Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2014

Ông Đức điên thực rùi???:

 MÃ GIANG LÂN ĐẠI BIỂU XUẤT SẮC CỦA

                     THƠ CÓC CÁY AO CHUÔM

             Nguyễn Hoàng Đức

           Giải thưởng thơ 2013 của Hội Nhà Văn không xum xuê dồn dập như vụ được mùa giải năm trước, mà nó hiếm như một mụn trứng cá được nặn ra, đủ thấy một sự thật khác: giải thưởng không nằm trong giá trị các tác phẩm  văn chương mà là do các ban giám khảo của hội quyết định rộng tay hay chùn tay. Năm nay rõ ràng là một năm chùn tay, dù có nhiều tác phẩm hay hơn “Những lớp sóng ngôn từ” chăng nữa cũng không thể hào hiệp phát đại trà theo lối “tháo khoán” định hướng được.

Nhân việc giáo sư, tiến sĩ Mã Giang Lân được giải nhất Hội Nhà Văn 2013 với tập thơ “những lớp sóng ngôn từ”, tôi thấy chúng ta có cơ hội được xem một vở kịch văn học với nhân vật phía trước và các nhà đạo diễn phía sau.

Trước hết về giá trị tập thơ, có hai điều chính yếu không thể cãi:

1-     Theo Bách khoa kinh điển nhất: chỉ là Văn chương khi nào nó vượt qua ngôn ngữ thông tin cấp một.

Đầu đề luôn là một câu gói gọn nhất cho cả tác phẩm cũng như nội hàm của tác phẩm. Nó luôn là một câu đầu tư thời gian nhiều nhất, cũng thường hay bậc nhất. Vậy thơ của họ Mã thì sao? Thơ thì toàn kể lể liệt kê sự kiện lối thông tin cấp một. Ngay cái đầu đề như các bài “Mưa tuyết Sa Pa”, “Tùy hứng”, “Đi tầu” rồi “Ông chài”… hầu hết là ngắn cụt lủn, và đưa tin cấp một chưa đầy đủ. Người ta bảo, nghệ thuật là cái riêng biệt, “Đi tầu”, và “ông chài” là những danh từ riêng nhưng mang nghĩa chung, đâu có thể hiện một chút nào cái cảm xúc riêng rẽ của tác giả?! Đó có phải vì thơ vu vơ chẳng có gì phản ánh nên đầu đề mới chung chung chẳng có gì để nói?!

Ngôn ngữ phản ánh giá trị của trí tuệ. Trước kia trình độ dân Việt 99% là nông dân, ngôn ngữ của họ rất nghèo nàn, ngay cạnh thủ đô thôi người ta không đủ trình độ đặt tên địa danh 2 âm tiết, mà chỉ có một âm như “Sặt”, “Nhổn”, “Trôi”, “Phùng”…

Đến lượt GS, TS họ Mã, dạy đại học hẳn hoi đâu có thể ít chữ, vậy mà các bài thơ thường chỉ có vài âm tiết chưa đủ “bổ ngữ từ” để làm câu văn duyên dáng hay hùng mạnh. Có đủ thấy ông trình độ thế nào không?!

2-     Mục đích biện minh cho phương tiện. Cái gì không có mục đích thì phương tiện chỉ là vô nghĩa. Một chiếc xe bò có ý nghĩa khi nó chở hàng. Một chiếc vé tầu có ý nghĩa khi nó đưa người ta đến xứ nào đó… hầu hết các bài thơ của họ Mã không có mục đích. Mục đích của thi ca ở đây là nó phải nâng con người lên, nhưng với thơ của họ Mã chúng ta chỉ được nghe một câu chuyện sơ sài cảm xúc, không nhân vật, không tình tiết, không cốt chuyện, và cũng không phải cây đàn lia để nâng cao tâm hồn thanh khiết cao sang…

Nhân đây tôi cũng xin đánh giá chung lại trình độ thơ chung của chúng ta. Việt Nam hiện nay có hơn 80% nông dân theo con số nghĩa đen, nhưng theo những gì rây rớt trong tâm hồn thì chúng ta vẫn còn hơn 99% nông dân. Lực lượng đông thứ hai, chắc chắn là các nhà thơ, vì rất nhiều phường, làng xã, các tổ hưu trí có câu lạc bộ thơ, điển hình mới đây khi câu lạc bộ thơ chui được thành lập trong vài tháng đã có dăm nghìn hội viên. Hàng ngày tôi đều xem truyền hình, thấy rõ ràng người Việt chủ yếu là hát nói dề dà, xem các bộ phim Việt thấy các diễn viên nói ê a rất chậm rãi, rồi gặp nhiều nhà thơ không nói được câu dài chỉ nói lới lơ cắt ngắn câu kiểu xuống dòng, tôi cho rằng đó là sức khỏe của thể lực và trí tuệ. Nhìn các diễn viên ăn mặc quần bò áo phông kiểu hiện đại lại ăn nói ê a, tôi thấy rõ dù anh chị có ăn mặc hiện đại thế nào thì trong tâm hồn vẫn là thứ tiểu nông tranh tre nứa lá. Thơ Việt Nam chủ yếu là bản nháp cho sinh hoạt cải lương, tuồng, chèo, đặc biệt là thơ lục bát, người ta soạn để hát. Vì thế thật hài hước khi chúng ta cứ bàn thứ văn thơ quần còn sắn móng lợn là hậu hiện đại nghe phì cười lắm!

Một bài thơ có thể sửa soạn cho ca từ, hay ca khúc, nhưng nó không bao giờ là ca khúc vì ca khúc đòi hỏi nhạc lý và tiết tấu. Một bài thơ có thể nghiệp dư, nhưng để trở thành một ca khúc được biểu diễn trên sân khấu thì tính chuyên nghiệp bắt buộc phải xuất hiện. Nhưng ánh sáng lấp lánh của sân khấu vẫn là thứ vinh quang đáng khát thèm, vì thế có vài nhà thơ mang thơ lên sân khấu biểu diễn, có nhà thơ còn triển lãm thơ như tranh… họ muốn vậy vì muốn có vinh quang cấp tốc của đèn đuốc, phèng la.

Thơ Việt chủ yếu còn ở dạng lúa gạo thô “chân lội xuống bùn, tay cấy mạ non” chưa thành đại thụ được. Cụ thể, năm 2012, Thanh Thảo với trường ca “Chân đất” chẳng trăm phần trăm quê cáy là gì?! Chân đất người Việt gọi thẳng tưng là loại mạt hạng, trên răng dưới dái, không có nổi đôi dép mà đi. Người Việt bảo “Thế gian chuộng của chuộng công/ nào ai có chuộng người không bao giờ”. Ở thôn quê, kẻ không có tiền giúp đỡ, thì phải đến làm công thay thế, ở thành thị cũng vậy, còn kẻ nào đến người không thì làm sao được kính trọng? Thử hình dung một đạo quân đến nước khác giúp đỡ, lại đi người không, vũ khí không có, lương thực cũng không, thử hỏi sẽ trở thành gánh nặng thế nào cho nước đang lâm nguy? Toàn bộ trường ca của Thanh Thảo không có câu nào đáng nhớ  (nếu ai có ý kiến khác xin nêu giùm), chỉ có một câu đáng nhớ nhất thì lại là thẩm xú “bác Năm Trì gãi háng”.

Ngay đó là Phạm Đương với “Giờ thứ 25” đạo văn nguyên đai nguyên kiện. Giải thưởng này là “vé kèm” theo đại ca, đúng là thứ đặc sản văn hóa ao chuôm chỉ Việt Nam mới có. Phạm Đương văng “đếch” vào thơ để làm gì? Để bước một nhát từ ruộng phèn lên phố. Người Việt có câu “ăn mày nhà quê không bằng ngồi lê thành thị”. Người quê văng tục rất tự nhiên, nhưng chủ yếu họ văng tục vào cơ quan sinh sản. Người trên phố văng tục bằng cách chửi thề. Phạm Đương văng “đếch” để được thị dân hóa, mà thị dân bằng văn bản thơ. Tất nhiên văng bậy cả vào thơ hẳn phải là dân phố đầu đường xó chợ. Nhưng dù sao vẫn là phố!

Tập thơ “Mầu tự do của đất”, của Trần Quang Quí rõ ràng là nhà thơ Việt chủ yếu còn “chơi bi” đất cát, hết chân đất lại đến mầu tự do của đất. Đất trong văn học biểu tượng cho ù lỳ, bất động, hay vốn tự có… chỉ có máu mới biểu tượng cho tự do, chứ đất thì chưa bao giờ? Người Việt có câu “bọn đầu đất” là biểu hiện cho sự kiệt cùng của đần độn. Sự kiệt cùng đó liệu có mầu tự do?

Nhóm “Tự lực văn đàn” có đề ra phương châm cho nghệ thuật: “Sự nghiệp cao trọng hơn vinh quang”. Sự nghiệp tức là người ta làm được gì, cống hiến gì đó cho đời. Còn vinh quang chỉ là hào quang bên ngoài, nhiều khi lại chỉ là hào quang giả với bằng cấp giả hay chạy giải. Thơ Việt Nam còn tiểu nông, tiểu chí, tiểu khí, tiểu phẩm, tiểu cảm lắm, muốn có tác phẩm lớn chúng ta phải có cách nghĩ khác hẳn, chứ không phải cách “vui chơi có giải” xì xụp đọc vài bài lèo tèo, đem bốn hòn gạch tứ tuyệt sang Thụy Điển để khoe lâu đài thơ thì buồn cười lắm. Ở quê người ta đánh cá bằng cách thả lưới, rồi gõ phèng la dồn đuổi, rút cục nhấc lưới nhặt được vài con cá tép to cỡ ngón tay. Đó là hình ảnh bữa tiệc vinh quang của văn thơ Việt. Muốn săn cá voi, chúng ta phải đóng tầu lớn vượt biển đi đến những vùng nước lạnh, săn được cá rồi thì tầu phải đủ công xuất và chỗ chứa để chở cá về. Liệu có mấy nhà thơ, nhà văn của chúng ta sắm tầu để săn cá voi?

Vinh quang văn thơ của chúng ta chủ yếu mới chỉ là mây tre đan xuất khẩu. Hàng triệu gói tăm tre đâu có thành tầu sân bay? Hàng tỉ viên gạch đâu có thành lâu đài? Vạn ức mây tre đan có bõ một nguyên tử phóng xạ? Nếu cứ quanh quẩn với tư duy làm duyên chân đất đánh giậm tép ao chuôm thì bao giờ chúng ta mới có tác phẩm xứng tầm thời đại?

Vinh quang của văn thơ là tiếng sột soạt của giấy đang lật dở hồi hộp âm thầm nóng chảy nôn nao xao xuyến tha thiết bất khả cưỡng như nhịp đập của con tim. Là nhà văn, nhà thơ thì nên khao khát thứ vinh quang đó, chớ nên ham hố vinh quang thả lưới mấy vần thơ vớt được cả phèng la, cả thẻ hội, cả giải, và cả ghế ăn trên ngồi trốc.

NHĐ  08/01/2014

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chả khác mấy chuyện con gà và quả trứng!

Tâm linh và Mê tín

Đỗ Kiên Cường
Tâm linh và Mê tín
Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác” (Định luật Blackmore thứ nhất).

Bài “Đất thiêng một giải nghiệm” trên Văn nghệ số 32, ngày 11-8-2007, khá điển hình cho một trào lưu mới tại nước ta hiện nay. Đó là sự lên ngôi của “khoa học tâm linh” hay các hoạt động mang tính tâm linh khác, tuy khái niệm tâm linh chưa bao giờ được làm rõ hay đạt sự đồng thuận. Đây là vấn đề quan trọng mà nếu không giải quyết, có thể gây nhiều hiểu lầm. Có ai ngờ thời thế lại đổi thay đến mức, người viết từng bị nhà thơ T.T.L. qui kết là hồng vệ binh và phản động chỉ vì không tin tâm linh có thật!

Tâm linh là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 1995, tâm linh là “1. Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xẩy ra với mình, theo quan niệm duy tâm. 2. (ít dùng) Tâm hồn, tinh thần”. Nếu đề nghị dịch thuật ngữ ra tiếng nước ngoài, có lẽ người biên soạn sẽ lúng túng.
Liên quan với tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là spiritualism(duy linh luận) vàspiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, còn thông linh luận giả định về một số hiện tượng liên quan với sự can thiệp của người chết. Do nhiều tương đồng, nên chúng thường được đánh đồng với nhau. Tâm linh luận giả định có thể liên lạc với người chết qua đối tượng trung gian là giới đồng cốt - những người được xem là có khả năng nói chuyện với người chết.

Cần lưu ý rằng, linh hồn bất tử là ước nguyện rất tự nhiên của con người, vì đó là cách duy nhất để chúng ta chống chọi với thời gian và chiến thắng nỗi sợ hãi trước cái chết. Trong mọi nền văn hoá, đều tồn tại ước nguyện đó dưới nhiều hình thức, nhất là khi người xưa chưa hiểu biết đầy đủ về bản chất sự sống. Ngày nay, khi Miller (1953) tạo được axít amin nhờ tia lửa điện phóng qua ống nghiệm mô phỏng khí quyển Trái đất xưa, và khi nhiều phòng thí nghiệm đã gần tạo được tế bào nhân tạo, khoa học đã phát hiện bản chất tự nhiên của sự sống và khẳng định linh hồn không có thật. Là chức năng của bộ não, nên khi ta chết, tư duy, nhận thức và tình cảm chấm dứt, giống như hình ảnh, âm thanh trong tivi mất ngay khi ta ngắt điện. Nói cách khác, về mặt khoa học, linh hồn là quan điểm sai lầm.

Như vậy cần phân biệt ranh giới giữa các hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo với các hoạt động khoa học. Thờ cúng và cầu xin người đã khuất phù hộ tại gia đình, đền chùa hay các cơ sở tôn giáo là các hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo cần được giữ gìn như một nét văn hoá đáng quí. Hoạt động này được pháp luật bảo vệ. Còn tổ chức nghiên cứu xem linh hồn có thật hay không lại là việc làm lạc hậu cả về thế giới quan và phương pháp luận. Về mặt thế giới quan, những hoạt động đó kéo lùi nhận thức của chúng ta ít nhất hai thế kỉ (Khi Wohler tổng hợp được urea năm 1828, quan niệm linh hồn đã bị bác bỏ về mặt sinh học). Về mặt phương pháp, các nghiên cứu về cầu hồn hay gọi vong tại nước ta mắc lỗi nghiêm trọng trong thiết kế, đánh giá và bàn luận kết quả. Kết quả là một trung tâm nghiên cứu với nhiều nhà khoa học có tiếng đã kết luận cô đồng Phương tại Thanh Hoá thực sự có khả năng gọi hồn người chết. Trong khi đó, với sự nghi ngờ đúng đắn (xin lưu ý, tín ngưỡng hay tôn giáo dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ) và “thiết kế thực nghiệm” đơn giản, một phóng viên báo Công an TPHCM đã phát hiện sự thật khi cô đồng nổi danh này mắc bẫy nói chuyện với “vong” không có thật.
Các hiện tượng dị thường:
Như đã trình bày, vì quan niệm linh hồn đã bị xem là lạc hậu, nên giới nghiên cứu nước ngoài tỏ ra ưa thích thuật ngữ psychic, cũng được hiểu là tâm linh (theo nghĩa thứ nhất trong Từ điển tiếng Việt). Nó bao gồm ba phạm trù: ngoại cảm, tức khả năng nhận biết phi ngũ quan (gồm thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri và hậu tri); tác động của tinh thần lên vật chất (chẳng hạn “nhìn cong thìa”); và các hiện tượng liên quan với người chết. Người có một hay nhiều khả năng như trên được gọi là nhà ngoại cảm hay tâm linh. Thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, giới ngoại cảm nước ta xuất hiện như nấm sau mưa. Tự cho là có nhiều khả năng khác nhau, nhưng để đáp ứng nhu cầu tìm hài cốt liệt sĩ tăng rất cao sau hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, nhiều nhà ngoại cảm tuyên bố có khả năng tìm mộ, chủ yếu do “nói chuyện với người chết”.

Cần nhấn mạnh rằng, sau hơn một thế kỉ nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra tám lí do nghi ngờ ngoại cảm và tâm linh như sau:
1) Sự tiến bộ là tiêu chí bắt buộc của một khoa học tốt.Ngành cận tâm lý (nghiên cứu ngoại cảm và tâm linh) không đạt được một tiến bộ đáng kể nào, kể từ khi Hội nghiên cứu tâm linh đầu tiên trên thế giới được thành lập tại Anh năm 1882.
2) Ngoại cảm được định nghĩa khác thường, không theo nghĩa nó là cái gì, mà theo nghĩa không là cái gì, nên rất khó giới hạn phạm vi nghiên cứu.
3) Bằng chứng của tâm linh thường không đáng tin, vì chỉ dựa trên lời kể của những người thiếu kiến thức chuyên môn.
4) Nghiên cứu về tâm linh thường mắc lỗi giản lược trong nhận thức và phương pháp.
5) Tâm linh không liên quan với bất cứ lý thuyết khoa học đã được khẳng định nào.
6) Nghiên cứu tâm linh có tính lặp lại kém.
7) Ngụy tạo và lừa gạt gắn bó chặt chẽ với tâm linh trong suốt tiến trình lịch sử.
8) Nhiều hiện tượng tâm linh có thể giải thích theo cách thông thường, mà hiện tượng ma nhập là điển hình (đó là hiện tượng đa nhân cách trong lĩnh vực tâm thần học).

Xin nhấn mạnh hai lí do thứ 3 và 4. Cho đến nay, chưa một ai đưa ra được một bằng chứng thuyết phục về tâm linh. Thế nào là một bằng chứng đáng tin cậy? Đó là bằng chứng thu được trong một thí nghiệm được thiết kế đặc biệt nhằm loại bỏ các kênh cảm giác (vì ngoại cảm là khả năng nhận biết phi ngũ quan), sự lừa gạt hay nguỵ tạo. Nghiên cứu tại nước ta không thoả mãn các tiêu chí này, vì thế các kết luận đều không đáng tin. Hiện quĩ James Randi (nhà ảo thuật chứng tỏ khả năng “nhìn cong thìa” của Iuri Geller chỉ là ảo thuật) treo giải một triệu đô la Mĩ cho bất cứ ai thực hiện được khả năng ngoại cảm trong một thí nghiệm có kiểm soát. Các tổ chức nghiên cứu tại Pháp, Úc, Canada… cũng treo giải 200.000 euro mỗi nước. Và trên hết là giải thưởng 50 triệu đô la cho người chỉ ra vị trí của trùm khủng bố Bin Laden. Cần lưu ý, tất cả các nhà ngoại cảm từng thử nghiệm đều đã thất bại.

Ngược với sự nghi ngờ của giới chuyên môn, sự quan tâm của quần chúng đối với ngoại cảm và tâm linh không hề suy giảm vì bất cứ lí do nào. Đó là căn nguyên khiến nữ tiến sĩ tâm lí Susan Blackmore đưa ra định luật Blackmore thứ nhất. Đã từng xuất hồn và sau mấy chục năm nghiên cứu, bà nhận thấy “Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác”. Nói cách khác, vì muốn tin nên chúng ta có xu hướng bác bỏ mù quáng mọi chứng cớ chống lại niềm tin đó!
Chính vì vậy, Uỷ ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường CSICOP được thành lập tại Mĩ năm 1976 nhằm ngăn chặn “cơn triều dâng của nạn mê tín và sự thừa nhận không phê phán các hiện tượng dị thường” và “khám phá các tuyên bố (về dị thường) và xuất bản các báo cáo khoa học về tính hiện thực của chúng”. Nhiều nhà khoa học lừng danh tham gia sáng lập CSICOP, như nhà vật lý Kapitxa (Nobel vật lý), nhà vật lý và thần kinh học Crick (Nobel sinh lý và y học), nhà tâm lý Skinner (cha đẻ thuyết hành vi), nhà thiên văn Sagan (cha đẻ chương trình tìm kiếm các nền văn minh ngoài trái đất SETI), nhà sinh học tiến hoá Gould (cha đẻ thuyết Darwin hiện đại hoá), nhà ảo thuật Randi (khám phá nhiều màn ảo thuật đội lốt tâm linh), nhà sinh học Dawkins (bác bỏ quan niệm về nguyên lý sáng tạo tối cao của một số nhà khoa học hàng đầu)… Với đội ngũ nhân lực hùng hậu, với tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ xuất bản hàng quí, với hàng loại khảo cứu chuẩn mực về mặt phương pháp, CSICOP là thách thức chưa thể vượt qua đối với giới ngoại cảm và tâm linh trên toàn thế giới. Các tổ chức tương tự cũng xuất hiện tại Nga, Ucraina, Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha, Ý, Ấn Độ, Nam Phi, Brazil, Achentina, Hồng Kong, Đài Loan và nhiều quốc gia khác. Bạn đọc quan tâm tới các hoạt động của CSICOP có thể vào tranghttp://www.csicop.com/ để tìm hiểu thêm.
Tại sao giới bói toán hay đồng cốt dường như chính xác?
Nếu ngoại cảm và tâm linh không đáng tin cậy, tại sao một cô đồng giỏi có thể biết một số thông tin về người chết? 
Nhiều người cho rằng đó là bằng chứng cho thấy linh hồn có thật và giới đồng cốt quả thật có khả năng nói chuyện với người chết. Tuy nhiên sau khám phá của Ray Hyman (cũng là sáng lập viên của CSICOP), sự thật về giới bói toán và đồng cốt đã được khám phá. Trong bài báo “Thuyết phục người lạ rằng bạn biết tất cả về họ như thế nào” trên Người yêu cầu nghi ngờ, tập 1, số 2, năm 1977, Hyman đã phát hiện kỹ thuật đọc nguội (cold reading). Đó là kỹ thuật lấy tin từ chính thân chủ bằng nhiều phương cách như nói lấp lửng nước đôi, đọc ngôn ngữ cơ thể… (thày bói hay cô đồng thường nói tràng giang đại hải, khi gặp thông tin khớp, ta thường nhướn mày, chớp mắt, rung cơ, thở nhanh… nên cô đồng nắm được. Giới chuyên môn gọi là hiệu ứng Hans thông minh, khi ngựa Hans tại Berlin đầu thế kỉ 20 “biết làm toán” do đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện). Chính vì vậy trong cuốn Sự thật đầy đủ về đọc nguội, Rowland viết: “Trong một buổi gọi hồn thành công, cô đồng có thể nói hầu hết thời gian, nhưng chính người hầu đồng mới là người cung cấp ngữ nghĩa và ý nghĩa của những ngôn từ đó“. Ở đây câu ngạn ngữ Tây Ban Nha tỏ ra thích hợp “Người nói nhiều đôi khi cũng đúng”!
Có thể kể thêm hai kỹ thuật đơn giản là đọc nóng (hot reading) và đọc ấm (warm reading). Đọc nóng là cách lấy tin trước khi bói hay gọi hồn. Ta cứ phải chầu chực mãi mới được bói hay hầu đồng là vì vậy. Còn đọc ấm là việc áp dụng các nguyên lý tâm lý thông thường cho thân nhân người đã khuất. Chẳng hạn giới đồng cốt Mĩ thường nói người chết cảm thấy đau đầu hay đau tim. Thông báo này có xác suất đúng cao vì đột quị não và nhồi máu cơ tim là những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mĩ. Với một cô đồng giỏi cả ba kỹ thuật, người nghe không tin mới là chuyện lạ!
Vậy có thể kiểm chứng độ xác thực của khả năng “ngoại cảm tìm mộ“ hay không? Cách giải quyết thực ra rất dễ dàng: hoặc xét nghiệm ADN trên hài cốt tìm được, hoặc thực nghiệm với các trường hợp thật giả lẫn lộn. Người viết bài này tin rằng, nếu tổ chức tốt các thử nghiệm có kiểm soát, không một nhà ngoại cảm nào dám chấp nhận thách thức. Vấn đề chỉ là chúng ta có muốn kiểm chứng hay không mà thôi.
Cần bài trừ nạn mê tín mới:
Có lẽ ít người phản đối việc tách biệt hành vi mê tín khỏi các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên đâu là ranh giới giữa mê tín và tín ngưỡng lại là vấn đề rất khó đạt được sự đồng thuận. Đó là vấn đề lớn của toàn nhân loại chứ không riêng của nước ta. Chẳng hạn tại Anh, nhà khoa học đoạt giải Nobel Josephson từng bỏ vật lý để nghiên cứu các hiện tượng tâm linh. Trong một bức thư gửi tạp chí Nature danh tiếng, ông chê trách thái độ thờ ơ của cộng đồng khoa học đối với lĩnh vực tôn giáo và dị thường học. Theo ông, thực hành tôn giáo bắt nguồn từ các gien liên quan với tính thiện và có thể giúp các xã hội vận hành tốt hơn. Các nhà khoa học phản đối ông, cho rằng ngoài các yếu tố tích cực, hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo rất dễ gắn với các hành vi mê tín. Điều này không lạ, vì trong một số trường hợp, ranh giới giữa tín ngưỡng và mê tín cũng khá mơ hồ. Chẳng hạn thờ cúng người đã khuất là tín ngưỡng; vậy vay tiền bà chúa Kho là tín ngưỡng hay mê tín?
Theo quan điểm cá nhân, cần phân biệt hai kiểu mê tín: mê tín cũ và mê tín mới. Tin là có ma quỉ, linh hồn, thiên đường và địa ngục hay thực hành gọi vong, cầu hồn, lên đồng… là các hành vi mê tín kiểu cũ. Những hành vi này thì từ xa xưa cha ông ta cũng đã từng đả phá và nay chúng ta cần cương quyết và khôn khéo loại trừ. Sự vụ một cô đồng “nhập hồn lãnh tụ” cần xem là sự giả danh lãnh tụ, và việc lưu truyền băng đĩa về nó cần xem là hoạt động mê tín. Chúng và các hoạt động tương tự cần được ngăn chặn kịp thời, cương quyết, khôn khéo và lâu dài.
Khó ứng phó hơn là các hành vi mê tín mới. Tại phương Tây chúng nổi lên dưới cái tên Tân Kỷ nguyên (New Age). Trào lưu này cho rằng, dựa trên các lý thuyết mới như cơ học lượng tử, khoa học (tự nhiên) đã có thêm tính chủ quan, bên cạnh tính khách quan vốn có. Đã là chủ quan thì không thể bỏ qua các yếu tố thuộc về tinh thần hay “tâm linh” được. Tiến thêm một bước (không hợp lý, theo cá nhân người viết), trào lưu này làm sống lại các chủ đề cũ như xuất hồn, đầu thai và luân hồi, tiên tri, giao tiếp với người chết… với nhiều cơ sở nghiên cứu, thực hành và giảng dạy được thành lập, chủ yếu dựa trên tài trợ tư nhân. Như đã trình bày, đó là những hoạt động thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ, không vượt qua được các cuộc kiểm chứng nên đều không đáng tin cậy.
Cuối cùng là một số hành vi chưa hẳn là mê tín nhưng cũng cần được lưu tâm đúng mức. Đó là việc ca ngợi và vận dụng quá mức một số quan niệm và kinh nghiệm người xưa. Với cái nhìn khá tinh nhạy, người xưa đã quan sát, chiêm nghiệm và hệ thống hoá một số quan niệm, kiến thức và thực hành trong nhiều lĩnh vực, như y thuật, thuật phong thuỷ, tử vi, kinh Dịch… Tuy nhiên do hạn chế trong hiểu biết về cấu trúc và hành vi của con người và thế giới, nên các hệ thống đó chứa đựng nhiều quan niệm và hành động sai lầm. Với trình độ ngày nay, không khó để chỉ ra đúng sai, hay dở của các hệ thống đó. Một quan điểm đúng đắn trong việc gìn giữ bản sắc là gạn đục khơi trong, loại bỏ các yếu tố sai lầm, giữ lại các kinh nghiệm đúng để ứng dụng vào cuộc sống. Chẳng hạn quan niệm địa linh nhân kiệt. Người xưa cho rằng do khí thiêng sông núi hay mạch đất mà một địa phương có thể sinh nhiều hào kiệt . Vì thế mà có các quan niệm và hành vi sai lầm như “mả táng hàm Rồng” hay trấn yểm. Ngày nay ta biết rằng, chính con người (với mọi sắc thái sinh học và văn hoá) mới là yếu tố tạo nên hay tô điểm thêm cho một truyền thống văn hoá. Nếu không sẽ không hiểu tại sao các nhà Cần Vương thất bại mà Cách mạng tháng Tám lại thành công. Một ví dụ khác là nhà ở ngã ba bị đường đâm thẳng vào thì không tốt. Kết luận có thể giống nhau, nhưng khoa học giải thích bằng các lí do như dễ bị xe đâm trong các vụ tai nạn hay ảnh hưởng của sự căng thẳng thần kinh khi sống trong căn nhà đó, chứ không phải bằng các quan niệm siêu hình của người xưa. Quan niệm xung khắc tuổi cũng vậy. Khi cả hai người cùng tin tuổi họ xung khắc thì họ sẽ xét nét nhau từng tí một và cuối cùng thành xung khắc thật; trong khi nếu cùng tin hợp tuổi thì sẽ chín bỏ làm mười và cố gắng hợp tác tối đa, kết quả là hợp thật. Như vậy chính sức khoẻ thể chất và tâm thần, chính trí tuệ, cảm xúc, niềm tin và các giá trị tinh thần, cũng như môi trường sống và làm việc có văn hoá, chứ không phải ngày tháng năm sinh hay nơi sinh, mới là yếu tố quyết định chúng ta là ai, chúng ta sống và theo đuổi các giá trị như thế nào. Thiên thần hay ác quỉ nằm trong chính chúng ta, chứ không phải ở con sông hay ngọn núi.
Để kết thúc, xin nhấn mạnh rằng, niềm tin vào sự huyền bí là nhu cầu có thật của con người, và theo các nhà khoa học, nó lớn hơn mọi chứng cớ phản bác. Vì vậy chúng ta cần lựa chọn đúng đắn giữa các hoạt động tín ngưỡng và các hành vi mê tín, cho dù trong nhiều trường hợp, ranh giới giữa chúng thật khó phân định. Với lập trường duy vật và cách nhìn biện chứng, với việc ứng dụng linh hoạt các thành tựu khoa học hiện đại, chúng ta có thể gạn đục khơi trong, góp phần gìn giữ những truyền thống văn hoá quí báu của dân tộc, bên cạnh việc kiên trì loại trừ các hành vi mê tín dị đoan.

Trả lời các câu hỏi
Huy Minh xin được đem cái “lãng mạn” khoa học và tôn giáo của bản thân để trả lời những câu hỏi của Minh Bùi, cốt chỉ góp vui:

1) Bản chất tâm trí là gì? Mối tương quan giữa bộ não và tâm trí là như thế nào? Ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào? Vô thức phân tâm học và vô thức nhận thức học giống và khác nhau như thế nào?

Vũ trụ là một siêu máy tính khổng lồ, con người cũng có thể được hình dung giống như một chiếc máy tính (dĩ nhiên là tinh vi hơn bất cứ chiếc PC nào trên trái đất), có phần cứng, phần mềm điều hành (Windows, OS,..) và phần mềm ứng dụng tương ứng với con người là: thể xác, thể vía và thể trí sự hoạt động hài hoà giữa các thể này tạo nên một cơ thể khoẻ mạnh và ngược lại. Như vậy, bản chất của tâm trí là một chương trình máy tính, một phần mềm (software) chạy trong cơ thể chúng ta từ lúc sinh ra tới lúc chết đi. Tâm trí hoạt động nhờ có bộ não (giống như bộ nhớ của máy tính: đĩa cứng – HDD hoặc RAM), là các quá trình thu nhận, ghi nhớ, vào/ra và xử lý thông tin dữ liệu thông qua các bộ phận ngũ quan (tai, mắt, chân tay,..).

Đi sâu nghiên cứu về khoa học máy tính chúng ta sẽ thấy một sự tương đồng hoàn toàn và có thể hình dung, quan sát, mô phỏng được ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào. Qua đó sẽ có những giải đáp thoả đáng về các vấn đề phân tâm học. Chính từ lâu, con người đang nỗ lực nghiên cứu và đạt được những thành tích to lớn về trí tuệ nhân tạo, nhằm mục đích tạo ra những robôt thế hệ mới, thông minh như con người!. Khi đó, rõ ràng con người đã là Thượng Đế, là Đấng Sáng tạo vĩ đại.

Một điều quan trọng nên nhớ là “chiếc máy tính” của ta không hoạt động độc lập, đơn lẻ mà có “nối mạng” với siêu máy tính vũ trụ, chịu sự chi phối nhất định của vũ trụ có cái ta nhận biết được nhưng có nhiều cái chưa nhận biết được.

2) Bản chất giấc mơ là gì? Tại sao chúng ta nằm mơ nhiều lần hàng đêm mà ít khi nhớ khi tỉnh giấc?
Chúng ta mơ hằng đêm, có nhiều kiểu mơ khác nhau, giấc mơ như những đoạn phim hay một hồi, một cảnh dở dang của một vở kịch. Có rất nhiều chương trình, nhiều phần mềm hoạt động trong cơ thể chúng ta, mỗi cơ thể lại có cơ địa khác nhau, đôi lúc không hoàn hảo, mặt khác chúng ta lại “nối mạng” với siêu máy tính vũ trụ, vì vậy, giấc mơ có thể là một hình thức “truy xuất dữ liệu”, “tái tạo hình ảnh”, một software nào đó trong ta bị kích hoạt và hoạt động trong lúc cơ thể đang ở trạng thái ngủ “sleeping”, việc xử lý thông tin dữ liệu có thể xảy ra ở vùng đặc biệt nào đó trong não (giống như RAM, tốc độ đọc, ghi cao hơn HDD nhiều nhưng khi mất điện là dữ liệu trên RAM không còn). Điều này có thể giải thích được rằng trong giấc mơ, mặc dù thời gian rất ngắn (vài giây, vài phút) nhưng chúng ta thấy được cả một núi sự kiện, hiện tượng trong đó (như một cuộn phim dài), và cũng vì vậy, khi tỉnh giấc ít khi chúng ta nhớ được rằng đã mơ thấy gì (dĩ nhiên, có nhiều giấc mơ chúng ta vẫn nhớ rõ).

3) Big Bang là khởi thủy của vũ trụ khỏang 14 tỉ năm trước, vậy cái gì sinh ra Big Bang?
Big Bang được thừa nhận là có thật, là khởi thuỷ của vũ trụ (của chúng ta). Nhưng thật nực cười và ngây thơ nếu nghĩ rằng đây là một vụ nổ vu vơ, được chăng hay chớ, không có mục đích, không được AI ĐÓ “lập trình” trước. Chính Newton đã nói, vũ trụ là một cỗ máy hoàn hảo, tinh vi, phải có ai đó, thời điểm nào đó ấn nút để khởi động cỗ máy này, và năng lượng của nguồn lực để “khởi động” cỗ máy phải vô cùng lớn đê tạo nên cả vũ trụ.

Để dễ hình dung (mà cũng có thể là thật), chúng ta hãy coi Big Bang như một sự nảy mầm của một hạt giống, trong hạt giống này, công trình về vũ trụ đã được thiết kế, được mã hoá, được lập trình sẵn. Cũng cần phải thừa nhận thuyết “đa vũ trụ”, vũ trụ của chúng ta không phải là duy nhất, còn có nhiều, nhiều đến vô tận các cũ trụ khác nữa.

Thời điểm big bang là thời điểm hội đủ điều kiện về mọi mặt cần thiết cho một sự nảy mầm (giống như độ ẩm, nhiệt độ, địa điểm) và một tiếng nổ long trời lở đất xảy ra làm cái vỏ cứng như đá của hạt giống vũ trụ này nứt vỡ, một mầm non của CÂY VŨ TRỤ nhú ra, đẹp đẽ, kiêu sa hơn bất cứ cái mầm nào trên trái đất, và nguồn năng lượng vô tận của các vũ trụ khác soi rọi làm cho cái mầm nhỏ nhoi này lớn nhanh như thổi, và hơn 13,7 tỷ năm trôi qua với biết bao phong ba bão táp, Cây vũ trụ vẫn vươn mình lớn lên trở thành một cái cây khổng lồ với cành, nhánh vô hình đối với con người nhưng hoa, lá, quả là các thiên hà, các tinh vân, các hệ sao, ngôi sao,… lan toả khắp vũ trụ. Các quan sát thiên văn cho thấy, vũ trụ vẫn đang nở ra, tản xa ra với tốc độ ngày càng lớn.

Ở đây, chúng ta cũng cần phải lãng mạn và có óc tưởng tượng một chút, Cây vũ trụ là một loài cây đặc biệt, không giống hoàn toàn như cây cối thông thường trên trái đất. Dĩ nhiên, các loài cây vũ trụ chắc cũng hết sức phong phú, có cây mới lớn, có cây cổ thụ, có cây thân gỗ, có cái rễ chùm, lá kim,…
Về kích thước của cây, ta cũng thấy được qua hình ảnh một hạt cây (xà cừ chẳng hạn) bé bằng móng tay, nhưng sau chỉ 100 năm, cây xà cừ ở điều kiện mọc trong thiên nhiên, không bị gẫy đổ sẽ to lớn như thế nào. Ngay như cơ thể chúng ta, lúc được thụ tinh chỉ là một tế bào trứng nhỏ bé đến vô hình, vậy mà sau 20 năm đã thành một chàng trai, cô gái cao lớn như thế nào. Thế mà Cây vũ trụ của chúng ta đã trải qua 13,7 tỷ năm, một sự sống, một sự phát triển kéo dài gần 14 tỷ năm, thật khó có thể tưởng tượng nổi, bởi vậy, kích thước khổng lồ của Vũ trụ là vì vậy.

4) Không - thời gian là gì? Tại sao vũ trụ đối xứng trong không gian mà không đối xứng trong thời gian?

Không - thời gian là những chiều của Vũ trụ, sự đối xứng trong không gian chỉ là cảm giác, được phản ảnh qua các tấm gương, thực ra không hoàn toàn đối xứng.

Khái niệm trục thời gian đã giới hạn thời gian chỉ như một đường thẳng, trong khi không phải như vậy, thời gian không chỉ là quá khứ, hiện tại và tương lai. đối với con người ta có thể thấy ngay rằng có các loại thời gian song hành tồn tại khác nhau mà chúng ta thấy sự bất đối xứng:
- Thời gian khoa học (ngày, giờ, phút, giây,…);
- Thời gian tâm lý (thời gian chờ đợi bao giừ cũng lâu);
- Thời gian sinh lý (đồng hồ sinh học trong cơ thể) và
- Thời gian Tâm linh (chuyện Từ Thức gặp tiên, 1 ngày trên trời bằng trăm năm dưới đất);

5) Năng lượng tối là gì mà lại sinh ra lực đẩy làm vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh?
Vũ trụ có thể có nhiều nguồn năng lượng mà chúng ta chưa được biết, năng lượng tối - thứ năng lượng bí ẩn là một trong số đó. Trong công trình tạo dựng vũ trụ chắc chắn Tạo hoá phải thiết kế nguồn năng lượng để đảm bảo cho sự phát triển của Cây vũ trụ. Sự giãn nở của Vũ trụ được hình dung như sự lớn lên của một cái cây.

6) Sét hòn là gì? Tại sao nó lúc ẩn lúc hiện?

Khi đã coi cả Vũ trụ như là một sinh thể, một cái cây thì chúng ta hoàn toàn có thể nghĩ đến việc có nhiều sinh thể khác mà chúng ta chưa được biết đến. Sinh thể không đơn thuẩn chỉ là cây, con, thực vật, động vật mà còn có thể là những sự vật, hiện tượng được “lập trình”, Sét hòn có thể là một sinh thể như vậy lúc ẩn, lúc hiện, khó quan sát, nắm bắt được.

7) Tế bào đầu tiên trên Trái Đất được sinh ra như thế nào? Trong ba lọai phân tử sinh học căn bản của sự sống, lọai nào có trước, ADN, ARN hay protein? (Bài tóan con gà và quả trứng)

Giải thích về Big Bang như trên để nói rằng Vũ trụ khi mới sinh ra có thể bé bằng đầu kim. Chỉ có điều, trong cái đầu kim đó đã chứa một bản thiết kế được lập sẵn, được mã hoá, vô hình vô dạng. Do đó, AND, ARN hay protein chỉ là 3 cấu thành trong bản thiết kế của Tạo hoá, không cái nào có trước cái nào, chỉ có Tạo hoá là có trước tiên.

8) Máy tính lượng tử có ưu việt thực sự hay không? Chế tạo nó như thế nào?
Máy tính lượng tử là mong ước vĩ đại của ngành khoa học máy tính cũng như của cả loài người. Muốn chế tạo nó, hãy học hỏi thiên nhiên, hãy trở về với bản thể vũ trụ. Tại sao chỉ với 4 chất hoá học gọi là “các bazơ”, đó là Adénine (A), Cytosine (C), Guanine (G) và Thymine (T) vậy mà mọi cơ thể sống từ hạt mù tạt đến con người hiện đại đều được cấu thành bới sự sắp xếp, kết nối của 4 chất đó!.

9) Bản chất thực sự của cơ học lượng tử là gì?
Không có câu trả lời (giành cho các nhà vật lý lượng tử).

10) Tác dụng của "tinh thần trên vật chất" (chẳng hạn dùng ý nghĩ "bẻ cong thìa") có thật hay không? Nếu có thì giải thích như thế nào? Nếu không, tại sao mọi người lại "mê" nó và các khả năng dị thường khác như vậy?

Việc xây dựng Kim tự tháp Ai cập vẫn còn coi là bí ẩn nếu không thừa nhận rằng đã có một thời, loài người biết sử dụng năng lực tinh thần để xây dựng các đền đài, lăng mộ, sau đó dần dần bị mất đi năng lực đó. Thực ra, nếu không có năng lực tinh thần, con người không thể làm nên trò trống gì. Chẳng hạn, một viên gạch được làm ra cũng là kết quả của các hoạt động tinh thần con người kết hợp với hoạt động chân tay (làm đất, đóng khuôn, nung và vận chuyển). Một tác phẩm nghệ thuật hay một sản phẩm điện tử cũng đều thấm đẫm năng lực tinh thần của con người. Chúng ta và vạn vật cũng thấm đẫm năng lực tinh thần của Vũ trụ, của Đấng Sáng tạo, đó chính là cái gọi là “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể”, bởi vậy chúng ta vẫn mê và mong muốn có được những khả năng dị thường khác - những khả năng của Trời để có thêm sức mạnh.

11) Tại sao tóan học lại mô tả thế giới chính xác một cách kì lạ như vậy?

Vũ trụ hay bất cứ cơ thể sống, sinh thể nào đều được điều khiển bởi một chương trình, một phần mềm tin học. Phần mềm là những câu lệnh (command) được sắp xếp theo một trật tự nghiêm ngặt. Trong mỗi phần mềm là các hàm, các hằng, các biến. Các hàm là các quy luật được định sẵn, các hằng là các giới hạn để kiểm soát mọi hoạt động của hàm và biến. Các biến thay đổi khi chương trình chạy, giá trị các biến được tính toán, tăng hay giảm và so sánh với các hằng để quyết đinh các động tác thực hiện tiếp theo. Các công thức toán học được sử dụng trong các phần mềm bởi vậy, đương nhiên toán học mô tả thế giới một cách chính xác.

11 câu hỏi trên rất thú vị và không dễ trả lời nếu không “viện dẫn đến cả vũ trụ”, mỗi câu là cả một công trình khoa học đồ sộ, không thể trả lời một cách quá dễ dàng, giản đơn như Huy Minh.

Tuy nhiên, chúng ta thảo luận vui là chính, học được thì tốt, đừng cay cú, đừng nóng, đừng vội phủ định, hãy suy nghĩ và hãy thật lãng mạn. Chúc mọi người vui vẻ./.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một tư duy nghệ thuật kiểu Liêu trai

Sinh thời Nguyễn Tuân, các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành tập. Nay dựa trên ý đồ và tài liệu sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại Yêu ngôn và tới 1999 thì khai sinh cho nó thành một đầu sách của nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Chúng ta có dịp đọc lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, ngoài ra còn có Khoa thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời ), Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi hiểu, ngoài cuốn Yêu ngôn này, tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai ở Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở nhiều thiên tuỳ bút khác mà ông đã viết, chính cái phần tản mạn rời rạc ấy cũng cho thấy Nguyễn Tuân là một ngòi bút nhất quán trong phong cách biểu hiện. Sau đây là một tí bằng chứng rõ rệt nhất:
1. Ngay trong Vang bóng một thời đã nên lưu ý thêm tới Bữa rượu máu (có lúc gọi là Chém treo ngành) với đoạn kết nhiều ngụ ý
 “Lúc quan công sứ ra về, khi bước ra mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoáy hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn mấy vòng”.
Tìm đọc Phu nhân họ Bồ trong Tuỳ bút II in ra 1943 người ta thấy Nguyễn Tuân bắt đầu nói tới “vẻ đẹp quái gở” cũng như trong Chiếc lư đồng mắt cua có những nhận xét bâng quơ “Cái gì đẹp quá vốn ít khi là thực”.
 Cùng trong Tuỳ bút II, lại có một bài khác (có nhiều chất của một truyện ngắn), mang tên Một cái tết vô duyên.
Đây là câu chuyện về một chàng trai trẻ, con của một người đào hát, nên có tính lang bạt kỳ hồ. Bữa ấy, theo lời nhắn của mẹ, cậu quay về gia đình ăn tết.
Nhưng, như có tiền định, khi cậu thử bói xem năm mới ra sao thì bói gì cũng hỏng.
Bói bằng cách khai bút thì “bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xoá nhèm cả mấy chữ cuối cùng”.
Ra sông bói đò thì nhỡ đò.
 Quay về bói tuồng, “cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung nghĩa”, nhưng “số phận đã cho cậu bói đúng vào chiếc áo bào xanh lè không có đầu”.
Sau hết, tối lần ra chùa làng xóc thẻ, cậu rút phải một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói. Như là một ma lực nào đó nhất định buộc cậu phải trở lại cuộc sống giang hồ và cậu Tám đành đầu hàng số phận.
2. Ngọn đèn dầu lạc và Tàn đèn đầu lạc là hai tập phóng sự Nguyễn Tuân viết về đám dân làng bẹp (cả hai vừa được xuất bản Hải Phòng dồn lại in vào thành một cuốn sách chưa đầy 200 trang).
Ở đây, khi nói rằng có một người đàn bà muốn ông tự diệt mình trong khói thuốc phiện, không ngần ngại liên tưởng ngay đến “con hồ ly trong truyện Liêu Trai yêu người thư sinh chán rồi rút cục là biến mất và để lại cho trần gian một cái xác co quắp, hình thù cổ quái”.
Trong hai tập phóng sự này, mỗi khi nhắc nhở tới không khí nơi tiệm hút, là một dịp để tác giả kêu lên:
 “Gớm sao mà Bồ Tùng Linh thế!”
Sao mà Edgar Poe thế!”.
Trong  quan niệm của tác giả bấy giờ, thì loại thi sĩ và các nhà viết tiểu thuyết có hơi hướng thần bí mới là loại nhà văn đích thực, vượt lên trên các tác giả của loại văn chương hạ cấp (trong chương Tập ký ức của người bồi tiệm)
3. Một số người lầm tưởng rằng tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai chỉ có ở các sáng tác của Nguyễn Tuân thời kỳ trước 1945.
Nhưng không phải vậy.
 Trong kháng chiến chống Pháp, khi dựng lại không khí một vùng buôn lậu, ông viết:
 “Danh từ Cống Thần tôi tưởng như đó là tên một truyện quái dị, gợi đến một thiên tai có sự rùng rợn của thuỷ hoả đạo đặc. Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu cái nhố nhăng kia lên giời (...)” (bài Cống Thần, in trongTuỳ bút kháng chiến.)
Sau này, viết Tình rừng khi tả những khu rừng cháy, ông lại để cho liên tưởng của mình đi khá xa.
Ngồi trong lòng đò đuôi én ngược thác sông Đà, tôi nhìn lên nhiều đám cháy trên đỉnh đầu, tàn cháy nương mùa xuân bay đầy trời như những đàn bướm đen nhúng cánh vào những ghềnh trắng bọt. Trên rừng cháy chỉ thấy khói không thấy người. Nghĩ mà thấy giận người đốt rừng, chính người đốt rừng ấy đang đốt bản thân mình, đang đốt cơ man nào là sách in, trong ấy có cả sách của mình nữa”.
Hoặc như, khi Kể chuyện vĩ tuyến mười bảy (in trong Chuyện nghề), ông dừng lại kỹ hơn ở nơi mà người ta hay bảo là có ma.
Đêm trăng tại nhà thơ ép xác thiệt là buồn nhức xương... Đêm thanh vắng, gió ngàn lùa về tới đây cả tiếng tru tiếng sủa trăng của loài sói dấy lên từ phía Cây Tấm, Bến Tắt. Chao ôi, tôi thật là cái anh hay vẽ chuyện. Nằm ở nhà thờ Phước Sơn để nhìn những tủ sách Kinh La bụi bặm và bước đi mình toàn là tiếng lạo xạo trên cơ man là mảnh vỡ cửa kính giáo đường hoang vắng. Đêm gió lửa Tây ô mà sao lại thấy rùng mình và rờn rợn khi nhìn vào mảng tối chen với ánh trăng suông...”
4. Một phần tâm huyết của Nguyễn Tuân những năm cuối đời dồn vào việc viết phê bình.
Nhưng đó là những trang phê bình của một người sáng tác nên cũng mang đậm sắc thái cá nhân, nói cách khác, tác giả đã mang vào đấy những kinh nghiệm sống riêng của ông, đọc bài phê bình người ta được biết không chỉ tác phẩm ông đang đọc, mà còn cái phần con người riêng của ông.
Dĩ nhiên, là người đã viết yêu ngôn, Nguyễn Tuân cũng thường đọc ra ngay chất yêu ngôn ở văn người khác.
Chẳng hạn, trong số rất nhiều truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Tuân có sự biệt nhãn với truyện Thuốc  trong đó có chi tiết cái bánh bao còn nóng máu người “đầy rẫy một mùi thơm quái lạ”, và trong tay người ốm nó “phụt ra một luồng hơi trắng”.
Đọc Tắt đèn ông liên tưởng ngay tới Những linh hồn chết của Gogol, trong đó có nhân vật địa chủ “bằng một gái rất rẻ, đã đi vơ vét những hồn ma là các tá điền nông nô đã chết, đem danh sách cầm cho nhà băng lấy tiền”.
Còn khi trở lại với thơ Tú Xương, nhân mấy câu Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa - ú ớ u ơ ngọn bút chì, Nguyễn Tuân có những lời bình rõ ra chất tư duy nghệ thuật riêng ở ông: “Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải nghe một ông dở người cắm đầu bút vào, mồm thấm nước bọt cho đậm thêm nét bút chì  và lấy quá tay hoá ra hóc thỏi chì. Nghe nó còn ghê ghê như người cảm xúc quá khích vì hút chì, máu uất bốc lên, đâm cấm khẩu giẫy đành đạch và ú ớ be be như có sự oan khiên, càng cần nói ra lời thì lại càng thất thanh đi”.
Xét ở phương diện kết hợp văn hoá Đông Tây trong một ngòi bút thì Nguyễn Tuân là một trong những trường hợp hiếm hoi: cái chất Liêu Trai nói ở đây làm cho các trang sách của ông có một vẻ thâm trầm cổ kính ít thấy trong văn chương thế kỷ XX. Cũng xin nói thêm là trước khi trở thành một hiện tượng nghệ thuật, kiểu tư duy này đã xuất hiện ở ông ngay trong đời sống hàng ngày.

Nhưng đây là một câu chuyện khá dài, chúng tôi sẽ xin trở lại khi có điều kiện.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đúng, khai thiệt!

KHAI TÍ XUÂN NÀO




Bạn cũ hồi trung học lấy vợ, liền tù tì làm một lúc 5 mini. Bạn làm chủ một doanh nghiệp chuyên điện đường trường trạm nên cũng lập cái chi bộ đảng cho ra vẻ. Tất nhiên bạn làm bí thơ. Tết đến bạn khoe, vỡ kế hoạch mà chửa bị cất chức tuy cũng có thông tri của đảng bộ khối doanh nghiệp địa phương. Bạn bảo, láo với tao thì tuyền bộ đảng viên chi bộ này ăn cứt hết.

Phàn nàn xong bạn gọi chi bộ 5 mini trên lầu xuống. Chúng sòn sòn lít nhít xếp hàng ngang chào mình. Lận bâu móc tiền mừng tuổi mà tay run như cầy sấy. Đến mình còn đéo chịu được nữa là đ.. há há.

***



Có bà cô họ năm nay 84 xuân, tai điếc mắt mờ nhưng răng xay giầu như máy xát. Đến chơi thấy bóng, cụ vọng to " anh con nhà ai?". Quấn tờ báo hình phễu thổi tường trình vào tai cụ rồi móc túi mừng tuổi 100k. Cụ nhướng mắt xem rồi lận bâu xâu kim băng găm kín mít. Để ý thấy cả tiền từ thời Việt nam dân chủ cộng hòa. Bài học rút ra: muốn thọ cao thì đéo nên tiêu tiền.

***



Ông già tết uống diệu nhiều, đi loạng quạng như gà mắc tóc, hết đâm ngang rồi thì bổ dọc. Bà già than, cả đời chả sợ gì, chỉ sợ tết nhất, đình đám và giỗ chạp. Những khi ý diệu cả ngày. Bà ướm tôi đe lấy mấy nhời. Tôi gọi ông già ra bảo "  bố cứ uống đi, chết nhớ đánh dây thép con về". Công hiệu lắm!

***



Giao thừa nấu bát mì tôm. Đích thị tay mình nấu. Thế đéo nào khi húp lại có sợi lông.. Lộc tồn? Hay lộc xuân? Sợ quá nên đổ mẹ đi. Bú ly vang nhang bàn thờ lại rơi trúng. Định tọng lấy tí lộc tổ tông. Nhưng chợt nhớ ra bần nông ba đời nên lẳng lặng ra sân hắt vào bụi bạch trà.

Sáng ra vợ đi kể cho hàng xóm nghe, rằng nhà ta có loài hoa biết khóc. Truyền thuyết hay huyền thoại từ đấy mà ra chứ ở đéo đâu. Nhề?

***



Đậu má, nghe cu Lập phò què phán thế nầy " Quê Choa đã tròn bảy tuổi. Còn nhớ tết 2007 Quê Choa được 1 triệu hit bọ Lập khoe ầm ĩ cả lên. Bây giờ đã có 79 triệu hit đến từ 181 trên thế giới. Quả là một niềm vui lớn. Chợ tết Quê Choa năm nay sẽ có nhiều bạn mới, trong khi nhiều bạn cũ đã ra đi. Âu đó cũng là lẽ thường, một khi Quê Choa không thuần văn, thuần bọ nữa. Thật lòng tui rất muốn làm một Quê Choa thuần văn, thuần bọ. Đó mới đúng chất của bọ Lập. Nhưng cuộc sống lại đòi hỏi một người cầm bút phải dấn thân, nhà văn không thể mũ ni che tai nếu như anh ta muốn là một cây bút tử tế. Muốn là cây bút của dân trước hết phải sống cho dân, nghĩ vì dân. Nghĩ vậy nên tui nén chút tình riêng, cố hòa đồng với xã hội. Lời tâm thành "năm hết tết đến", rất mong bà con thông cảm và chia sẻ."

Anh Phẹt phán như vầy "Các anh là văn sĩ không lo viết lách mà tuyền đi thọc gậy bánh xe. Đồng ý là các anh phải có trách nhiệm xã hội. Nhưng tôi nghĩ trách nhiệm xã hội lớn lao nhất của các anh là phải có những văn phẩm để đời. Và văn phẩm đó có đủ sức mạnh, sức nặng thay đổi nhận thức xã hội. Thậm chí cả một quốc gia, một dân tộc.". Toàn văn ở đây http://www.photphet.info/2012/03/gheo-van-si.html

Thế đã chỉnh chưa? Hay lại vưỡn cái lối gái góa bàn chuyện triều đình, văn nho thò tay đốc kiếm?

***



Gớm, đưa ông cún về quê mà lên xe nôn như người. Mẹ cái loại con chó, thà nó nôn ra sàn về rồi còn giặt, đằng này ổng dụi mõm vầu túi da sau ghế lái nôn vào kín đáo đoan trang. Y như con em dâu dạo nọ.

Mẹ con chó, học làm người là khó lắm à nha!





Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lý do Nhật đổi mới thành công còn VN thì không?


 LTS: Nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm nhân vật Nguyễn Trường Tộ cũng như lý giải vì sao cùng thời đại ông, nước Nhật canh tân thành công còn VN lại thất bại, Tuần Việt Nam có cuộc trò chuyện với TS. Bùi Trân Phượng, hiệu trưởng trường Đại học Hoa Sen TP.HCM. TS. Phượng từng bảo vệ luận văn cao học về Nguyễn Trường Tộ và tiến sĩ lịch sử tại Pháp.
TS Bùi Trân Phượng. Ảnh: Hoasen.edu.vn 
Kỳ 1: Sáp nhập, tinh gọn để giảm bớt... quan
Sự tiến bộ của Nguyễn Trường Tộ cũng như sự cầu thị của vua Tự Đức và các đại thần là điều kiện cần nhưng chưa đủ để VN canh tân như Nhật Bản.
Con người của hành động
Thưa TS Phượng, từ những nghiên cứu của mình, bà đánh giá đâu là đặc điểm nổi bật ở Nguyễn Trường Tộ, khiến ông khác biệt và tiến bộ hơn những nhà Nho cùng thời?
Nguyễn Trường Tộ là nhà Nho thực tế nhất mà tôi từng biết, ông không chỉ là người nêu ý tưởng mà còn là con người hành động. Ông đã dành phần lớn cuộc đời mình, dù ngắn ngủi, để thực hiện các ý tưởng của mình. Ông hành động liên tục, mạnh mẽ, không được việc này thì làm việc khác, gần như không ngừng nghỉ.
Ví dụ, ngay từ thời chiến tranh Việt - Pháp chưa xảy ra, ông đã nghiên cứu tình hình thế giới, đã thấy trước VN trong cái thế có thể bị xâm lược như nhiều dân tộc khác đã bị trước đó bởi sự phát triển của Tây Âu. Nguyễn Trường Tộ đã đặt vấn đề với triều đình: "Tại sao một nhúm nhỏ các quốc gia có thể đi khắp cùng thế giới, đi tới đâu cũng thắng người ta, nó chiếm đất, cai trị người ta?".
Để trả lời cho được câu hỏi, Nguyễn Trường Tộ đã đọc rất nhiều sách, đi rất nhiều nơi, gặp nhiều người, nghiên cứu cách đương đầu (nhưng đều thất bại) của từng nước là nạn nhân của phương Tây. Ông tìm ra, sớm hơn những người cùng thời vài chục năm, căn nguyên nằm ở sức mạnh KHKT của phương Tây. Vì thế, muốn đương đầu với họ, chúng ta cũng phải có được sức mạnh đó.
Không chỉ am tường nhiều lĩnh vực, Nguyễn Trường Tộ còn biết làm nhiều công việc, trong nhiều lĩnh vực và làm đến nơi đến chốn.
Ông vẽ thiết kế và chỉ huy thi công chủng viện lớn ở Sài Gòn, tham gia thiết kế xây dựng, sửa chữa nhiều nhà cửa, cầu cống ở quê hương Nghệ An.
Ông lặn lội ra nước ngoài thuê mướn người về đi khai mỏ. Nếu lúc đó các chương trình khai thác thành công thì chúng ta đã đi trước cuộc khai thác, vơ vét nguồn lợi của người Pháp rất lâu.
Bản thân Nguyễn Trường Tộ lúc ấy thuộc thành phần bị tình nghi, bị loại ra ngoài vòng pháp luật. Ông là người công giáo, đã đi nước ngoài nhiều lần, được các linh mục người Pháp tin dùng. Với "lý lịch" như vậy, ông vẫn dám viết điều trần, gặp các quan đầu triều đình như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Trần Tiễn Thành... Làm chính trị như Nguyễn Trường Tộ đâu phải ai cũng làm được?
Còn mục đích canh tân của ông thì rõ ràng là để cứu nước, giữ chủ quyền quốc gia. Ông hoàn toàn vì đất nước, dân tộc chứ không hề vụ lợi gì cho mình.
Những nhà canh tân như Nguyễn Trường Tộ đã sớm nhận ra những hạn chế, tác hại của Nho giáo với công cuộc đổi mới. Nhưng theo bà tại sao Nho giáo lại "ăn sâu bám rễ" đến vậy ở những quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc?
Từ sau thời Tần Thủy Hoàng trở đi, các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều lấy tư tưởng của Khổng Tử làm chính thống. Bởi tư tưởng của Khổng Tử quá có lợi cho kẻ cầm quyền.
Xã hội yên trị ai mà chẳng muốn. Nhưng muốn yên trị thì dưới phải phục tùng trên, từ trong gia đình cho đến xã hội đều phải có tôn ti trật tự, vợ phục tùng chồng, con phục tùng cha, trẻ phụ tùng già. Ngoài xã hội cấp dưới phải phục tùng cấp trên. Cao nhất là vua: "Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung...". Kẻ cầm quyền nào mà không bám vào đấy để cai trị cho dễ.
Giờ đã là thế kỷ 21 mà một nước như Trung Quốc đã làm Cách mạnh rồi vẫn khôi phục Viện Khổng Tử là vì thế. Thực ra bản thân Khổng Tử dù đề cao tôn ti trật tự trên dưới nhưng ông cũng nhấn mạnh, trên phải xứng đáng nằm trên để dưới toàn tâm toàn ý nằm dưới. Ông đã cẩn thận có ràng buộc như vậy.
Mặt khác, lý tưởng hòa bình của Khổng Tử có cái vĩ đại ở chỗ, thời loạn cần lấy nhân đức để cai trị. Nhưng vế sau này thường bị người cầm quyền lờ đi. Hậu duệ của Khổng Tử, tức là giới Tống Nho đã "hóa thạch" quan hệ trên - dưới và ai ngoi lên bị xem là "làm loạn", chẳng cho phép thay đổi khiến nó trở nên tai hại.
Cái vĩ đại của Nguyễn Trường Tộ là ai cũng bằng lòng với nhận thức lấy xưa làm mẫu mực, lý tưởng thì ông nhận ra sự vô lý đó!
Nguyễn Trường Tộ, đổi mới, canh tân, cách mạng
Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi
Thế lực bảo thủ, hủ lậu luôn là lực cản
Thưa bà, cùng thời với Nguyễn Trường Tộ, nước Nhật Bản có nhà canh tân Fukuzawa Yukichi (Phúc Trạch Dụ Cát 1835 - 1901). Câu hỏi nhiều người đặt ra là tại sao Nhật Bản, một đất nước khi ấy còn nghèo hơn cả VN, cải cách thành công mà ta lại thất bại?
Thời ấy, vua Tự Đức đã cử các đoàn đi Pháp công tác. Một điều đáng chú ý là những người được chọn đều phải là những người hiểu văn minh phương Tây, thuận với việc giao thiệp với phương Tây.
Trong khi đó, lực lượng bảo thủ thì đông hơn số chấp nhận canh tân, chấp nhận giao thương với phương Tây. Thế lực của họ cũng mạnh hơn, kể cả khi những người canh tân ở vị trí rất cao như ông Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành.
Bởi vậy nên ông Phan Thanh Giản đi sứ về, kể lại những điều mắt thấy tai nghe, sau đó làm bài Tự than rất nổi tiếng, "Từ ngày đi sứ tới Tây kinh; Thấy việc Âu châu phải giật mình; Hết lời năn nỉ chẳng ai tin..." Đây là hậu quả của việc đi sứ mở mang chỉ có người canh tân mới được đi, còn người bảo thủ ở nhà.
Còn Nhật Bản thì khác. Họ cử đoàn đi gồm cả những người canh tân và những người bảo thủ. Ẩn ý sâu sắc của người Nhật cải cách là cho những người bảo thủ tận mắt chứng kiến và nghe thấy, không để họ ở nhà chẳng biết gì rồi cứ phê phán bừa và ngáng trở cải cách.
Hơn nữa, dù suy nghĩ trái ngược, 2 phe vẫn làm việc với nhau được bởi vì họ giống nhau ở lòng trung thành với Nhật Hoàng. Nhật hoàng lúc ấy còn trẻ nhưng nói một tiếng thì canh tân, bảo thủ đều làm theo.
Còn người Việt miệng thì nói trung quân nhưng trong lòng chỉ chờ chực cơ hội để dấy loạn. Phái canh tân không nổi loạn vì lo cải tổ, cải cách vực dậy kinh tế, còn bên bảo thủ có nhiều phe nổi loạn tứ tung, triều đình yếu ớt không có hậu thuẫn.
Một số ý kiến cho rằng, do Nhật Bản tiến hành cải cách từ dưới lên nên thắng lợi, còn ta thì ngược lại, cải cách từ trên xuống nên thất bại? Bà đánh giá thế nào?
Tôi không tán thành nhận định này! Nếu Nhật Bản không có Minh Trị Thiên Hoàng thì làm sao có cuộc cải cách thành công? Minh Trị Thiên Hoàng thực ra là một đứa trẻ, nghĩa là triều đình Nhật phải có một lực lượng nào đó đủ sức mạnh để đưa Nhật Hoàng lên, nhân danh Nhật Hoàng điều hành cải cách, canh tân đất nước chứ không phải đơn độc để đến nỗi phải tự sát như Phan Thanh Giản hay bị giết như đại thần Trần Tiễn Thành ở Việt Nam.
Thời Minh Trị Thiên Hoàng tạo ra môi trường, không khí cởi mở, hoặc ít nhất là để yên, thì các nhà trí thức mới tiến hành các hoạt động cải cách được chứ.
Không chỉ mở trường dạy kiến thức mới, các nhà cải cách Nhật còn dịch sách, phát hành tài liệu, phổ biến tri thức phương Tây rộng rãi cho dân chúng. Thử hỏi dưới chế độ quân chủ tập trung, một vài cá nhân đơn độc có làm nổi những việc đó nếu Nhà nước không đồng ý?
Lịch sử cho thấy, tư tưởng cải cách, hay nói theo ngôn ngữ thời trước là canh tân, không phải là thế mạnh của VN như các nước phương Tây? Thậm chí, ngược lại tư tưởng bảo thủ có vẻ mạnh hơn?
Đúng vậy! Canh tân hay đổi mới ban đầu luôn là thiểu số, còn bảo thủ là số đông. Các nước phương Tây có nhiều tư tưởng canh tân bởi họ đã trải qua cuộc Cách mạnh công nghiệp. Tôi đã nghiên cứu sâu lịch sử nước Pháp và thấy rằng, trước Cách mạng công nghiệp họ cũng chẳng khác gì ta.
Sự sáng suốt "vượt lên chính mình" của Nguyễn Trường Tộ cũng như sự cầu thị của vua Tự Đức và các đại thần trong Cơ mật viện là điều kiện cần nhưng chưa đủ để Việt Nam bước vào canh tân như Nhật Bản. Thế lực bảo thủ, hủ lậu luôn là lực cản, nhân danh những thứ rất dễ lừa mị người dân. Một phần do nhận thức, một phần do đặc lợi. Đó là bài học kinh nghiệm đắt giá mà chúng ta luôn phải ghi nhớ.
Xin cảm ơn bà vì buổi trò chuyện hôm nay!
Duy Chiến (thực hiện)
Về ý kiến lên án vua Tự Đức (1829 - 1883) là người thiển cận, bảo thủ khiến 58 Điều trần của Nguyễn Trường Tộ không được áp dụng, TS Bùi Trân Phượng cho rằng:
Tôi đã đọc được thủ bút của Tự Đức trên bản Điều trần của Nguyễn Trường Tộ. Nhà vua rất trân trọng, lắng nghe những điều mới lạ.
Vua nhà Nguyễn hồi ấy tiến bộ hơn ta nghĩ và sách sử chính thống viết. Thử tưởng tượng, vua Tự Đức được nuôi dạy trong môi trường Nho giáo từ trong trứng nước, làm gì cũng hay sợ phạm Nho phong.
Nhưng bằng tố chất thông minh, Tự Đức đã vượt ra khỏi cái bóng Nho phong đè nặng. Ông trực tiếp đọc kỹ tất cả các bản Điều trần của Nguyễn Trường Tộ, nghiêm túc đánh dấu và ghi chú vào đó. Cái gì quá mới lạ, Tự Đức gọi cận thần lên hỏi rõ. Xong nhà vua đưa ra Cơ mật viện để bàn bạc, thảo luận và căn dặn: "Những gì Tộ gửi từ trước đến nay phải đóng thành tập để không lạc mất". Thử hỏi liệu có nhiều nguyên thủ đứng đầu làm được như vậy?
Xin nói thêm là những điều trần phân tích của Nguyễn Trường Tộ rất "nghịch nhĩ" với Nho giáo, tức là cũng rất trái tai nhà vua
Chưa hết, Tự Đức không chỉ lắng nghe mà còn cử một đoàn đi công tác gồm có Nguyễn Trường Tộ và giám mục Gouchie người Pháp, nhận nhiệm vụ của nhà vua qua Pháp thăm dò về ngoại giao tìm cách lấy lại đất Nam kỳ và mua một số máy móc cơ khí, tuyển người về đào kênh, khai mỏ để về xây dựng hạ tầng phát triển kinh tế. Đồng thời Nguyễn Trường Tộ được giao mua thiết bị, mời thầy giáo về mở trường dạy nghề tại Huế.
Phái đoàn lênh đênh trên biển mấy tháng trời qua Pháp và trở về. Hay tin tàu vừa cập bến, chở theo nhiều máy móc thiết bị, vua Tự Đức đã hối hả xuống tận nơi xem và lệnh bố trí vào kho cất giữ cẩn thận.
Cái không may của dân tộc là máy móc thiết bị mở trường đã mua về thì vào năm đó, năm 1867 thực dân Pháp chà đạp hiệp ước đã ký, dùng mưu mô cưỡng chiếm tỉnh thành Vĩnh Long và 2 tỉnh thành còn lại, bức tử Phan Thanh Giản (chứ không phải Phan Thanh Giản mở cửa dâng thành cho Pháp lịch sử ghi).
Mất thêm 3 tỉnh miền Tây, quan đại thần Phan Thanh Giản tự sát, thì làm sao mở trường thực hành tại Huế được? Mặt mũi nào, danh dự ở đâu mà có thể mở trường Tây tại Kinh đô được? Không làm là điều dễ hiểu. Tiếc thay, nếu mở được trường thực hành tại Huế vào năm 1867 thì đó sẽ là bước canh tân tương đối sớm cho đất nước...

Phần nhận xét hiển thị trên trang