NGỌN KHÓI CÒN BAY VỀ MƯỜNG THEN
(NCTG) “Và tôi cần phải nghĩ rằng, nếu một lần nữa chiến tranh xảy ra (chứ không phải duy ý chí mà mong rằng, chiến tranh sẽ không bao giờ còn xảy ra), thì với suy nghĩ và tầm nhìn như hiện nay, dân tộc tôi có thể thêm một lần nữa đánh bại kẻ thù, với tất cả những gì chúng tôi đã có và đang có hay không?”.
Tiến ra mặt trận - Ảnh: Mạnh Thường
Tôi không có một câu chuyện dài để kể. Một câu chuyện dài bao trùm nhiều không gian và thời gian, đem tới nhận biết đầy đủ và toàn bộ là điều tôi không bao giờ có thể hình dung. Tôi chỉ có những mảnh vỡ. Chúng tấn công tôi từ những góc khuất trong tâm trí, tựa như những truyện ma, và từ những góc khuất tối đen của thế giới bên ngoài tôi, một thế giới mà những khó hiểu, mù mịt, rối ren ngày càng nhiều thêm. Những khó hiểu, mù mịt, rối ren nhiều thêm theo số tuổi của tôi bởi càng lớn lên và già đi, nhận biết của tôi càng chông chênh, càng nhiều nghi hoặc, thậm chí tôi từ chối một số khái niệm. Thêm nữa, những gì đang đến từ thế giới bên ngoài ngày càng mâu thuẫn đối chọi nhau tới mức không thể lý giải được… Tôi không tấn công lại một truyện ma hay một điều tôi không biết. Tôi chênh vênh, ngờ vực, và bị cuốn vào chúng…
(Người kể chuyện)
Bảy giờ tối đêm 17-2-1979.
Thiếu úy Ma Văn Ló đứng bên cửa hầm chỉ huy tác chiến nhìn ra dãy núi cao trùng điệp phía trước. Trong khoảnh khắc, anh không nhận thấy dãy núi quen thuộc, nơi mà từ đó, khi trời còn chưa rạng sáng, xe tăng quân Trung Quốc tràn sang sau những loạt pháo kích dữ dội. Những vách núi xám đen một lần nữa choán trước mắt anh, nhưng anh không còn cảm giác về nó như một dãy núi. Khứu giác của người chiến binh gần như tê liệt, hai tai ù đặc. Vì thế, tôi sẽ không tả lại những gì đang diễn ra ở chiến trường, xung quanh hầm chỉ huy và triền núi đổ xuống, từ điểm cao 1081 cho tới những con đường mòn dưới thung lũng.
Tai anh gần như không còn nghe tiếng kèn thu quân của giặc cách nay chừng nửa giờ đồng hồ, nhưng bằng những giác quan còn lại, anh cảm nhận được những chuyển động âm thầm dưới thung lũng, như một con vật khổng lồ thu lại những giác hút của nó. Cánh tay ghì chặt cò súng của anh nới lỏng ra một chút. Anh xoay người bước vào phía trong hầm, nhìn những đồng đội bị thương xanh xao, nét mặt biến dạng vì đau, có người bất tỉnh dưới lớp băng trắng quấn quanh đầu. Hầm cứu thương đã chật, tổ quân y phải dựng lán cấp cứu tiền phương ngay phía sau hầm chỉ huy, sơ cứu, phẫu thuật, băng bó vết thương cho chiến sĩ trong khi điểm chốt phía trước đang nổ súng đánh trả quân xâm lược.
Đồng đội bị thương chủ yếu do mảnh pháo bắn dọn đường tấn công của quân Trung Quốc và những đợt chạm súng đầu tiên đánh chặn xe tăng Bát Nhất. Trong phạm vi chiến đấu của súng tiểu liên AK 47 và súng trường SKS, quân giặc tử vong và bị thương phần nhiều qua mỗi đợt tiến quân, chiến sĩ ta rất ít thương vong.
Ma Văn Ló chưa dám ngồi xuống, sợ mình sẽ quỵ ngã sau gần trọn một ngày đứng trong chiến hào, anh dựa lưng vào vách hầm, co duỗi đôi chân tê mỏi. Trong khoảnh khắc, nhận biết của anh chợt tắt lặng, anh rơi vào một vùng êm dịu tối đen, không trọng lượng. Thảng hoặc, một âm thanh ban ngày vụt qua, va vào vùng tiềm thức tối đen. Tiếng “Mế ơi” của những người lính cả hai bên trước khi văng tới cái chết. Tôi muốn để người chiến binh được nghỉ ngơi trong vòng một phút đồng hồ tự ngắt của dòng nhận thức, tựa như một giấc ngủ đứng.
Thiếu úy Ma Văn Ló đột ngột trở thành người chỉ huy cụm chốt Mười Ba, điểm cao 1081 trong trận kháng cự quân xâm lược từ mờ sáng hôm nay, khi người chỉ huy trưởng được tập hợp hội ý tác chiến đêm ngày 16-2, tại Sở chỉ huy tiền phương đóng tại điểm cao 1090, Bát Xát, không kịp trở về trước giờ nổ súng. Tôi sẽ không bao giờ biết được chỉ huy trưởng là người kỹ tính hay xuề xòa, có nghiêm khắc, sâu sát trong luyện quân hay quan liêu, ông lạnh lùng gang thép hay có đôi phần cảm tính. Đơn giản bởi vì anh chiến binh của câu chuyện này không hề kịp nghĩ tới bất cứ điều gì tương tự trong suốt cuộc chiến tranh.
Hai giờ chiều cùng ngày, máy thu phát tín hiệu vô tuyến ngưng nhận lệnh phối hợp tác chiến từ Sở chỉ huy tiền phương. Nghe tiếng súng tiểu liên vẫn vang rền từ phía điểm cao 1090 và 1086, Ma Văn Ló không cho rằng giặc đã chiếm được hai cụm chốt này. Từ hai giờ chiều trở đi, anh lắng tai nghe tiếng đạn pháo từ đội hình bố trí dọc theo các điểm cao biên giới, tiếng súng phản công của đồng đội từ các điểm chốt lân cận, lấy đó làm hiệu lệnh tác chiến.
Chín giờ tối, tổ nuôi quân từ tuyến sau gùi cơm nóng, bánh tro, cháo trắng lên trận địa. Anh nuôi tiểu đoàn cố giấu nước mắt chảy dài trên gương mặt khắc khổ vì nhiều thương binh còn không nuốt được nước cháo. Gùi được cơm tới trận địa, hai chiến sĩ nuôi quân bị thương nặng vì mìn do quân giặc cài lại trên đường. Bộ đội ăn cơm trong các hầm tránh pháo, dưới ánh sáng đèn măng sông chập chờn vì cơn gió lạnh buốt thổi từ phía núi. Anh nuôi đi từ hầm này qua hầm khác, luôn miệng giục: “Cơm canh tôi nấu đấy, bánh tro của đồng bào mang lên ủy lạo tối qua, các anh em ăn đi, ăn cho no còn đánh giặc, đừng sợ tôi thiếu gạo! Mai kia hòa bình, tôi bắt mấy thằng Trung Quốc về chăn lợn, tưới rau, cõng gạo… phục dịch anh em!”. Cậu binh nhất trẻ măng vừa lùa một lúc hai bát cơm ngẩng lên cười tươi rói rồi lại chìa tiếp cái bát sắt tráng men. Ma Văn Ló thầm đau xót, anh biết ngày mai, ngày kia, không chắc đồng đội của anh còn được ăn miếng cơm còn hơi ấm như khuya nay.
Một tràng tiểu liên dội lên khô khốc, đập vào đôi màng nhĩ đang lùng bùng của người chiến binh. Tiếp theo là tiếng bắn hai phát một đều đặn. Anh biết tổ tuần tra cụm chốt Mười Ba đang đụng độ với thám báo giặc. Những người lính đã trở về vị trí chiến đấu. Không lâu, Thủy và Phong dìu trên vai một người đồng đội, về tới.
- Báo cáo chỉ huy, thám báo giặc nhóm bốn tên, chúng tôi phải nổ súng tiêu diệt, không có tù binh!
Cơn chấn động còn đọng trên gương mặt tái nhợt của người tân binh quê thị xã Lào Cai, vừa rời khỏi ghế trường trung học. Ma Văn Ló mỉm cười:
- Điểm xạ cừ lắm!
Anh và Thủy, Phong đỡ thân hình còn ấm nóng của người đồng đội nằm xuống tấm bạt. Thủy lục ba lô cá nhân lấy ra bộ quân phục còn mới. Anh đổ nước trong bi đông đeo bên mình, thấm ướt chiếc khăn tay, nhẹ nhàng lau sạch gương mặt rớm máu của người chiến sĩ. Lồng vào cổ tay người lính tấm thẻ ghi quân hiệu, số hiệu, vòng ngay ngắn đôi tay trước bụng, Ma Văn Ló cuốn tấm bạt lại gọn gàng. Anh và đồng đội giơ tay chào từ biệt.
Giấc ngủ chặn ngang và gói trọn tâm thức người chiến binh khỏi những hiểm nguy, cái chết, súng đạn và cực nhọc nơi sa trường. Nó nhẹ nhàng như một tấm bọt biển, không có chút gì gợi lên mộng mị xa lạ, phẳng lặng như mặt hồ lúc ban mai. Nó nâng tàng thức anh lên cao, nhẹ nhõm như bầy hoẵng tơ mặc sức tung mình khắp núi rừng mênh mông, bay trên những thác bạc trắng xóa, từng dải rừng chon von đầu nguồn suối, mê mải lượn trên màu xanh sẫm của đại ngàn thâm u. Từ trên không trung, anh cảm nhận rõ cái chết và hiểm nguy lồ lộ trên từng mô đất, ngọn cỏ, có thể gọi tên, đánh dấu, chỉ lối cho chính anh và đồng đội tránh xa, nhờ một thứ giác quan kỳ lạ. Nó giống như ánh sáng vũ trụ xuyên suốt nhiều không gian và thời gian, mở ra những con đường chưa từng có đi vào những vùng xa thẳm của thế giới.
Ma Văn Ló thức dậy lúc 2 giờ sáng. Người chiến sĩ trực đài quan sát quay vào trong hầm chợp mắt. Anh mở rộng thêm khẩu độ kính ngắm, hướng về phía trại quân Trung Quốc và vùng đất tiếp giáp biên giới phía xa. Những chuyển động âm thầm ập vào tâm trí anh gần như không phải qua quan sát bằng kính ngắm. Cử một đồng đội tiếp tục, Ma Văn Ló trở lại hầm chỉ huy. Anh ngồi bên máy thu phát tín hiệu vô tuyến, mà suốt 12 giờ đồng hồ chỉ nhả những tiếng “rè… rè” vô nghĩa. Tập trung hết khả năng phán đoán, anh dò tìm làn sóng ngắn, đồng thời vẽ lại trong óc mình từng chi tiết sơ đồ pháo binh cũng như toàn bộ hệ thống phòng thủ thị xã Lào Cai, trong đó, một số điểm cao gần biên giới đã im tiếng súng sau một ngày tử chiến với quân giặc. Cho tới khi, trong tiếng lạo xạo của dải âm tần len lỏi qua những vách đá mù sương, những giọng nói tiếng địa phương Vân Nam cất lên rõ mồn một:
- Pang Tháo slam pác hốc, pang cải slam nhỉ, phấu slíp slam Đú , pạng Hác đang slí tắng đảy tức khẩu mà! (Trung đoàn 316 sư đoàn 32 quân đoàn 13A Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa chờ lệnh tiến công)!
- Pang Tháo slam pác nhỉ, Pang cải slam slíp slí phấu slíp slam Đú, pạng Hác thả tức khẩu mà! (Trung đoàn 320 sư đoàn 34 quân đoàn 13A Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa chờ lệnh tiến công!)
Xa Văn Ló không còn cảm thấy cơn buốt lạnh đang tràn qua ngực. Anh cất tiếng rành rọt:
- Pang Tháo slam pác nhỉ, Pang cải slam slíp slí phấu slíp slam Đú slấc Hác pắt đảy lẹnh: đếnh mừa fuông Đông Nam, coóc Nhỉ slíp nhỉ mẳt, slíp slí fút, sloong đắc Bắc, pác lình slam mẳt, slíp ết fút, nhỉ slíp pét dây Đông khay lỉnh oóc! (Trung đoàn 316 sư đoàn 32 quân đoàn 13 A Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa tiếp lệnh: hướng Đông Nam, tọa độ 22 độ 14 phút 02 giây Bắc, 103 độ 11 phút 28 giây Đông, tiến quân!)
- Pang Tháo slam pác nhỉ, Pang cải slam slíp slí phấu slíp slam Đú slấc Hác pắt đảy lẹnh: đếnh mừa fuông Đông Đông Nam, coóc Nhỉ slíp nhỉ mẳt, slíp slí fút, sloong đắc Bắc, pác lình slam mẳt, slíp ết fút, nhỉ slíp pét dây Đông, phả khửn! (Trung đoàn 320 sư đoàn 34 quân đoàn 13 A Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa tiếp lệnh: hướng Đông- Đông Nam, tọa độ 22 độ 10 phút 45 giây Bắc, 103 độ 35 phút 11 giây Đông, tiến quân!)
- Lọ dá! (Rõ!)
Sáu giờ sáng ngày 18-2- 1979, hai trung đoàn quân Trung Quốc về đúng vị trí tập kết trong tiếng gầm của trọng liên 12 ly 7 và pháo cối 76 ly. Từ trên cao, Ma Văn Ló cảm nhận rõ cái chết và hiểm nguy lồ lộ trên từng mô đất, ngọn cỏ, có thể gọi tên, đánh dấu, chỉ lối cho chính anh và đồng đội tránh xa, nhờ một thứ giác quan kỳ lạ. Nó giống như ánh sáng vũ trụ xuyên suốt nhiều không gian và thời gian, mở ra những con đường chưa từng có đi vào những vùng xa thẳm của thế giới…
*
Mặt trận Lạng Sơn ngày 18-2-1979.
Quân Trung Quốc tăng cường thêm 1 sư đoàn và 40 chiến xa, cộng với hai quân đoàn bộ binh, xe tăng tiến quân từ ngày 17, tiếp tục bao vây đánh chiếm thị trấn Đồng Đăng, xua quân tiến sâu vào quốc lộ 1A, quốc lộ 1B, chuẩn bị tiến công thị xã Lạng Sơn, đồng thời cho các mũi xung kích tỏa rộng ra vùng lân cận theo các đường tỉnh lộ 746, 234, đốt phá bản làng, chém giết dân thường còn chưa kịp sơ tán và có dịp chạm súng nếm đòn hỏa lực của các tiểu đoàn địa phương quân tại Cao Lộc, Văn Lãng.
Kỹ sư trưởng công trình đấu dẫn đường dây cao thế 30 Kilovolt phân đoạn Cao Bằng Lạng Sơn đích thân đi kiểm tra lại những thao tác kỹ thuật cuối cùng trên suốt địa bàn dọc theo sông Kỳ Cùng, kể từ cầu Kỳ Lừa nằm gánh hai bờ Nam Bắc thị xã Lạng Sơn cho tới lúc con sông thắt lại, để sắp đổi dòng vắt mình qua biên giới Việt Trung. Toàn bộ đường dây đã được chuẩn bị để tải dòng điện 30 ngàn Volt xuống lòng sông. Khi ông hạ lệnh đóng cầu dao, con sông Kỳ Cùng sẽ trở thành chiến lũy kinh hoàng chưa từng có trong lịch sử chiến tranh. Để chặn bước quân giặc. Những người công nhân còn bám trụ công trường và chính ông, đang dần trở thành một đoàn quân. Đoàn quân sẽ chiến đấu với vũ khí là bất cứ thứ gì có trong tay, cho dù nó không thể trở thành thứ vũ khí tốt nhất, mặc dù ông và những người thợ này được sinh ra, được đào luyện cho một đời sống hoàn toàn khác.
Lác đác những bông hoa cúc quỳ vàng nở trong buổi chiều lạnh ngắt trên những sườn dốc miền biên giới. Nụ đào trên đỉnh Mẫu Sơn chưa kịp mở cánh trong sương tháng Hai trắng xóa đã bị đạn pháo phạt ngang. Tiếng súng nổ dồn dập từ phía Hữu Nghị quan và suốt nhiều cây số dọc đường quốc lộ từ thị trấn Đồng Đăng làm nát lòng tất cả những người còn ở lại với vùng biên cương, nay đã là sa trường.
Mế Pùa ngồi yên lặng bên ngọn lửa cháy phần phật, nước trong chiếc chảo gang đang sôi. Mế giụi bớt vài gộc củi cho ngọn lửa dịu đi. Nhanh tay, mế cầm chiếc xảo vớt những viên bột trắng nghi ngút khói để riêng cho ráo nước. Chiếc chảo khác được bắc lên bếp, đổ dầu rán.
Vàng Thị Sinh đẩy cánh cửa thấp bằng ván gỗ bước vào sân.
- Mế làm gì đó?
- Làm bánh.
Chị ngồi xuống bên mế, bỏ những viên bột trắng vào chảo dầu đang lăn tăn sôi.
- Giờ này mế còn làm bánh “áp chao” cho ai?
- Chị không chạy đi, ở đây viên đạn không có mắt. Chết rồi lấy ai nuôi con cho thằng Pá Chính?
- Còn mế sao không chạy?
- Ta già rồi, chết lúc nào cũng được.
- Con gửi hai thằng cu lớn theo bác Tú Hoa. Ngày mai con lên chốt.
- Làm người phải biết giữ cái mạng mình.
- Con bắn giặc trước, không cho nó bắn con. Mế đừng giấu, mế định mang bánh “áp chao” lên chốt, con đi với mế.
Mế Pùa giấu một tiếng thở dài, nhìn vệt sữa đọng khô trên ngực áo chàm của Sinh. Đứa con nhỏ mới vài tháng tuổi của Sinh vừa mất chiều hôm kia.
Đoàn năm người phụ nữ vận áo chàm, mang gùi bánh, cơm vắt và những bầu nước men theo con đường mòn mới phát, còn nguyên vệt cây ngã rạp và những thân cỏ bị đạp lên. Mế Pùa nắm con dao quắm trong tay, quay lại nhắc:
- Tránh xa bờ suối, đề phòng có mìn.
…
Tiếng xe tăng Trung Quốc gầm rú làm rung chuyển mặt đất từ cách xa hàng cây số.
C trưởng C23 quản giáo phân trại Bình Trung, Lạng Sơn ra lệnh:
- Đại đội phó Mai Thế Vĩnh, đưa tù binh vào núi Mẫu Ba sơ tán, ai chống lệnh, tử hình!
- Đại đội phó Trần Quang Miên, sơ tán lương thực, đạn dược, chuẩn bị phương án chiến đấu!
- Rõ!
Đại phó Mai Thế Vĩnh quay lại hầm chỉ huy, nét mặt không giấu được nỗi xúc động:
- Báo cáo C trưởng, tù binh giải phóng yêu cầu được cầm súng hỗ trợ chiến đấu!
C trưởng chưa kịp mở lời, chính trị viên tiểu đoàn, thiếu tá Lê Văn Thịnh đang có mặt hội ý vội cắt ngang:
- Nước sôi lửa bỏng, không thể tin họ. Họ sẽ mượn cả súng ta, súng địch để trả thù.
Không kịp đáp lời, C trưởng vụt đứng dậy: “Tôi đi gặp họ!”.
Nhìn gương mặt những người lính cũ quân đội miền Nam sạm đen vì bệnh tật, đói ăn, cực nhọc mà mới chỉ vài ngày hôm trước, họ còn là “kẻ thù” cần phải trừng phạt và “cải tạo”, giờ đây tràn ngập một nỗi buồn rầu, bi phẫn, C trưởng chợt nhận ra lòng mình đau xót. Những người lính cũ này là đồng bào của ông. Họ từng sẵn sàng lấy máu mình rửa hận non sông, như trong trận chiến mùa xuân năm 1974 giáng trả quân xâm lược lãnh hải ở Hoàng Sa. Ông không nghi ngờ gì lòng trung thành của họ với Tổ quốc. Quay lại nhìn đại đội phó Mai Thế Vĩnh, ánh mắt cố giấu một tia vui mặc dầu chưa hết kinh ngạc, bồn chồn, ông ra lệnh:
- Mang súng!
Những cánh tay chìa ra đỡ lấy súng dường như còn một thoáng run rẩy nhẹ, lan truyền của cơn buốt lạnh vừa dâng qua ngực khi chạm vào báng gỗ nhẵn lỳ của những khẩu AK 47. Đại đội phó Mai Thế Vĩnh đích thân chỉ cách lắp đạn, lên nòng, điểm hỏa cho những cựu binh. Họ được phân công thành những tổ ba người nhận hiệu lệnh chiến đấu.
….
Khi bốn người lính cũ, Vinh, Châu, Tuyến, Triều gùi quân nhu về tới trại Bình Trung, trại chỉ còn là những bức tường nham nhở, cháy đen thuốc súng, xác binh lính Trung Quốc nằm rải rác dọc chân đồi cho tới bờ suối Mẫu Hai. Họ vội vàng tước súng đạn, bó lại rồi rút lui, đề phòng quân giặc quay lại lượm xác tử sĩ.
Một người trong bọn chợt thốt lên:
- Tự do rồi!
Ba người kia cùng đứng lại, giây phút ấy mắt họ ứa lệ, họ hít thở thật sâu mùi vị núi rừng buổi chiều tà. Nghĩ tới vợ con, mẹ già ở nơi xa đang trông ngóng không biết chừng nào tới ngày về. Thì ngày ấy đang gần lắm. Nhưng cũng chính người thốt ra câu vừa rồi, Vinh, bừng tỉnh:
- Đánh giặc đã, anh em ơi! Giết được giặc rồi nhất định tôi trở về!
Một người trong bọn từ giã, tìm đường xuống núi, ba người còn lại mang súng đạn, gùi hàng đi tìm dân quân tự vệ. Họ nhập vào đoàn phụ nữ áo chàm mang cơm nước lên chốt Đồng Đăng, mà về sau này mới được biết, mế Pùa, người phụ nữ oai nghiêm ít lời chính là đội trưởng du kích xã Tam Thanh…
*
… Thật khó mà hình dung, trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ hai mươi, thế giới đang bước vào đời sống hiện đại, hậu công nghiệp với những thỏa mãn và phiền toái mới mẻ của nó, thì lại có thể xảy ra một cuộc chiến tranh chủ yếu dùng sức người để xâm chiếm lãnh thổ. Thậm chí mục đích lâu dài còn trong vòng bí hiểm của cuộc chiến ấy là cướp đoạt hoàn toàn lãnh thổ của một dân tộc khác.
Thật khó mà hình dung, những người nông dân chất phác vùng Tứ Xuyên, Vân Nam, chỉ vài tháng trước còn hiền khô, nhát sợ bên ruộng tỏi, còn vui sướng với bữa cơm cá hấp ngon lành, lại có thể phút chốc trở thành những kẻ điên khùng say máu, thọc lưỡi lê vào ngực trẻ nhỏ, bụng phụ nữ có thai, hay giết người bằng búa rìu, gậy gộc. Tham vọng bành trướng và sự thổi phồng một thứ tự mãn dân tộc cuồng tín từ phía nhà cầm quyền là ngọn nguồn sâu xa của hành động cướp nước dã man.
Và dân tộc bị xâm lăng ấy, mà trình độ dân trí cũng như khoa học chưa lấy gì làm tiến bộ, không còn cách nào khác để tự vệ, đã trả cái giá bằng sự hy sinh, lòng mưu trí và can đảm cũng như nỗi đau đớn vô tận mất mát những gì thân yêu nhất để bảo vệ mảnh đất cha ông trước kẻ thù xâm lược.
Tôi hiểu rằng mỗi dân tộc, để tồn tại trước hiểm họa bị xâm lăng và xóa sổ, cần phải có những người anh hùng đích thực của mình. Không phải khái niệm “anh hùng” bị thổi phồng, lợi dụng và biến tướng… trở nên sáo rỗng. Khái niệm “anh hùng” giả dối ngụy biện cho những điều không trung thực, ví dụ như những lỗi lầm, mất mát, hy sinh cần phải được công khai trước toàn dân.
Và tôi cần phải nghĩ rằng, nếu một lần nữa chiến tranh xảy ra (chứ không phải duy ý chí mà mong rằng, chiến tranh sẽ không bao giờ còn xảy ra), thì với suy nghĩ và tầm nhìn như hiện nay, dân tộc tôi có thể thêm một lần nữa đánh bại kẻ thù, với tất cả những gì chúng tôi đã có và đang có hay không?
(Trích sổ ghi chép tìm thấy trong tiệm giấy vụn)
*
Trong cuộc chiến kéo dài gần sáu ngày đêm cảm tử bảo vệ cụm cứ điểm Pháo Đài, Thâm Mô, 339 phía Tây Nam thị trấn Đồng Đăng, góp phần quan trọng cầm chân quân giặc tấn công vào thị xã Lạng Sơn, để thay đổi cục diện cuộc chiến, bên cạnh những chiến sĩ gan dạ của tiểu đoàn 4 và 6 trung đoàn Tây sơn, Sư đoàn Ba Sao Vàng anh hùng, còn có một lực lượng dân quân du kích tinh nhuệ chưa từng có. Góp mặt trong đội quân ấy có những người lính miền Nam đã coi Tổ quốc thiêng liêng là trên hết. Có những người mẹ, người chị không tiếc đời mình trả nợ non sông.
Nữ dân quân Vàng Thị Sinh gặp lại chồng mình, anh Hoàng Văn Chính trong trận chiến cảm tử tại pháo đài Đồng Đăng. Cả hai người đã hy sinh anh dũng. Các chiến sĩ Vinh, Tuyến, Triều gặp mặt và cùng chiến đấu với nhiều đồng ngũ của mình cũng tại pháo đài này, nơi các anh vĩnh viễn nằm xuống, không thực hiện được ước mơ trở về.
Thiếu úy Ma Văn Ló được phong Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân và thăng hàm Đại uý. Anh trở về bản cũ, khi cuộc chiến kéo dài tận mười năm sau tạm ngưng tiếng súng. Pá và mế anh đã bị quân Trung Quốc giết hại hồi năm 1979, người anh trai hy sinh trong trận chiến Vị Xuyên năm 1984. Ma Văn Ló giết gà, mổ lợn, mời thầy then về hát cúng ba ngày đêm cho linh hồn những người thân, đồng đội và những người lính Vân Nam chết trận được về Mường Trời. Ngọn khói trắng che chở cho linh hồn những người đã chết vẫn còn bay về tận Mường Then…
(*) Truyện ngắn tham khảo một số tư liệu về chiến tranh Biên giới 1979 trên mạng Internet, báo chí và tư liệu do đồng bào, chiến sĩ cung cấp. Tác giả xin gửi lời cảm tạ trân quý.
Khánh Phương, từ Pennsylvania - Ngày 11/17-2-2014
|