Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 3 tháng 2, 2014

Bạn biết gì về những người này? Và còn ai?

Trí thức Việt Nam
Tại trang Nhân vật & Tác phẩm, chúng tôi lập danh sách các trí thức lớn Việt Nam thế kỷ 19, 20 quan tâm tới sự phát triển văn hóa Việt Nam, có các bài viết mang ý nghĩa giúp mỗi chúng ta khai sáng bản thân.
Đánh giá con người, nhất là tầm vóc của các nhà văn hóa, các học giả, nhà tri thức lớn người Việt là cực kỳ khó khăn, nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí bất đồng. Bởi vậy, đây chỉ là Danh sách theo quan điểm của chungta.com và dựa trên tiêu chí lựa chọn là: 

- những nhà văn hóa đã thành danh đã được thời gian kiểm nghiệm và đại đa số công nhận
- những nhà trí thức có nhiều tác phẩm lớn có giá trị văn hóa, "sách cứng", sách công cụ mang tính nền tảng cho mỗi người
- Ngoài ra, chúng tôi cũng trân trọng các trí thức thời nay giới thiệutự đề cửvà tự giới thiệucác hoạt động trí tuệ, khai sáng cộng đồng, vun đắp văn hóa Việt.
Chungta.com rất mong bạn đọc góp ý, hiệu chỉnh các nội dung và giới thiệu bổ sung các trí thức đã thành danh hoặc đề cử, tự đề cử vào danh sách này.
Trí thức Việt Nam đầu tiếp thu văn hóa phương Tây thế kỷ 19
Nguyễn Trường
Tộ
Trương Vĩnh Ký - nhà tiên phong giao thoa văn hóa Đông- TâyNguyễn Thái Học
Phan Bội Châu - nhà cách mạng lỗi lạc
Phan Châu Trinh - chí sĩ thức tỉnh, chấn hưng dân tộc
Phan Văn Trường
Nguyễn An Ninh - nhà cách mạng vĩ đại, nhà văn hóa lỗi lạc
Huỳnh Thúc Kháng - nhà cách mạng công khai
Phạm Quỳnh - chủ bút Nam Phong
Nguyễn Văn Vĩnh - nhà tân học mẫu mực
Dương Quảng Hàm - nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục học
Trần Trọng Kim - nhà giáo dục học, nghiên cứu văn hóa, lịch sử
Lương Văn Can
Phan Khôi - người đi trước thời đại
Ngô Tất Tố


Nhất Linh



Trí thức Việt Nam thời nay (thế kỷ 20, 21)
Võ Nguyên Giáp - Danh tướng từ nhân dân
Nguyễn Khắc Viện - bác sĩ, nhà chính trị - xã hội - văn hóa
Hoàng Xuân Hãn
Vũ Đình Hòe
Nguyễn Mạnh Tường
Trần Văn Thiêm
Đào Trinh Nhất
Hoàng Đạo Thúy
Thiếu Sơn
Trần Đức Thảo - triết gia lữ hành
Nguyễn Hiến Lê - trí thức chân chính
Hoàng Tụy
Nguyễn Duy Cần
Hoàng Xuân Việt
Bùi Giáng - nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học
Trịnh Công Sơn - nhạc sĩ
Phạm Duy - nhạc sĩ
Lê Đạt - phu chữ
Trần Dần
Nguyên Ngọc
Phùng Quán
Nguyễn Khải - nhà văn sắc sảo
Lưu Quang Vũ - nhà thơ, nhà biên kịch tài hoa
Vũ Bằng
Toan Ánh
Lương Kim Định - nhà văn hóa sử, minh triết Việt
Nguyễn Văn Trung - giáo sư triết học
Nguyễn Ước
Trần Thái Đỉnh - giáo sư triết học
Phạm Công Thiện - triết gia
Phan Quang Định
Hoàng Ngọc Hiến - nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa, triết học
Hồ Ngọc Đại - nhà thực nghiệm giáo dục
Phạm Toàn - nhà giáo, nhà văn và dịch giả
Phan Đình Diệu - đổi mới tư duy
Trường Giang
Tương Lai
Nguyễn Trung
Bùi Văn Nam Sơn - người theo chân các triết gia
Vương Trí Nhàn - suy nghĩ ngược chiều
gió thổi
Nguyễn Khắc Phê - nhà văn
Nguyễn Sĩ Dũng - phản biện
Chu Hảo
Nguyễn Trần Bạt
Tô Duy Hợp
Nguyễn Ngọc Bích - luật sư
Nguyễn Quang A - suy ngẫm
Dương Trung Quốc - nhà sử học
Trần Hữu Dũng
Phan Cẩm Thượng - họa sĩ
Nguyễn Hoàng Đức - hành trình nhận thức
Nguyễn Huy Thiệp - nhà văn
Võ Thị Hảo - nhà văn
Thùy Linh - nhà văn
Nguyễn Quang Thân - nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh - nhà văn
Đỗ Minh Tuấn - nhà văn, đạo diễn
Trần Văn Thủy - đạo diễn
Đỗ Lai Thúy
Dương Tường - nhà văn, dịch giả
Inrasara - nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm
Nguyễn Tất Thịnh - luận giải
Hồ Sĩ Quý
Ngô Tự Lập
Đỗ Hồng Ngọc
Phạm Duy Nghĩa
Đặng PhongĐỗ Kiên CườngTrịnh Xuân Thuận
Đoàn Xuân Mượu
Alan Phan
Giáp Văn Dương
Hoàng Xuân Phú
Nguyễn Thị Từ Huy
Ngô Bảo Châu


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ý hướng tính văn chương ( Nguyễn Hoàng Đức ):

Khi cầm bút viết cuốn sách này tôi không khỏi rụt rè xao động khi đứng trước dãy Hy-ma-la-ya văn chương kỳ vĩ và đồ sộ: chỗ thì tràn ngập ánh mặt trời suy lý chói chang, chỗ thì bịt bùng những đám mây u hoài bao phủ, bên sườn núi những lớp tuyết tinh thần kỳ cựu tan băng vĩnh cửu thời gian hoà quện vào những nguồn mạch tu từ pháp, cú pháp, lôgíc, hình ảnh và nhịp điệu từ khắp các hang hốc réo rắt sục sôi tuôn chảy. Thật là vĩ đại! Thật là huyền nhiệm! Thật là mênh mông! Thật là sâu thẳm!

Quả vậy đứng trước toà núi văn chương mà các nhà văn lão luyện, các thi sĩ phiêu du, các học giả đầy uyên thâm đã phải thốt lên: “Thi ca dẫn tới cuộc tranh luận không ít hơn cuộc tranh luận của toàn nhân loại” (Poem are amenable to discussion no less than the uniquely human person. – sdd ‘Encyclopedia New Catholic’, P-457) thì ta không thể tránh nổi nỗi xao xuyến đến ngộp thở khi bị cái bóng ngễu nghện đồ sộ của nó choàng xuống khắp mênh mông. Nhưng, vì lý do gì khiến tôi cầm bút, phải chăng ngòi bút của tôi sẽ như một bông lau mảnh dẻ não nuột khua múa giữa bút trường đã đầy ắp bóng dáng giá trị hiển hách hay dấu vết của vinh quang? Chính tiên sinh F. Bacon đã gợi lên cho tôi ý chỉ cầm bút. Tiên sinh nói: “Sản phẩm của tâm trí và cơ bắp có vẻ như tràn ngập trong sách vở và kỹ nghệ. Nhưng tất cả sự chế biến đó nằm trong một khía cạnh sáng láng và phần phái sinh của quá ít đối vật đã được hiểu biết” (The productions of mind and hand seem very unmerous in books anf manufactures. But all this variety likes in an exquisite sibtly and devivations from few things already known. – Stuart Hampshire ‘The Age of Reason’, Mentor 1956, tr.24).

Có phải vậy không? Toàn bộ vũ trụ bao la, từ nàng trái đất miệt mài nhẫn nhục, đến gã mặt trời ngỗ ngược đầy lửa, rồi cô Hằng đỏng đảnh giữa những vì sao nhỏ bé thích đùa nhấp nháy, tất cả có nằm trong nguyên lý vũ trụ như nhất không? Còn dãy Hy-ma-la-ya kỳ vĩ uẩn khúc và huyền nhiệm thì sao? Liệu nó có là một ngoại lệ của nguyên lý: lửa thoát khỏi vòng tay của nước vươn lên thành đá, và tại tầm cao nghễu nghện nó tự nạo vét mình tuôn chảy xuống dòng sông một nguồn mạch biết ơn tha thiết. Và cũng vậy, cho dù có bao la kỳ vĩ hay lung lạc mê hồn đến bao nhiêu, văn chương có lẽ cũng chỉ được khai sinh từ vài nguyên lý, và nhất là bằng vẻ duyên dáng huyền ảo của mình, nó có tìm cách lách khỏi nguyên lý mà Hegel đã tìm cách thao túng sau đây không: “Những tư tưởng dẫn dắt thế giới” (Les idees menent le mond.- sdd ‘Histoire de la Philosohie’, tr.82).

Chắc là không! Chính vì thế mà tôi đã cầm bút, song cuốn sách của tôi không có nhã ý tham gia vào “cuộc tranh luận thi ca của toàn nhân loại” trên bình diện tổng thể, bởi chưng lạc vào mê hồn trận tu từ - cú pháp của lịch sử văn chương quả là công cuộc khai sơn phá thạch, tìm kiếm châu Mỹ mới không dễ thở chút nào.

Ở đây bằng cách riêng của mình tôi sẽ đề cập đến ý thức, hoặc khiêm nhường hơn là chỉ đề cập đến “ý hướng tính”; bằng cách này tôi muốn lần theo dấu vết khai lộ của những bộ não “tiền ý thức” còn rọi bóng lại cho toàn thể ý thức nhân loại như: Socrate, Platon, Aristote, Descartes, Kant, Hegel, Bergson, K.Marx, Nietzsche, Spinoza, Schopenhauer, Saint Augustine... những tên tuổi này không định gợi ra cuộc rủ rê vào triết học, bởi ít ra tôi luôn luôn dè chừng khi ngước nhìn một tuyên xưng đóng cửa tuyệt đối “Thơ là Thơ”. Ở đây tôi chỉ rút tỉa ý tưởng thuần tuý qui hướng văn chương nghệ thuật hoặc rộng hơn nữa là mỹ học; thêm nữa tôi cũng tham chiếu những nhà văn lỗi lạc, sự lỗi lạc tôi nhắm đến không phải chỉ dừng ở những thành tựu như giải Nobel, Pulitzer hay Goncour mà là sự lỗi lạc của những bộ não bề thế trí tuệ luận lý. Tóm lại những tiên sinh vừa “ăn” vừa nói được như Dostoievski, Jean Paul Sartre, Albert Camus, Henry Miller, William Faulkner, Andre Gide...

Viết đến đây tự nhiên tôi muốn gào vào chính mình: như vậy văn chương là ý thức, thứ ý thức tàn tạ cằn cỗi khô trụi kia làm sao có thể đang là một cây đời xanh mơn mởn ru giỡn gió khiến cả thế giới của trần gian lung lạc. Không, văn chương là văn chương, nó chính là cuộc đời này, hẩm hiu, sóng gió, vinh quang và da diết. Gân cốt tôi gào thét: hãy vứt bỏ ý thức, vứt bỏ triết học, vứt bỏ tư tưởng, vứt bỏ thứ văn chương cao ngạo sạch sẽ khỉ gió ấy đi. Hãy lắng nghe đây tiếng gió cuồng vọng đến! Hãy lắng nghe lời tuyên xưng toàn thể phương ngôn hành động của chúng ta, những cây bút: “Chúng ta chỉ tôn sùng người nghệ sĩ của cuộc đời ‘Artist of life’. Người giúp chúng ta sống cuộc đời toàn diện” (Henry Miller).

Vâng! Có thể là vậy, nhưng hãy khoan đã, tôi không định sớm bước vào cuộc bút luận đã đeo đuổi toàn nhân loại. Nhà văn là ai? Họ chẳng là cái gì khác hơn là tác phẩm của mình. Họ chính là tác phẩm của mình! Kinh Thánh Matheus có nói “Cây tốt sinh quả tốt, cây xấu sinh quả xấu, xem quả biết cây”. Tác phẩm của nhà văn chính là thành quả, là trái ngọt mà họ tận hiến cho đời bằng cách vắt kiệt ý chí của họ, tâm linh của họ, trái tim của họ, và cuộc đời của họ đầy lạc thú và ưu hoạn, cuộc đời toàn diện bay bổng trên đôi cánh siêu việt của thần linh nhưng cũng dò dẫm trên đôi chân bản năng của muông thú, một cuộc hành trình tam đoạn luận: Ngợm, Người, Thượng Đế, một khung cửa vị kỷ úp lại mở tung đôi cánh đón lấy tha nhân, vân vân và vân vân.

Hình ảnh trọn vẹn của một nhà văn là đời sống toàn thể của một thân cây đung đưa trong gió trần gian, rung rinh cánh tay dâng quả ngọt cho đời. Nhưng đó là giá trị tràn ắp sự biểu lộ, còn nhựa sống của cây thì sao? Nó có minh nhiên rỡn gió trước mắt chúng ta? Không! Nó chỉ âm thầm chảy, nhưng nó đấy, nó có đấy, nó đang chảy đấy, nó chẳng mảy may có nổi một thoáng vẻ õng ẹo nào trong con mắt khả giác của chúng ta. Nhưng nó là sức sống! Nó mặc khải toàn bộ cuộc đời này, nó là Ý THỨC.
Chungta.com

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Quê hương không là nơi chốn đầu tư?

Vợ con Bầu Đức sang hết Singapore sống

Là một trong những doanh nhân khá nổi tiếng ở Việt Nam nhưng thông tin vợ con của Bầu Đức thì ít người biết tới.
Trong chuyến đi Myanmar khởi công một công trình của Hoàng Anh Gia Lai, ông Đức đã phá lệ chia sẻ một vài thông tin về gia đình bởi trước đó ông chưa bao giờ kể chuyện vợ con trên báo chí.
Ba con lần lượt là Đoàn Hoàng Anh; Đoàn Hoàng Nam và Đoàn Hoàng Nam Anh đều đang học tập và làm việc ở Singapore. Trong đó, cô con gái đầu lòng 24 tuổi của vị tỷ phú này hiện làm trong một ngân hàng nước ngoài. Hai người em cũng sang đó học từ hồi 5 tuổi và 2 tuổi. 
Ngay cả người vợ của ông cũng ở bên Singapore để tiện chăm sóc và giáo dục con cái. Chính vì thế mà chẳng mấy vị phu nhân của đại gia này xuất hiện trước công chúng. Ông Đức nói: “Vợ phải toàn tâm toàn ý chăm con”.
bầu-đức, doanh-nhân, hoàng-anh-gia-lai, doanh-nghiệp, vợ-con-bầu-đức, đại-gia-bầu-đức
Ông Đoàn Nguyên Đức - Chủ tịch Tập đoàn HAGL
Theo ông Đức, lý do ông muốn con cái đi học ở nước ngoài không chỉ vì môi trường giáo dục tốt mà còn để cho con tự lập, tránh được tiếng con của đại gia. Singapore là nước có môi trường tốt, kỷ luật, gần gũi với Việt Nam.

Ông Đức từng chia sẻ: “Con gái tôi kể: “Bạn bè con nhiều đứa bảo chẳng cần vào đại học cũng giàu, như Bill Gates, như ông Đức”. Nhưng các cháu không biết rằng cơ hội vẫn dành cho số đông đến từ chuyện học hành nghiêm túc”

Mặc dù rất tự hào về vợ con nhưng ông Đức cũng không có nhiều thời gian để sống cùng gia đình. “Mình thì công việc bù đầu, đi suốt, một tháng may ra có được ba ngày sống cùng gia đình ở Singapore”, ông cho hay. 

Được biết, Bầu Đức sinh ra trong một gia đình nghèo khó, đông anh em (có tới 8 anh chị em). Từ bé, bầu Đức đã ước mơ được vào giảng đường, quyết học thành người để thoát cảnh nghèo. 

Không có bằng đại học, nhưng bầu Đức luôn tự hào mình được đào tạo đầy đủ ở trường đời. Ông hiện là một trong những doanh nhân giàu nhất ở Việt Nam, có sở hữu máy bay riêng.

Khánh Chi (Tổng hợp)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

THĂM THẲM ĐƯỜNG VỀ ( Chương 7 )


N
ó phá bỏ ngôi nhà cũ ba gian lợp ngói, cửa bức bàn khung tranh, xây tường hậu. Cột kèo thứ bằng xoan ngâm, thứ tre gai già, đinh đóng không vào. 
Kể ra thì ngôi nhà còn ở được vài chục năm nữa mới hỏng. Chỉ cần đảo ngói lại. So với nhà cửa trong vùng, ngôi nhà không đến nỗi lụp xụp, tồi tệ. Vì đa phần nhà cửa trong vùng còn lợp rạ, cột bằng xoan non mọt rủn, đòn tay bằng tre tươi mối ăn hết ruột, chỉ còn lớp vở bên ngoài. Người ta có thể bóc lớp vỏ cột tre mỏng tang bên ngoài làm đóm hút thuốc lào.
Ông Thước bố nó bảo:
- Ngôi nhà thất cách. Đã mặt quay ra hướng tây lại khuyết hậu, đằng sau có cái ao. Mặt tiền của ngôi nhà lại bị bức tường hậu của nhà hàng xóm án ngữ. Chỉ có người chủ là đàn bà mới dựng nhà như vậy. Tôi đồ rằng ông cả có ý không hay mới cắm hướng nhà cho mẹ con bà ấy như thế. Tôi mua lại cho con tôi, tôi sẽ cho nó làm lại. Ăn ở ngược đời như thế mẹ con bà ấy bỏ làng đi là phải.
Nó mua gạch, cát, xi măng về quyết thay đổi lại ngôi nhà. Đang lúc cái đói rình rập khắp nơi tính chuyện xây nhà thì quả là to gan. Trong làng bên đã có hai vợ chồng rang một mẻ ngô không biết trộn với thứ thuốc gì cùng đứa con trên dưới mười tuổi ăn bữa cuối cùng. Mấy ngày sau hàng xóm thấy bên nhà vợ chồng im ắng lạ lùng mới đẩy cửa bước vào nhà. Năm cái xác đã bốc mùi, ruồi nhặng bu đen mặt mũi hai vợ chồng nhà nọ. Trong nhà không còn hạt gì ăn sống người, người chồng đau dạ dày kinh niên. Người vợ buôn sắn khô đã hết cách chạy ăn cho cả nhà.
Nhiều cảnh cha bỏ con, tớ bỏ thầy, vợ chồng lìa lọi nhau chỉ vì miếng cơm manh áo. Làng quê như bị vắt kiệt giọt sống cuối cùng.
ấy vậy mà nó tính chuyện làm nhà. Nó không có quyền cao chức trọng gì. Nó chỉ đơn giản là anh thương binh về làng, thương tật không lấy làm nặng vì nó chỉ là viên đạn thủng qua phần mềm dưới bụng. Để lại vết sẹo bằng đầu ngón tay, trong một trận giáp chiến với tàn quân Pôn Pốt ở biên giới phía nam. Một vết thương như thế với người khác chưa chắc đã được hưởng chế độ thương binh. Nhưng vốn lanh lợi, khéo mồm, luồn như lươn nó từ trại an dưỡng về mang theo cái thẻ thương binh loại 3 trên 4. Trợ cấp thương tật lúc này chưa cao nhưng cũng còn hơn chán vạn những anh phục viên, xuất ngũ về làng chẳng có chế độ gì.
Nó thường tự mãn trước mặt mọi người:
- Đây chẳng là cái ông đếk gì. Nhưng cứ sáng ngày ngủ ra là có vài cân gạo gối đầu giường, không bao giờ đứt bữa hoặc sơi củ chuối!
Kể nó nói cũng phải. Trên trợ cấp tính chia cho mỗi ngày dự sức mua vài cân gạo cho hai vợ chồng và hai đứa con. Ở cái làng này đó là điều mơ ước nhiều người không bao giờ với tới. Ngày đủ hai bữa trưa và tối cơm trắng, canh rau bỏ mì chính, thế là mãn nguyện lắm rồi. Còn bữa sáng có khoai thì ăn khoai, không thì cái bắp nướng, củ sắn luộc cũng là đủ. Việc nó xây được nhà không liên quan gì đến chế độ, lương bổng. Cũng chẳng phải ông bố giàu có mà cho. Ngoài mảnh vườn và ngôi nhà cũ của bà bác, bố nó mua lại cho nó, ông không cho gì thêm. Vì ông còn đông con, ba trai ba gái nữa sau nó. Với một ông bố lo cho bảy người con thì với nó đã là quá tốt rồi. Nếu ông bố không căn cơ, tính đếm chưa chắc nó đã được chỗ ở như thế này.
Đây là mảnh đất của bà nội nó mua lại của bà Vượng từ hồi chưa khởi nghĩa cho hai người con của bà là bác trai và bố nó.
Bà nội phận làm lẽ lấy chồng đâu có được hương hoả nhà chồng. Ông nội tuy gọi là cụ chánh nhưng hữu danh vô thực, không có của cải gì lo cho bà hai. Sinh bố nó được vài tháng, bà nội nó đã phải lên tỉnh làm vú em chăm con người ta. Bà còn đi làm thuê, làm mướn chẳng thiếu đâu để ki cóp một chút tiền mua miếng đất này. Nó chỉ hơn sào đất ở khuất lấp tít hút mãi trong ngõ nhỏ, lại gần bãi tha ma. Giá trị tiền bạc không đáng là bao, nhưng đó là mồ hôi nước mắt, một phần máu xương của bà nội. Hai anh em bố nó lớn lên trên mảnh đất này. Cả hai vào du kích sau ngày toàn quốc kháng chiến. Người anh bị địch giết trong một trận càn bỏ lại vợ dại, con thơ. Người em là bố nó ra vùng tự do vì vỡ cơ sở, bỏ lại người vợ mới cưới được ít ngày. Bà này đẹp mắt đen láy, răng đều nhánh đen hạt mướp, lúc nào cũng má hồng hây hây. Tây đen, tây trắng còn về làng. Bà bị một thằng tây quân thường vô được hãm hiếp đến gần chết. Người nhà nhặt được mang về nhà thuốc thang. Khỏi bệnh nghĩ hổ người bà bỏ làng đi đâu biệt tích.
Chiến thắng Điện Biên, bố nó phục viên về làng. Nông hội, phụ nữ xã đứng ra làm đám cưới tập thể cho năm đôi vợ chồng. Đám cưới chỉ có hái hoa dân chủ, hát bài " Đoàn kết đấu tranh ". Một thúng kẹo bột, gánh nước chè tươi, hai tút thuốc lá. Không một miếng thịt, chén rượu ở nơi liên hoan. Mười giờ đêm, tan đám ai về nhà nấy. Có cháo gà thì ăn cháo gà. Không có thổi nồi xôi liên hoan cả nhà. Bà nội nó chỉ có nồi khoai lang mật. Thứ khoai để héo lâu ngày, vừa dai, vừa mềm ngọt như ăn kẹo mạch nhà.
Hai ông bà lấy nhau mà không có nhà ở. Cụ Cử ông ngoại nó nhận cho bố nó ở rể vì cụ sinh con một bề. Hai người gái lớn đã lấy chồng, mẹ nó là con út. Cụ Cử là người chữ nghĩa cao đạo, nhưng lại xa cách đời sống hàng ngày. Cụ bà ngược lại là người cẩn thận đến thành chi li. Tính nết tinh vi lại hay để bụng vặt vãnh.
Người ta bảo ở rể là cái anh chó chui gậm trạn. Bố nó lấy được vợ trẻ mà trong lòng không vui. Ông trở nên con người gay gắt, cay nghiệt. Đến cả thương con ông cũng thương khác. Đánh con lần nào không mấy đứa không ốm, không sốt. Năm nào thằng em nó trèo cây gẫy tay, bố không ra đỡ lại vỗ tay " hoan hô " mặt thản nhiên như không, bỏ vào nhà, làm mẹ nó khóc sưng vù hai mắt. Nhà bác nó gặp nạn, rồi dậu đổ bìm leo. Bà phải tính đến chuyện bán đất bán nhà dời đi nơi khác. Thủ tục giấy tờ làm xong, người ta chuẩn bị giao tiền thì bố nó đứng ra. Ông bảo ông cũng có phần trong cái hương hoả nhỏ nhoi ấy. Cuối cùng bà chỉ nhận được một nửa số tiền và giao lại cho ông đất đai nhà cửa. Hồi đó làm thủ tục giấy tờ chuyển đi nơi khác đâu phải chuyện dễ? Nào hộ khẩu, hộ tịch. Nào cắt chuyển lương thực, một thứ tiêu chuẩn tượng trưng không có thực tế... Phải hàng tháng, hàng năm mới xong, đủ loại giấy tờ. Trong khi chờ đợi, bà tạm ở lại ngôi nhà cũ. Sợ người chị dâu đánh tháo, hoặc có ý lần khân ông đánh chuối trồng sát vào cửa nhà, không còn lối ra vào... Bà chị dâu âm thầm bưng nước mắt sang hàng xóm ở nhờ. Mối lo thường trực trong lòng ông là một ngày nào đó, thằng cháu đích tôn đi tù về sẽ đòi lại đất, đòi lại nhà. Nó có quyền làm như thế vì khi bán mua nó không có mặt. Nó sẽ bác bỏ mọi thoả thuận mà ông ép mẹ nó phải chịu.
Nhiều người trong làng bảo: " à thì ra thằng ấy đi tù không phải không có duyên cớ . Chú nó đứng ra bảo lãnh trong lúc có quyền chức trong tay thì có khó gì? Nhiều việc tày đình người ta còn cho qua, chứ tội lỗi của nó thì không đâu vào đâu. Nhưng nếu thế còn chuyện gì để nói. Làm sao ông ấy có thêm mảnh đất dành phần cho con trai ông sau này ở riêng dễ thế được? ".
Bây giờ nó xây nhà, bố nó không giúp thêm gì được. Ông lo như thế là quá đủ rồi. Nó cũng không trông cậy vào ai, Hỏi thử mấy đám không kết quả. Người có tiền thì chắc như cục gạch. Không mong gì. Người có tình thì sờ đít ba ngày không có cứt. Nhưng nó không lo.
Chẳng biết con sông Hồng đỏ nước phù sa với các nhà thơ, nhạc sĩ họ dào dạt, lãng mạn, thơ ngây đến thế nào. Với nó là dòng sông cụ thể, mang về ý nghĩa thiết thực. Xuôi ngược trên sông là những con tàu chở hàng, những đoàn xà lan đầy ắp than đá chở ngược. Những đoàn xà lan che bạt kín mít chở đường, phân đạm về xuôi. Rất nhiều mặt hàng thiết yếu chiến lược như vải, muối, xăng, dầu chuyên chở dọc sông. Người khác đứng trên bờ sẽ rất thờ ơ với những đoàn tàu xà lan như thế, với họ "Nhất cận thị, nhị cận giang" chả có ý nghĩa gì. Với nó lại khác. Nó biết trên những con tàu đó là những con người. Họ cũng có những nhu cầu sinh hoạt và quý giá đồng tiền như ai. Quan hệ với những con người như thế không bao giờ thừa. Tàu nào không có bến đậu? Nó cất công về tận bến đất Hà Nội, lên bến Hạc Trì lân la làm quen. Cuối cùng nó cũng " Thiết kế " được đường dây làm ăn. Công phu tỉ mỉ chả kém công trình vạch tuyến đường mòn trên biển, mà một lần nó từ Đồ Sơn vào vịnh Vùng Rô.
Ông bố vợ nó làm nghề chèo đò ngang. Nó bảo ông lên bờ về nhà nghỉ cho khoẻ để nó và thằng em cậu chèo chống cái thuyền gỗ sứt mũi. Ngày hai anh em ngủ, nửa đêm hai anh em bơi thuyền ra giữa sông. Cứ nhằm hướng có ánh đèn và tiếng máy canô mà lướt sóng. Trên thuyền sắp mấy can rượu Bá giang, mấy bu gà. Chỉ thế thôi cũng không làm được trò trống gì. Trong túi nó còn mấy xấp bạc. Sẽ tuỳ theo số lượng và giá trị hàng hoá sang mạn được mà trang trải. Hôm vài tấn than, hôm vài tạ đường, vài chục xách dầu. Xếp đầy lên thuyền hai anh em thả xuôi dòng, xuống đến Truy Hà chỗ mấy bụi tre um tùm sát mép nước thì neo thuyền lại. Chỉ cần bấm đèn pin từ xa chớp nháy mấy cái, như kiểu đánh tín hiệu là khi vào đã có người đón hàng. Sau một vài lần cuộc mua bán trở thành quen, chỉ diễn ra chớp nhoáng. Hai anh em nhận tiền rồi bơi thuyền về. Hôm nào chở than thêm chút việc là phải cọ thuyền, cũng chỉ một loáng là xong, không đáng kể.
Cái trò "đánh quả" ấy chỉ mới chấm dứt gần đây khi ông Thước đã nghỉ hưu và có con mắt dòm ngó của một vài người.
Làm gì cũng phải biết điểm và nó đã dừng đúng chỗ, không một sai sót nhỏ. Bây giờ nó sử dụng kết quả của những đêm nào mò mẫm trên sông. Có kẻ tò mò hỏi
- Thời buổi này chú xây nhà, anh chịu chú. Chắc hẳn phải có bí quyết gì?
            Đôi mắt chuột dái của nó hấp háy:
- Bí quyết gì. Bọn em ăn chắt, hà tiện. Không bóc ngắn cắn dài vung tay quá trán thôi! Cũng là cố, các cụ chả bảo của cố là của được đấy ư?
            Rồi nó cười hức hức. Cười gì mà như nhạo, như cù người ta? Gã đến, nó chột dạ. Nó cũng nghĩ như ông Thước bố nó: Thế nào rồi cũng có ngày gã mò về. Một người như gã chắc không bao giờ chịu chôn vùi cuộc đời mình nơi rừng xanh, núi đỏ. Nơi trâu, gõ mõ, chó leo thang xa cách đời sống bình thường. Gã về, biết đâu nơi ăn chốn ở của nó sinh chuyện? Nhưng nó khác hẳn với bố nó. Nó không xưng xưng cái mặt đâm lê ra vẻ đối phó. Làm thế chưa chắc đã hay. Có khi lại kích thích gã điên lên. Một kẻ như gã không việc gì không làm khi quá uất ức. Người ta bảo " Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng khố dây ". Cả hai cái đó gã có cả. Có thêm sự không còn gì để mất: Gã không vợ, không nhà, không tiền của, tiền đồ. Gã dám lắm chứ? Nó dại gì trêu vào tổ ong mặt quỷ? Mà người ta bảo khôn không qua lễ. Khoẻ không qua lời. Chi bằng lấy sự mềm mỏng là hơn. Tính cách gã nó biết. Một thằng đầu óc sách vở đến mụ cả người. Chữ nghĩa ám nhiều, gã chẳng giống ai. Được lời là cởi cả tấm lòng không tính thiệt hơn. Đầu óc với ai chứ với gã nó không lạ gì. Hơn nữa còn chút tình máu mủ. Mình cư xử khéo, biết đâu gã cảm động không nghĩ đến chuyện tranh giành. Mình được tiếng là người tử tế biết anh trên, em dưới.
Trong bụng nó không mong cuộc gặp gỡ này. Ngoài mặt lại làm ra đon đả:
- Bác vào trong lán nghỉ cho mát. Mãi bác mới về lại đúng hôm em cho thợ đào móng. Thế bà với cháu trên nhà khoẻ cả chứ?
Rồi nó quay ra bảo vợ:
- Mẹ mày cứ bỏ chỗ gạch đấy đã, chốc nữa xếp. Pha ngay cho tao cốc nước cam mang lại cho bác. Bác đi xa về chắc mệt. Anh em lâu ngày lắm mới lại gặp nhau. Số em vất vả như bác, chỗ ăn chỗ ở cứ phải tự tay mình lo. Thế bác về đã đi chơi đâu chưa? ở đây đã, rượu xong, tối anh em mình mới có điều kiện nói chuyện. Em nhờ người làm nó bận rộn, Chật tý bác bỏ qua.
Gã nói:
- Tôi ghé qua một tý. Chú bận việc cứ làm đi. Anh em thiếu gì lúc.
Nó lại hức hức:
- Thế bác thông cảm nhé. Em phải ra xem thợ giác móng thế nào. Bây giờ không xem lúc làm rồi muốn sửa cũng không được. Xảy một ly đi một dặm mà.
Nói rồi nó lại chỗ mấy người đang chăng dây, lựa đi kéo lại để đóng cọc.
Gã nhớ chỗ đất đang đào móng bây giờ trước là gốc cây bưởi vàng. Thứ bưởi thơm nức, tôm mọng mà ráo, ngọt lừ. Vỏ bưởi vàng tươi đến áp tết. Nguồn thu quan trọng hồi gã còn ở nhà. Những bộ quần áo mới, cái cặp tới trường, đôi dép nhựa tiền phong từng được sắm cho gã nhờ cây bưởi này. Gã đảo mắt nhìn quanh, không còn dấu vết gì, kể cả cái lá bưởi khô hay sợi rễ cây. Không biết nó đã triệt phá đi từ khi nào? Cách đó một quãng ngày xưa là khoảng sân trống. Bọn trẻ trong xóm thường kéo đến chơi ô ăn quan. Mẹ gã tính sởi lởi, chẳng khó với ai bao giờ. Thậm trí người ta đi tắt thành hẳn con đường ngang qua vườn nhà thông giữa ngõ trên ngõ dưới mà bà không nói một câu. Người khác thì đã rào chặn lại hoặc ca cẩm không muốn cho người ngoài đi như thế. Đường đi qua nhà người ta kiêng. Nhưng bà vẫn để thông thống, ai qua lại mặc lòng, tự do như đường cái quan. Chỗ ấy là nơi anh em gã sưởi nắng khi mùa đông về. Sáng ra cóng buốt, một manh áo mỏng trên người. Anh em ôm nhau sưởi nắng cho đến khi hàm răng không còn va vào nhau lập cập, môi đỡ tái tím mới chạy vào nhà. Rét mướt mà không dám đốt lửa sưởi. Củi đun còn không đủ, lấy đâu củi sưởi? Có một việc mà gã còn nhớ mãi đến bây giờ. Năm ấy bà nội còn sống, bà vừa ốm dậy lại gặp trận rét kinh người. Người ta bảo sương muối là rét hại lắm. Đám chuối trong vườn lá héo rũ, cây mít cũng trụi hết lá. Ông chú gã ngược bè về. Ông đi cùng với người ta chỉ làm vì mặc dù vẫn được phần chia nhiều hơn. Nếu không có ông dễ gì họ có đủ thủ tục giấy tờ để qua hàng bao nhiêu trạm từ thượng du về? Mà ai muốn rời làng đi xa đâu phải cứ thích là đi được? Chính quyền không cho phép thì đến bố sống lại bảo đi họ cũng không dám. Ông theo họ chả vất vả gì. Bè về bến lại có người kéo giúp về tận nhà. Củi nứa của ông xếp đầy vườn, chật cả lối đi ngoài ngõ. Thế mà khi bà nội hỏi:
- Cho mẹ xin vài bó củi sưởi cho đỡ rét, nhà này cháu nó còn nhỏ chưa biết đường kiếm củi. Mẹ nó họp hành tối ngày. Mẹ mắt mũi kém quá, ở với mẹ con nó càng không giúp được việc gì...
Ông chỉ bảo:
- Để xem xem đã, bà cũng vẽ chuyện. Mang từ trên rừng về đến đây đâu ở ít đường đất?
Nói rồi ông đứng lên quay ra cửa. Bà nội uất quá nói không ra tiếng:
- Thồ ồi... Không phải xe... em... tồ ồi không dám.
Ngay sau lúc đó, bà nội bảo gã chạy sang hàng xóm mượn cái búa, cụ cứ nhằm chiếc hòm gỗ cũ làm bàn thờ mà bổ. Gã còn nhỏ, hỏi thì cụ nói:
- Tao làm củi sưởi.
Tuổi già sức yếu, búa cầm không chắc, bà nội bổ vào chân đau hàng tháng trời...
Nó niềm nở chào hỏi khiến gã cảm thấy đỡ bùi ngùi phần nào. Cái ý nghĩ tìm về, nhìn lại ngôi nhà cũ lần nữa không thành. Nó không còn dấu vết gì. Và đã quay sang hướng mới. Không biết thằng em họ sẽ xây ngôi nhà to nhỏ như thế nào, nhưng những hình ảnh cũ nơi ăn trốn ở lúc đầu đời gã không bao giờ còn thấy lại nữa, có lẽ nó sẽ xây một ngôi nhà lớn, gạch, vôi, cát sỏi đổ nhiều, lấn cả ra ngoài đường. Một chuyện đã rồi, gã sẽ phải quên đi như đã quên đi nhiều thứ trong bước đường đời khốn nạn của mình. Cái ý định trở về quê cậy nhờ anh em họ hàng giúp đỡ trong bước đầu khó khăn nơi mới định cư tan như sương sớm. Sẽ không có ai giúp của, giúp công như mẹ gã nói trước lúc gã trở về đây. Đó chẳng qua là thứ tình cảm vồ vập mà mẹ gã tự hình dung ra, không bao giờ có thực. Suốt những năm ở trại không một lời thăm hỏi, không một điếu thuốc hạt gạo của người nhà gửi cho. Giờ gã tự do nhưng cũng chẳng hơn gì. Không ai muốn dây dưa liên lụy với kẻ từng mang tiếng xấu, không một đồng xu nhổ râu. Thương yêu đùm bọc còn có ý nghĩa là xẻ chia mà lúc này không ai muốn làm. Dòng họ gã suy đồi, coi rẻ con người hay bản thân gã không ra gì để mất đi sự ưu ái ấy? Hay cuộc sống khó khăn con người ta chỉ còn khả năng thương lấy bản thân mình, không thể bao dung kẻ khác? " Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ ". Không lẽ con vật còn sống có tình, có nghĩa hơn con người hay sao?
Ôi cái vùng quê xơ xác, đến cả những tình cảm đơn sơ nhất cũng không thể nhú mầm! Gần một năm ở trại tạm giam sau ngày di lý về, duy nhất gã nhận được quà của người nhà. Mấy bao thuốc lá, gói đường và túi quẩy rán mỡ. Người gửi cho gã là ông anh họ đang dạy một trường chuyên nghiệp ngoài Hà Nội. Ông bác thứ hai của gã sinh toàn con gái, nuôi người này từ nhỏ, ông là cán bộ cao cấp nên người anh này được ăn học đầy đủ. Anh ta lại là bạn học với gã suốt thời phổ thông, sách vở, chữ nghĩa, thơ phú gắn bó cả hai với nhau còn hơn ruột thịt. Sau ngày thống nhất anh chuyển vào Nam, đó là người duy nhất cảm thông và quý mến gã trong đại gia đình Nguyễn Kim ở làng này.
Không - Gã không trách ai - Như mẹ gã bảo: " Tất cả tự mình " mình làm mình chịu. Họ hàng không giúp, nhưng cũng không ai làm hại. Thiên hạ bây giờ nhà nào chẳng thế. Mấy nhà còn câu: " Chị ngã em nâng ". Thời đế quốc, phong kiến thối nát trước kia đen tối nhiều bề, nhưng ít ra còn chút tình người an ủi. Người ta còn nhường cơm, xẻ áo đùm dúm trong họ trong nhà. Giờ đổi đời, con mắt nhìn nhau ruột thịt như thể người dưng - Có phải quá nhiều nỗi đau, quá nhiều nỗi buồn, quá nhiều khổ cực đã làm tê liệt tình người. Nó vô cảm như khúc lò so không còn đàn hồi được nữa. Chỉ còn là mẩu sắt rỉ vô dụng vô tình? Gã bứt rứt trong lòng, muốn đứng dậy đi ngay. Nó một mực giữ lại, gã lại đành ngồi xuống bên chiếc bàn phủ đầy bụi gạch, cát rơi vãi.
Vì là buổi khởi công đón tay thợ, vợ chồng gia chủ cũng chuẩn bị tươm tất. Sắp lên mâm đủ lòng lợn, tiết canh, thịt nướng, thịt luộc và đĩa đậu sống. Vào lúc này đó là bữa ăn thịnh soạn không phải lúc nào cũng bày ra được với túi tiền của nhiều nhà.
Nhưng gã ở lại không phải vì chuyện đó. Ăn đây bữa này, lúc khác ăn đâu? Khổ ải bao năm, gã đã xem miếng ăn là thường không quan trọng như nhiều kẻ khác. Gã ở lại vì không muốn có ánh mắt nhìn theo của mấy chục con người đang làm giúp việc tại đây. Gã cũng không muốn vợ chồng thằng em nghĩ sai về mình. Chẳng hoá ra mình là kẻ ghen ghét, đố kỵ. Thấy nó xây nhà trên mảnh đất cũ của mình mà thất ý, tủi thân?
Gã định đứng lên hộ vợ chồng nó một việc gì đó như xúc cát khuân gạch chẳng hạn. Thiếu gì việc vào lúc này?
Vừa lúc nó bắt gặp cái nhìn của bà thím. Không biết bà Thước đến tự lúc nào không đánh tiếng nên chẳng ai biết. Bà đứng sau bụi chuối đánh mắt nhìn ra. Cái nhìn khiến hắn lạnh người, y như hồi gã còn sống trong vòng cương tỏa. Một lát, rồi bà lẳng lặng bỏ đi cũng không nói một câu. Chừng nửa tiếng sau thì ông Thước đến. Ông hỏi gã một câu làm gã tím mặt:
- Tôi tưởng anh đi đâu rồi? " Vưỡn " ở đây à?
- Cháu định đi nhưng em nó bảo cứ ở lại. Đằng nào thì bây giờ cũng không còn xe ngược. Mai nó sẽ đèo cháu ra bến sau.
Ông hừm một tiếng:
- Vẽ việc, vài cây số từ đây ra bến đi bộ một lúc là tới đưa đón gì. Tôi lên huyện xa gấp đôi mà chả thấy nói đến chuyện đưa đón bao giờ. Nhưng nó đã bảo thế anh cứ ở. Đoạn rồi mai nó đưa.
Ông nói có vẻ miễn cưỡng khiến nó ngại. Lúc người nhà bưng mâm lên ông nhất quyết không ở. Ông bảo:
- Có công có việc cơm rượu người ta có dự trù. Tôi ở lại làm gì!
Gã tím mặt, gã cũng " Ngoài " sự trù tính của vợ chồng thằng em. Gã kiếm cớ nói ra quán mua bao thuốc. Ông Thước không nói gì, mắt ông để vào đám thợ đang rửa tay ngoài cầu nước.
Thằng em nói:
- Bác cứ ở đấy. Đằng nào nhà em cũng ra quán, cần gì nó sẽ mua, bác không phải đi!
Gã gượng cười:
- Tôi hút nặng, thím không biết loại thuốc nào đâu. Cứ kệ tôi.
Gã đi vội ra ngõ, đường thôn đã xâm xẩm tối. Hai bên hàng xóm le lói ánh đèn. Gã sẽ không trở lại đây vào lúc này mặc dù chưa biết đêm nay mình sẽ đi đâu, ăn đâu, nghỉ đâu. Tất cả những cái đó lúc này không còn ý nghĩa gì khi gã thấy tắc nghẹn ở cổ, miệng đắng khô, mắt mờ nhoà... Hình như mình sắp khóc. Không, không thể yếu mềm như thế được, gã tự nhủ, đi miết vào đêm tối đang dần ập tới.

ó
ó   ó

Đỗ Đen không ngờ gặp gã vào lúc này. Nếu gã không đằng hắng đánh tiếng thì anh ta đã lao cả cái xe đạp thồ vào gã rồi. Cái xe trần truồng, không phanh, không chuông, hai bánh năng như bánh xe cải tiến bởi bộ nan hoa đặc biệt to như đũa ăn cơm. Đỗ bấm đèn pin sáng loá. Đèn ba pin, chuyên dùng để coi cá ngoài đầm Mắt Rồng, anh ta ngớ ra:
- Về bao giờ thế mày?
- Tao vừa về.
- Tối rồi còn định đi đâu?
Gã bảo:
- Tao vào thằng em, nó đang làm nhà, nhà cũ thì dỡ đi rồi. Đang định sang chỗ bà dì út ngủ lại mai ngược.
Đỗ Đen sửng sốt:
- Thế mày không biết gì à? Bà ấy theo đoàn vào Tây Nguyên chuyển hài cốt ông ấy đã về đâu? Giờ chỉ có mấy đứa con gái ở nhà, Đến cũng chẳng có ai tiếp. Thôi ở lại đây với tao. Từ ngày ấy đến giờ anh em mình mới gặp lại nhau. ở với tao một đêm. Mai muốn đi đâu tao không giữ.
- Nhưng mày đang chuẩn bị đi đâu, súng ống thế này ở nhà nhỡ việc.
Đỗ cười khà khà:
- Nhỡ gì, Tổ bảo vệ những năm người. Tao bận thằng khác trông thay, lo gì! Mấy khi mày mới về, anh em gặp được nhau. Gã còn chưa quyết, bàn tay to tướng của Đỗ cứ thế nắm tay gã lôi đi. Nhà Đỗ ở cuối xóm, nền nhà đắp cao như quả đồi, một cách tránh ngập nước vào mùa sông nước to, mưa úng. Vợ Đỗ còn đang lạch cạch rửa bát đã nghe Đỗ oang oang giục vo gạo thổi cơm. Đỗ không nói gì ấn gã ngồi xuống phản rồi chạy ra ngõ. Một lát anh ta về, trong tay cầm chai rượu trắng. Tay kia bọc gói lá chuối tươi. Gã nhìn căn nhà bạn không đổi thay là mấy. Chỉ có khác nó không còn lợp lá dạ mà lợp ngói. Hai hồi nhà đã thay cột tre vách đất được xây bằng gạch ba banh. Vách phía sau nhà vẫn còn trát đất. ở một góc nhà phía trên treo cây đàn bầu tự tạo. Thân đàn làm bằng tre bứng, bầu đàn bằng lon sữa bò. Không nhìn rõ dây đàn, nhưng gã đoán có thể nó làm bằng một sợi phanh xe đạp. Cạnh đó còn có chiếc mũ phớt mầu huyết dụ.
Chừng ấy năm xa nhau, nếm trải đủ mùi tính cách bạn thay đổi thế nào gã chưa hình dung ra. Nhưng cảm giác gần gũi thân thiện như nói với gã rằng hắn vẫn như xưa. Con người chết đến đít vẫn cười. Chẳng coi chuỵên gì là quá quan trọng.
Đỗ có chân trong đội văn nghệ của xã nhờ giọng hát cải lương hiếm có trong vùng. Anh có thể ca liền mười hai câu vọng cổ mà không cần ngừng lấy hơi. Những thứ đạo cụ linh tinh như phông, màn, sênh, phách anh lại làm rất khéo. Loa đài hỏng hóc chỗ nào Đỗ cũng táy máy, dò dẫm chữa được hết. Đội có cây đèn măng sông. Những đêm không biểu diễn Đỗ được giao mang về nhà. Đám hiếu nào Đỗ cũng có mặt. Anh thổi kèn bát âm và hát chèo đò. Vừa chỉnh kim dầu đèn măng sông Đỗ vừa nói:
- Người sống, kẻ chết ở làng này tớ phục vụ tuốt!
- Thế họ trả thù lao bằng tiền hay ăn công điểm?
Đỗ cau mặt:
- Ông nói chuyện buồn cười. Làm việc nghĩa biết thế nào mà tính công. Phúc chủ, lộc thầy. Nhà người ta khá người ta thù lao không đến nỗi tệ. Người nghèo thì mình làm phúc. Có từng nào nhận từng ấy, không đòi hỏi!
Gã cười:
- Tôi thấy ông vẫn như trước, vẫn vui vẻ vô tư làm như chưa từng xảy ra việc gì! Thần kinh phải khoẻ lắm mới như thế được?
Đỗ kéo hơi thuốc lào, trầm mặt một lát:
- Thế ông bảo vò đầu bứt tóc suy tư thì làm được điều gì? Không thay đổi được những điều không thể thay đổi. Cái gì tính được mới tính. Không tính được cho qua luôn. Sống là chấp nhận, ưu tư lắm mà làm gì?
Gã nghĩ tay này sống thanh thản quá. Có lẽ hắn bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Một căn nhà nhỏ, một trai, một gái một người vợ hiền. Vườn cây trái xum xuê bao quanh, cách biệt với bao nhiêu ồn ã, vật vã bên ngoài.
Gã và hắn chơi thân với nhau từ tấm bé vì cảnh ngộ có những nét giống nhau. Đều ngheo nghèo khô khổ trong cái xóm chằng chịt ao chuôm này. Hắn bỏ học từ năm cấp II kiếm tiền đỡ mẹ. Thoạt đầu bằng nghề bắt cá, câu lươn. Lớn lên một chút theo người ta làm thợ mộc, cặm cụi đục đẽo suốt ngày. Hắn đi bộ đội được ba năm thì bỏ về vì mẹ hắn ốm thập tử nhất sinh. Từ con người lành hiền chất phác hắn trở thành đối tượng phản giáo dục tại địa phương. Người ta đưa hắn đi công trường lao động, ở đây toàn thành phần đảo ngũ. Anh nào cũng phải viết lên mũ dòng chữ to tướng: " Ai cũng như tôi thì mất nước ". Sau đợt lao động ít ngày hắn được tha về. Vừa chân ướt chân ráo về làng. Hắn rẽ vào bãi chiếu phim. Đúng hôm xảy ra vụ án mạng mà xưa nay trong vùng không hề xảy ra. Hắn đi trại trung ương trước gã vài tháng và về sau được được tha trước gã hai năm. Nhìn con người hắn bây giờ khó tìm ra dấu vết của ngày ấy, nếu hai bắp tay hắn không có dòng săm trổ " Kiếp nghèo ôm hận ". Nét chữ viết ngệch ngoạc trông cứ như: " Kiếp nghèo ôm lợn ".
Gã bảo:
Ông thắp đèn búp măng là đủ, chơi măng sông làm gì cho tốn dầu. Có ai đâu mà bày vẽ.
Hắn vuốt hàm râu quai nón, điệu bộ như đang trên sân khấu:
- Lúc này không thắp thì thắp vào lúc nào? Này nói thực nhé: Từ cái ngày gặp nạn, mình sợ những chỗ tranh sáng tranh tối. Đến chỗ nào cửa giả bí quá mình cũng hãi. Thành ra ông xem đấy, nhà mình tuy nhỏ nhưng cửa làm rất thoáng. Cửa sổ bỏ luôn chấn song. Hình như vẫn có cái gì ám ảnh khó quên?
Gã hỏi:
Nghe nói ông được về trước hạn có phải không?
- Phải. Trại ở sát biên giới, bọn bành trướng bất ngờ tập kích. Thầy trò nháo nhào. Mình có nghề lái xe nên được giao vận chuyện phạm đến nơi ở mới. Có mấy thằng bỏ trốn, không kịp xin phép quản giáo, mình chạy đón lõng bắt được chúng mang về. Chính ông chánh giám thị biểu dương khen thưởng mình. Ông còn đề nghị lên trên tha mình về trước hạn. Hôm mình về, còn có cán bộ trại đưa về ban giao với địa phương khen ngợi mình. Nhờ thế mình về không bị thành kiến, còn được giao làm tổ trưởng bảo vệ, giữ súng ống đàng hoàng. Sau này mình có nghe nói ông trốn trại. Đầu óc tính toán thế nào mà ngu thế không biết? Mình nói ông thông cảm: Trốn đi đâu? Chỗ nào không có tai mắt nhân dân? Cho dù có bị xử lý sai cũng không thể làm thế được. Việc gì trên đời này mà không có sai sót? Sai rồi người ta sẽ sửa. Làm thế đương nhiên là mình trở thành sai rồi! Có đúng thế không? Mà thôi không nhắc chuyện cũ, buồn bỏ mẹ. Ông ra rửa chân tay đi, cơm xong ta chuyện tiếp.
Thấy gã cứ nhìn mãi bức ảnh trên bàn thờ. Hắn nói:
- Mẹ mình số khổ. Bao năm lăn lộn nuôi chồng nuôi con. Bà đã phải bán đến hàng ngàn mẹt bánh đúc gánh đi các chợ. Đến nỗi khô hết khớp, trước ngày mẹ mình mất mấy năm, cụ không đi lại được. Đến khi con cái mở mày mở mặt được một tý cụ lại về giời...
Anh chàng cao to lộc ngộc này xem ra cũng là người mau nước mắt. Vợ Đỗ đã bưng mâm lên. Tuy đã ăn cơm tối, Đỗ cũng ngồi vào chiếc chiếu trải trên nền nhà láng xi măng. Đã bao nhiêu lâu rồi cả hai mới lại ngồi lại với nhau. Gã nhớ lại những củ khoai lang nhà mang xuống trại mà hắn nhờ người chuyển cho gã. Mỗi người ở một phòng giam riêng chỉ nghe thấy tiếng, mà không nhìn thấy mặt. Tự dưng gã nhớ lại một việc đã lâu lắm rồi:
- Ông còn nhớ hồi nhỏ chúng mình chia phe đánh trận giả. Tôi phe du kích, ông phe lính đồn. Bãi ngô cao ngập đầu người. Hai bên cứ vác đất choảng nhau chí mạng. Còn hô xung phong, ăng lê văng rầm trời không?
Hắn cười:
- Quên làm sao được. Một lần người đi chợ về ngang qua bãi ngô ông tương hòn đất cứng trúng bụng một bà đi chợ. Bà này sắp đến ngày sinh, đứa con trong bụng xẩy mất. Công an về điều tra mãi. Tôi biết mà không nói sợ người ta bắt ông lúc bấy giờ.
Gã choáng váng, thằng cha nhớ lâu thật. Thế mà bao lâu nay gã cứ phân vân về câu " ở hiền gặp lành ". Gã đâu có làm gì thất đức mà đời gặp bao nhiêu trái ngang.
Nếu Đỗ không nói gã đã không nhớ chuyện này. Còn trẻ con gã là tên đại nghịch, đầu têu không thiếu trò gì . Gã có biết đâu rằng: Người ta rất có thể bị trừng phạt vì những việc vô tình. Vô tâm! Trời cao thăm thẳm, nhưng trời sẽ không bỏ qua bất cứ chuyện gì! Bất giác gã thở dài.
Bữa cơm có cá nướng. Thứ cá có người gọi là cá chuối, người bảo cá quả. Nhưng theo gã cá quả là loại lớn hơn, mình đen và đầu to. Cá chuôi đầu nhỏ, mình hơi vàng, đuôi có một chấm đen như cá rô.
Đỗ bảo:
- Cá này mình cắm cần, mỗi hôm được vài con. Người ta không cấm vì giống này ăn thịt, chuyên ăn cá con. Nuôi trắm cỏ, chép vàng người ta phải trừ bỏ nó.
Câu chuyện lan man sang chuyện làm ăn. Đỗ bảo:
- Ông gặp tôi là may đấy. Trông chờ, nhờ vả vào anh em nhà lúc này với ông quả là khó. Nếu ông có tiền đồ, danh vọng, chức vị mấy nơi người ta đã đến. Còn vừa hết nợ cơm cân, áo số mà nhờ vả không mấy ai đoái hoài. Không gì bằng tự mình cứu lấy mình. Tớ sẽ có cách giúp cậu trong lúc này. Tất nhiên là cho cậu cái cần câu chứ không phải cho con cá. Vì rằng tiền bạc mình cũng chẳng có...
Xong bữa, hai người sang bàn uống nước. Đỗ vào nhà lấy ra một hộp gỗ nhỏ và một vài thứ để trong tay nải. Đó là một hộp cuộn thuốc lá và đồ nghề làm kẹo.
- Hồi mình về không có những thứ này thì chết hẳng. Cũng như cậu bây giờ, còn chưa biết xoay sở thế nào để có cuộc sống ổn định. Những trò lặt vặt này đã cứu mình. Con mọt sách như cậu chắc nhớ chuyện ông Thị trưởng Ma-đỏ-len trong " Những người khốn khổ " chứ. Thì đây, chính là cái vòng đeo tai ông ấy nghĩ ra cách làm để trang điểm cho các cô gái Pháp...
Đỗ cười ngất, lát sau mới tiếp:
- Cậu biết mình đã làm gì không? Mình đóng cái hộp cuộn thuốc này và nấu mạch nha làm kẹo. Thuốc lá mình đóng trăm một, kẹo thì gói từng chiếc cho vào túi pôtilen. Khắp từ chân núi Ba Vì sang bên  kia Tam Đảo, Vĩnh Phúc Yên là thị trường của mình. Làm không đủ bán phải nhờ thêm người làm. Cả nước đâu đâu hàng hoá sinh hoạt cũng thiếu, lúc nào cũng nóng như than chờ phân phối. Cái trò buôn thất nghiệp mà lãi quan viên này giúp mình vượt qua những ngày đó.
Gã hỏi:
- Sao bây giờ ông không làm?
 Đỗ đáp:
- Bây giờ vợ mình bận chân giữ trẻ ngoài lớp mẫu giáo, mình hợp tác giao cho trông hồ cá. Làm vào lúc nào? Cậu đã từng ở Lạng Sơn, cuộn thuốc chắc cậu không lạ. Còn kẹo thì mình sẽ hướng dẫn qua là làm được. Mình sẽ ghi công thức đẩy đủ cho cậu làm. Tin rằng trên ấy thị trường bán được. Chớ có dại quay về làm ảnh làm gì. Lời lãi chẳng đáng, lại nhiêu khê, có khi nguy hiểm. Những thứ vật liệu này cũng dễ tìm. Cậu cứ về quanh chợ Đồng Xuân, chỗ phố Thuốc Bắc nó bán đầy. Mua một lần làm hàng tháng. Hết lại về lấy.
Gã nghe thằng bạn nói có lý, Lại hợp với hoàn cảnh của mình vào lúc này. Đúng là đi ngày đàng học sàng khôn. Nếu mình cứ ru rú trên rừng chắc gì đã nghĩ ra. Ngày mai về qua Hà Nội mua thử một ít về làm xem sao. Biết đâu nó chẳng là lối thoát vào lúc này. Hãy sống đã, rồi mọi việc sẽ tính sau. ý định ghé vào thăm ông bạn nhà thơ đang sống ở Hà Nội xem ra chưa cần thiết. Thơ ca vào lúc này giúp được gì cho gã đây, ngoài niềm an ủi? Trong lúc tâm tư đang mệt mỏi này? Gã sẽ tìm ông ta vào một dịp khác không phải là bây giờ.
Trước lúc đi ngủ Đỗ lại làm cho gã thêm một lần bất ngờ. Anh ta lấy từ trong tủ ra một bọc giấy nhỏ. Giở ra bên trong là cái nhẫn vàng một đồng cân. Đỗ đưa gã xem, gã nhận ra ngay đó là chiếc nhẫn của mình. Mặt trong còn có chữ khắc chìm tên gã. Chiếc nhẫn này gã đã trao cho Vân ngày đầu tiên làm đám cưới. Đã lâu gã đã quên nó rồi vì người vợ bạc tình đã chia tay gã gần chục năm trời. Hai người đã đến toà án một buổi sáng mùa đông. Ngoài cửa phòng xử án dựng một chiếc xe đạp ngoại. Trên ghi đông treo lủng lẳng hai con chim xanh bị bắn chết bởi đạn súng thể thao. ở mỏ chim máu còn đọng thành giọt. Bữa đó cả hai đã nhận giấy trích lục ly hôn...
Nhưng làm sao cái nhẫn lại có mặt ở đây?
Đỗ kể:
- Con bé con nhà mình cháu bị còi xương. Mình đã bắt cho nó bao nhiêu cóc mang về làm ruốc cho nó ăn. Xương thì tán bột cho nó uống. Hồi hôm thấy bà Đởm bưng cái Thúng. Bên trong là một con cóc to đùng. Chưa bao giờ nghe ai nói lại có con cóc to như thế. Bà ta bảo mang đổ ra sông. Mình bèn xin lại, kể ra thì cũng ghê sự kỳ quái của nó, nhưng mình đánh liều lột da làm thịt. Thịt nó trắng như thịt gà. Kỳ lạ hơn trong dạ dày của nó có vật tròn tròn cưng cứng. Mình moi ra không ngờ là cái nhẫn này... Bây giờ thì mình tạm đoán thế này: Vợ cậu đã trao cho anh chàng bị đâm chết năm ấy cái nhẫn này. Lão Đởm nhặt được mang về tủ cất. Chiếc nhẫn do sơ ý thế nào đó rơi ra và cóc ta đớp phải. Con cóc bị đột biến mà trở nên kỳ quái... Suy diễn như vậy có được không?
Gã như ma ám, bần thần cả người.
Đỗ vội lảng sang chuyện khác:
- Hoặc là nó diễn biến khác một cách nào đó, nhưng thôi mặc xác, bận tâm làm gì. Theo tớ cậu nên giữ nó làm kỷ niệm. Biết đâu châu về hợp phố, nên chuỵên gì chăng?
Gã nói hắn cứ giữ lấy mà dùng. Một chỉ vàng tuy không lớn những cũng là tiền.
Đỗ bảo:
- Nếu không phải của mày lại là chuyện khác. Vả lại tao cũng nghiệm ra rằng: Tham thứ không phải của mình thì trời không dung. Kể cả tao có nghèo tao cũng không ham kia mà. Gã buộc phải cầm lấy. Từ lúc có chiếc nhẫn bỏ vào túi áo gã cứ thấy chênh chao thế nào. Giấc ngủ đêm đó chập chờn không yên. Gã thức giấc vài dảo. Ngoài vườn gió bấc lùa như có người dượt đuổi nhau qua những bụi chuối. Làng xóm chìm trong đêm. Tiếng gọi đò văng vẳng phía bờ sông nghe khong thực. Như thể tự nơi xa lắm chứ không phải trên mặt đất này.
Ngày mai gã sẽ trở về với một công việc khác, ngoài dự định.