Gần một năm nay, gia đình tôi đã gửi rất nhiều đơn đến các cơ quan chức năng, kể cả TAND Tối cao, yêu cầu làm rõ vì sao họ không đưa vụ án ra xét xử. Bây giờ, gia đình tôi chỉ mong tòa xét xử công minh, đúng người, đúng tội; đừng vì những người phạm tội là cán bộ công an mà thiên vị, giảm nhẹ”- chị Tâm nói. Chị Tuyết cho biết thêm, tại phiên xử này, gia đình chị sẽ yêu cầu tòa buộc những cán bộ công an trên phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai đứa con của anh Kiều đến khi trưởng thành.

 
Ngày 13-5-2012, trong quá trình xét hỏi, năm công an trên đã dùng nhục hình, đánh chết anh Ngô Thanh Kiều (ngụ thôn Mỹ Thuận Ngoài, xã Hòa Đồng, huyện Tây Hòa, Phú Yên), nghi can của một vụ trộm. 

TẤN LỘC

Phần nhận xét hiển thị trên trang