Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014

MIẾU GIA LONG & các phế tích liên quan ở vùng Sa Đéc


Tạp chí XƯA&NAY
Số 443, tháng 1 năm 2014
Nguyễn Hữu Hiếu
MIẾU GIA LONG GẮN LIỀN ĐỊA DANH “CÂY ĐA BẾN NGỰ Ở VÙNG SA ĐÉC HƠN 200 NĂM QUA. MIẾU ĐƯỢC XÂY TRÊN NỀN ĐỒN HỒI OA (NUỚC XOÁY-LONG HƯNG) XƯA CỦA NGUYỄN ÁNH TRONG CUỘC NỘI CHIẾN TÂY SƠN-NGUYỄN ÁNH TRÊN ĐẤT NAM BỘ. NGÀY NAY MIẾU TỌA LẠC BÊN BỜ RẠCH NUỚC XOÁY THUỘC ẤP HƯNG MỸ TÂY, XÃ LONG HƯNG A, HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP, BÊN CẠNH MỘT SỐ PHẾ TÍCH KHÁC.
1. Trong suốt 13 năm (1777- 1789) nằm gai nếm mật chiến đấu với quyết tâm phục thù, khôi phục quyền lực của dòng họ Nguyễn trên đất phương Nam; nhưng trước lực lượng không cân sức, quân Nguyễn Ánh bị đánh tan tác mỗi khi thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ xuất hiện trực tiếp điều binh khiển tướng. Tàn binh Nguyễn Ánh phải bốn lần rời bỏ đất liền ẩn náu ở các đảo trong vịnh Xiêm La, hai lần lưu vong sang tận Vọng Các.
Rút kinh nghiệm xương máu qua các lần thất bại thảm hại, nên sau lần bại trận ở Rạch Gầm-Xoài Mút (1785), Nguyễn Ánh nghĩ đến phải có một căn cứ vững chắc ở nội địa. Nên mặc dù đang lưu vong ở Xiêm, nhưng Nguyễn Ánh vẫn cài người ở lại tìm thế đất, lòng người thích hợp, lo việc xây dựng căn cứ.
Vùng Nước Xoáy-Tân Long- Sa Đéc (sau là Long Hưng), có vị trí chiến lược trọng yếu, nên được chọn. Vùng này nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, gần Sa Đéc, là điểm tựa tiến sang Ba Giồng, qua Bến Lức áp sát Sài Gòn, đồng thời là đầu cầu rút xuống Cà Mau, Kiên Giang ra Thổ Châu, Phú Quốc… vốn con đường tiến thoái quen thuộc của Nguyễn Ánh suốt hơn mươi năm qua. Với mạng lưới sông rạch chằng chịt, trong sông Tiền, sông Hậu là hai trục chính, được nối liền bởi sông Cường Thành (Hội An), đất đai lại trù phú; nếu tận dụng các lợi thế đó, có thể biến nơi đây thành một căn cứ vững chắc.
Ngoài ra, còn một yếu tố khác được Nguyễn Ánh đặc biệt lưu tâm, đó là con người. Cũng như cả Nam bộ, ngoài đặc điểm chịu khó, cần cù, thông minh, sáng tạo… trong lao động khai phá và sản suất, con người ở đây ứng xử rất có tình có nghĩa. Họ rất trọng nghĩa khí, sẵn sàng ủng hộ, hy sinh vì việc chung của xóm làng, vì nghĩa lớn của quốc gia dân tộc. Đồng thời cũng rất sòng phẳng, rạch ròi trong việc đền ơn đáp nghĩa. Thời bây giờ, họ không đánh giá Tây Sơn và Nguyễn Ánh như chúng ta ngày nay. Bên cạnh tư tưởng tôn phù chính thống, họ còn biết ơn các chúa Nguyễn, thế lực đã giúp họ có cuộc sống tốt hơn ở quê cũ, mà hiện thời Nguyễn Ánh là hậu duệ sau cùng. Những hành động cụ thể của họ, đã thể hiện thái độ ứng xử linh hoạt, minh bạch, tình lý đối với Tây Sơn và Nguyễn Ánh trong từng thời điểm. Nói cách khác là họ xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nghĩa ân với chúa Nguyễn và quyền lợi dân tộc.
2. Trong Đại Nam thực lục tiền biên ghi, Nguyễn Ánh về đồn trú ở Hồi Oa (Nước Xoáy) vào tháng 10 năm Đinh Mùi (1787), tức là chỉ hai tháng sau khi về nước.
Tên gọi căn cứ là Hồi Oa/ Nước Xoáy, là gọi theo tên của đồn chính, đóng tại Hồi Oa/ Nước Xoáy. Trên thực tế, căn cứ này có qui mô bề thế của một hệ thống đồn, bảo, tháp canh, cản đá, hầm hào kể cả xưởng đúc rèn binh khí, xưởng đúc tiền… trên một khu vực rộng lớn trải dài từ sông Tiền đến sông Hậu, từ sông Hội An đến vùng hậu bối Sa Đéc. Với qui mô như thê thì hệ thông căn cứ này không thể xây dựng trong một sớm một chiều mà thành được. Chỉ riêng việc đắp cản đá trên các cửa sông rạch (đá hàn) thôi, cũng phải cho người đến tận núi Sam (Châu Đốc) lấy đá chở về, phải mất khá nhiều thời gian. Mặc dù không còn tư liệu liên quan; song, chúng ta có thể suy đoán rằng, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của Đông Định vương Nguyễn Lữ do không đủ lực lượng và khả năng, Nguyễn Ánh cho người về qui tụ dân chúng địa phương tiến hành xây dựng.
Như vậy, việc xây dựng căn cứ Long Hưng không thể diễn ra âm thầm lén lút, vì phải tập trung khá đông dân phu và công việc kéo dài khá lâu, có khả năng hoàn tất trước khi Nguyễn Ánh về nước. Vì ngay khi Nguyễn Ánh về trú đóng, hệ thống đồn bảo ở đây đã phát huy tác dụng; bằng chứng là vào tháng 10 năm Đinh Mùi (1787) tức là ngay sau khi Nguyễn Ánh về Nước Xoáy, quân Tây Sơn kéo đến bao vây đánh phá, nhưng không hạ nổi đồn này, vì quân Nguyễn Ánh dùng súng đại bác bằng gỗ bắn bằng hột cau khô, đẩy lui được quân Tây Sơn(1). Điều đó khẳng định, căn cứ này được xây dựng trước khi Nguyễn Ánh về nước.
Căn cứ vào một số dấu vết còn sót lại, có thể chia khu căn cứ này thành hai bộ phận: khu trung tâm và bộ phận ngoại vi.
- Khu trung tâm: gồm đồn Nước Xoáy, bên bờ rạch Nước Xoáy, nền đồn được đắp cao, nước không ngập rộng khoảng sáu công tầm điền (khoảng gần 10.000m2), dĩ nhiên chung quanh có thành đất và hào sâu, mặc dù ngày nay không còn dấu tích gì. Để bảo vệ đồn chính trong tầm gần, hai bên có đồn tã, do Hoàng Văn Khánh và Tống Phước Ngoạn; đồn bên hữu do Nguyễn Văn Trương và Tô Văn Đoài trấn giữ. Hai đồn này, chung quanh có thành đất. Phía hướng ra sông Tiền, trên một chi lưu của rạch Nước Xoáy có xây dựng một hệ thống bờ cản bằng đất và một số tiền đồn cùng trạm canh. Nên về sau con rạch có tên là Bờ Rào. Ngoài ra, còn có một xưởng rèn, đúc binh khí ở thôn Tân Mỹ (dấu tích là con rạch mang tên rạch Xưởng) và một số đồn, trạm canh (ở Tân An Trung nay còn có địa danh là Thủ Củ).
Miếu Gia Long được xây dựng trên nền đồn này. Nguyên đồn được xây dựng bằng đất, dĩ nhiên đến giờ không còn lại bao nhiêu dấu tích. Khoảng năm 1925-1926, hai ông Nguyễn Văn Dần và Nguyễn Văn Cứng(2) ghi chép đơn giản là đồn Hồi Oa (Nước Xoáy) thuộc làng Long Hưng, quận Lai Vung tỉnh Sa Đéc, dấu vết vẫn còn. Hiện còn dạng nền khi Nguyễn Ánh về trú đóng cùng với cây da, nơi khi buồn ông thường ngự đến câu cá, nên được gọi là “Cây da bến ngự”. Một tác giả khác(3) mô tả chi tiết hơn, đồn vuông vức độ sáu công đất, thuở ấy nền đất được đắp cao, đến nay vì quá lâu nên lỳ xuống, nhưng vẫn còn cao hơn đất tự nhiên đôi chút, không bị nước ngập, thành đắp bằng đất… Về hướng tây, cận cái xẻo nhỏ, xuồng ghe có thể vào được. Hướng đông và hướng bắc giáp ruộng tư điền. Hướng nam có cây da và rạch Nước Xoáy.
Đến nay chưa rõ miếu Gia Long được xây dựng lúc nào. Sách Sa Đéc Nhơn vật chí ghi vào đời vua Tự Đức năm thứ hai (1849) đại thần Doãn Uẩn lúc làm Tổng đốc An Hà, có dựng một tâm bia tại nền đồn làm dấu tích(4). Đất nền đồn này về sau thuộc quyền sở hữu của ông Trương Văn Quảng, ông này để đất cho cây cỏ mọc tự nhiên, không dám canh tác.
Vào những năm 1920, khi làm chủ quận Lai Vung, ông Nguyễn Đăng Khoa thường đến đây thăm viếng, chiêm bái và nhắc nhở dân địa phương hãy gìn giữ cỗ tích(5). Như vậy có khả năng, miếu được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX hoặc đầu thế kỷ XX. Trong kháng chiến chống Pháp, năm 1946, nhân dân và du kích Long Hưng đã đào ngay gốc cây da bến ngự cho nó bật rễ ngã xuống rạch Nước Xoáy, làm chỗ tựa đắp cản, ngăn tàu giặc Pháp.
1
Qua thời gian miếu hư sập, không được tôn tạo. Vào năm 1958, khi vùng này thuộc tỉnh Vĩnh Long, tỉnh trưởng Khưu Văn Ba đi kinh lý trong vùng, được nhân dân địa phương tặng một bộ lư cổ bằng đá ong, cho là một di vật của Gia Long. Từ đó, miếu được trùng tu tái tạo, gọi là “Cao hoàng thái miếu”(6). Miếu được xây bằng gạch lợp fibrô-xi măng, trên nền cao 0,30m, kích thước: 5,35m x 3,30m.
Sau khi miếu xây dựng xong, địa phương có thuê ông Nguyễn Văn Hạt, làm từ, lo việc nhang khói, quét dọn. Lúc bấy giờ có ông Đặng Văn Côn, nhà ở trong ngọn rạch Chùa bứng được một cây da con trong bộng cây, đem đến trồng cạnh miếu, thay thế “cây da bến ngự” ngày xưa. Theo các vị cao niên, từ ngày trồng đến nay, sau gần 50 năm, cây da mới có dáng dấp hao hao cây da ngày xưa.
Sau khi ông Quảng qua đời, đất này thuộc quyền sở hữu của con ông là Trương Văn Gấm. Ông Gấm bán cho Hội thánh Cao Đài xã Long Hưng 1.000m2 làm cơ sở Phước Thiện. Sau năm 1975, cơ sở này trở thành Trạm Y tế-Hộ sinh xã.
Khoảng năm 2000, tường và mái của miếu hư sập, nền gạch bị bong ra, loang lổ, một cửa ra vào và hai cửa sổ không còn cánh cửa. Bên trong có một bệ thờ, vài món đồ khí tự đơn giản rẻ tiền…ngã đổ lăn lóc, chứng tỏ cả một thời gian dài không có bàn tay chăm sóc của con người. Từ bờ rạch Nước Xoáy nhìn vào là tường rào đã bị sụp đổ với cổng vào. Phía sau cổng là cặp nghê đá, bên trái là cây da với cành lá, rễ phụ sum suê to lớn, lá khô rụng đầy trên mặt đất, kế đó là miếu Gia Long. Sau miếu là khu đất Phước Thiện và trong cùng là đám bạch đàn, được trồng trên nền đồn. Nay miếu được xây lại trên vị trí và kích thước cũ.
- Bộ phận ngoại vi:
+ Về phía tây:
Thuộc lưu vực của các sông rạch: Lấp Vò, Hội An (sông Cường Thành), Mỹ An, Mỹ Hưng, Thủ Ô, một phần sông Sa Đéc ăn thông với rạch Nước Xoáy, ở mỗi vàm rạch, vàm sông đều có đồn hoặc tháp canh, lớn nhất là đồn Hội An và đồn Cường Thành (Lấp Vò)… Để ngăn cản, làm trở ngại cho chiến thuyền Tây Sơn tấn công, di chuyển trong vùng căn cứ, Nguyễn Ánh cho binh lính lấy đá từ núi Sam (Châu Đôc) hàn bít một số cửa sông, vàm rạch. Trên một con rạch ăn thông với rạch Lấp Vò ở thôn An Hòa Đông, nơi có nhiều nông dân nhiệt tình ủng hộ, Nguyễn Ánh thiết lập một sở đúc tiền, nên về sau rạch này mang tên là Trường Tiền (nay thuộc ấp An Mỹ, xã Hòa An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) .
+ Về phía nam:
Thuộc lưu vực của rạch Lai Vung, Long Hậu và các chi lưu của chúng. Để bảo vệ đồn trung tâm, ở Nước Xoáy và bảo đảm cho đường rút lui khi cần, trong khu vực này, Nguyễn Ánh cho binh lính xây đắp hai cái bảo lớn:
Một là Bảo Tiền, nay còn phế tích nằm cách bờ rạch Cái Bàng khoảng 250m, ở ấp Long Định, xã Long Thắng. Bảo Tiền rộng khoảng gần một hecta, được đắp cao hơn mặt đất tự nhiên gần một mét, chung quanh có hào sâu; phía ngoài có tường thành bằng đất cao gần 4m, vuông vức mỗi cạnh 150m. Bốn góc thành có thiết trí bốn ụ súng đại bác. Từ rạch Cái Bàng dẫn vào bảo bằng một con kinh. Tại vàm kinh có một đồn canh, gọi là đồn Thổ Sơn. Cách đồn Thổ Sơn khoảng 100m có thành lập một trường bắn (nay thuộc đất của ông Văn Đăng Điệu). Hàng ngày binh lính ở Bảo Tiền ra đây luyện tập. (Đến nay, khi cày ruộng hoặc đào mương thỉnh thoảng nông dân phát hiện những viên đạn chì tròn cỡ viên đạn bắn “cu ly” của trẻ con).
Khoảng 30 – 40 năm về trước, bảo còn sót lại một cái nền cao, rộng khoảng bốn hecsta trên mọc toàn là cây tràm. Từ xa nhìn như là một hòn núi nhỏ nổi lên giữa cánh đồng mênh mông, xa cách xóm làng. Trên cái nền đất đó có một ngôi miếu nhỏ bằng tre lá đơn sơ nhưng kiến trúc theo kiểu thượng hiên hạ lầu. Bên trong có một bàn thờ với bài vị ghi bốn chữ: “Bách quan cựu thần”, hai bên có bàn thờ Tả ban, Hữu ban… đồ khí tự bên trong đơn sơ với nội dung thờ cúng như một bàn thờ ông bà trong gia đình. Miếu này do chủ đất là Nguyễn Văn Tý tự dựng lên. Hiện nay miếu do con cháu ông Nguyễn Văn Tý quản lý.2 - 0002
Hai là Bảo Hậu, hiện nay thuộc ấp Định Phong, xã Định Hòa (trên đất của ông Lâm Văn Đẹt). Rạch Cái Bàng chảy đến Ngã Năm ăn thông với rạch Gỗ, rạch này đổ nước vào sông Hậu tại vàm Cả Sâu. Bảo Hậu nằm cách bờ rạch nầy chừng 80m, cách vàm Cả Sâu 7km. Qui mô Bảo Hậu nhỏ hơn Bảo Tiền. Nền bảo rộng khoảng non 1000m2, cũng được đắp cao hơn mặt đất tự nhiên gần một mét. Chung quanh có hào sâu, mỗi cạnh dài 60m, cách hào khoảng 20m là tường thành cao khoảng hai mét, trên có trồng sáo, tre. Từ rạch Gỗ có con kinh dẫn vào bảo (nay đã lấp cạn).
Trên nền đất đắp cao của bảo cũ có một ngôi miếu nhỏ ẩn trong tàn cây rậm. Hiện trạng miếu thờ ở Bảo Hậu tươm tất hơn miếu ở Bảo Tiền. Miếu cũng kiến trúc theo kiểu thượng lầu hạ hiên, lợp ngói, nền lót gạch bông. Bên trong có bệ thờ hai cấp. Cấp trên có chân đèn, lư hương, bình hoa, lổ bộ, trên tường có bài vị màu đỏ, viết bốn chữ “Bách quan cựu thần” bằng chữ Hán màu vàng, cấp dưới là nơi bày lễ vật cúng hàng năm. Phía trước phủ bằng một bức màn màu đỏ. Hai bên cột treo ảnh Huỳnh giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo (Huỳnh Phú Sổ); cột phải treo ảnh toàn thân, cột trái treo ảnh bán thân.
3. Ngoài ra còn phải nói đến hai phế tích khác, đó là mộ Bỏ Hậu và con gái. Hai ngôi mộ này hiện tọa lạc ở ấp Hưng Mỹ Tây, xã Long Hưng A.
Nguyễn Văn Mậu, có tên tự là Hậu, người làng Tân Long (nay thuộc xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Ông là một phú hào trong làng, nhận chức Tri thâu, làm nhiệm vụ thu thuế, được dân làng tín nhiệm, nên được kiêm luôn chức Trùm cả.
Năm Đinh Mùi (1787), Nguyễn Ánh sau một thời gian lưu vong bên Xiêm, trở về đóng quân ở Hồi oa thủy tức Nước Xoáy. Trong thời gian đóng quân ở đây, Nguyễn Ánh được gia đình ông Mậu hết lòng phò trợ. Ông mở cả lẫm lúa của gia đình nuôi quân của Nguyễn Ánh ròng rã ba tháng trời. Ngoài việc cung cấp lương thực, ông Mậu còn tận tình chăm sóc và có ý định dâng cô con gái út cho Nguyễn Ánh là “tấn nhơn”.
Cảm nhận nghĩa cử hào hiệp, chí tình của Nguyễn Văn Mậu, Nguyễn Ánh gọi ông là “Ông Bỏ”, tức là cha nuôi. Từ đó, dân làng đều gọi ông là “Bỏ Hậu”
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Năm 1809, Nguyễn Văn Hậu mất, nhớ công lao thuở trước, Gia Long phong cho ông tước Hầu và lệnh cho bộ Công đưa người và vật tư vào xây mộ cho ông.
Chếch về bên phải khoảng 10m là mộ con gái Bỏ Hậu (dân gian gọi là mộ bà Hoàng cô), cũng được xây bằng đá ong với qui mô nhỏ hơn, không có phần tiền mộ. Do mộ nằm sát mép gò, nên một phần bị lúng sụp. Theo dân gian, ông Nguyễn Văn Mậu có ngươi con gái út tên là Nguyễn Thị Ngọc Mai, có nhan sắc lại đoan trang thùy mị nết na, dù là con nhà giàu có, song cô sống hòa hợp với mọi người, nên được bà con dân làng mến chuộng. Nguyễn Ánh say mê sắc đẹp của cô, có ý muốn lấy cô làm thứ phi và được sự đồng ý của Bỏ Hậu. Nhưng cô từ chối với lý do Nguyễn Ánh đã là con nuôi của cha cô, thì cô với Nguyễn Ánh có quan hệ anh em, không thể kết hôn được. Trước lý lẻ vững chắc đó, Nguyễn Ánh đành rút lui. Song cô sợ sắc đẹp của mình xui dục Nguyễn Ánh làm điều càn rỡ, để lại tiếng xấu cho cả hai người; nên cô quyết định hủy hoại nhan sắc bằng cách un khói có để độc chất, làm cho mặt mày lở loét. Sau đó cô lâm bệnh và qua đời trong sự thương tiếc của gia đình, xóm làng và cả Nguyễn Ánh. Cảm kích tấm lòng tiết liệt của cô gái chốn quê mùa, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh dựng mộ cho cô cùng lúc với mộ Bỏ Hậu.
Miếu Gia Long và một số phế tích liên quan ở vùng Sa Đéc và vài nơi khác ở Nam bộ là chứng tích của thời nội chiến giữa một bên là lực lượng phục thù giai cấp và một bên là lực lượng được xem là “cách mạng” mang màu sắc nông dân; mà kết quả cuối cùng tưởng chừng như nghịch lý: lực lượng phục thù giai cấp thắng thế. Nhưng nếu cẩn trọng xem xét, vào buổi đầu Tây Sơn được coi như là lực lượng tiến bộ, nhưng khi có được quyền lực, thế lực này dần dần thoái hóa biến chất và phân thành hai tập đoàn phong kiến cát cứ tranh chấp nhau không khác gì tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh. Nên họ đành phải ngã qụy trước thế lực Nguyễn Ánh, đang thay họ tiếp tục làm công việc thống nhất đất nước mà họ chưa hoàn thành.
Các phế tích trên cần được tôn tạo bảo vệ vì chúng có giá trị và ý nghĩa của một bài học lịch sử đặc biệt cho hậu thế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Quốc sử quán (1960) Đại Nam thực lục chính biên tập II. Nxb. Viện Sử học, H.
2. Nguyễn Văn Dần – Nguyễn Văn Cứng (1916), Sa Đéc nhơn vật chí.
CHÚ THÍCH:
1. Quốc sử quán (1960) Đại Nam thực lục chính biên tập II, tr.70.
2. Nguyễn Văn Dần-Nguyễn Văn Cứng, Sa Đéc nhơn vật chí, S.1926, tr.23-24.
3. Huỳnh Minh: Sa Đéc xưa và nay, S. 1970, tr.117-118.
4. Huỳnh Minh, Sđd, tr.112
5. Nguyễn Văn Dần-Nguyễn Văn Cứng, Sđd, tr.21.
6. Huỳnh Minh, Sđd, tr.212.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mẹ nó, đọc bài này đau hết cả bời!

Tao Đàn cóc nhái ngày Xuân


Như mọi năm, Xuân đến là vương quốc Đầm Lầy tổ chức Lễ hội Tao Đàn ở khắp các tỉnh thành. Có một địa phương từ cấp xã đến cấp tỉnh đều có ngày thơ riêng, đỉnh cao là ngày thơ trong đêm trăng tròn tháng Giêng trên một đỉnh núi. Câu lạc bộ thơ các cấp đều hồ hởi phấn khởi trong tháng Giêng này. Một số nhà thơ chạy show đọc thơ mệt nghỉ trong suốt mấy ngày.
Tranh của Lý Trực Dũng
Tranh của Lý Trực Dũng
Chất lượng thơ của Lễ hội Tao Đàn Đầm Lầy chưa biết hay dở thế nào, nhưng chắc chắn là thơ “chuẩn không cần chỉnh”. Ngày trước các cụ thơ rằng: “Con mèo con chuột có lông/Cây tre có mắt nồi đồng có quai”. Ngày nay, một số thi sĩ trong Đầm Lầy có thơ tả cảnh quê hương, rằng: “Quê tui có một dòng sông/Mùa hè nước cạn mùa đông nước đầy/Cầm cần câu cá trên tay/Cá bơi dưới nước chim bay trên trời”. Hoặc: “Chị tui lớn tuổi hơn tui/Mẹ tui còn lớn hơn tui rất nhiều/Ngoài đồng có một cánh diều/Diều mà có gió thì diều nó bay”…

Năm nay (cũng như các năm nọ), Tao Đàn Đầm Lầy quyết định ngoài cờ xí trống chiêng còn có các phần trình diễn thơ, múa thơ, đánh quyền thơ và nhảy hip-hop thơ… cho sinh động để khán giả bớt buồn ngủ. Cư dân trong Đầm Lầy đa phần là nòng nọc cụt đuôi nên mọi sự diễn ra ở Lễ hội Tao Đàn đều ngẩn tò te không biết gì. Chỉ biết rằng năm nào cũng vậy, bộ phận truyền thông của lễ hội phát trên đài, trên báo rằng: Tao Đàn năm nay nhất định thành công tốt lành, rằng bạn bè thế giới tròn xoe mắt mà kính phục chúng ta, rằng thơ ca đã đu theo các chùm bóng bay lên trời khiến Thượng đế cũng động lòng mà thương cho giống loài cóc nhái của Đầm Lầy nhà mình.
Nhớ năm ngoái, một vị ếch gần già (chứ chưa lẩm cẩm) nằm trong Ban tổ chức Lễ hội Tao Đàn tuyên bố sẽ xây dựng Đầm Lầy thành một cường quốc thơ ca của thế giới! Nghe xong, rất nhiều cư dân nòng nọc của Đầm Lầy sung sướng như mơ. Bởi các vương quốc khác họ trở thành cường quốc nhờ dân họ tiền nhiều, nhờ tên lửa hạt nhân, nhờ thủy quân hiện đại… Đầm Lầy ta không có các phương tiện trên thì ta có thơ thể hiện tâm hồn mơ mộng và tinh thần yêu chuộng hòa bình. Nếu vương quốc nào trên Trái đất này cũng chạy đua thành cường quốc thơ thì chiến tranh không thể nào xảy ra, mà nếu có xảy ra vì chạy đua… thơ thì chắc cũng chẳng có ai bị thương và ngày tận thế càng không có cơ hội.
Ở Đầm Lầy, gần như ai cũng biết làm thơ. Chính vì nhà nhà làm thơ, người người mần thơ với một lực lượng hùng hậu được trang bị “thơ tận răng” như thế, Đầm Lầy xứng đáng là cường quốc thơ chứ còn gì nữa! Một số vị giáo sư cóc, tiến sĩ nhái, nhà phê bình ễnh ương ăn lương của quốc vương còn viện dẫn truyền thống thơ ca qua mấy mùa mưa của Đầm Lầy trong các cuộc hội thảo thơ, hội nghị ca. Dù nước trong đầm lầy lúc đầy lúc cạn nhưng thơ ở vương quốc này chưa bao giờ vơi. Toàn là những lý do chân chính đáng để Đầm Lầy trở thành cường quốc thơ ca thế giới.
Một số khác nhờ có đọc báo Tuổi trẻ Cười, nên ra sức phản đối dự án cường quốc thơ này. Họ phản đối vì mới trước Tết Quý Tỵ đây thôi, tầng lớp thợ thuyền là nòng cốt làm ra sản phẩm phục vụ chúng sinh của Đầm Lầy có nơi chỉ được thưởng Tết bằng cân bột ngọt, đường và tờ lịch treo tường có em gái mặc bikini… dòm cho đỡ tủi. Mới năm ngoái thôi, kẹt xe vẫn còn là vấn đề nan giải của lãnh đạo các thành phố lớn trong Đầm Lầy, là hình ảnh kỳ dị trong mắt người nước ngoài có văn minh và là nỗi khốn khổ cho hàng chục triệu dân đen nòng nọc thành thị. Còn môi trường sống thì ngày càng tệ, ô nhiễm từ cọng rau muống đến nguồn nước mưa… Vậy thì trở thành cường quốc thơ để làm gì? Chưa kể, mấy ông bà thi sĩ ễnh ương kêu to nhất trong Đầm Lầy này xưa nay chỉ có giải “nô-đùa” chứ có cái giải “nô-ben” nào đâu mà dám ngẩng mặt với các vương quốc khác về tài thơ của mình mà đòi làm cường quốc!
Cuộc tranh cãi ở vương quốc Đầm Lầy lọt tai một lão người. Lão người này dựng chòi thơ sinh sống lâu năm trên Đầm Lầy. Lão nhủ thầm trong bụng: “Cái xứ cóc nhái Đầm Lầy chúng mày mà cũng đòi cường quốc Tao Đàn à. Ở xứ loài người bọn ta, đi đâu cũng thấy “thi phú” (tức là… thu phí), vậy mà có dám nhận cường quốc thơ ca đâu?
Để khỏi phải nhức lỗ nhĩ vì bọn cóc nhái cãi nhau, lão người, thay vì quăng một mẻ lưới quét sạch bọn cóc nhái hay mần thơ trong Đầm Lầy, quyết định thay bằng kế hiểm độc hơn: làm ngay một bài thơ tên là Tao Đàn cóc nhái rồi thuê bọn người chuyên in lậu photo hàng vạn bản với giá rẻ hơn tảo độc ném xuống Đầm Lầy. Lão cười bí hiểm: Phen này, vương quốc Đầm Lầy cóc nhái chúng mày sẽ bị ô nhiễm thơ của tao mà tuyệt chủng!
Bài thơ của lão người có gì mà đòi tiêu diệt cả một giống loài cóc nhái yêu thơ ca? Bài thơ đó của lão người như thế này, được ghi lại từ một nhà thơ dân gian quá cố tên là Lê Trung Dị – vốn là cư dân nòng nọc cụt đuôi trong Đầm Lầy – sau cuộc tuyệt diệt của lão người, Lê Trung Dị thoát kiếp ễnh ương đầu thai thành giống người, chép lại rằng:
Kỳ quá không mưa cóc vẫn ra
Duyên đâu cóc nhái họp chung nhà
Cóc già chễm chệ ngồi chong mắt
Cóc trẻ lăng xăng đọc diễn ca
Cóc thị, cóc quê bò lếch thếch
Cóc sông, cóc núi đứng khề khà
Cùng nhau xướng họa nghe con cót
Cường quốc thơ mơ dữ vậy ta.
Trần Hoàng Nhân
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần
Theo thethaovanhoa.vn

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đời thê thảm vì ham hố lấy chồng Tây

Chồng Tây thường xuyên la mắng và ép tôi ăn nhiều và đầy đủ dưỡng chất. Nhưng đó không phải là vì yêu thương mà là để đảm bảo sức khỏe phục vụ anh ta trên giường.


Chả hiểu tôi viết ra những điều này để làm gì. Có thể là vì tôi khổ nên nhìn đâu cũng thấy đời cay nghiệt. Hoặc cũng có thể là do chướng tai gai mắt những người đang ôm mộng lấy chồng Tây.

Tôi tự nhận mình là ếch ngồi đáy giếng đây. Tôi chỉ sống và ôm trọn cái giếng của mình mà chẳng biết gì về thế giới bên ngoài hết. Nhưng cũng chính vì thế mà tôi là người hiểu rõ nhất cái giếng đời của mình.

Tôi có một ông chồng ngoại quốc. Oai quá phải không? Nhưng đây chả phải là kết tinh tình yêu hay duyên phận gì hết. Cuộc hôn nhân này chỉ gói gọn trong 3 chữ, tiền, tiền và tiền.

Không biết từ lúc nào tôi đã có cái tư tưởng đánh bạn cặp bồ với Tây mới sành điệu. Mà quả thực, những cô gái như thế không tầm thường chút nào cả. Thứ nhất, họ phải biết ngoại ngữ. Thứ hai, phải tự tin và năng động. Thứ ba, phải có cá tính riêng. Ít ra những điều này làm họ nổi bật hơn một tá đứa con gái nhạt nhẽo khác. 

Và tôi đã quyết định lấy chồng Tây bởi 3 lý do. Thứ nhất, tôi cảm giác mình được ngưỡng mộ.

Hồi tôi cặp với đàn ông Việt, tôi chẳng là gì trong mắt người khác. Nhưng từ khi yêu Tây, đi đâu tôi cũng được nhìn nhận với ánh mắt trọng vọng ưu ái. 

Không cần biết trong túi có bao nhiêu tiền, nếu tôi vào một cửa hàng thời trang đẳng cấp cùng người Việt thì có thể bị coi thường ghẻ lạnh. Nhưng nếu đi cùng một anh chàng Tây thì lại được đon đả săn đón. Đời là thế, bất cứ thứ gì có tiền và yếu tố ngoại lai mới được xem là đẳng cấp.

Thứ hai, yêu trai Tây, tôi cảm giác mình được làm công chúa. Đàn ông Việt khi yêu thì dắt tay phụ nữ. Đàn ông Tây khi yêu thì đội phụ nữ lên đầu. Chẳng phải họ ga lăng hơn, giàu tình cảm hơn đàn ông Việt. Chẳng qua văn hóa vốn có của họ là tôn trọng phụ nữ nên điều đó càng được nhân đôi khi yêu. Phụ nữ luôn có tâm lý tự xem mình là người quan trọng, nên khi được chiều chuộng cô nào cũng dễ bị đốn gục.

Thứ ba, tôi cảm giác mình giàu có. Tây sang Việt Nam mấy ai là giàu có thật sự? Chồng tôi cũng chỉ là tây ba lô, không thể sống được ở quê hương mới phải tìm đến Việt Nam. Cũng với chừng đó tiền, anh tuy chỉ là một gã làm thuê mạt hạng ở nước ngoài, nhưng ở Việt Nam cũng được tạm gọi là giàu có. 

Mà ở đất nước này, có gì thượng lưu và được trọng vọng bằng việc cặp với đại gia? Tôi từng xem anh là một con cá lớn của đời mình. Nguyên nhân tôi kết hôn cũng chính là đây.

Sau nhiều tháng ngày làm thủ tục kết hôn với người nước ngoài rườm rà, cuối cùng tôi cũng chính thức là vợ Tây. Nhưng sau 1 năm chung sống, chưa bao giờ tôi muốn mỉa mai cuộc đời mình như lúc này. Cuộc hôn nhân của tôi là sai lầm hoàn toàn. Tôi đã cố nuốt một món ngon nhưng không hợp với khẩu vị của mình. Ngay cả nguyên nhân tôi kết hôn cũng đủ thấy sự ngu ngốc khi tất cả chỉ dựa vào cảm giác.

Tôi từng cảm giác mình được ngưỡng mộ nhưng tôi không hề được ngưỡng mộ. Dưới cái nhìn của bố mẹ chồng mắt xanh mũi lõ, tôi chỉ là một đứa con gái da vàng thấp kém đang cố bu bám lấy túi tiền còm cõi của con trai họ. Nói trắng ra là họ khinh tôi, đến đám cưới cũng chẳng thèm sang Việt Nam dự. Trong khi tôi đường đường là người có công ăn việc làm, gia đình có nề nếp.

Để tiết kiệm tiền, chồng tôi hạn chế hết mức chuyện về nước. Thế nên cơ hội gặp gỡ giữa tôi và bên nhà chồng chỉ qua skype. Anh hứa lúc nào sinh con sẽ về thăm nhà chồng luôn thể. Điều đó khiến tôi rất ức. 

Ở đời chẳng ai dại lại cho mình khôn. Tôi lấy chồng vì túi tiền và cái mác ngoại thì chồng cũng chọn tôi vì cốt được ở lại Việt Nam một cách hợp pháp. 

Tình yêu của chồng Tây không hề lãng mạn và vô điều kiện như tôi vẫn ảo tưởng. Chồng tôi biến hôn nhân thiêng liêng của người Việt thành cuộc sống của 2 kẻ sống cùng dựa trên nguyên tắc có qua có lại.

Chồng khôn lỏi của tôi học hỏi thói trưởng giả của đàn ông Việt rất tài. Trong gia đình, anh ta là người chi mọi khoản tiền nên tôi chỉ được tồn tại với hai điều kiện. Thứ nhất, phải lắng nghe và chấp nhận mọi quyết định. Thứ hai, phải tự làm mọi việc nhà vì anh ta đã bỏ tiền thì tôi phải bỏ công. 

Còn tài sản, tất nhiên là do anh nắm giữ. Nhiều lúc tôi cảm thấy như anh ta đã mua vợ chứ không phải cưới vợ vậy.

Còn ai bảo đời sống tình dục Tây rất hòa hợp? Cứ thử đi rồi phát biểu. Trong chuyện này, chồng tôi ưa chuộng phong cách Adam và Eva nên tôi không được phép mặc quần áo mỗi khi đi ngủ. Hoặc chỉ cần về đến nhà là anh yêu cầu tôi nude cho sinh thái. Nhưng đây chỉ là chuyện nhỏ.

Chúng tôi sinh hoạt vợ chồng không bao giờ dưới 5 lần/tuần. Những cuộc yêu của anh thường lâu và rất tốn sức. Tình hình này kéo dài và tồi tệ đến mức sáng hôm sau ngủ dậy, tôi vẫn thấy mệt mỏi và bắt đầu sợ yêu.

Nhưng thái độ của anh mới thực sự tàn nhẫn. Những lúc tôi mệt mỏi hay không hưởng ứng các cuộc chơi, anh mỉa mai và cư xử rất thô lỗ.

Chồng Tây thường xuyên la mắng và ép tôi ăn nhiều và đầy đủ dưỡng chất. Nhưng đó không phải là vì yêu thương mà là để đảm bảo sức khỏe phục vụ anh ta trên giường. Ngoài ra, anh rất sợ tôi ốm vì không ai làm việc nhà và tốn kém các khoản thuốc men bảo hiểm. Tôi thấy mình chẳng khác gì một con heo ngu ngốc đang bị nuôi thúc đợi đến ngày làm thịt.

Chồng Tây cũng chẳng hào phóng hơn chồng Việt. Với lối tư duy cá nhân, anh ta không muốn lo cho người khác. Thế nên, tôi đừng mong xin được một vài chục đô của hắn cho bố mẹ mình. 

Tóm lại, chưa bao giờ tôi thấy mình túng quẫn và bị mắc kẹt như lúc này. Đời thê thảm vì ham hố lấy chồng Tây rồi. Vốn đã không cưới nhau vì yêu nên sau khi nhận ra vô vàn điểm khác biệt, tôi càng ghét chồng và càng hận bản thân.

Có thể ai cũng gặp ít nhiều rắc rối khi kết hôn. Nhưng bởi tôi đã quá kì vọng vào cuộc hôn nhân này nên bây giờ càng thất vọng ê chề. Bỗng thấy mình dại dột và mỉa mai thay cho những ai vẫn đang có tư tưởng sính ngoại như tôi ngày trước. 

Theo Nhịp sống Sài Gòn


Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Điềm lành” gõ cửa nhà người tù oan Nguyễn Thanh Chấn

"Điềm lành” gõ cửa nhà người tù oan Nguyễn Thanh Chấn. Chạnh lòng nghĩ tới còn bao nhiêu người dân Việt vô tội, bao nhiều người đang sống kiếp lầm than, nghèo đói... chưa được hưởng điềm lành trong khi đám quan tham đang hân hoan rượu chè, chúc nhau, khen nhau dịp Tết này ? Hồi còn đi làm ở cơ quan nhà nước, mỗi lần Tết đến, nhìn cảnh tượng này, thấy nhục, nhưng chỉ biết nuốt trong lòng, hy vọng cố chịu đựng để làm được tý gì đó có ích và cải thiện tình hình, nhưng chỉ sau vài năm đã biết là hoàn toàn bất lực...

"Điềm lành” gõ cửa nhà người tù oan Nguyễn Thanh Chấn
Lần đầu tiên sau hơn 10 năm, căn nhà ngói tàn tạ của gia đình ông Nguyễn Thanh Chấn (SN 1961, thôn Me, Nghĩa Trung, Việt Yên, Bắc Giang) được trang trí đón Tết theo đúng nghĩa.
Vợ chồng ông Nguyễn Thanh Chấn đi chúc Tết bà con láng giềng.
Và cũng lần đầu tiên sau hơn 10 năm, bà Chiến, vợ ông, mới đủ tự tin để đặt lên mâm ngũ quả trên ban thờ gia tiên đầy đủ cả 5 loại quả để cầu chúc cho một năm được vẹn toàn "ngũ phúc lâm môn". Tết ấm vui là vậy, nhưng theo "bật mí" của bà Chiến, trong những ngày xuân mới, gia đình bà còn đón nhận một "điềm lành" mà cũng sau ngần ấy thời gian đằng đẵng mới có dịp xuất hiện...

Đoàn viên bên cái Tết trọn vẹn

Có lẽ chúng tôi là số ít những PV có mặt tại nhà "người tù chung thân" Nguyễn Thanh Chấn đúng vào dịp đầu xuân năm mới vào sáng mồng 2 Tết, khi gia đình ông đang chuẩn bị sửa soạn đi chúc Tết người thân và hàng xóm láng giềng. Hơn 10 năm xa cách, năm nay gia đình ông Chấn được đón một cái Tết đoàn viên theo đúng nghĩa. Sau những thăng trầm cuộc đời, ngày 25/1 (26 Tết), "người tù chung thân" Nguyễn Thanh Chấn được nhận quyết định đình chỉ vụ án.

Trong căn nhà cấp 4 tàn tạ và bé xíu như cái vuông bếp, gương mặt khắc khổ của vợ chồng người nông dân chất phác sáng bừng vui sướng, bà Chiến trìu mến cố ép chồng diện một chiếc cà vạt sặc sỡ, và bộ com-lê tối màu. Trong khi đó ông Chấn gượng gạo, nhất quyết không chịu đeo rồi lúng túng giải thích với chúng tôi: "Lâu lắm rồi mới được mặc một bộ quần áo sang trọng thế này nên cảm giác ngại ngại, chẳng quen lắm. Đây là lần thứ 2 tôi được mặc bộ quần áo đẹp thế này kể từ sau khi cưới nhà tôi".

Tôi đưa mắt quan sát nhanh căn nhà của vợ chồng người tù oan trái mà lòng dâng lên cảm giác ái ngại đến nao lòng. Căn nhà vẫn xập xệ và cũ nát nhưng trong ngày Tết nó được trang trí thêm vài cành tầm xuân trên ban thờ gia tiên như báo hiệu một năm mới sẽ ngập tràn hạnh phúc.

Có lẽ cảm thấy sự ái ngại từ chúng tôi, bà Chiến vui vẻ giải thích: "Năm nay chồng tôi về, Tết nhất vui hơn nhiều lắm, cũng đầy đủ hơn mọi năm nhưng vì kinh tế gia đình chỉ có vậy, vài cân thịt với cái bánh chưng là xong Tết rồi, chỉ mong ông ấy khỏe mạnh và lại người. Về nhà được mấy tháng rồi mà ông ấy vẫn ngủ mơ nói linh tinh, toàn về những chuyện ở trong tù. Bây giờ bật cái bếp gas, thấy lửa bùng lên cũng giật mình".

Nói về mong ước và những dự định trong năm mới, ông Chấn cười hiền lành rồi nói rằng chỉ mong cho mẹ già được khỏe mạnh, vợ hiền được lành bệnh. Bản thân ông cũng muốn cơ quan chức năng có những bồi thường thỏa đáng cho những ngày tháng ông bị oan sai trong tù. "Chúng tôi đã gửi đơn khiếu nại lên các cơ quan chức năng rồi. Bây giờ cũng chỉ biết cậy nhờ vào luật sư Vũ Thị Nga thôi. Còn bản thân tôi thì lại tiếp tục về nghề nông, nhà có thêm cái máy sát gạo để kiếm đồng ra đồng vào", ông Chấn chia sẻ.

Ông Chấn cũng vui mừng kể, trong lúc dọn dẹp nhà cửa để chuẩn bị đón Tết đã vô tình tìm được cuốn nhật ký của cô con gái Nguyễn Thị Quyền. Đọc đi đọc lại những dòng con gái ghi trong cuốn sổ, ông Chấn không kìm được cảm xúc và khóc nấc thành tiếng. Trong cuốn nhật ký, cô con gái thể hiện một tình yêu vô bờ bến và một niềm tin mãnh liệt vào sự trong sạch của người cha. Hiện tại, cô gái này vẫn đang làm thuê bên Đài Loan và chưa có điều kiện để về chung vui cùng bố mẹ.

Không quên ơn ân nhân

Trong khi chồng ăn mặc đẹp đi chúc Tết, bà Chiến vẫn ăn mặc bộ quần áo đơn sơ ngồi ở nhà, lẩn mẩn làm những việc vặt vãnh vì sức khỏe còn rất yếu, không dám đi lại nhiều. Bà tâm sự: "Đứa con gái lớn vừa mới gọi điện thoại về hỏi thăm gia đình. Nó trêu: "Năm nay mẹ không phải khóc nữa nhé" khiến tôi vừa mừng vừa tủi. Đây là năm thứ 4 em nó sang Đài Loan xuất khẩu lao động với mong muốn gia đình bớt khó khăn và mẹ có thêm tiền trong hành trình kêu oan cho bố".

Bà Chiến nghẹn ngào kể tiếp: "Tính năm là 10 nhưng tính Tết là 11 Tết rồi, từ ngày ông nhà tôi bị bắt giam và chịu án phạt, gia đình coi như không năm nào có Tết. Chỉ có làm lễ cúng ông bà tổ tiên theo phong tục tập quán. Còn trong gia đình, chẳng một ai hào hứng với ngày Tết nữa. Đến bữa cơm cúng giao thừa, mẹ con nhìn nhau chảy nước mắt vì thương nhớ bố, mong muốn đến ngày được sum họp".

Bà Chiến còn kể thêm, trong suốt 11 cái Tết đã qua, đặc biệt là những năm đầu tiên, gia đình bà còn buồn bã và tủi hổ vì những lời dị nghị, hàng xóm láng giềng chẳng ai buồn đến thăm viếng.

Trong niềm hân hoan đầu xuân mới, bà Chiến xúc động khi nhắc đến ông Thân Ngọc Hoạt và bà Thân Thị Hải, những con người đã không quản gian khó để đồng hành với bà suốt 10 năm trời đằng đẵng trong hành trình kêu oan cho ông Chấn. "Công ơn của cô chú ấy vợ chồng tôi có trả hết đời, hết kiếp này cũng không hết, và thực sự cũng không biết phải trả thế nào. Nhân dịp Tết đến xuân về, cũng theo lễ giáo người xưa, gia đình tôi đến chúc Tết và kính biếu chút cây nhà lá vườn", bà Chiến xúc động nói.



Vợ chồng ông Nguyễn Thanh Chấn và bà Hải tại buổi ông Chấn nhận quyết định minh oan.

Theo lời bà kể, nhân dịp năm mới, anh em họ hàng nhà ông Chấn đã cùng nhau thịt một con lợn và đích tay ông đã trổ tài gói giò. Cây giò đầu tiên trong mẻ giò "cây nhà lá vườn", ông Chấn cùng vợ con đích thân mang đến nhà bà Hải vào ngày 30 Tết, trang trọng đặt lên ban thờ chồng bà Hải để thắp hương và cảm ơn những gì gia đình bà Hải đã hỗ trợ ông tìm lại công lý.

Chia sẻ điềm lành của vợ ông Chấn

"Chồng chị Hải là công an tỉnh Bắc Giang đã mất vì bạo bệnh. Khi còn sống, ông ấy đã giúp chúng tôi rất nhiều và bản thân cũng không ít lần tự viết đơn khiếu nại giúp ông Chấn. Nay ông ấy mất khi hành trình kêu oan vẫn đang dang dở nên ngay khi được trả tự do, sau khi thắp hương gia tiên, ông nhà tôi cũng sang thắp hương thông báo để nơi suối vàng anh ấy được thấu chuyện", bà Chiến nghẹn ngào tâm sự.

Còn với gia đình người em đồng hao Thân Ngọc Hoạt, người được coi là "tổng đạo diễn" của toàn bộ quá trình 10 năm kêu oan, gia đình ông Chấn bà Chiến cũng đã mang những lễ vật tự tay làm để sang nhà ông Hoạt chúc Tết vào ngày mùng 1 và tổ chức ăn mừng năm mới đoàn viên. Bữa ăn diễn ra rất đầm ấm, ai cũng vui mừng và hy vọng một năm mới an khang, thịnh vượng.

Trong liên tiếp những tin vui đến với gia đình, bà Chiến cũng vui mừng "bật mí" về một "điềm báo" cực kỳ quan trọng mà bà tin rằng sẽ là một niềm vui cực lớn vừa xuất hiện trong ngày đầu tiên của năm mới. Bà vui vẻ nói: "Nhiều người hỏi tôi, mấy ngày Tết có thấy "điềm lành" gì không, tôi thì chẳng để ý nữa. Tôi chỉ thấy có sự xuất hiện của chồng tôi sau suốt 11 cái Tết đã qua và chính tay ông ấy thắp hương lên bàn thờ tổ tiên vào ngày đầu năm mới là niềm vui nhất rồi. Tôi cũng chỉ mong có thế".

Diễn biến vụ án oan chấn động

Ngày 15/8/2003, một vụ án mạng nghiêm trọng xảy ra tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên (tỉnh Bắc Giang). Ông Nguyễn Thanh Chấn bị bắt sau đó bị buộc tội "giết người" mặc dù không một lần nhận tội.

Qua nhiều cấp tòa, ngày 27/7/2004, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội tuyên phạt ông Chấn tù chung thân và buộc thi hành án tại trại giam Vĩnh Quang (Vĩnh Phúc) mặc dù gia đình và bản thân ông Chấn vẫn liên tục kêu oan. Trong suốt 10 năm, cùng với việc ông Chấn kêu oan từ trong trại giam, bà Chiến cùng ông Hoạt, bà Hải đã ròng rã đi gõ cửa nhiều nơi kêu oan và đến ngày 4/11/2013 ông Chấn đã được tạm đình chỉ thi hành án khi hung thủ thực sự ra đầu thú.

Ngày 6/11/2013, Hội đồng tái thẩm TAND Tối cao đã tuyên hủy bản án phúc thẩm kết tội ông Chấn và đến ngày 25/1/2014, ông Chấn được trao quyết định đình chỉ vụ án, chính thức được công nhận là người vô tội.

Ngay sau khi nhận được Quyết định minh oan, ông Chấn trở về nhà và đã làm một hành động hết sức bất ngờ là để bản Quyết định này ngay ngắn trên bàn thờ bố mình, vừa thắp hương vừa khóc, mừng tủi vì những tháng ngày sống trong lo âu, oan ức đã chính thức qua đi.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Biên Giới Tháng Hai (2009-1979)

Huy Đức  

Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.


“Những đôi mắt”

Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.

Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.

“Cuộc Chiến 16 Ngày”

Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.

Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.

Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.

Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.

Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

Lặng Lẽ Hoa Đào

Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.

Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.

Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.

Huy Đức

Bài đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 9-2-2009, bản đưa lên báo online bị  rút xuống ngay trong buổi sang.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2014

Văn chương thời củ lẳng:

Phàm Phu Tục Tử 
Bài này tựa đề là phàm phu tục tử nên một vài từ ngữ và thơ trích dẫn không được thanh tao cho mấy. Người viết báo trước để những ai dị ứng với chuyện bậy bạ thì cảm phiền nhắm mắt đừng đọc. Những đoạn thơ hoặc nhạc nếu không ghi chú tên tác giả tức được trích trong internet hoặc lưu truyền trong dân gian.
Nhớ ngày xưa còn con gái mới lớn, đầu óc tui thật trong sáng, thánh thiện. Tui mơ có được một người bạn đời hợp ý tâm đầu để cùng ngắm hoa, thưởng nguyệt, làm thơ, đối ẩm, thả diều, bắt bướm... Vợ chồng phải coi nhau như bạn, giữ tình thanh tao chứ không để ba cái chuyện đầu gối tay ấp làm vẩn đục vấy bẩn. Tui mơ, tui mộng đủ thứ cho đến khi tui gặp được chàng.

Chàng là một thư sinh tuấn tú tướng người rất nho nhã, đàng hoàng, và hiền như bụt. Chàng thuộc thơ của các văn nhân thi sĩ như cháo; lâu lâu lại xổ vài bài thơ lãng mạn mà vì chàng chỉ đọc vài câu, vừa vặn hợp tình, hợp cảnh, không nhiều hơn ý muốn nói nên tôi khó mà nhận ra là thơ văn của ai. Cho dù mơ mộng mấy đi nữa, nhưng cũng là nhi nữ thường tình, tui vốn không quên “Xem mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon”. Nay đã gặp người hợp nhãn, hợp ý tui chẳng ngần ngại gì mà không gần gũi để tìm hiểu thêm.

Nhiều lần trốn đi ngắm sóng biển, ngắm sao trời, thơ thẩn với chàng quá, má tui đã cấm không cho hai đứa gặp nhau nữa. Chàng thở dài ngâm nga thơ Nguyễn Bính:

“Giá đừng có dậu mồng tơi
Tối nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.”


Tui kể lại với má. Thế là má tui bỏ lệnh cấm vận vì không muốn trở thành dậu mồng tơi lỡ ai hái nấu canh thì khổ. Má tui lâu nay rất mê thơ, đã từng chép mấy tập thơ dầy cộm nên thấy chàng biết xài thơ đã cho điểm tốt ngay.

Chàng còn là một thư viện truyện cười, kể tui nghe đủ thứ truyện vui thật dễ thương...Chàng lắng nghe tâm sự của tui; đồng cảm với mơ ước của tui và đã tỏ tình một cách rất thơ theo đúng cái thắc mắc đang lởn vởn trong đầu tui hôm hai đứa đang thơ thẩn dạo chơi:

Người đâu gặp gỡ làm chi!
Trăm năm biết có duyên gì hay không?


Rồi chàng hứa... sẽ là người bạn đời mà tui tưởng tượng. Thế là chẳng bao lâu đám cưới của đôi trai thanh gái lịch đã xảy ra. Chàng trở thành chồng tui và từ từ lộ nguyên cái chất phàm phu tục tử mà tui không thể nào tưởng tượng được.

**
Bắt đầu buổi tân hôn, hai đứa tui ngủ chung giường nhưng chắn giữa là một cái gối như đã giao hẹn trước kia. Được đâu vài phút chàng bắt đầu hát:

- Tay có bằng lòng cho tay nắm với?

- Xin nắm tay hở? Nắm một chút thôi nhen.

Nắm tay được vài phút chàng hát tiếp:

- Tóc có bằng lòng xin một sợi thôi?
- Xin tóc làm gì vậy?

- Để anh kết tóc se tơ ấy mà...

Giọng chàng êm như ru hát thì thầm bên tai tôi:

- Chân có bằng lòng cho chân kẹp lại?

- Một phút thôi nhen! (tui nói ỉu xìu)

- Môi có bằng lòng xin một nụ hôn?

Im lặng! Tui hết trả lời được nữa mà nhắm mắt chết trân. Rồi chàng xin lần cuối cùng với ca khúc của Ngô Thụy Miên:

“Cho tôi ôm em vào lòng
Xin cho một lần, cho đêm mặn nồng
Yêu thương vợ chồng”


Cứ thế, chàng tấn công từng tí từng tí thật tình tứ. Cái gối chắn bị quăng xuống giường! Từ nay hết tình thoát tục, hết tình thanh tao, hết tình bạn bè mà bắt đầu cho tình vợ chồng chính hiệu.

Nhưng đó đâu có phải là lần xin cuối cùng. 

Đêm đó chàng cứ xin thêm, xin nữa, xin tới, xin lui. Tui hỏi chàng:

- Sao anh xin hoài vậy?

Chàng hát:

Tình ngỡ đã phôi pha,
nhưng lòng bỗng rộn ràng...

(Tình nhớ của TCS)

Thật ăn gian, trích câu này ghép câu nọ nhưng cũng không sao! Tình vợ chồng ngó bộ cũng hay hay đó chứ. Tui làm thơ cho chàng nghe:

Hình như em đã lên tiên,
Mây xanh, gió mát, kỳ viên chốn này.
Anh ơi em muốn vòng tay,
Giữ em thật chặt ngất ngây suốt đời.


Người ta cứ hỏi tình yêu màu gì? Trong Asia 57 Thùy Dương bảo là màu đỏ, màu hồng, màu cầu vồng ngũ sắc, nhưng Việt Dũng đều cho là trật và cuối cùng anh ta trả lời là tình yêu màu xanh. Sai hết quí dị ơi. Câu trả lời đúng nhất là “Tình yêu màu nho”. Quí dị théc méc hả? Tại sao là màu nho? Nho xanh, nho đỏ hay nho đen? Xin thưa “màu nho” nói lái lại là “mò nhau”. Đúng quá rồi còn gì! Yêu nhau là phải mò nhau rồi phải không? Vậy mà nghĩ lại cái hồi hai đứa tui bồ nhau, chỉ toàn là đưa nhau đi thưởng ngoạn ngắm cảnh, chẳng hun chẳng hít gì ráo trọi. Thế mới phục chàng biết kiềm chế, giả nai nên mới dụ được tui, con bé ngây thơ sống trên mây trên gió. Nhưng mà nghĩ kỹ, nếu chàng cho tui biết màu của tình yêu sớm chắc tui ... lấy chàng sớm hơn không chừng! Chàng lý sự với tôi:

“Ở đời ai cũng như ai
Ăn cơm bằng đũa, để tay mà mò.”


Ăn ở với nhau một thời gian, tui thấy ai chế ra câu này thật đúng quá xá cỡ:

“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
Lấy nhau rồi nham nhở lắm ai ơi!”


Bây giờ 2 đứa tui chẳng còn giữ gìn, chẳng còn kín đáo, chẳng còn ý tứ với nhau gì cả. Câu châm ngôn về tứ khoái của con người mà chàng kê đầu giường và lấy làm tâm đắc là:

“Trên đời có bốn cái vui.
Ăn, ngủ, iêu, ị lui cui cả ngày”.


Nhất khoái của chàng là cái máu ăn thì ôi thôi khỏi nói. Chàng ăn uống như hùm như hổ, ăn lia chia suốt ngày không liền miệng. Cái từ “Ăn to, nói lớn” là thế nào giờ đây tui mới biết. Vì ăn nhiều quá nên “nói lớn” bằng bên dưới hơi nhiều, chàng nổ pháo liên hồi khắp nhà nghe bất nhã hết sức dị đó. Vậy mà chàng cũng có câu để bào chữa:

Cái địt là cái trời cho,
Ai mà không địt ốm o gầy mòn.
Cái địt là cái tròn tròn,
Ai mà không địt gầy mòn ốm o!


Chuyện gì chồng tui cũng trích thơ, trích ca dao tục ngữ chế biến để ngâm nga. Thơ văn tao nhã ngày nào đã đi đâu mất mà giờ đây chỉ toàn là thơ nham nhở, thô tục, bậy bạ hết nước nói. Nhưng nguy hiểm một điều là tui dần dần trở thành ma tà đạo như chàng - tui thấy thích và cười quá xá khi nghe những bài thơ quái đản đó mới chết chứ.

Bây giờ tui nói về “nhị khoái” của chàng tức cái tính ngủ. Chàng ngủ dễ lắm và rất say. Ngủ say đến nổi có lần tôi nghịch lấy màu vẽ vằn vẽ vện lên mặt mà vẫn không biết gì cả. Ăn được, ngủ được là tiên trên đời mà. Thấy vậy tôi cũng mừng cho chàng nhưng ngặt cái chàng lại ngáy dữ dội. Có lúc tiếng ngáy như tiếng rắn kêu, có lúc như tiếng bò rống, và có lúc nghe như tiếng đàn cò ò e. Không sao! “Yêu nhau yêu cả ngáy to đấy mà!”

Có lần tụi tui vừa mới mua về cái xe Honda đời mới, chạy êm như ru. Tối đó, tui nằm ngủ mơ thấy mình lái chiếc xe mới này tà tà dạo biển. Đang chạy ngon lành, bỗng dưng tiếng máy xe kêu lên kỳ lạ - rẹt...rẹt....khẹt... khẹt rồi lớn lên dần. Cuối cùng nó khẹt lên một cái rồi xe bị dừng lại không chạy nữa. Tui tá hỏa tam tinh. Thôi tiêu! Mua nhằm cái xe dỏm rồi. Xe mới có bảo hành, sửa không tốn tiền nhưng máy đã có vấn đề thì dù sửa lại cũng không được tốt. Chơi bạo bỏ ra hai mấy ngàn mà mang đồ bịnh về nhà, xui thật là xui. Tui buồn hết sức và giật mình tỉnh dậy. Đang còn lơ mơ tui mơ hồ nghĩ:

- Xe đã tắt máy hết chạy nhưng sao vẫn còn nghe tiếng máy nổ rột rột thế kia?

Tui bàng hoàng một lúc rồi chợt tỉnh hẳn ngó sang bên cạnh. Anh chàng yêu dấu của tui đang ngủ ngon ngủ lành, miệng đang kê gần tai tui mà ngáy vang trời hệt như tiếng xe hư trong giấc mơ của tui. Trời ơi hỡi trời! Tui nhớ trong dân gian người ta có câu ca dao nói về cô vợ ngáy nhiều nhưng khi chồng yêu thì vẫn bảo:

Đêm nằm thời ngáy o o.
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.


Còn tui? Vừa tức cười, vừa thương chồng, trong khi anh chàng đang kéo đờn cò thì tui ngồi dậy lấy bút rặng mấy câu thơ ngày mai chàng thức dậy tặng làm quà:
Xe mới chồng cũ!

Vừa mua được chiếc Honda
Mới teng, bóng rạnh, trông mà bắt mê
Lái xe đi dạo đồng quê
Bao nhiêu người ngắm, hả hê lòng nàng.
Xe đang bon chạy trên đàng,
Bỗng nhiên máy nghẹt, kêu vang tiếng ồn.
R...ộ..t... r...ộ..t..., r...ộ..t.. r...ộ..t, r...ồ... r...ồ.n..,
Kêu như tàu lửa chạy vô đường hầm.
Kêu to như tiếng trời gầm.
Xe mới mà thế!!! Tối tăm mặt mày.
Cái số tui thật không may!
Giật mình thức dậy! Mới hay chồng già.
Ổng đang dí mỏ chĩa qua
Tai mình mà ngáy như là sấm vang
Xe cũ đổi mới dễ dàng.
Chồng già sao đổi? Đành mang suốt đời.

Chàng được tui tặng bài thơ khoái chí tử lắm, bảo là tui bây giờ đã thực tế hơn nhiều, làm thơ không còn màu mè hoa lá cành nữa. Cũng phải, sống với một kẻ phàm phu tục tử như chàng mà tui còn thanh cao mơ mộng mới là chuyện lạ.

Sống chung với nhau, từ từ chàng đem cái khả năng trích dẫn làm cho những chuyện phàm tục mà tui chỉ biết lơ mơ trước đây bỗng trở thành thi vị. Tui bắt đầu cảm thấy cái ý tưởng của chàng sao mà trực tiếp, thực dụng quá, không có chút mộng mơ, bay bổng nào cả. Nhưng phải thừa nhận là không phải là không có chút lý sự. Rồi những suy diễn của chàng dẫn tui đi xa hơn chút nữa, không phải chỉ trích dẫn mà còn suy luận, dĩ nhiên là theo cái cách của chàng.

Những lúc thong thả, rảnh rang tui hay nghe nhạc tiền chiến, nhạc tình để mơ mộng. Bài nào cũng bị chàng bình loạn tứ lung tung. Chẳng hạn bài “Khúc thụy du” của nhạc sĩ Anh Bằng, khi nghe đến đoạn:

Vì sao thân anh rung
Vì sao chân không vững
Vì sao, và vì sao?

......

Chàng cười lớn xía vô:

- Vì anh hết xí quách rồi.

Rồi khi nghe:

Hãy nói về cuộc đời
Tình yêu như lưỡi dao
Tình yêu như mũi nhọn
Êm ái và ngọt ngào

......

Chàng nói với tui:

- Trước đây hai đứa mình đều có cái ấn tượng về những nhà văn nhà thơ và những nhạc sĩ với nhiều chữ nghĩa, nhiều cảm xúc nên đã phong thần các vị ấy rồi tha hồ tưởng tượng ra những cảm giác thật cao siêu, thoát tục. Nay anh mới ngộ ra rằng họ cũng chỉ từ những cảm giác trần tục mà làm cho nó đẹp thêm nhờ chữ nghĩa bóng bẩy.

- Ừ nhỉ, nghe cũng đúng đấy chứ. Anh Bằng này ghê thiệt! Ví cái đó như con dao với mũi nhọn đâm địch thủ vừa êm ái vừa ngọt ngào. Nạn nhân không chết không bị thương mà sát thủ lại bị rụng rời.

Chàng tiếp thêm để dẫn chứng:

- Còn Trịnh Công Sơn thì trong bài Tình sầu có viết “Cuộc tình lên cao vút, như chim mỏi cánh rồi...”. Phạm Duy trong bài Tôi đang mơ giấc mộng dài có câu “Tình yêu nở những con chim, nở những con chim tuyệt vời...”. Thấy không, toàn ví von tình yêu với chim chóc chứ đâu có trừu tượng để em mơ mộng.

Tụi tui tiếp tục thưởng thức cái thanh, cái tục của âm nhạc. Nhưng nghe một đỗi tôi bị tẩu hỏa nhập ma luôn vì nhạc sĩ nào cũng bị chàng lôi ra dẫn chứng. Riết rồi tôi có cảm giác tình yêu và tình dục chỉ là một, và trên đời này chẳng có ai thanh cao ráo trọi.

Còn nữa, những chuyện tiếu lâm dễ thương ngày nào bây giờ đã thay bằng mấy cái chuyện chàng gọi là chuyện cấm đàn bà, chuyện dành cho người lớn. Chàng hay dẫn cái trí tưởng tượng của tui đi vào con đường tà đạo rồi cười khoái chí. Hôm đó chàng đố:

- Hai con rùa một đực một cái rủ nhau vào hang. Một lúc sau có một con rùa chạy ra ngoài. Theo em thì con rùa nào còn ở lại trong hang? Tại sao?

Tôi suy nghĩ một lúc rồi trả lời:

- Em nghĩ là con rùa cái chạy ra vì nó chịu không nổi phải bỏ chạy.

- Sai!

Tôi đía chàng:

- Chẳng lẽ con rùa đực phải chạy ra ngoài kiếm con rùa cái khác thế thân vì con dợ của nó chịu không nổi bị chết rồi?

- Đúng là rùa đực chạy ra ngoài nhưng lý do thì em nói sai. Con rùa cái nằm lại trong hang vì nó bị... lật ngữa mất rồi!

**

Không biết từ ngày nào tui và chàng thường thưởng thức và ngâm thơ Hồ Xuân Hương cho nhau nghe chứ không còn những bài thơ tình lãng mạn của Xuân Diệu, hay những vần thơ dễ thương của Nguyễn Bính, Huy Cận ... Cái thanh và cái tục của thơ Hồ Xuân Hương thì quá xá hay, nhưng tụi tui thích nhất là bài “cờ người” mà chàng cứ rủ tui chơi hoài.

Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa.
Thiếp vội vàng vén phứa tượng lên.
Hai xe hà chàng gát hai bên,
Thiếp sợ bí thiếp liền nghễnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đang cơn bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung....

HXH

Đấu cờ kiểu này được một thời gian thì tui kéo cờ trắng đầu hàng. Chàng như dũng tướng, đêm bảy ngày ba ngày nào cũng chiếu tướng nên tui chịu đời hổng thấu. Nhưng tui phải ráng chịu đấm ăn xôi để tình vợ chồng được nồng nàn, chồng khỏi phải đi cày “ruộng” khác mất hạnh phúc gia đình. Chàng của tui bây giờ cũng không còn dùng nhạc hoặc thơ văn chính qui nữa, chàng huy động đến kho tàng văn chương bình dân, nói trắng ra là những điều thu lượm được từ các quán cóc, vỉa hè; sửa lại ý tứ của những tác giả uy tín hoặc tự đặt vè. Thay cho việc đánh cờ, bây giờ chàng ngâm:

Con heo ủn ỉn trong chuồng
Má mày có muốn vô buồng với tao?


Nghe mà rợn da gà, tui vội vắt giò lên cổ bỏ chạy. Tụi tui chơi rượt bắt y chang cái cảnh con gà trống lên cơn chạy rượt con gà mái. Đến khi chụp được con gà mái thì gà trống chồng tui hí hửng xuống giọng ca mấy câu vọng cổ ngay:

- Em cưng ơi! Nếu em có thương anh thì hãy cắn răn chằng con mắt, để anh leo lên anh lúc, anh lắc, anh đẩy củ khoai ... từ!

Tui thật là thảm thương, gọi trời trời không thấu, gọi chồng chồng hổng tha. Tui vừa la làng vừa nghĩ kế để thoát khỏi ... cảnh bị gà trống dí mỗi ngày. Hồi giờ chỉ nghe nói thuốc kích thích dục tình chứ đâu nghe nói thuốc làm giảm bao giờ. Bỗng dưng tui nhớ đến câu truyền khẩu của dân gian “Ăn gì bổ nấy”, chắc phải nghiên cứu đến vấn đề thực phẩm cho chàng mới được.

Suy nghĩ riết cũng ra, trước nhất mình phải tránh cho chàng ăn trứng, hotdog, ngầu pín, cà dái dê, gân bò, tránh những món gì dai dai. Thay vì thế thực đơn ngày nào sáng trưa chiều tui cũng chơi món bún và rau muống luộc vì người ta hay nói “mềm như bún”, hoặc “ỉu xìu như cọng rau muống luộc” mà. Ở tiểu bang Minnesota người ta không cho bán rau muống nữa, không mua được thì tui chơi bún riêu, bún bò, bún sứa, miễn sao là bún thì được! A, cái món bún sứa coi được đây. Vừa bún vừa sứa thì làm sao mà cương cho nổi.

Chàng rất thích món bún sứa tui nấu, khen ngon nức nở và ăn quá xá cỡ. Tui cười thầm trong bụng thấy tội nạn nhân của mình hết sức. Tui vừa gắp thêm sứa bỏ vào tô cho chàng vừa giả bộ yêu chìu nói với chồng:

- Anh thích sứa hở? Để em làm gỏi sứa cho anh ăn nữa nhen?

Tui làm gỏi sứa liên tục mấy ngày luôn và “hy sinh” ăn rau nộm mà dành hết sứa cho chàng. Sứa khô bên này bán hơi mắc nhưng vì việc lớn không thể tiếc tiền được.

Ăn bún, ăn sứa chưa đủ đâu. Tui còn nghĩ ra món gà cho chàng ăn vì người xưa còn nói “nhanh như gà” mà. Kỳ này cho gục luôn cái con dê chúa. Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ còn sót có một thứ, đó là con chi chi như người ta vẫn nói “nhũn như con chi chi”. Hỏi hoài vẫn không biết nó là con gì, có ăn được không nên tui đành chịu thua, không có món này trong thực đơn của chàng.

Nhưng mà như Nguyễn Ngọc Ngạn nói trên Paris By Night - con dê ăn cỏ mà sao cũng cứ dê - chồng tui ăn bún, ăn sứa, ăn gà mà chàng cứ “sung” như thường, vẫn dê như trước thế mới công toi. Kế hoạch một thất bại thì tui binh qua đường khác, đó là “Dĩ độc trị độc”! hay còn gọi là “Gậy ông đập lưng ông”! Kết quả thế nào thì hạ hồi sẽ phân giải...

***

Sống với nhau đã lâu nhưng hai đứa tui vẫn còn tình điệu lắm, vẫn còn rủ nhau ngồi ngoài vườn ngắm hoa, xem bướm. Nhưng khi thấy tui bắt hụt con bướm chàng lại ngâm:

Bướm đồng đụng đến thì bay,
Bướm nhà đụng đến lăn quay ra giường...”


Đến khi nhìn những con chim se sẽ đang bay nhảy đớp những vụn bánh mì tui quăng trên sân cỏ thì chàng đọc tiếp:

“Chim rừng bóp cái chết ngay,
Chim nhà mà bóp càng ngày càng to!!!!”


- Đồ quỉ! Anh này càng ngày càng tục hà!

Tui vừa mắng yêu anh chàng và vừa cười quá xá cỡ. Chàng của tui cứ đi sưu tầm trên mạng những câu thơ tục và vui như vậy để đầu độc tâm hồn trong trắng của tui mỗi ngày, bảo sao tui không bị ba trợn theo.

Gần nhà tui có sợi dây điện giăng ngang đường. Trừ mùa đông tuyết giá ngày nào cũng có rất nhiều con chim sẻ đậu dầy đặc một hàng dài trông đẹp hết sức. Tui có cảm tưởng những con chim này sau những lúc tung cánh khắp phương trời, chúng tụ tập về đây để nghỉ ngơi, tán dóc, thăm hỏi, tán tỉnh nhau... Còn chồng tui thì nhìn tụi nó rồi tuyên bố một câu ... thúi ình:

- Nhìn tụi nó là anh nhớ cái thời đi ỉa hồi nhỏ!!!

Tui phản đối:

- Đồ điên! Mắc mớ gì mấy con chim này với chuyện đi ị của anh?

Chồng tui tỉnh bơ kể:

- Hồi anh còn nhỏ ở xóm biển. Nhà cửa ở đây vừa chật chội, vừa lụp xụp, đâu có ai xây nhà cầu riêng trong nhà. Cả xóm xài chung một cái cầu công cộng. Cái cầu này được dựng ra trên mặt biển, cách bờ khoảng chừng vài chục mét, che chắn bởi vài tấm ván. Lối đi ra cầu là những tấm ván nhỏ và dài bắt trên những trụ gỗ. Cái kiểu giông giống như cầu tre vậy đó. Ị xuống nước thủy triều lên là cuốn trôi hết trọi. Thường thì người lớn mới ngồi trong cầu, còn đám con nít tụi anh thích ngồi trên lối ra cầu vừa khỏi chờ đợi, vừa ị vừa tán dóc, mát mẻ và thú vị lắm. Gió đồng sao bằng gió biển, vậy mà người ta nói “nhất quận công, nhì ỉa đồng”. Ỉa đồng còn thua xa ỉa biển. Đời anh quả là được hưởng khá nhiều lạc thú. Đi ị bọn anh cũng rủ nhau cả đám cho vui, từ xa nhìn tới giống y như mấy con chim đậu trên sợi dây điện này vậy. Thành ra anh nhìn tới mấy con chim của em là lại nhớ tới chuyện đi ị ngày xưa.

Chàng làm tui giờ đây bị ám ảnh cứ nhìn đến mấy con chim đậu trên dây điện là lại tưởng tượng ra cảnh ỉa biển của bầy con nít. Bữa nào có dịp về Việt Nam phải về thăm cái xóm lưới ấy để cùng nhau hưởng thử cái thú mà chàng cho là hơn cả quận công mới được. Dĩ nhiên là phải đi vào ban đêm để khỏi bị chụp hình đăng báo. Mà quên! Với phương tiện quay phim hiện đại bằng điện thoại di động như hiện nay coi chừng bị quay lén đem lên mạng lắm à. Thôi tui hổng dám!

Bỗng dưng tui nghĩ ra một điều và hỏi chàng:

- Vậy chứ hồi đó bọn anh chùi bằng gì? Rửa bằng nước biển hở?

Chàng cười hơi quê quê:

- Cái cầu ván cao hơn mặt biển cả thước thì làm sao mà lấy nước rửa được. Bọn anh thường ngồi hong gió biển cho khô!

Eo ui! Tui nghe mà hết nước nói. Thì ra lời đồn tui nghe còn thua xa sự thật. Tui nghe nói người ta đi ị đồng lấy cục đá hay lấy lá mà chùi. Bây giờ còn nghe chính đương sự nói là hong gió cho khô! Nghe mà rợn cả da gà. Hồi xưa thì vậy, không biết bây giờ còn giữ tật xưa không ta?

Cái xóm lưới của chàng hồi nhỏ nghe kể lại cũng rất thú vị tuy hơi bậy bạ. Dân biển thường chế thơ, chế nhạc ngâm nga trong những buổi nhậu làm vui. Không biết sao những bài chế biến này chui tọt vô nằm trong ký ức của chàng để lâu lâu sống lại và đem ra phun châu nhả ngọc.

Trong hãng tui có chị Nga, chơi thân với tui lắm. Tui hay kể cho chồng tui nghe về chuyện này chuyện nọ có nhắc tên Nga. Chàng bỗng cười tủm tỉm, hỏi tui:

- Có muốn nghe xóm lưới của anh hát về Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên không?

Tui biết chàng nhắc đến “xóm lưới” tức sắp xổ “thơ chế” gì đây rồi. Nhưng như đã biết đàn bà là chúa tò mò, và đầu óc tui đã lỡ bị đầu độc rồi nên tui dỏng tai lên ngay. Anh chàng hắng giọng:

- Vân Tiên ngồi núp bụi môn
Chờ cho trăng lặn, bóp ... mồm Nguyệt Nga
Nguyệt Nga vừa khóc, vừa la
Mẹ ơi, bớ mẹ, người ta bóp ....mồm


Ối trời ơi! Nguyễn Đình Chiểu ở trên trời chắc phải bịt tai không dám nghe tiếp. Nhưng tui thì khác, đã nói đầu óc bị vẩn đục rồi mà, tui cười quá xá cỡ và còn hỏi ảnh:

- Còn gì nữa không?

- Muốn nghe nữa hở? Để anh nhớ thử coi. Hình như có hát về Thạch Sanh và công chúa.

Ảnh lục trong óc một chút rồi nhớ ra và đọc:

- Thạch Sanh ngồi gốc cây đa
Thấy nàng công chúa bay qua ... ở truồng.
Thạch Sanh đứng dậy mà dòm
Thấy nàng công chúa... ở truồng bay qua.

Xin lỗi! tui phải sửa lại vài chữ trong mấy bài thơ chớ không ghi lại nguyên văn kẻo độc giả bảo là thô tục quá. Đề tài là “phàm phu tục tử” thì phải viết cho đúng cái tục chứ nhưng tui cũng phải né né một chút kẻo thiên hạ chửi! Văn vẻ gì mà toàn kể chuyện yêu, ị, xì hơi... eo ơi nghe ghê quá. Nói chứ mấy chuyện đó là chuyện thường tình của con người. Văn chương thi phú diễn tả bằng những từ ngữ bóng bẫy cho lắm nói chung chỉ để đánh lừa lỗ nhĩ của ta mà thôi, thực chất cũng là nhiêu đó. Ngày xưa thơ dại tui đã sống trên mây trên gió, suy nghĩ về những gì xa vời phi thực tế - tui đã từng nghĩ là công chúa hoàng tử không bao giờ đi cầu vì họ không phải là người thường nữa đó. Ông chồng của tui đã từ cái xóm lưới chân chất, trần tục mà lôi tui xuống với thực tại trần trụi, tục lụy và rất người này. Tui giờ lại thấy yêu cái “tục” của “người” bởi vì “người” có thể sống thực với chính mình. Mắc mớ gì phải che đậy, phải màu mè, phải tránh né.

Nghĩ đi nghĩ lại, có phải chỉ có vợ chồng tui phàm trần thế tục như vậy không? Chắc là không rồi vì người xưa có nói “Phu phụ tương kính như tân”, vợ chồng phải trọng nhau như lúc mới cưới. Tại sao phải nói vậy? Có lẽ vì hết thời mới cưới phần đông người ta không còn giữ kẻ lịch sự hảo với nhau nữa. Và cũng vì vậy mới có câu “Ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Yêu đối phương thì phải cùng nuôi con rận thì hôn nhân mới hạnh phúc và tồn tại. Phải không?

**

Thời gian cứ thế mà trôi. Chàng cứ tiếp tục làm phàm phu tục tử và tui thì chìu chàng hết nước nói. Nhưng đừng nhìn bề ngoài của tui vui vẻ hạnh phúc như thế mà lầm. Tui vẫn âm thầm và kiên trì chiến đấu với phương cách “Gậy ông đập lưng ông” của mình. Và gần đây chuyện lạ bỗng xuất hiện. Mấy món đồ ăn vặt tui làm từ đầu tuần vẫn nằm đúng vị trí trong tủ lạnh. Tối hôm đó tui đề nghị:

- Đã sang xuân rồi, mình tắt máy sưởi để hưởng chút không khí lành lạnh của mùa xuân nhen anh!

Chàng co mình:

- Đừng, anh còn lạnh lắm!

Tui ôm chàng vào lòng, âu yếm nói:

- Heat tự nhiên có ngay bên cạnh nè, sao lại phí phạm năng lượng vậy?

Chàng lơ tì nằm xụi lơ!

Liên tiếp mấy hôm liền, mới 4 giờ sáng chàng đã thức dậy, lụi hụi pha cà phê. Hôm nay chàng gây tiếng động hơi lớn làm tui giật mình thức dậy, rồi ngủ lại không được nên tui lần xuống bếp. Hình ảnh mà tui nhìn thấy là chàng đang ngồi mơ màng nhìn những giọt cà phê nhỏ long tong vào ly. Tui than:

“Đêm xuân một khắc ngàn vàng”! Sao lại phí phạm của cải mà ngồi mơ mộng vớ vẩn vậy hở anh?

Giọng chàng buồn hiu trả lời tôi:

- Vàng bạc là của phù du.
Giờ anh chỉ muốn đi tu cho rồi
Sức cùng lực kiệt tàn đời,
Còn đâu tứ khoái? nên ngồi mộng mơ....


Mừng quá, thành công rồi. Nhớ lại một đoạn thơ vui, tui vừa cười vừa chọc địch thủ:

Bây giờ sống cũng bằng không,
Thôi rồi cái kiếp làm chồng làm cha.
Dù cho có sống đến già,
Dù cho béo tốt cũng là công toi.
Giờ đây súng đã tịt ngòi,
Gia tài còn lại một... vòi nước trong.


Napoleon suốt một đời chinh chiến đã rút ra kết luận “Kẻ chiến thắng là kẻ thắng trận cuối cùng”. Tui nghĩ hoài vẫn không thông. Đó là trong hai đứa tui ai là kẻ thắng trận cuối cùng? Chàng đã biến tui thành một phàm thê tục tĩu hay tui đã biến một phàm phu tục tử thành gã mơ mộng?

Hoàng Thanh
http://batkhuat.net/van-phamphu-tuctu.htm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Xảy một ly đi một dặm, bà thủ tướng Thái vì thương anh mình ra nông nỗi:

Cuộc đảo chính thầm lặng tại
Thái Lan
Thái Lan lại một lần nữa lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị do các đáng  chính trị cực đoan đứng ra tổ chức trên khắp các đường phố ở thủ đô  Bangkok. Cuộc khủng hoảng đã đi vào tình trạng bạo lực, gây ra hàng loạt thương vong về cả người lẫn vật chất trong thời gian vừa qua. Tất cả  các cuộc khủng hoảng chính trị xảy ra ở Thái Lan trong suốt một thời  gian dài vừa qua đã tạo cho người dân Thái Lan có một suy nghĩ, rằng  liệu đất nước thịnh vượng mà họ đang sinh sống được thiết lập nhằm để  tiêu nền dân chủ của chính họ?

Các  cuộc bạo động xảy ra ở Thái Lan được chính cựu Phó Thủ tướng Suthep  Thaugsuban đứng ra kêu gọi và tổ chức. Ông Suthep đã trực tiếp đứng ra  kêu gọi hàng ngàn người đổ về thành phố biểu tình, nhiều người ủng hộ  ông đến từ khu vực đầy quyền lực ở phía Nam của nước này. Họ đã chiếm  lấy tòa nhà chính phủ với mục đích lật đổ Thủ tướng Yingluck Shinawatra –  em gái của cựu Thủ tướng lưu vong Thaksin Shinawatra. Ông Suthep nói  rằng đây là bước đầu tiên trong việc loại bỏ gốc rễ “Thaksinism” khỏi  đời sống chính trị của Thái Lan.
Ngày 1  tháng Mười hai, ông Suthep đã yêu cầu và nhận lời tham gia một cuộc họp  với bà Yingluck, trong đó phải có sự hiện diện của các Bộ trưởng quân sự  Thái Lan với mục đích nhằm “bảo đảm” cho sự an toàn của ông. Trong cuộc họp, ông Suthep yêu cầu và gia hạn cho Thủ tướng Yingluck một thời hạn  hai ngày để từ chức.  Với tình trạng lực lượng cảnh sát mất kiểm soát  với những đám đông trên đường phố mà không có sự giúp đỡ của quân đội,  bà Yingluck quyết định từ chức và giải tán quốc hội, và tuyên bố rằng bà sẽ lãnh đạo một chính phủ lâm thời cho đến khi một cuộc bầu cử mới được tổ chức vào ngày 02 tháng Hai.
Thời  gian dự kiến trên đã được xác nhận bởi một “diễn đàn cải cách”, được  thành lập để giải quyết cuộc khủng hoảng. “Diễn đàn cải cách” này bao  gồm các tầng lớp thượng lưu ở Bangkok và các quan chức quân đội. Khi  quyết định được đưa ra, ông Suthep và những người ủng hộ ông không hài  lòng và phản đối việc Thủ tướng Yingluck tiếp tục giữ chiếc ghế Thủ  tướng lâm thời. Họ đòi hỏi cuộc bầu cử phải được tổ chức sau cuộc cải  cách chính trị – với sự đồng thuận của chính ông – được thực hiện để  loại bỏ tất cả dấu tích của gia tộc Thaksin khỏi chính phủ.
Trên  thực tế, ông Suthep đã kêu gọi một “hội đồng nhân dân” bao gồm 400 đại  biểu trung lập. Hội đồng nhân dân sẽ thay thế Thượng viện sau khi Thượng viện bổ nhiệm một lãnh đạo mới được chỉ định bởi Quốc vương, do đó loại bỏ nhu cầu tổ chức các cuộc bầu cử trong tương lai gần.
Wassana Nanuam, phóng viên quân sự của tờ báo nổi tiếng Bangkok Post, đã mô tả  động thái này là một cuộc đảo chính “thầm lặng”: Không có bóng xe tăng  trên đường phố.
Đảng  Dân chủ do cựu Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva lãnh đạo, đã riêng  rẽ công bố tẩy chay cuộc bầu cử ngày 2 tháng Hai với lý do rằng đảng của ông không thể cải cách đất nước ngay cả khi tham chính. Đảng Dân chủ  cuối cùng giành được đa số ghế quốc hội vào năm 1992.

Trong  khi khuynh hướng của những tướng lĩnh quân đội là đứng cùng phe với tầng lớp thượng lưu, họ vẫn tiếp tục giữ sự lựa chọn mở. Sự không thành công của họ sau cuộc đảo chính quân sự vào năm 2010 dường như đã dạy họ rằng nên chờ đợi để xem liệu các đồng minh chính trị của họ có thể phá vỡ  “sợi dây thòng lọng” trong bầu cử của ông Thaksin mà trước đây đã từng  kéo dài 12 năm với năm cuộc tổng tuyển cử hay không trước khi quyết định làm gì tiếp theo.
Tầng  lớp thượng lưu ở Bangkok cho rằng tỷ phú Thaksin và các đồng minh của  ông đã dùng tiền để mua phiếu bầu cử. Nhưng theo Freedom Hous, tổ chức  chuyên theo dõi nền dân chủ và các quyền công dân trên toàn thế giới, đã tuyên bố chiến thắng bầu cử vang dội của Yingluck trong năm 2011 là tự  do và công bằng – một vị trí được ủng hộ bởi hầu hết các chuyên gia Thái Lan.
Bất  chấp hình ảnh tham nhũng của ông Thaksin, phần lớn dân nghèo Thái Lan  vẫn xem ông là sự thay thế duy nhất của họ trong thế giới thượng lưu mà  họ không thể với tới. Quả thực, sự nhấn mạnh của ông Suthep về việc trì  hoãn cuộc bầu cử là sự thừa nhận công khai rằng ông và các đồng minh của ông không thể giành chiến thắng ở cuộc tranh tài công bằng, thậm chí  ông còn đề nghị với “quyền” lãnh đạo rằng Thái Lan có lẽ không cần các  cuộc bầu cử trong tương lai. Cũng không có gì rõ ràng rằng cuộc cải cách sẽ đáp ứng lại các cuộc biểu tình chống gia tộc Thaksin, ngoại trừ  những cải cách được thiết kế để chối bỏ số đông theo ông Thaksin trong  nghị viện.
Điều đó nói lên rằng ông Thaksin và em gái của ông phải chịu một số trách nhiệm cho những bất hạnh gần đây của họ. Tội ngạo mạn quá mức, khả năng thông cảm với những người nông dân và người nghèo ở thành phố chỉ bởi vì họ  xem nhẹ tầng lớp trung lưu ở thành thị và không thể làm trong sạch bộ  máy chính phủ và nền tảng pháp quyền.
Bà  Yingluck cũng phải chịu trách nhiệm về cách xử lý vụng về trong cuộc  khủng hoảng hiện nay. Nguyên nhân châm ngòi cho các cuộc biểu tình là do nỗ lực của bà trong việc sửa đổi một dự luật ân xá, ban đầu được dự  định là một hành động miễn cưỡng hòa giải giữa phe đối lập “đỏ” và các  lực lượng chính trị “vàng”. Tuy nhiên, trong khi lệnh ân xá là để áp  dụng cho tội phạm nhẹ tội hơn được cam kết từ 2006 đến 2011, bà Yingluck  đã cố gắng nới rộng thời gian lệnh đến hai năm trước đó và ân xá cho cả  tử tù – một động thái được xem như là nỗ lực trắng trợn để bào chữa cho anh trai của bà và mở đường cho ông trở về lại Thái Lan.
Những  người ủng hộ ông Thaksin đã tính sai trong giả định rằng họ có thể dễ  dàng lợi dụng đa số ghế quốc hội của họ. Nỗ lực của họ trong việc thao  túng lệnh ân xá, mặc dù không vi hiến, vẫn mang đầy tính kiêu ngạo và  khiêu khích. Sự giận dữ đã nổ ra giữa các tầng lớp trung lưu ở Bangkok,  khiến ông Suthep giải phóng các đám đông của ông.
Câu  chuyện này ngày càng phức tạp hơn. Nếu những sự kiện gần đây gợi ra bất  kì định hướng nào, có thể cuộc bầu cử vừa rồi đưa được các đồng minh của ông Thaksin trở lại nắm quyền thì những gì xảy ra tiếp theo sẽ đầy rủi  ro bất ổn hơn. Người dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan sẽ đối mặt với  giới thượng lưu giàu có, sự phân cực sẽ gia tăng giữa miền bắc nước này –  nơi có đông dân cư – và các cơ sở quyền lực phía nam của Đảng Dân chủ  và ông Suthep – nhà lãnh đạo biểu tình
.

Sing–ming ShawProject Syndicate
Thùy Dương chuyển ngữ, CTV Phía Trước

Sin–Ming Shaw là giáo sư từng nghiên cứu tại Đại học Oxford (Anh Quốc) và là một học giả thỉnh giảng tại Đại học Michiga (Hoa Kỳ).


Phần nhận xét hiển thị trên trang