Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014

Xuân này ta nhớ chuyện xưa:

Chuyện văn nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987 (kỳ I)
Vương Trí Nhàn
 
8/11, Nguyên Ngọc kể:
- Buổi gặp anh em, ông Linh còn nói nhiều câu cay đắng lắm. Ví dụ bảo: "Tôi cũng là người bị nạn, tôi hiểu anh em". Sau này loại câu như thế người ta phải cắt đi.
- Nhưng mà chưa chắc làm thế đã tốt đâu. Cởi trói cho văn nghệ lúc này, mà những điều kiện khác (kinh tế, xã hội) chưa có, thì cũng không được việc gì. Bọn xấu bị đánh động nó cụm lại phản công cho mà xem. Ông Tố Hữu đã mỉa mai Trần Độ, à, các anh bây giờ được cởi trói rồi phải không!

- Nguyễn Đình Thi nói gì ở hội nghị? Thi bảo, tôi tha thiết đề nghị các anh đừng phát động quần chúng. Phát động quần chúng thì những người không có tài năng sẽ nổi lên, diệt hết người có tài.
… Cái ông Thi này căn bản rất ích kỷ. Ông ta có yêu ai bao giờ đâu. Một tay bẻ hết mấy cành phù dung. Ông ta diệt tạp chí chuyên về văn học nước ngoài rồi, lại còn sẵn sàng diệt trường Nguyễn Du nữa ấy chứ. Bây giờ chung quanh toàn những Kim Lân, Thợ Rèn thì còn được việc gì.
- Đọc báo chí Hà Nội đủ thấy chưa đâu vào đâu cả. Mà cấp trên thì đã ghét lắm rồi. Ông Nguyễn Đức Tâm rêu rao trên tờ Lao động: “Đây, báo đăng bài của tên Lê Dụng(?) một tên về hưu (trước là thứ trưởng Bộ Công An) đặt vấn đề công tác tổ chức…” Rồi cả Bộ chính trị chửi bới, chỉ trừ có ông Linh là không nói gì, sau lại đỡ hộ. Trong TW, ông Linh cô độc lắm. Hôm gặp văn nghệ sĩ, mấy anh em nhà mình cứ một giọng xin TW bảo chúng tôi, bảo chúng tôi. Thế là ông Linh đỏ mặt lên "Hãy tự cởi trói mình trước khi trời cứu". Tức nói đến Trung ương là nói đến chỗ rất đau của ông.
Với bài ông Linh, coi như Đại hội Nhà văn đã xong. Giờ chỉ còn minh hoạ. Và làm công tác tổ chức.
Nhàn: Các anh chuẩn bị đón họ phản công.
Nguyên Ngọc: Đúng. Khải nó bảo bây giờ Bộ Chính trị ông nào cũng dính với một vụ rồi, thì còn làm sao mà giẫy ra được nữa.
Tôi (Vương Trí Nhàn) hay nghĩ cái được nhất của những cuộc họp này là nói rõ rằng văn nghệ của ta rất nghèo.
Lạ thật là cái võ của các ông trên. Một mặt, các ông ấy chê bai mình cấm đoán mình. Mặt khác, ông ấy lại bảo ta có một nền văn nghệ xuất sắc. Thế thì còn biết đằng nào mà lần. Trói xong lại bảo đố mày bay lên – hồi chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã mấy lần nói với tôi cái câu ấy, lần nào nói xong cũng cười khà khà sung sướng.
Nguyên Ngọc kể tiếp:
- Chính ông Trần Độ là do ông Linh đưa trở lại. Vì ông Linh với ông ấy quen nhau từ hồi ở trong rừng. Bây giờ ông ấy vẫn bảo tự do về kinh tế thì có tôi(Nguyễn Văn Linh), tự do về văn hoá thì có anh (Trần Độ).
Ông Độ nghĩ ra được nhiều việc cụ thể lắm. Ví dụ, ông ta đề nghị sẽ có nghị quyết của Ban bí thư về các vụ án văn nghệ trước đây.  Ông Khải bây giờ đã trả sao, trả mũ, chuyển sang sinh hoạt ở Hội nhà văn. Ông ấy vẫn đận đà không muốn ra Hà Nội. Nguyên Ngọc bảo ông phải ra, tôi không làm hộ đâu.
Nguyên Ngọc trở về báo Văn nghệ như thế nào?
Một lần nói chuyện, Nguyễn Minh Châu có ý giá trao tờ báo cho Nguyên Ngọc thì hay nhất.
May đâu, gặp dịp Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu lên gặp Trần Độ. Nhân Trần Độ bảo: “Các anh phải củng cố tờ báo Văn nghệ cho tốt" ông Nguyễn Đình Thi buột mồm "Hay là anh Ngọc trở lại báo.”
Ông Độ khôn lắm, không nói gì. Lúc tiễn ông Thi và Chính Hữu ra cửa, ông ấy mới bảo các anh nhớ bàn ý kiến về báo Văn nghệ, như ý anh Thi vừa nói.
Nguyễn Đình Thi biết hố rồi, về, tính lại. Triệu tập các ông trong ban thư ký có mặt ở Hà Nội. Thống nhất đồng ý để Ng Ngọc về. Rồi gọi vào cho Chế Lan Viên và Anh Đức, chờ ý kiến cuối cùng.
Về sau, họp thường vụ, Anh Đức mặt tím bầm (ai đó bảo: mặt như cô hồn), đứng lên nói:
- Tôi biết thừa bụng các anh rồi. Chính các anh cũng không muốn anh Ngọc về, nhưng các anh lại đẩy việc quyết định cho chúng tôi để đằng nào cũng được việc, mà tôi với anh Chế Lan Viên lại mang tiếng ác. Nhưng tôi với anh Chế Lan Viên bàn nhau rồi, chúng tôi đồng ý, cho các anh biết mặt. 
Đấy, Anh Đức là cái loại trắng trợn đến thế kia chứ, Nguyên Ngọc nói thêm. Anh em nó vẫn bảo Anh Đức ít chất Nam bộ hơn ai hết.
Còn ông Chế Lan Viên, cũng lạ lắm. Khi tôi về báo Văn nghệ, vẫn là Nguyên Ngọc kể, tôi đã viết thư cho nhiều người, mời viết cho báo. Trong đó có Hà Xuân Trường (ông Trường trả lời nói là bận, không viết được) và có Chế Lan Viên. Nhưng bọn thằng Duy đại diện Văn Nghệ ở Sài Gòn nó không thích Chế Lan Viên, nên nó cứ kệ đấy. Ông Chế Lan Viên lên Sài Gòn tìm thư thì nhận trong thùng thư, chứ chúng nó không chuyển.
Ông Chế trả lời: “Nhận được thư Nguyên Ngọc, mình với Thường mừng lắm, giá thư thất lạc có phải sinh chuyện không". 
Rồi ông ta góp ý kiến với báo nhiều điều rất cụ thể. 
Hôm Nguyên Ngọc vào Sài Gòn, cùng với Nguyễn Duy, Ý Nhi đến chỗ Chế Lan Viên chơi. Chế Lan Viên cảm động ra mặt.
Chế Lan Viên bây giờ luôn luôn nói:
- Khen Trung Quốc không ai bằng tôi mà chửi Trung Quốc cũng không ai bằng. 
--Tôi theo Đảng, Đảng sai tôi sai, Đảng đúng tôi đúng!
Tôi nghĩ, vẫn lời Nguyên Ngọc nói, thế thì ai cần anh nữa.
Nói chung, Nguyên Ngọc nhận xét Chế Lan Viên giỏi biến báo lắm, mà cả ông Trần Độ cũng nhận xét vậy.
Gặp Trần Độ ở Sài Gòn, Chế Lan Viên nhận ngay tôi là người giáo dở. Tôi ủng hộ Đào Vũ về báo Văn nghệ, nhưng tôi không trao quyền cho hắn làm tổng biên tập, mà chỉ làm quyền thôi, thế là giáo dở chứ gì. Tôi với Nguyên Ngọc giận nhau, nay tôi lại ủng hộ anh ấy về thay.
- Thế theo anh, Chế Lan Viên là người thế nào?
- Chính ông ta là người rất nhát, nên ông ta phải đánh mình tàn tệ thế, để một là khỏi mang tiếng liên quan, hai là chính ông ta cũng không có đằng nào mà rút nữa.
- Thế còn Nguyễn Khải?
- Nguyễn Khải lại là chuyện khác. Chuyện năm 1979, mình chả nghĩ làm gì, chứ vợ mình nó giận lắm. Một lần, Tâm nó gặp ông Khải ở đường, nó nói mát: "Anh Khải lâu không thấy sang nhà", Khải nó là người thông minh, nó biết. "Tôi là thằng phản bội, còn dám vác mặt đi đâu nữa". "Thế anh đã đọc Xốt nhi cốp chưa?". Khải chưa đọc, nhưng cũng đoán ra đấy là cuốn sách viết về thằng phản bội, nói loanh quanh rồi chuồn. 
Nói chung Khải là người quá nhạy, cứ nghe cánh Nguyễn Đình Thi doạ cho mấy câu, thế là lại dao động, Nguyên Ngọc lại phải lên dây cót thêm v.v.. 
Tôi nghĩ, ông Khải không hết mình trong mọi chuyện, một phần vì bỏ việc tổ chức còn sáng tác, chứ Nguyên Ngọc ngoài việc ấy ra, chả có việc gì khác!
30-11 
Gặp Hồ Ngọc bên sân khấu.
Hồ Ngọc kể hôm gặp ông Linh, anh em mình nói nhiều chỗ hố lắm. Ông Tô Hoài, ông Huy Cận thì lẩm cẩm rồi. Có buổi, tôi ngồi gần chỗ Trần Độ, nghe Huy Cận đến tỉa tót: “Anh Trần Độ, anh đừng quên tôi đấy nhớ". Ôi, nhà thơ Lửa thiêng gì mà khốn nạn thế !
Sau này bọn điện ảnh và các ngành nó bảo bọn văn học nó nói như bố ấy, còn chúng mình nói như trẻ con. 
Có một việc là trong giờ nghỉ, ông Trần Độ có hội ý với ông Linh. Xong, ông Trần Độ nói chúng tôi vừa thống nhất là sẽ cho chiếu phim Hà Nội dưới mắt ai. 
Thế là về sau ông Hải Ninh nghệ sĩ nhân dân cũng lên than thở đề nghị xét lại vụ Bãi biển đời người của ông ta. Anh em nó trêu: Bãi biển đầy ruồi. 
Rồi bà Xuân Thanh lên khóc lóc nói rằng cháu không được lên lương, cháu không được đi học v.v.
Chả ra làm sao cả.
Cũng có một chuyện vui nữa. Dương Thu Hương lên phát biểu, nói khá rõ về vai trò người trí thức. 
Nhưng đặc biệt nhất là đoạn cuối, Hương nó nêu có những người hôm qua vừa bị đánh thì nhăn nhó, kêu khóc, mà lúc được dùng lại thì sung sương rên lên, nói rằng mình như hạt bụi.
Hạt bụi gì, cuốn theo chiều gió à?
Kể ra, như thế là nói Nguyễn Đình Thi sát sạt rồi. 
Ông Thi có khôn hồn thì im đi, vì thật ra, trong hội nghị cũng chỉ một phần ba người ta biết cái câu hạt bụi ông nói ở đại hội nhà văn lần trước. Thế cho nên, Nguyễn Khải ngồi cạnh Nguyễn Đình Thi đã phải giật giật Nguyễn Đình Thi mấy lần, ngăn ông ta lại.
Nhưng Nguyễn Đình Thi cứ lên. Nói là cấp trên đừng phát động quần chúng, rồi nói là chúng ta cũng có thành tựu của chúng ta chứ, những Con trâu, Vùng mỏ hồi nào.
Rõ là ấm đầu. 
Đến đoạn cuối, Nguyễn Đình Thi lại quay về chuyện Dương Thu Hương vừa nêu. Tôi có nói trí thức là hạt bụi. Đấy là tôi muốn chống lại tôn giáo. Tôn giáo bảo con người chỉ là hạt bụi. Nhưng chúng ta là hạt bụi có tư tưởng. Anh em cười ồ cả lên, đến con người cũng chả có tư tưởng, nữa là hạt bụi.
Sau chuyện đó, uy tín của ông Thi càng giảm sút.
Còn như tôi, Hồ Ngọc, nói thế nào? Tôi chuẩn bị kỹ lắm. Tôi dẫn Lê - nin, tôi dẫn Mác đầy đủ. Khi không có tự do, thì con người ta trở nên ti tiện -- Mác nói vậy, và chỉ tôi mới lôi ra được thôi.
Tôi thấy có những anh em mình nói còn trật lắm. Anh Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng văn nghệ rất khó nắm bắt. Như thế là rơi vào bất khả tri rồi. Hoặc Lưu Quang Vũ nói rằng các ông tuyên huấn không nghe được gì cả, nói thế cũng là quá. 
Tôi nghĩ phải tìm được một giải pháp vừa phải.Chuyện tôi cho là quan trọng nhất - chúng ta phải biết quý tài năng. Tôi bảo biết quý tài năng là biểu hiện của nhân dân văn hoá, đất nước văn minh. Không biết quý tài năng thì thôi, chịu. Và tôi đọc ra mấy câu thơ anh em nó sáng tác "Xưa kia đất nước rã rời-- cho nên nghệ sĩ coi trời bằng vung - Ngày nay đất nước anh hùng - cho nên nghệ sĩ coi vung bằng trời “ 
Anh em nó bảo tôi bạo.
Nguyễn Kiên ra cười nhoẻn với tôi: "Không phải tôi coi vung bằng trời, mà cái góc vung đã bằng trời". Nói được như thế là anh em quý rồi.
Sau buổi phát biểu ở đấy, tôi thấy anh Nguyễn Khải, anh Nguyên Ngọc cảm tình với tôi hơn. Tôi cũng thấy cánh mình phải chạy đi chạy lại với nhau, không thể đứng rời ra được. Ông Trần Độ, ông Hạnh cũng coi tôi là một người có thể tin cẩn được, vẫn gọi tôi lên luôn! Tôi bảo các ông đừng can thiệp quá sâu vào mọi chuyện như ông Hà Xuân Trường. Kệ cho anh em nó làm là tự nhiên được.
Quyển sách mới của Dương Thu Hương không phải hay, nó viết nhiều chỗ cẩu thả, phô, nhưng nó có tâm huyết của nó. Còn chửi thì ghê lắm. Đã có người đọc trệch đi Chuyện tình kể trước lúc rạng mông cơ mà. Tôi góp ý kiến với Dương Thu Hương đủ thứ. Hôm nọ, ngồi có cả Nguyễn Khải, tôi mới bảo này, lần sau, cô đừng đăng những bài thơ như bài tuyên ngôn trên Văn nghệ vừa rồi nữa nhé. Cũ lắm. Nguyễn Khải bảo tôi cũng nghĩ, nhưng không dám nói.
Hôm gặp ông Linh, giới sân khấu cũng nhảm. Mẹ Thành chúa cơ hội thì lúc nào cũng mời mọc “cái này để mời anh Linh đi xem ạ!” Giờ nghỉ, thấy ông Linh ra, Hồ Ngọc phải tránh đi, nhưng cả bọn Lưu Quang Vũ, Hoàng Quân Tạo cùng xô đến... Vũ dám làm tất cả các việc mà Vũ vẫn chế giễu. Trong vở Chết cho điều chưa có cũng lại có “những việc cần làm ngay”, có “đồng chí NVL”.
Tôi nghĩ đến Vũ những ngày chống Mỹ. Tưởng là khác rồi, nhưng đâu có khác!
Ông Vũ Tú Nam kể Nguyễn Phan Hách bảo sướng quá, bây giờ cởi ra gỡ ra rồi, tha hồ viết.
Nguyễn Kiên: Viết khó hơn bao giờ hết chứ. Xưa muối hiếm kiếm được một hạt cũng quý. Nay cả làng người ta có muối rồi. Có biết tra không, hay có nồi canh, lại làm hỏng.
2/12
Nguyễn Quân kể:
- Hôm gặp ông Linh, tôi bảo các anh không đốt sách tôi, không xé tranh tôi, thế là được rồi. Còn nếu các anh làm vậy, tôi chỉ trách nhà tôi vô phúc. Và làm với nhiều người, thì cả nước vô phúc.
- Đất nước gì mà tri thức gặp vua còn kêu đói, kêu không có tất, thì ra cái thá gì nữa. Ông Nguyễn Đình Thi dẫn đủ thứ Hy La ra, bảo rằng người ta có thể tin vào cái sai, nhưng nếu tin thì vẫn có thể thành công trong văn nghệ - Solokhov tin vào Stalin, vẫn có Sông đông êm đềm. Thế thì còn nói sao được nữa! Khả năng tiếp cận chân lý của anh ở đâu.
Ông Mạnh với mấy ông bảo khi bị khinh bỉ, thì con người ta ti tiện đi. Nhưng có đúng thế không? Sao người trí thức lại để mình bị ti tiện đi được.
Sở dĩ nước ta không ra gì, vì trí thức nước ta không tạo được bi kịch lớn. Chứ cứ như ở Nga này, lúc nào gần nửa trí thức nó cũng ngồi tù, thì làm sao nó không lớn được.
Một người như Trần Dần biết điều đó đấy. Gặp tôi về việc đứa con, ông ấy chỉ bảo thôi đừng bới mọi chuyện ra làm gì, có gì đáng bới. Thế là biết đấy.
À, lại nói chuyện gặp ông Linh, ông Tào Mạt cũng mang những ý rất cũ ra rao giảng. Tôi phải bảo bây giờ không phải thời văn nghệ sĩ dâng Sách bình Ngô, cũng không phải thời làm hề. Anh hãy quan niệm văn nghệ như một nghề, đấy mới là điều cần thiết.
Bố Tào Mạt cứ dạy cả nước làm vua, thì còn ra cái lý cố gì nữa!
Nói chung, tôi hay có lối trả lời khiến các lão rất ngại. Như ông Thanh lại có lần đến bảo: Bây giờ mình sắp về hưu, hôm nào mình đến cậu bảo mình vài vấn đề cơ bản của nghệ thuật, có gì cần, làm cố vấn cho các anh. Tôi mới bảo, sao lại thế được? Mười năm nay em giảng cho anh, anh không hiểu thì một hai buổi hiểu sao nổi. Mà tuổi của anh thì không học được rồi, giá anh cứ thi vào khoa tại chức trường em, chắc em cũng đánh trượt anh thôi.
Lại có nhiều ông phê phán tôi phá hoại nền mỹ thuật nước nhà.
Tôi mới bảo ngay nền mỹ thuật nước nhà không yếu đến mức một mình tôi phá được đâu. Còn như sau tôi, người ta không thể vẽ như anh Cẩn trước đây, đấy lại là chuyện khác.
7/12 
Quân lại nói về lần gặp ông Linh:
- Mọi người thường nói là mong trên thông cảm. Không thể có chuyện như thế, chúng ta không nên đặt ra câu hỏi cũ, rồi tìm cả câu trả lời mới. Vấn đề bây giờ, là đặt ra những câu hỏi mới. Ví dụ nên có luật làm sao để các thành uỷ, tỉnh uỷ không can thiệp vào công việc của các nhà hát hay đoàn kịch. Chứ còn có người duyệt, thì tức là có lúc thông cảm lúc không thông cảm,rồi có bao giờ ra sao.
- Tôi còn đề nghị thêm một điểm. Là cấm người viết phê bình nói nhân danh Đảng. Muốn gì thì muốn, phải nhân danh cá nhân. Sai đúng bàn sau.
- Chính ông Trần Độ cũng phải công nhận là ở nước ta, người biết cứ đi hỏi người không biết. Hội đồng nghệ thuật thông qua rồi, lại còn đi hỏi Bộ trưởng. Trần Độ vốn ghét Văn Phác nên bảo vậy.
Cũng như bác ấy, bác biết sao được về mỹ thuật bằng cháu, mà cháu vẫn phải hỏi bác —Ng Quân nói lại Trần Độ.
- Cái tội của nước mình, là dạy cho dân triết học, mà bắt trí thức học lễ, trong khi, suy cho cùng, chỉ trí thức mới cần triết học, còn dân chỉ cần học lễ - lễ theo nghĩa rộng, nghĩa là phép cư xử.
Trà: Quân có cái thánh thiện của nó. Nó hiểu được âm nhạc, tôn giáo.
Nhàn: Tôi thấy ông Quân có cái vô tư của người bên ngoài nhìn vào, không có những cái rác, cái bọt bẩn mà do sống quá lâu trong giới, mình cũng bị nhiễm.
27/12
Một người bạn cũ, kể chuyện Hà Nội - Sài Gòn.
          -  Sau khi  Phan Ngọc cho in  Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều , Cao Xuân Hạo bảo “Đọc xong quyển này, thấy người tài nhất là ông Phan Ngọc, thứ hai là Đảng ta, thứ ba mới đến Nguyễn Du.”
- Ông Hạnh phó ban hiện nay, cũng rầu lắm. Hôm họp ở Ban văn hoá văn nghệ thấy mặc cái quần có miếng vá, trông khá khốn khổ. Lại còn cãi nhau tay đôi với tay Hoài Lam nữa ( HL giáo sư mỹ học, ông Hạnh xưa cùng học với hắn). Mình phải bảo anh đừng làm thế mà chết. Ông Hạnh phải “tháo chốt ngay”.
Ở Sài Gòn, loại như ông Trần Bạch Đằng, cũng rất muốn chân Tổng thư ký Hội những người viết văn thành phố. Trên bàn, rồi vẫn chọn ông Sáng (ông Anh Đức tự nguyện nhường vì nhắm vào trung ương). Trần Bạch Đằng ngồi nhà Anh Đức, từ 7g sáng, tới 2 giờ chiều, chỉ đay đi đay lại một câu: Anh là nghệ sĩ còn tôi là chính khách, tôi phải có chức vụ.
Ông Đằng cực đoan đến mức ông Nguyễn Văn Linh, ông Võ Văn Kiệt cũng phải sợ, không dám dùng.
Quanh cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, nhiều người bảo tất nhiên Sử định buôn to. Nhưng loại như Tố Hữu thì không, lão không ơn huệ ai đâu. Thậm chí lão còn muốn nói là nhờ tôi mà anh trở nên nổi tiếng nữa, vậy anh phải cám ơn tôi mới đúng.
Chứ cám ơn anh thì tôi cũng là tầm thường như mọi người hay sao ?
Nước mình, ai người ta cũng bảo kỳ vừa rồi, đau nhất ông Tố Hữu. Đoàn Giỏi tới thăm về, kể lúc nghe tin, Tố Hữu lạnh cả sống lưng. Ngay Lê Đức Thọ cũng bất ngờ, vì việc đại hội không tín nhiệm Tố Hữu.
Phan Hồng Giang và Từ Sơn đến nhà TH chơi. Nghe đồn Phan Hồng Giang có nói với Tố Hữu một câu:” Chỉ tiếc là nay không có chú, tức là Trung ương mất đi những người trí thức có suy nghĩ...” Thế là Tố Hữu bưng mặt khóc (?!)
Hoài Thanh xưa nay vẫn bảo, văn nghệ nước ta, được Tố Hữu phụ trách còn là khá!
Những chuyện khác.
Ông Lê Đình Kỵ hồi trước khá đứng đắn. Nghe nói khi thơ Trường Chinh ra, có người bảo Lê Đình Kỵ phê bình đi, Kỵ bảo có phải thơ đâu mà phê bình. 
Sau có người mách rằng câu ấy đã đến tai Đặng Xuân Kỳ, con Trường Chinh. Thế là Lê Đình Kỵ sợ lắm, phải viết bài, phát trên đài, in báo. Trước đó, nhờ Bảo Định Giang đọc hộ. Bảo Định Giang chỉ bảo anh trích sai nhiều quá.
- Ôi, quan trường là chuyện ghê gớm không ai lường nổi. Ông Trần Độ đại hội lần trước có chân Uỷ viên trung ương, mà không bố trí công tác đã buồn lắm, toàn đi chơi với bọn Trần Quốc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến. Nghe nói (có anh kể) có lần Trần Độ phải đến khóc với Trường Chinh cơ mà. Mỗi lần đại hội, lo đến đái ra máu chứ. Vì có thể công lao từ trước đến nay mất hết.
... Chính trị nó lạ lắm. Ông Nguyễn Văn Linh có lần hô Lê Duẩn muôn năm, lại có lần bảo ý kiến của anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) là thế này, thế này. Khen hết lời ! Ông Nguyễn Văn Linh chỉ ghét ông Tố Hữu. Nghe nói vụ Cù Lao Tràm, ông Tố Hữu nhận định đã có một bàn tay bẩn dúng vào (tức NVL). Thế là Nguyễn Văn Linh càng cáu, về quyết trị bọn thằng Nguyễn Mạnh Tuấn thêm.
- Hiện nay, bọn CA văn hoá ở Hà Nội không thích gì loại truyện ngắn Tướng về hưu đâu. Đến thảo luận ở ban văn hoá văn nghệ cũng rất căng. (Loại như Phan Cự Đệ trước đây, đều là cộng tác viên của cục 78 cả đấy chứ. Đi xem phim, cứ giơ cái thẻ cộng tác với cục 78 ra, là vào hết!)
- Ông Phạm Văn Đồng bây giờ còn hay nói là mình kinh tởm các nước phương Tây, bởi văn minh của nó phi nhân tính lắm. Tức y như cũ.
Loại như ông Đồng, ông nào cũng có nhận quà biếu vidio, casset. Con cái bây giờ cũng phải buôn, vì hồi trước, chả có gì. Còn ông Nguyễn Khải, ông Chế Lan Viên thì nói gì nữa. Đi họp CA, cũng phải đi.
Đến bây giờ, mà trong buổi họp làm Bách khoa từ điển, ông Đồng còn bảo những khó khăn hiện nay rồi sẽ qua đi, vài năm nữa chúng ta sẽ đạt tới bước tiến mới, nhìn lại hôm nay sẽ khác. 
Lâu nay, tôi quý ông Đồng lắm. Mình cứ lấy ông Đồng đối lập với ông Trường Chinh. Nhưng sự thật, ông Đồng có quý gì ai đâu. Toàn nói chuyện trừu tượng, chung chung. Đến lúc mình lỡ có viết gì, lại mắng mình. Nghe bảo năm 1974, ông ấy nói Nguyễn Thành Long ghê lắm.
-- Ông ấy chả cứu ai cả.
-- Đúng rồi, đến cả Trần Việt Phương, ông ấy cũng không cứu.
-- Nghĩa là ông ấy gọi các văn nghệ sĩ đến chơi, như người xưa gọi cô đầu đến hát. Xong thì thôi, không còn dây dưa gì.
Trần Đăng Khoa có lần kể với Trà một chuyện nhỏ, giờ Trà kể lại với tôi.
Lần ấy Khoa dẫn một đoàn thiếu nhi đến nhà Tố Hữu chơi.
-- Bác ơi, nhà của bác đây đấy à, thích quá nhỉ!
-- Không, đây là nhà của nhân dân, các cháu ạ!
 
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Dân còn biết phẫn nộ, là phúc của dân tộc vẫn còn”


KDMột bài trả lời phỏng vấn rất hay của ông Lê Kiên Thành.  Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói tham nhũng là ghẻ, nhưng nếu ghẻ khắp người mà chúng ta chặt hết đi thì cơ thể của chúng ta sẽ chết. Đó là cách làm vô ích. Mà cái ghẻ của chúng ta là cái ghẻ từ trong nội tạng. Chúng ta không thể vứt nội tạng của chúng ta đi, mà phải làm cái gì đó để thay đổi được gốc rễcủa căn bệnh- LKT”.

Chắc thay đổi được gốc rễ của căn bệnh không phải là quá khó. Vấn đề là … khó thay đổi  :D
Ảnh: Ông Lê Kiên Thành
Trong bất cứ lần trò chuyện nào với TS Lê Kiên Thành – con trai của cố TBT Lê Duẩn, tôi nhận ra mọi con đường đều đi về câu chuyện đất nước. Vận mệnh dân tộc là điều luôn ám ảnh ông. Những ngày Xuân này, khi Đảng tròn 84 tuổi, khi đất nước đang đối mặt với những thách thức lớn hơn bao giờ hết, câu chuyện đó càng trở nên nhức nhối….
PVNăm 2013 và những ngày đầu năm 2014, một trong những sự kiện mà cả nước quan tâm nhất chính là vụ xét xử đại án tham nhũng của Dương Chí Dũng và đồng bọn. Khi Dương Chí Dũng tiết lộ những thông tin chấn động , một đồng nghiệp của tôi đã bình luận: “Khi nghe về con số 500 nghìn USD hay 1 triệu USD Dương Chí Dũng khai, thú thật tôi sửng sốt. Những người nông dân thu nhập vài trăm nghìn đồng một tháng, thậm chí chưa từng nhìn thấy tờ 100 USD trong suốt cuộc đời mình có lẽ sẽ còn sửng sốt hơn tôi rất nhiều. Dù tham nhũng đang là quốc nạn của chúng ta, những người dân như tôi có lẽ vẫn sẽ bàng hoàng về những con số đó…”
TS Lê Kiên Thành: Tôi kể ra điều này thì có lẽ đụng chạm đến những bạn bè tôi đang làm quan chức. Nhưng một lần ngồi ăn cơm với một số quan chức, những điều tôi nghe được khiến tôi giật mình. Có vị quan chức hồn nhiên nói với tôi: “Này, ngày xưa tôi nghĩ 1 triệu đô là nhiều lắm”. Tôi nghe và hiểu rằng, à vậy thì với họ bây giờ 1 triệu đô rất bình thường. Như tôi làm doanh nhân, tôi nhìn 1 triệu đô vẫn thấy ghê gớm, rất ghê gớm. Để kiếm tiền trong sạch, đó là số tiền thực sự không dễ kiếm. Vậy mà câu nói này lại nói ra từ miệng một vị quan chức cấp vụ thôi – không hề cao, thì để hiểu rằng góc tối trong cuộc sống của một số quan chức chúng ta hiện nay như thế nào…
PV: Nếu vụ án này được làm sáng tỏ, người giúp cho Dương Chí Dũng bỏ trốn bị trừng trị đích đáng, tôi tin lòng dân sẽ được xoa dịu trong lúc đang vô cùng bức xúc như thế này. Nhưng trong trường hợp xấu hơn, nếu như vụ án đó lại chìm xuồng và đi vào im lặng thì điều gì sẽ xảy ra với lòng dân?
TS Lê Kiên Thành: Tôi chỉ sợ người dân sẽ nghĩ rằng đương nhiên nó phải thế và họ chấp nhận nó, thì đấy sẽ là thảm họa. Nếu chuyện đó xảy ra mà người dân phẫn nộ, thì phúc của dân tộc vẫn còn. Không biết có phải tôi bi quan hay không, nhưng nhiều khả năng người ta sẽ chấp nhận nó, như bao sự việc mà người ta đã chấp nhận trước đây. Vì chúng ta đã quá quen với những vụ án tham nhũng được xử một cách đầu voi đuôi chuột từ trước cho đến nay. Vì chúng ta đã chứng kiến quá nhiều vụ án cần phải xử nhưng cuối cùng lại không xử, hay cần phải xử nặng thì lại xử nhẹ. Sự nương nhẹ rất khó hiểu mà chúng ta làm với cuộc chiến chống tham nhũng đã làm tối đi đường lối lãnh đạo của chúng ta.
TS Lê Kiên Thành: Người ta đã nhạo báng và thách thức cả xã hội. Chuyện Dương Tự Trọng – em trai Dương Chí Dũng đứng trước tòa nói một cách thản nhiên “tôi không khẳng định nhưng cũng không phủ nhận” – đó là kiểu nói của của người hiểu pháp luật và thách thức pháp luật.
PVNhiều người nói cái xuống cấp nhất, cái đáng lo ngại nhất, cái đáng báo động nhất chính là nền tảng văn hóa của dân tộc đang bị lung lay ghê gớm. Ông có cùng chung suy nghĩ đó?
TS Lê Kiên Thành: Trong năm vừa rồi, điều rõ nhất tôi cảm nhận được là chưa bao giờ cái xấu và tội ác đến với chúng ta bình thản như thế này. Người ta nhìn nó thản nhiên, như là điều tất yếu. Có những người dùng cái ác và cái xấu để sinh tồn. Có những người nhìn nó thản nhiên một cách lạ kỳ.
Việc một tên cướp bị tuyên án tử hình vì chém đứt tay một người và trước đó đã chém 14 người, nhưng bà mẹ đẻ ra thằng bé đó không hề mảy may ân hận. Bà ta chửi bới cả xã hội và nghĩ rằng tại sao phải chém tay mà không chém đầu. Đó là hình ảnh đáng sợ nhất: hình ảnh một người mẹ biết quý con mà không còn coi sự sống của người khác ra gì. Đó là điều quá lạ lùng với xã hội này. Và người ta hay nói đến văn hóa, nói đến đạo đức xuống cấp cho những trường hợp này.
Nhưng những gì đang diễn ra ở đất nước ta hôm nay, có lẽ mình phải hiểu khác đi. Ví dụ, tại sao nhiều người có tiền mà vẫn tham nhũng khủng khiếp như vậy? Có lẽ đó không phải văn hóa. Người ta hay nói “bần cùng sinh đạo tặc” – nhưng nhìn vào xã hội mình, đúng là đạo tặc có một phần từ bần cùng đi lên, nhưng một phần đạo tặc lại sinh ra bởi những người không bần cùng.
Những quan chức phạm tội ác tham nhũng mà chúng ta thấy trong những năm qua, họ đâu phải là những người bần cùng? Hãy nhìn qua những vụ án gần đây nhất sẽ thấy rằng những người hiểu pháp luật, bảo vệ pháp luật, họ vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng và đầy tính toán, tính toán sao để khi người ta bị bắt, người ta chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng là: chứng minh đi. Tức là người ta đã chuẩn bị cho tình huống đó.
Người ta đã nhạo báng và thách thức cả xã hội. Chuyện Dương Tự Trọng – em trai Dương Chí Dũng đứng trước tòa nói một cách thản nhiên “tôi không khẳng định nhưng cũng không phủ nhận” – đó là kiểu nói của của người hiểu pháp luật và thách thức pháp luật. Hành động đó, ở một góc độ nào đó,  không khác gì câu chuyện ông bác sĩ ném xác bệnh nhân trong vụ thẩm mỹ Cát Tường mà báo chí nhắc đến gần đây.
Và đáng ngạc nhiên nữa là có những tờ báo chính thống bênh vực, thậm chí là ca ngợi Dương Tự Trọng. Điều đó làm tôi cảm thấy khủng hoảng và mất hết phương hướng. Những người đứng ra bảo vệ lẽ phải cho chúng ta, những người đáng lẽ phải bảo vệ chúng ta mà còn như vậy mà còn như vậy thì chúng ta sẽ phải tin vào cái gì?
Nếu nói hành động đó hiểu được – tôi đồng ý. Nhưng thông cảm được thì không. Nhưng những người chức vụ cao, những người nắm truyền thông mà đưa ra những định hướng bảo vệ con người đó, hay tiếc rẻ gì đó về họ, thì tôi hiểu rằng những cái xảy ra như thế này không thể là đơn lẻ. Tôi đang nghĩ rằng chúng ta đang bị “biến dạng” một cách tổng thể mà văn hóa chỉ là một phần. Khi những người làm ra pháp luật, đang góp phần bảo vệ pháp luật lại không coi pháp luật ra gì; khi một xã hội mà nguyên tắc sống ở trong đó không được tôn trọng, không được bảo vệ bởi những người  đáng lẽ phải tôn trọng nó nhiều nhất thì chúng ta sẽ phải gọi tên những ngày chúng ta đang sống đây là cái gì? Tôi không thể cắt nghĩa cho con cháu mình được.
Tôi có nghe một số phóng viên nói tốt về Dương Tự Trọng. Nếu đúng là Dương Tự Trọng là con người đáng khen như thế thật, vậy thì tôi tự hỏi cái gì ở trong cái guồng máy xã hội ta biến con người đó thành ra con người như thế này? Chắc phải gì ghê gớm lắm đang tồn tại trong guồng máy này mà cứ đưa một người tốt vào thì hỏng.  Đó là sự thất bại của chúng ta. Nếu đúng là điều đó đang tồn tại mà chúng ta không bình tĩnh tìm ra hết hoặc cố tình không đối diện hay giấu diếm nó thì nguy hiểm vô cùng.
TS Lê Kiên Thành: Nói ra, tôi biết sẽ có nhiều người không hài lòng. Nói ra tôi biết có thể ảnh hưởng không ít đến những người xung quanh mình. Nhưng là Đảng viên, tôi thấy mình không thể không nói.

PVĐể gọi tên được cái ghê gớm đó là gì có dễ không thưa ông?
TS Lê Kiên Thành: Tôi có rất nhiều người bạn đang làm chức vụ cao, nói thế này sẽ rất động chạm đến họ. Nhiều người cũng nói tôi sinh ra từ “cái lò” đó, tại sao lại nói ra những điều như thế này, nhưng nếu bình tĩnh mà suy nghĩ thì chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận điều đó thôi, đừng trốn tránh thêm nữa.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: Sự tồn vong của chế độ, sự tồn vong của Đảng đang đứng trước một thách thức cực kỳ lớn, lớn hơn cả thời kỳ Đảng phải trải qua một cuộc tàn sát trắng. Trong lịch sử Đảng đã từng ghi, có những lúc gần như không có một ông Trung ương ủy viên nào là không ở trong tù.
Có những thời điểm, ở nhiều địa phương, gần như không còn đảng viên nào. Nhưng chỉ cần còn một Đảng viên thôi, thì đó sẽ là tinh hoa của sự xả thân, là những người đủ sức mạnh kéo quần chúng đi theo. Chỉ cần một Đảng viên thôi – họ đã biết cách để trở thành đặc biệt trong mắt quần chúng. Còn đến giờ chúng ta có hơn 3 triệu Đảng viên. Nó đi xuống cả xã, cả phường, cả tổ dân phố, vậy mà chúng ta lại đứng trước quá nhiều thách thức. Điều đó quá đau lòng. Chúng ta nhất định phải đặt câu hỏi tại sao!
PV: Nhưng trong một vài năm trở lại đây, Đảng đã thể hiện quyết tâm chiến đấu với tham nhũng, với những bộ phận thoái hóa biến chất để bảo vệ sự tồn vong của Đảng?
TS Lê Kiên Thành: Chúng ta đã quyết tâm, nhưng sự quyết tâm đó chưa tới. Đất nước nào, xã hội nào bao giờ cũng có thiện, có ác, có tốt, có xấu, nhưng nó phải có một lằn ranh nào đó. Và cái xấu, cái ác phải trốn chui trốn lủi trong bóng tối như những tên trộm, tên cướp mới phải chứ?
Nhưng ở đất nước ta hiện nay, cái xấu đang trở thành cái đương nhiên mà cả người tốt và người không tốt đều chấp nhận nó. Khi cái xấu đã ngang nhiên tồn tại ngoài ánh sáng, nhơn nhơn diễu trên đường phố, len sâu cả vào lực lượng lãnh đạo, thì nghĩa là cách tổ chức xã hội của chúng ta đang không đúng! Sự vô cảm, thỏa hiệp của chúng ta trước cái xấu – điều đó theo tôi đáng sợ vô cùng. Nó làm triệt tiêu sự miễn dịch, triệt tiêu khả năng phản kháng của xã hội.
TS Lê Kiên Thành: Có người nói năm 2013 là cái đáy của khủng hoảng và 2014 mọi sự tốt đẹp sẽ đến. Nhưng tôi vẫn cho đó là sự lạc quan quá đà với những gì chúng ta đang có và đang chứng kiến trong thời điểm này, với rất nhiều vấn đề ta đang phải đối mặt.  
PV: Cha ông – cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là người giữ cương vị Tổng Bí thư lâu nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Vậy mà ông không ngại nói ra những điều này?
TS Lê Kiên Thành: Nói ra, tôi biết sẽ có nhiều người không hài lòng. Nói ra tôi biết có thể ảnh hưởng không ít đến những người xung quanh mình. Nhưng là Đảng viên, tôi thấy mình không thể không nói. Nếu mà can đảm, nếu mà thông minh, nếu mà thực sự vì dân vì nước thì sẽ phải nghĩ đến tận cùng của sự tồn vong. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói tham nhũng là ghẻ, nhưng nếu ghẻ khắp người mà chúng ta chặt hết đi thì cơ thể của chúng ta sẽ chết. Đó là cách làm vô ích. Mà cái ghẻ của chúng ta là cái ghẻ từ trong nội tạng. Chúng ta không thể vứt nội tạng của chúng ta đi, mà phải làm cái gì đó để thay đổi được gốc rễ của căn bệnh.
PV: Mùa xuân này, đất nước đã giải phóng gần 40 năm. Đảng cũng đã 84 tuổi. Nhưng chúng ta đang đối mặt với những khó khăn thực sự. Người Việt vẫn luôn hy vọng vào năm mới. Hy vọng của ông về đất nước những ngày sắp tới là gì?
TS Lê Kiên Thành: Có những điều kỳ diệu đã từng xảy ra cho dân tộc này: trong quá khứ khi chúng ta đang đói kinh khủng, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo chỉ trong một sự thay đổi nhỏ. Đó là điều kỳ diệu. Chúng ta thắng Mỹ cũng là kỳ diệu. Nếu chúng ta mạnh dạn thay đổi, điều kỳ diệu có thể sẽ xảy ra như trong quá khứ. Sức sống của một dân tộc là vô cùng thần kỳ, nếu chúng ta có những bước đi đúng.
Có người nói năm 2013 là cái đáy của khủng hoảng và 2014 mọi sự tốt đẹp sẽ đến. Nhưng tôi vẫn cho đó là sự lạc quan quá đà với những gì chúng ta đang có và đang chứng kiến trong thời điểm này, với rất nhiều vấn đề ta đang phải đối mặt. Tôi không sợ những cái đáy tự nhiên. Tôi sợ hơn cả là những cái đáy do chính chúng ta tạo thành. Và sẽ còn những cái đáy sâu hơn cái đáy này gấp nhiều lần nếu chúng ta không dừng lại. Đó mới là cái đáy khủng khiếp nhất.
Khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói đến sự tồn vong, tức là đã nói đến khái niệm sống và chết. Làm thế nào để chọn con đường sống chứ không phải là chết là điều quan trọng nhất Đảng phải làm lúc này. Sợ nhất là viễn cảnh chúng ta sẽ “chết” do sự tác động từ bên ngoài và khiến đất nước biến đổi mọi thứ theo hướng có lợi cho những lực lượng bên ngoài đó. Còn  nếu chúng ta tự thay đổi được để chọn con đường sống thì đó là phúc may cho dân tộc này…
————-

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc ở Châu Phi

Khoảng 5-7 năm gần đây, ở châu Phi, Tây Á liên tục xảy ra các cuộc khủng hoảng; thực chất là do Mỹ, Pháp và các cường quốc phương Tây khác ngầm đạo diễn để hóa giải những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các nước này và Trung Quốc. Trước đó, nhân cơ hội các nước phương Tây liên tiếp gặp khủng hoảng và bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố, Trung Quốc đã ồ ạt mở rộng địa bàn chiến lược tại 2 khu vực này và tại các khu vực khác như Nam Mỹ và Đông Nam Á, trong đó có cả ba nước Đông Dương, tuy nhiên, tại hai khu vực này xung đột quyền lợi với phương Tây là lớn nhất vì có dầu lửa. Trong bối cảnh bị Trung Quốc cướp mất địa bàn chiến lược và đã rảnh tay hơn vì chủ nghĩa khủng bố tạm bị đẩy lùi, các nước phương Tây đã phản công trở lại để giành địa bàn. Vì vậy, Trung Quốc bị nhừ đòn là điều dễ hiểu. Chỉ buồn là ở Đông Dương, Trung Quốc vẫn một tay che trời, tự do tung hoành như ông chủ. Bài này phân tích rất rõ hiện tượng trên, chỉ tiếc là không đề cập tới sự lộng hành của Trung Quốc ở Việt Nam.



Việc Thủ tướng Nhật Bản đi thăm đền Yasukuni, Trung Quốc huy động 43 vị đại sứ của mình trên khắp thế giới, đồng loạt đăng tải các bài viết trên báo chí toàn cầu, “dạy lịch sử” cho các quốc gia sở tại vế chiến tranh thế giới lần thứ 2, đã đành, nhưng việc ông Shinzo Abe đi thăm 3 nước châu Phi thì có gì mà Trung Quốc cũng phản ứng quyết liệt?

Trước hết hãy biết một điều, đó là có một cuộc chiến bí mật, đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc xung quanh việc kiểm soát và khai thác nguyên liệu của châu Phi đã và đang diễn ra quyết liệt. Sự quyết liệt của cuộc đối đầu này đã thể hiện tầm quan trọng của nguồn nguyên liệu châu Phi đối với sự sống còn của các nước này về phương diện kinh tế, đồng thời cũng qua đó họ khẳng định sức mạnh, vị thế của mình trên trường quốc tế.

No đòn

Trong năm 2008, Trung Quốc nhập khẩu 32% lượng dầu mỏ qua châu Phi trong khi Mỹ là 80%. Năm 2010 Trung Quốc trở thành nước tiêu thụ xăng dầu nhiều nhất thế giới, trên cả Mỹ trong khi chỉ nắm giữ 1,7% trữ lượng dầu mỏ thế giới mà nhu cầu tiêu dùng thì gia tăng một cách chóng mặt. Đến năm 2020, Trung Quốc sẽ phải nhập khẩu 10-15 triệu thùng/ngày. Đối với Bắc Kinh, dầu mỏ đã trở thành là “nổi ám ảnh quốc gia” thực sự.
Để khắc phục sự thiếu hụt trầm trọng đó, Trung Quốc triển khai trên toàn bộ các vùng chiến lược của thế giới một “chính sách ngoại giao tài nguyên”, thực hiện một loạt chính sách năng lượng mới. Và châu Phi là nơi mối quan tâm được tăng lên trong chính sách năng lượng của Trung Quốc, là “miền đất hứa” trong tương lai.

Đương nhiên, Mỹ cũng có chiến lược của mình và Châu Phi đã trở thành nơi sàn đấu cuộc chơi năng lượng quy mô lớn của 2 cường quốc kinh tế và quân sự Mỹ, Trung Quốc.
Trước thời điểm tháng 7/2011. Tại Libya, Mỹ và liên quân đã xóa bỏ chế độ Gaddafi khiến Trung Quốc mất trắng 20 tỷ USD (con số chưa chính thức) khi đầu tư ở đó về cơ sở hạ tầng, viễn thông và dầu lửa. Tình trạng giao tranh ác liệt trong thời kỳ Mùa xuân Ả rập 2011 cũng làm cho dự án này tới dự án khác bị bỏ trống khiến Trung Quốc bị thua lỗ nặng nề bởi hơn nửa đầu tư của Trung Quốc trong lĩnh vực dầu lửa ở nước ngoài là ở các khu vực bị coi là bất ổn, như Iran, Nigeria, Sudan, Nam Sudan và Venezuela.
Đây là những canh bạc đầy rủi ro, nhưng các thị trường chính đều đã bị các hãng phương Tây thống trị hoặc bị giới hạn sản lượng do các lệnh trừng phạt, khiến cho Trung Quốc không có mấy lựa chọn.

Rõ ràng là Trung Quốc không bao giờ coi Mỹ vô can trong chuyện này, tuy nhiên, trên “sàn đấu” Sudan mới thể hiện một cuộc đấu năng lượng quyết liệt rõ ràng nhất giữa Mỹ và Trung Quốc đã và đang diễn ra.

Dấu hiệu của cuộc chiến này với Trung Quốc là sợ hỗ trợ để giữ vững một quốc gia Sudan thống nhất, trong khi đó với Mỹ (và đồng minh Israel) thì phải chia tách đất nước Sudan, tạo ra một Nam Sudan độc lập.

Trung Quốc đã đầu tư lớn vào Sudan và trở thành đối tác quan trọng của Sudan. Sudan có rất nhiều dầu mỏ, chỉ riêng dầu mỏ nước này cũng đáp ứng 10% nhu cầu của Trung Quốc, có ngày như năm 2008, Trung Quốc nhập trung bình 800.000 thùng/ngày. Sudan là nước duy nhất ở châu Phi mà Trung Quốc tiến hành khai thác dầu mỏ bằng chính công ty của mình rất thành công. Vì vậy, dứt khoát Trung Quốc phải bảo vệ chế độ Khartoum, tức một Sudan thống nhất mà có chính phủ thân với Trung Quốc và thực sự họ đã làm đủ mọi cách để hỗ trợ chế độ Hồi giáo Khartoum Sudan.

Phía Mỹ, Sudan cũng là vùng lợi ích chiến lược năng lượng quan trọng của mình. Do đó, để có được nguồn dầu mỏ quan trọng này, ngăn chặn Trung Quốc vào Nam Sudan, việc của Mỹ là vô hiệu hóa chế độ Hồi giáo Khartoum thân Trung Quốc. Trong khi đó, Israel cũng coi Sudan là rất nguy hiểm vì có khả năng hỗ trợ khủng bố. Bộ trưởng nội địa Israel tuyên bố: “Chúng tôi phải làm sao để cho Sudan không ổn định lâu dài, chúng tôi duy trì cuộc xung đột ở Nam Sudan để Sudan không thể trở thành một cường quốc vùng ảnh hưởng đến châu Phi và trong thế giới Ả rập”.

Rốt cuộc, bằng bộ máy tạo ra sức mạnh quân sự, kinh tế, Mỹ và đồng minh đã phá vỡ Sudan. Tháng 7/2011, Nam Sudan, quốc gia thứ 193 của thế giới ra đời do ông Salva Kiir làm tổng thống.

Sự chia tách Sudan là một đòn đau của Trung Quốc khi 20 tỷ USD đầu tư vào Sudan trước đó trở nên vô ích. Đau hơn nữa là 80% lượng dầu mỏ của Sudan lại nằm ở Nam Sudan, vùng ảnh hưởng của Mỹ.

Một lần nữa Trung Quốc buộc phải làm lại từ đầu. Chuyến thăm Trung Quốc vào năm 2012 của Tổng thống Salva Kiir của Nam Sudan đã đem về 8 tỷ USD cho dự án cơ sở hạ tầng và dầu lửa. Trung Quốc như cơn say khát dầu, tung tiền tiếp tục đầu tư lớn vào Nam Sudan mà bất chấp điều gì đang chờ phía trước.

Những tưởng rằng tương lai sẽ có kết quả tốt đẹp như 10 tháng đầu năm 2013 thì bất ngờ Nam Sudan xảy ra nội chiến giữa các phiến quân ủng hộ Riek Machar, người vẫn là phó tổng thống của nước này cho tới khi bị cách chức hồi tháng Bảy vừa rồi với chính phủ của tổng thống Kiir. “Oái ăm” thay, một số mỏ dầu lớn nhất mà Trung Quốc đang hoạt động lại nằm ở các vùng thuộc kiểm soát của phiến quân.

Không rõ có bàn tay của Mỹ hay của lực lượng nào, chỉ biết rằng sản lượng dầu đã giảm 20% kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột ba tuần trước và hơn 300 công nhân Trung Quốc đã phải đi sơ tán. Bắc Kinh như đang ngồi trên đống lửa. 

“giận cá chém thớt”

Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đi thăm 3 nước châu Phi để cùng với Mỹ “đánh hội đồng” Trung Quốc mà Trung Quốc không nổi đóa mới chuyện lạ, Trung Quốc chưa táng tên lửa đạn đạo, tên lửa hạt nhân vào Tokyo là kiềm chế lắm rồi, là may cho Nhật Bản lắm rồi.

Phải công nhận rằng Trung Quốc đã có tầm nhìn xa khi đầu tư đến vùng chiến lược quan trọng châu Phi và có lúc Châu Phi như là sân sau của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc đã phạm sai lầm lớn khi quá tham lam, tàn bạo, thực hiện chính sách khai thác tài nguyên như kiểu “thực dân khai thác thuộc địa” khiến cho chính phủ và người dân bản xứ bức xúc, lên án.

Ngoại trưởng Mỹ bà H. Clinton trong chuyến thăm châu Phi tháng 6/2012 nói: “Chúng ta đã chứng kiến điều đó ở thời kỳ chủ nghĩa thuộc địa, khi các đế quốc dễ dàng đến, lấy đi nguồn khoáng sản tự nhiên, trả hậu cho các nhà lãnh đạo, rồi rời đi và khi họ bỏ đi, họ chẳng để lại gì nhiều cho người dân bản địa. Chúng tôi không muốn phải chứng kiến chủ nghĩa thực dân mới tại Châu Phi”.

Nói đâu xa, ngay tại ĐNA, Myanmar một thời là sân sau của Trung Quốc, nhưng chính hành xử theo kiểu “thực dân khai thác thuộc địa” của Trung Quốc đã buộc Myanmar đoạn tuyệt. Và gần đây nhất là Indonesia. Chính phủ và người dân bực tức vì Trung Quốc đến khai thác rồi chỉ mua khoáng sản thô đem về nước tinh chế đã buộc Tổng thống Indonesia quyết định nói “không” với xuất khẩu khoáng sản thô từ ngày 12/1/2014.

Rõ ràng là cũng không thể trách Trung Quốc chuyện này, vì để phát triển kinh tế thì ngay môi trường của chính quốc họ cũng sẵn sàng “phá” không tiếc cơ mà. Cho nên, chuyện “cướp, phá” ở châu Phi là bình thường.

Mỹ, trước đó và chuyến thăm châu Phi của Nhật Bản vừa rồi đã khai thác điểm yếu “thực dân mới” này của Trung Quốc để cạnh tranh với Trung Quốc về địa kinh tế cũng như địa chính trị tại châu Phi. Đương nhiên, châu Phi tin Mỹ, Nhật Bản hơn Trung Quốc vì chính sách đầu tư của Mỹ, Nhật Bản có trách nhiệm, có lợi, có sự quyến rũ hơn với chính phủ và người dân bản xứ.

Bởi vậy, Trung Quốc gay gắt chỉ trích, tố cáo Nhật Bản là kẻ “phá đám”, tố cáo Nhật Bản đang phục hồi chủ nghĩa quân phiệt, nhắc nhở tội ác năm xưa mà Nhật Bản đã gây ra để chính phủ các nước (họ quên lâu rồi) tránh xa Nhật Bản… là hợp với logic.

Điều thú vị là Mỹ, Nhật Bản vẫn tỏ ra lạnh lùng, tỉnh bơ, có vẻ như coi Trung Quốc la lối, cay cú, tức giận là chuyện đương nhiên và tỏ vẻ thích thú.

Việt Nam có câu: “Tham ăn thì dại ở” không biết có đúng với ai trên “sàn đấu” châu Phi?

bởi Ngoc Thong Le

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vua chúa ăn tết như thế nào?

Bữa tiệc Tết khiến nhiều người rùng mình của Từ Hy Thái Hậu

Cập nhật lúc 18:45 31/01/2014

Bữa tiệc Tết xuân Canh Tý (1874) tiêu tốn gần 400 lượng vàng. Trong nhiều món ăn, có 7 món độc đáo Từ Hy Thái Hậu dùng để chiêu đãi quan khách khiến không ít người rùng mình ghê sợ.

Từ Hy Thái Hậu.
Bữa tiệc Tết 7 ngày đêm
Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại cho đến ngày nay, chưa có yến tiệc nào linh đình, trọng thể, vĩ đại... bằng tiệc Xuân năm Canh Tý (1874) do Từ Hy Thái Hậu (Tây Thái Hậu), đời nhà Thanh Trung Hoa, tổ chức để khoản đãi phái đoàn Sứ Thần, tướng lãnh các quốc gia phương Tây. Trước sức mạnh quân sự hùng hậu của 8 nước phương Tây cùng liên minh đánh Trung Quốc, Từ Hy Thái Hậu nhà Thanh (Trung Quốc) tự hiểu rằng, con đường tốt nhất là dùng ngoại giao để giải quyết.
Thái thú Lý Hồng Chương được giao sứ mệnh gặp gỡ các sứ thần Tây phương. Mở đầu cho mối giao hảo này, một yến tiệc linh đình nhất đời Thanh được tổ chức vào Tết Nguyên đán năm 1874 với sự tham gia của các sứ thần nước ngoài tại Duy An Cung.
Thực khách gồm 400 người, thực đơn có 140 món, tiệc khai đúng 12 giờ đêm giao thừa năm 1874, kéo dài cho đến giờ Tý đêm mồng 7 tết. Chi phí bữa đại tiệc hết 98 triệu hoa viên Trung Quốc, tương đương 374 ngàn lượng vàng, được chuẩn bị trước 11 tháng 6 ngày, cần đến 1750 người phục dịch. Ngay từ rằm tháng 2 năm Quý Dậu (1873), mỗi tỉnh Trung Quốc được lệnh cử 10 đầu bếp xuất sắc nhất về kinh đô hội ý thảo thực đơn. Sau gần hai tháng hội ý, các đầu bếp đã thống nhất một thực đơn gồm 140 món, trong đó có 7 món cực kỳ đặc biệt. Trong 7 ngày đêm yến tiệc ấy, mỗi ngày chỉ dùng 1 món.
Quan khách nhận được thiệp mời từ 23 tháng Chạp năm Quý Dậu (1873), gồm 212 vị trong phái đoàn 8 nước liên minh nước ngoài cùng 188 công thần được tuyển chọn của triều Thanh.
Đêm 30 Tết, tất cả khách mời tề tựu tại Duy An Cung, cùng lúc ấy, Từ Hy Thái Hậu dự lễ trừ tịch ở Tôn Long Miếu. Sau ba hồi chiêng trống long phụng vang lên là hồi khánh ngọc báo tin Thái Hậu xuất cung.
Quan khách đồng loạt đứng dậy hướng về long kiệu - nơi Tây Thái Hậu ngự - do 8 vệ sĩ lực lưỡng khiêng. Lý Hồng Chương khom mình tới vén rèm long kiệu. Thái Hậu Từ Hy khẽ lách mình ra, gật chào quan khách.
Thái Hậu rực rỡ trong chiếc áo bào đỏ, có thêu rồng vàng uốn khúc, đầu đội mũ bình thiên, đến chỗ ngồi, phẩy nhẹ phất trần mời quan khách an tọa. Ba hồi chiêng trống vang lên, thay mặt triều đình nhà Thanh, thái thú Lý Hồng Chương phát biểu ý kiến về ý nghĩa buổi tiệc nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhà Thanh với các nước phương Tây. Thay mặt 8 nước, sứ thần nước Anh đáp từ. Ba tiếng ngọc khánh báo hiệu đại yến bắt đầu. Quan khách ngồi cách nhau khoảng thước tây. Sau lưng mỗi người có 2 nô tỳ nam và nữ phục dịch và món ăn thứ nhất được dọn lên.
Cứ ăn hết một món, nhạc lại tấu lên một bản. Dùng đúng 5 món, thực khách được uống một chén rượu thuốc nước có tác dụng tiêu thực. Rượu đãi khách cũng là rượu đại bổ. Nhà bếp dọn lên mỗi ngày 20 món, trong đó có một món đặc biệt nhất. Tiệc kéo dài 7 hôm phải có 7 món vô cùng đặc biệt đặc biệt trong tổng số 140 món. Cứ mỗi lần dùng một món mới là Thái Hậu lại gõ ngọc khánh, một viên nội giám lại vòng tay xướng tên món ăn.
Bảy món đặc biệt của Từ Hy
Sâm Thử (chuột sâm)
Sâm thử là chuột sâm, chuột nuôi bằng sâm. Theo đó, chuột mới đẻ đem nuôi trong lồng kính cho ăn toàn sâm thượng hảo hạng và uống nước suối, đến khi đẻ ra con thì lấy những con đó nuôi riêng cũng theo cách thức đó để cho sinh ra một lớp chuột mới, nhưng lớp chuột mới này vẫn chưa dùng được. Cứ nuôi như thế đến đời thứ ba, chuột mới thực là "Thập Toàn Ðại Bổ".
Ăn chuột bao tử như thế có nghĩa là ăn tất cả cái tinh hoa, bén ngậy, khôn ngoan của giống chuột cộng với tất cả tính chất cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh, tráng dương bổ thận của cây sâm - vốn được y lý Ðông phương đặt lên hàng đầu thần dược từ cổ chí kim trong trời đất.
Nguyên đại sứ Tây Ban Nha thuật lại, đến món ăn đặc biệt ấy thì có một ông quan đứng lên giới thiệu trước rồi quân hầu bưng lên bàn tiệc cho mỗi quan khách một cái đĩa con bằng ngọc trong đó có một con chuột bao tử chưa mở mắt, đỏ hon hỏn hãy còn cựa quậy - nghĩa là một con chuột bao tử sống. Bao nhiêu quan khách thấy thế chết lặng đi bởi vì nếu phải theo giao tế mà ăn cái món này thì... nhất định phải... "trả lại" hết những món gì đã ăn trước đó.
Mọi người nhìn nhau. Tây Thái Hậu cầm nĩa xúc con chuột bao tử ăn để cho mọi người bắt chước ăn theo. Con chuột kêu chít chít, người tinh mắt thấy một tia máu vọt ra. Hoàng đế Trung Hoa thong thả vừa nhai vừa suy nghĩ như thể muốn kéo dài cái thú ăn tuyệt diệu ấy, thấm nhuần trí óc và cơ thể. Ngài nói: - Mời chư vị.
Nhưng không một vị nào đụng đũa, cứ ngồi trơ ra mà nhìn. Tây Thái Hậu bèn cười rồi nói đùa: "Tôi tiếc không thấm nhuần được cái văn minh Âu Mỹ của các ngài. Nhưng riêng về cái ăn thì tôi thấy quả các ngài chậm tiến, không biết cái gì là ngon, là bổ. Về món đó, các ngài có lẽ còn phải học nhiều của người Á Ðông".
Không một ông nào trả lời, bởi họ không biết ăn chuột bao tử như thế là văn minh hay man dã.  Họ chắc chắn là chưa có một nước nào trên thế giới lại có một món ăn tinh vi, quí báu, cầu kỳ đến thế bao giờ. Ðại sứ Tây Ban Nha nhắm mắt lại để thưởng thức món ăn này nhưng vừa cho vào miệng cắn một cái thấy chuột con kêu chít chít, ông ta vội vàng chạy ra ngoài, lè ra, và một tháng sau còn chưa hết sợ.
Sau này, đem câu chuyện đó nói với mấy vị đông y sĩ, ông ta biết rằng người Âu Mỹ không biết ăn cái món ấy quả là "Chậm tiến" và mấy ông già còn cho biết thêm rằng chuột thường nuôi bằng sâm đã bổ hết sức rồi, nhưng nếu tìm được giống chuột chù mà nuôi bằng sâm theo cách thức nói trên thì còn bổ gấp trăm lần nữa...
Não Hầu (óc khỉ)
Vùng Thiên Hoa Sơn thuộc tỉnh Sơn Ðông có một rừng lê gọi là ngọc căn lê. Trái lê trị được các bệnh nhiệt uất, can thận và ho khinh niên.
Rừng lê có rất nhiều khỉ, chúng ăn hết cả trái. Nhờ ăn ngọc căn lê nên thịt khỉ nơi đây rất thơm ngon, lại chữa được bệnh loạn óc, tê liệt và bán thân bất toại.
Về dược tính, óc khỉ quí hơn thịt gấp bội. Dân chúng trong vùng tìm đủ cách bảo vệ rừng lê nhưng không có kết quả, bởi giống khỉ nơi đây đầu có ba xoáy, tinh khôn, né tránh người và bẫy rập một cách tài tình.
Tây Thái Hậu xuống chiếu phải bắt cho được 200 con khỉ trẻ, chưa thay lông lần nào, mỗi con được trọng thưởng 110 lượng vàng ròng. Con số này quá nhiều, thợ săn không đáp ứng đủ nên về sau Từ Hy phải giảm xuống còn 80.
Năm thực khách dùng một con. Khỉ mang về được nuôi bằng thức ăn tinh khiết, bổ dưỡng, ngoài ra còn được tắm gội sạch sẽ. Lại cho đóng 80 cái hộp tròn giống như cái trống nhỏ mở ra khép vào được, một mặt trống có khoét lỗ tròn vừa đủ diện tích cho cái đầu con khỉ ló lên kèm theo một cái gông làm con khỉ không thể cục cựa được.
Trước khi bắt đầu món ăn này, bầy khỉ được tắm rửa lần chót, xịt nước hoa thơm ngát và cho uống một loại thuốc để tất cả năng lực, tinh túy của con vật tập trung lên não bộ, óc khỉ vì lẽ ấy sẽ gia tăng chất bổ dưỡng bội phần.
Muốn cho các quan khách Tây phương bớt thấy sự dã man, ăn uống được mạnh miệng đồng thời làm cho món ăn mang ít nhiều ý nghĩa lịch sử, Thanh triều cho các chú khỉ vận triều phục, đội mão, vẽ mặt, mang râu, giống như một đại quan của triều đình, trên cổ đeo một tấm bản nhỏ ghi rõ tên họ, tuổi tác cùng quan chức thuở sinh tiền. Những con khỉ đó tượng trưng cho những nịnh thần, gian tặc... khả ố nhất, gian ác nhất, bị dân chúng oán ghét tận xương tủy như Tần Cối, Bí Trọng, Vưu Hồn, Bàng Hồng, Trương Bang Xương, Mao Diên Thọ... phải chịu chết để đền tội với đất nước, với nhân dân.
Khi tiếng khánh ngọc từ tay Tây Thái Hậu trổi lên để báo hiệu đến món não hầu thì nội thị dọn ra mỗi bàn một cái lồng chứa khỉ cho năm thực khách. Kế tiếp tên nội thị một tay gỡ mão một tay dùng búa bằng ngà nhỏ giáng cuống đầu khỉ. Ðộng tác này đã được tập luyện thuần thục từ trước để chỉ cần một búa duy nhất là đủ đưa con khỉ sang bên kia thế giới. Cùng lúc ấy nhạc đệm trổi lên và tên nội thị sẽ ngâm nga một câu theo tiếng nhạc, đại ý như: "Mao Diên Thọ đã thụ hình" hay "Tần Cối đã đền xong tội phản thần..."
Ðoạn tên nội thị lập tức dùng một tấm lụa bạch đậy kín toàn bộ cái đầu con khỉ, chỉ chừa một lỗ thật nhỏ vừa đủ đưa cái muỗng bạc vào múc khối óc khỉ. Não hầu được xối lên bằng nước sâm nóng hổi cho tái đi, bớt đỏ. Lúc thực khách vừa múc óc khỉ ra ngoài, nội thị dùng nĩa bạc gạt bỏ phần da đầu và những mảnh sọ bể để khách dễ dàng hành động.
Tượng Tinh (tinh khí của voi)
Trước hết chọn những tổ yến thật to và tốt lấy được từ các hải đảo ngoài khơi biển Nam hải, tẩy rửa cẩn thận rồi nấu trong nước thang nhân sâm và đường Chủng Càu Chỉ của Ðại Hàn. Lại hòa chung với nước lê Vân Nam - Tuyết Hồng Lê - và bột Kiết Châu Phấn, nấu khô lại rồi nặn thành hình những con voi, đoạn bỏ vào lò nung cho thật chín và chắc.
Tượng tinh là các nài voi đã lấy sẵn. Khi con voi làm bằng tổ yến được mang từ lò ra, đầu bếp sẽ khoét lưng voi một lỗ trống vừa đủ nhét vào một cái bóng cá voi đã ngâm thuốc bắc phơi khô. Tượng tinh được cho vào cái bong bóng cá (đã được ngâm thuốc bắc phơi khô) và con voi được đem đi chưng cách thủy. Lúc thưởng thức món này, thực khách dùng một chiếc kim vàng thọc vô bụng voi để chất nước nhờn chảy vào chén bạc rồi uống.
Sâm thử và tượng tinh bồi bổ cho lục phủ ngũ tạng, tỳ vị thêm mạnh mẽ lại trị dứt các chứng nhức mỏi và làm mắt sáng thêm ra.
Trư Vương (giống heo quí báu)
Giống heo này thịt thơm ngon và rất bổ dưỡng, ở vùng Phúc Châu nhờ ăn một thứ củ giống như củ Hoàng Tinh mọc quanh khu vực đồi núi Châu Tịch Xương tiếp cận. Củ này tên gọi Tích Vân Lang, chỉ sống tại địa phương, nếu đem trồng nơi khác, cẩn thận chăm sóc cách nào chúng cũng chết.
Thanh triều mang về 60 con heo, 20 con đực và 40 con cái, cho ăn toàn thức ăn đại bổ, uống toàn nước sâm. Heo mặc tình giao hợp rồi sinh đẻ, lớp heo mới ngày càng tinh khiết, tinh túy của sâm nhung. Heo đem đãi tiệc tuổi chưa đầy hai tháng, gọi là heo sữa.
Năm ngày trước đại tiệc, đầu bếp chọn 100 chú heo sữa thật béo tốt, không chọc tiết cũng không nhúng nước sôi để cạo lông mà đập chết rồi thui cho cháy lông. Bỏ hết ruột gan tỳ phế thận, thịt heo được cắt thành từng lát mỏng ướp với các dược phẩm trân quí trong 3 ngày liền trước khi chưng cách thủy. Lúc đem ra thết đãi thịt heo thơm ngon vô cùng. Xương lại mềm rục. Nhiều thực khách ưa thích món heo này vô cùng, họ nhắc nhở mãi về sau này trong các hồi ký, ký sự.
Phương Chi Thảo (cỏ Phương Chi)
Tương truyền Hoàng Ðế Khang Hy nhà Thanh khi còn sinh tiền rất háo sắc nhưng có tài y thuật cao cường. Vì vậy nên dù có hàng trăm phi tần vua vẫn khỏe mạnh do tự bồi dưỡng cường lực bằng dược chất. Nhưng lúc tuổi già vua mắc phải chứng bệnh khan háo trong ngũ tạng mà tự mình không chữa được, bao nhiêu nhự y đại tài của triều đình cũng bó tay, vua phải bố cáo tìm danh y, thần dược trong dân gian.
Ngày nọ, có một dị nhân xin yết kiến rồi móc trong người ra một bó cỏ rất lạ, rễ xanh, lá dài như lá hẹ nhưng màu đỏ tía, ngọn lại trắng. Vua biết là cỏ quí nên hỏi, dị nhân trả lời đó là cỏ Phương Chi mọc trên đỉnh Thái Hàng Sơn hướng về mặt trời, đặc biệt là cỏ này chỉ mọc trên một tản đá duy nhất, cao và chiênh vênh. Chỉ vào năm nhuần cỏ mới mọc và mọc một lần duy nhất nhân dịp Trung Thu, sống trong khoảng 30 đến 45 ngày, lúc gặp ngọn gió bấc đầu mùa thì lập tức bị khô héo.
Việc hái cỏ cũng rất công phu. Dắt theo một con ngựa toàn bạch lên đỉnh núi cao trước một ngày, đếi khi mặt trời mới mọc đem ngựa tới phiến đá cho an cỏ. Ngựa vừa ăn cỏ xong phải tức thì chém rụng đầu ngựa rồi mổ bụng lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô.
Cỏ Phương Chi khi ăn vào làm cơ thể mát mẻ đồng thời trị tuyệt các bệnh trầm kha hoặc hiểm nghèo. Trong đại tiệc do Từ Hi Thái Hậu khoản đãi, Phương Chi Thảo nấu chung với Long Tu (râu rồng). Thực khách ăn xong cảm thấy tinh thần vô cùng sảng khoái, cả tháng sau không khát nước cũng không mệt.
Sơn Dương Trùng (dê núi và dòi)
Tây Thái Hậu xuống chiếu đòi các thợ săn chuyên nghiệp tỉnh Hồ Bắc vào rừng mang về cho được một cặp sơn dương thật lớn.
Sau gần một tháng băng núi trèo đèo ở Thiểm Tây, đoàn thợ săn bắt được ba cặp dê rừng, trong số ấy ba con cái đều đang mang thai, được Tây Thái Hậu thưởng cho 50 lạng vàng mỗi con.
Dê rừng sau đó được thả trong một khu vườn rộng đầy cỏ non xanh tốt. Cỏ lạ nuôi dê có dược chất bổ dưỡng gan thận được vận tải đến mỗi ngày từ Vân Nam và Quảng Tây. Cỏ này tên là "đông trùng hạ thảo", bởi mùa hạ cỏ mịn như nhung còn sang mùa đông thì trong cỏ sinh ra một loại sâu ăn rất bổ. Bầy dê núi ăn cỏ quí có dược tính cùng với cỏ non, lá cây thuốc... nên sinh con khỏe mạnh và to lớn khác thường.
Ðầu bếp làm thịt 14 con dê núi tuổi chưa quá hai tháng, cạo lông, loại tim gan phèo phổi rồi cho mỗi con vào một thùng gỗ ngâm với rượu quí và nước gừng trong một ngày. Ngày thứ hai mang những chú sơn dương ra rồi ngâm chúng trong sữa tươi và nước sâm nhung. Ngày thứ ba dùng dùi vàng xuyên thủng qua gương sen và cuống hoa quỳ trắng (Phan bạch quỳ - hoa sen trắng của Ðại Hàn thường nở vào mùa đông) để cắm hoa vào mình sơn dương. Tiếp tục ngâm như vậy đến ngày thứ 10 thì trong các đóa hoa tự nhiên xuất hiện lúc nhúc những con dòi trắng nõn.
Ðầu bếp lấy dòi ấy chế biến thành món sơn dương trùng, trị các bệnh bán thân bất toại, tê liệt và lao phổi đại tài.
Trứng Công
Thế gian có câu "nem công, chả phụng" để chỉ hai món ăn thuộc hàng trân vị. Nem công dù hiếm quí những vẫn còn tương đối dễ kiếm, dễ làm so với trứng công, bởi thứ nhất loài công làm tổ ở những nơi xa xôi hẻo lánh, trên cành cao hay vách đá cheo leo, khó tìm ra được. Thứ hai là dù có tìm ra được chỗ công đang ấp trứng thì cũng không dễ gì đến gần ổ vì công rất hung dữ, chống cự kịch liệt và cuối cùng nếu thấy không bảo vệ được ổ trứng thì chúng đập bể nát hết chứ không để lọt vào tay ai.
Tây Thái Hậu sai người đi lấy trứng công nhưng chẳng ai làm được, bà rất phiền muộn. May thay có một vị tướng quân trẻ tuổi xin vào ra mắt và tâu rằng ông có người anh bà con ở Tứ Xuyên nuôi được bầy khỉ 100 con, thông minh lanh lợi, huấn luyện thuần thục, nghe được tiếng người, chuyên đi hái trà cùng với các dược thảo hiếm hoi, quí giá ở những vùng rừng núi xa xôi và hiểm trở. Ông tin rằng nếu tập luyện cho lũ khỉ chúng có thể lấy được trứng công.
Tây Thái Hậu nghe xong trong lòng hoan hỉ, truyền đem 1000 lạng vàng ròng cùng với 100 tấm gấm vóc Bạch cầu thượng hạng ban tặng cho viên tướng nọ làm lộ phí đi Tứ Xuyên lo việc kiếm trứng công, nếu xong việc sẽ thưởng thêm mỗi trứng 10 lạng vàng nữa.
Viên tướng nọ lãnh mệnh ra đi, cùng người anh bà con huấn luyện đoàn khỉ. Họ thành công, lấy được 500 trứng công, nhưng thiệt hại khá lớn, bầy khỉ bị công mổ chết hết một phần ba.
NL
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tiên đoán cho năm Giáp Ngọ

Thanh Trúc


 Năm mới Giáp Ngọ đã thực sự về với từng nhà, có lẽ ngoài những lời chúc tụng đầu xuân thì điều đáng nghe nhất vẫn là tiên đoàn lành dữ của 365 ngày trước mắt. Theo quan niệm “Có thờ có thiêng có kiêng có lành” của ông bà mình, Thanh Trúc mạn phép vấn kế một nhà nghiên cứu khoa chiêm tinh trong nước và một chuyên gia phong thủy ở ngoài nước để quí vị có thể đối chiếu:


Giáp Ngọ là năm của thánh Gióng, năm nay mệnh kim, kim sinh thủy và từ đó sinh ra tình yêu, sinh ra sự sáng tạo, sinh ra người nông dân...Nói chung mọi chuyện  rất tốt đẹp:

Năm Giáp Ngọ thì những ngày xuất hành tốt nhất là 30 Tết, ngày mùng 2 Tết, mùng 4 Tết và ngày mùng 6 Tết. Tức là những ngày chẵn của năm Âm Lịch này đều là ngày tốt cả. Và xuất hành thì tốt nhất của hướng đi năm nay là hướng đi về phía Nam.

Từ Hà Nội, giáo sư tiến sĩ khoa học Nguyễn Trường Tiến, viện sĩ Viện Hàn Lâm Kỹ Thuật  Công Nghệ Đông Nam Á, cũng là người thiêng về tâm linh với  kiến thức uyên bác về lịch sử và chiêm tinh, khẳng định như vậy:

Năm bắt đầu với chữ giáp và ngựa, như vậy sẽ có sự thay đổi của vận mệnh đất nước. Cách đây 60 năm, năm 54, có Điện Biên Phủ ở dưới đất,  rồi cách đây 42 năm có Điện Biên Phủ trên không. Thế  còn năm nay sẽ có Điện Biên Phủ của lòng người. Người Việt Nam sẽ biết đoàn kết lại để vượt qua các thách thức .

Bởi vì số phong thủy của năm nay, Giáp Ngọ, là số 6, tiến sĩ Nguyễn Trường Tiến lý giải tiếp:

Số 6 là số của Ngọc Hoàng, Kinh Dương Vương, số của Vua Hùng, cho nên con cháu sẽ biết tìm đường về với tổ tiên theo đúng ước vọng của các cụ.

Kim sinh thủy như vậy thì con người sẽ sống nhân ái hơn, sống nhân văn hơn và sống yêu thương hơn thì chắc ngọn lửa chiến tranh ngọn lửa khủng bố cũng bớt đi và con người sẽ tìm đến tình nhân ái ở phương Đông.

Năm nay là năm kim, vì thế tiến sĩ Nguyễn Trường Tiến ân cần khuyến cáo  mọi người không nên mua đất, không nên đổ tiền nhiều quá vào kinh doanh bất động sản:

Cũng không nên giữ nhiều tiền bạc làm gì vì năm kim mà giữ tiền thì cũng chảy ra nước, giữ đất thì nó cũng hóa thành kim, nên mang tiền để làm những chuyện gọi là xây dựng tình nhân ái.

Và nữa, hãy yêu đời, hãy có tầm nhìn xanh tức hãy có đôi mắt của một người thông tuệ  để thấy cuộc đời này thất đáng sống:

Tầm nhìn xanh là tầm nhìn của những con người có thể vượt qua không gian và thời gian, vượt qua giới hạn của chính mắt mình để có thể biết được quá khứ là cái gì và tương lai đi về đâu. Vì dụ như khi mọi lý thuyết đều xám xịt thì chỉ mỗi cây đời là mãi mãi xanh tươi.

Sau  khi cảm tạ, chúc Tết và  từ giã giáo sư tiến sĩ Nguyễn Trường Tiến, Thanh Trúc gỏ cửa ông Quảng Đức, chuyên gia phong thủy của vùng Washington miền Đông Bắc Hoa Kỳ.

Giờ khởi của năm Giáp Ngọ tức ngày đầu tiên, mùng Một, là ngày Nhâm Dần thuộc  tháng Bính Dần, giờ khởi đầu là Canh Tý. Tất cả đều là thiên can và địa chi của tứ trụ, đều là tương sinh cả, cho nên phải nói rằng năm nay là năm tương đối tốt lành so với các năm cũ.

Nói một cách khác, ít nhất trong vòng 12 năm qua thì năm Giáp Ngọ này là tương đối tốt nhất.  Liên quan đến nhà cửa  và tuổi tác ông Quảng Đức giải thích tiếp:

Tôi xin nói về tuổi tác trước. Năm nay là Giáp Ngọ có nạp âm là hành kim, mà kim trong ngũ hành tương ngộ là kim gặp kim thì được giàu sang phú quí, cho nên người nào mạng kim thì tương đối người đó làm ăn khá giả thuận lợi hơn những người khác.

Những người mạng thổ hoặc những người nào ở trong can nhà vuông vức người ta phải chạy vạy đôn đáo làm ăn khó khăn hơn chút xíu nhưng tương đối cũng khá giả cũng có ăn. Những ngôi nhà nhấp nhô hoặc những người mạng thủy coi như dễ dàng hơn tại  được 5 cái sinh, gọi là sinh nhập, thì  khá giả dể dàng hơn, gia đạo bình an hơn.

Riêng người mạng mộc thì bị khắc, tức là phải chạy vạy khó khăn, hoặc những người ở trong những ngôi nhà hình dài hình mộc, mộc nằm hay mộc đứng là bất lợi. Đặc biệt những người mạng hỏa ở những ngôi nhà nhấp nhô thì hỏa có thể khắc được kim, thì tài lộc đồi dào, làm ăn phát đạt.

Nói tổng quát năm nay là năm tốt, còn nói riêng về từng tuổi và riêng về từng nhà thì có những điểm phân biệt như vậy. Tuy nhiên nếu phân biệt theo hướng cửa và hướng nhà nữa thì còn nhiều chi tiết khác cần phải bàn, ông Quảng Đức khẳng định.

Thông thường mọi người tin là năm tuổi thì hay gặp chuyện xấu, nhưng theo chuyên gia phong thủy Quảng Đức thì không hẳn là như vậy:

Tùy theo năm tuổi thôi, tuổi Giáp Ngọ thì như hồi nãy tôi đã phân tích,  nó là một năm khá tốt lành. Nếu một năm bắt đầu khỏi ngày giờ tháng tương sinh với nhau là một năm tốt, cho nên người nào Giáp Ngọ thì tốt. Tuy nhiên tam sát  nằm ở Hợi, Tý và Sửu, cho nên  tháng Mười,  Mười Một và Mười Hai thì những người đó cuối năm Giáp Ngọ gắng tránh đầu tư hoặc khởi vào chuyện làm ăn lớn vì đại hao nằm ở đó.

Những người Giáp Ngọ nếu xuất hành thì phải cố gắng tránh hướng Tý nghĩa là hướng chính Bắc, để tránh cái đại hao tuế phá nằm ở đó. Năm Giáp Ngọ nói chung chỉ tháng Mười, tháng Mười Một, tháng Mười Hai và hướng chính Bắc là phải cố tránh.

Những người nào chưa có công ăn việc làm trong năm cũ thì năm nay có nhiều cơ hội hơn. Một năm mới thì tôi cũng xin phép để chúc mừng tất cả quí vị luôn.

Trong cuộc điện đàm vấn an đầu năm, hòa thượng Thích Tịnh Đức, viện chủ chùa Đạo Quang tại thành phố Dallas Fort Worth, Texas, Thanh Trúc được nghe ông đề cập một cách gián tiếp và hàm ý về tình hình Việt Nam năm Giáp Ngọ:

Dùng suy luận thì có thể hiểu được trong sự trị vì đất nước nếu mà làm theo lòng dân phục vụ cho dân, như ông cụ Lý Đông A hỏi cụ Phan Bội Châu  là sau này phải thực hiện chủ thuyết về tâm linh, chủ trương về duy vật hay chủ trương về tôn giáo, thì cụ Phan Bội Châu nói là không có duy gì hết mà chỉ duy dân. Tất cả đều làm cho dân, phục vụ cho dân thì người dân sẽ tùng phục và đất nước sẽ được yên ổn.

Còn nếu không thực hiện được lý tưởng “Duy Dân” thì đất nước ngày càng suy vi là điều không thể tránh khỏi, hòa thượng Thích Tịnh Đức kết luận.

Đầu năm, kính chúc quí thính giả vạn an, trường thọ,  hạnh phúc và đạt được những ước mơ ấp ủ trong tâm.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

Kẻ sĩ chỉ mơ có thế lày thui:

Xã hội thịnh trị: Tối ngủ không cần đóng cửa
 Cho đến bây giờ, tôi cũng cho rằng giấc mơ hóa rồng - trở thành một nước công nghiệp phát triển có thu nhập cao - tuy rất khó, nhưng xem chừng còn dễ đạt được hơn giấc mơ thịnh trị.

Ảnh minh họa. Nguồn: Zing.vn
Thi hào Nguyễn Công Trứ trong bài phú Hàn nho phong vị (Cái khoái của nhà nho nghèo) có câu: "Đêm năm canh an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ". Ngủ mà ngáy pho pho tất nhiên là một trong tứ khoái rồi, nhưng ngủ không thèm đóng cửa mà vẫn an giấc không lo sợ gì quả là sướng thật. Thật ra, cụ Nguyễn chỉ tự trào cho vui, cho thấy cái cốt cách phong lưu tiêu sái của ông thuở còn hàn vi mà thôi. 
Nhà ông quá nghèo, trong nhà có gì đáng giá đâu, nên tha hồ mở cửa cũng chẳng có chú đạo chích nào thèm bén mảng tới, chứ thời đó làm gì có chuyện nhà giàu dám bỏ ngỏ cửa ban đêm, ngay cả ban ngày còn chưa dám nữa là. Nhưng điểm đáng lưu ý ở câu phú này là cụ Nguyễn đã so sánh cái thong dong tự tại của một nhà nho nghèo rớt mồng tơi với cuộc sống an bình của đời thái bình thịnh trị, một sự so sánh hài hước, chỉ giống về hình thức nhưng khác xa về nội dung.

Thế nào là thời thái bình thịnh trị? Để mô tả một xã hội thái bình thịnh trị, người xưa chỉ sử dụng mười ba chữ ngắn gọn: "Của rơi ngoài đường không ai nhặt, tối ngủ không cần đóng cửa". 

Ngày trước, tôi không tin rằng một xã hội được gọi là thịnh trị lại có thể được diễn đạt đầy đủ bằng mười ba chữ đơn giản như vậy. Về sau, ngẫm đi ngẫm lại, mới thấy sự đúc kết này thật súc tích và sâu sắc. Quả thực, để xã hội đạt được những điều xem chừng đơn giản như mô tả trong mười ba chữ ngắn gọn này phải có những nỗ lực và thành tựu phi thường của Nhà nước và mọi người dân trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, luật pháp, giáo dục...

Chính vì những điều đó quá khó khăn, tôi đã hoài nghi tính xác thực của một xã hội gọi là thịnh trị. Liệu rằng trong những ngày xa xưa đã có một xã hội lý tưởng như vậy không, hay đó chỉ là một giấc mơ, một huyền thoại trong lịch sử của xã hội loài người? Cho đến bây giờ, tôi cũng cho rằng giấc mơ hóa rồng - trở thành một nước công nghiệp phát triển có thu nhập cao - tuy rất khó, nhưng xem chừng còn dễ đạt được hơn giấc mơ thịnh trị.

Chúng ta hãy thử xem mười ba chữ "của rơi ngoài đường không ai nhặt, tối ngủ không cần đóng cửa" hàm chứa những điều gì? Về mặt kinh tế, một xã hội được như thế trước hết phải là một xã hội sung túc, nhưng vì sự sung túc không xảy ra một sớm một chiều nên có thể xác định rằng xã hội này có một quá trình tăng trưởng kinh tế thành công lâu dài, thể hiện một năng lực điều hành kinh tế vĩ mô rất tốt của người cầm quyền. Hơn nữa, xã hội đó không chỉ giàu có mà sự phân bổ giàu có còn rất công bằng. Có thể suy đoán xã hội này phát triển tương đối đồng đều, khoảng cách giàu nghèo rất hẹp, mọi người đều có công ăn việc làm, nói theo thuật ngữ kinh tế hiện nay thì đó là một xã hội đạt được thăng bằng toàn dụng, tăng trưởng tốt cả về lượng lẫn chất. Trong xã hội đó, không có người dân nào đói nghèo, thiếu thốn, mọi người đều hài lòng về mức độ thụ hưởng cá nhân đối với đời sống vật chất và tinh thần, khiến cho lòng tham và sự đố kỵ khó phát sinh.

Những điều kiện kinh tế vừa nói có thể rất cần nhưng chưa đủ để tạo nên mười ba chữ của thịnh trị. Người ta thường cho rằng "bần cùng sinh đạo tặc" nhưng không có gì đảm bảo rằng khi giàu có, có việc làm với thu nhập cao sẽ không ai thèm nhặt của rơi, sẽ không ai trộm cắp. Những xã hội giàu có không thiếu, nhưng có bao nhiêu xã hội không có trộm cắp, tham nhũng? Những người giàu có không thiếu nhưng có bao nhiêu người không tham của cải tài sản người khác? Trong số những người "hôi bia" trên đường phố Biên Hòa hồi tháng trước, cũng có người đủ ăn, có nhà cửa, có công ăn việc làm đàng hoàng, vậy mà họ vẫn đi cướp bia dù biết đó là tài sản có chủ. Trong một xã hội như thế, làm sao dám ngủ mà không đóng cửa khi chuyện trộm cắp, tước đoạt của cải người khác không chỉ xảy ra ban đêm bởi dòng Đạo Chích.

Như vậy, không tham của rơi không phải là một hàm số của thu nhập mà là một hàm số của văn hóa, của ý thức pháp luật. Tôi nói ý thức pháp luật chứ không nói hệ thống pháp trị và tính cưỡng chế nghiêm minh của nó. Trong xã hội thịnh trị được diễn đạt bởi mười ba chữ nói trên, chúng ta không thấy bóng dáng của người công an cảnh sát và những luật lệ khắc nghiệt, vì những người công dân của xã hội ấy có một trình độ ý thức tự giác luật pháp rất cao. Luật pháp ở bất cứ xã hội nào, dù có nghiêm minh đến đâu cũng khó xử phạt hành động nhặt của rơi, nhất là khi hành động đó chỉ có trời biết, đất biết và người nhặt của biết. Như vậy việc tự chế không nhặt của rơi ngoài đường của người công dân trong xã hội thịnh trị không phải do sợ bị luật pháp xử phạt mà chính là do lương tâm họ ý thức được rằng tài sản đó không phải của mình, không phải do mình làm ra. Điều đó biểu lộ một nhận thức sâu sắc, một sự tôn trọng tự giác đối với một nguyên tắc luật pháp quan trọng: không ai có quyền hưởng lợi không duyên cớ. Nhận thức đó, sự tôn trọng đó không thể có được nếu dân trí không cao, và dân trí không thể cao nếu xã hội đó không có một hệ thống giáo dục tốt được phổ cập đến mọi người trên một nền tảng văn hóa đạo đức vững chắc có truyền thống lâu dài.

"Tối ngủ không cần đóng cửa" không chỉ cho thấy rằng không có nạn trộm cắp tài sản mà còn giúp phát hiện nhiều điều ưu việt khác. Nó cho thấy rằng cuộc sống riêng tư, tự do và nhân phẩm của mỗi người được tôn trọng bởi người khác và bởi cả nhà cầm quyền. Nó cũng cho thấy rằng mọi người dân biết phân biệt điều xấu điều tốt, biết phân biệt việc phải việc trái, có cuộc sống lương thiện, đạo đức, không bị lợi ích làm mù quáng. Trong một xã hội mà mọi người không tham lợi, tất có xu hướng thích làm việc nghĩa, như vậy có thể suy đoán rằng đó là một xã hội đoàn kết, biết tương trợ thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Hơn thế nữa, nó cho thấy mọi người dân có một niềm tin mạnh mẽ, vững vàng về cuộc sống an lành hạnh phúc mà họ đang hưởng, niềm tin vào chính họ, vào những người láng giềng, vào xã hội, vào bộ máy Nhà nước. Như vậy, không chỉ xã hội ổn định, trật tự mà lòng người cũng ổn định, bình an, điều đó thể hiện một trạng thái chính trị tốt đẹp được gọi là thượng chánh, hạ trị (trên ngay thẳng, dưới yên ổn). Trong một xã hội thịnh trị, chắc chắn trên có vua sáng suốt, biết lắng nghe và sử dụng những người tài giỏi, dưới có triều đình đều gồm những vị tôi hiền, có đạo đức, có năng lực, có kiến thức chân thật, liêm khiết, biết chăm lo cho đời sống nhân dân, biết cách bảo vệ lợi ích quốc gia và bờ cõi đất nước. Đó còn là một xã hội dân chủ. Vua không truyền ngôi cho con mà truyền ngôi cho người hiền tài, một đặc điểm ưu việt của thời thịnh trị Nghiêu Thuấn.

Một xã hội đoàn kết, đồng lòng, trên thuận dưới hòa, có nền kinh tế sung túc, có cuộc sống lễ nghĩa, có nền văn hóa và giáo dục tốt đẹp chắc chắn phải là một quốc gia cường thịnh khiến cho các nước lớn nhỏ, xa gần đều phải kính trọng, nể phục không dám dòm ngó xâm phạm đến một tấc đất, một ngọn cỏ. Như vậy, không cần phải dụng binh mà vẫn giữ được hòa bình lâu bền, đó mới chính là đạo trị quốc, bình thiên hạ của thánh nhân. Suy cho cùng, giấc mơ thịnh trị có hiện thực hay không cũng là do yếu tố con người.

Huỳnh Bửu Sơn (Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần)
Phần nhận xét hiển thị trên trang