Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

Hai quyển từ điển của GS Nguyễn Lân rất có hại cho tiếng Việt


LÊ MẠNH CHIẾN
ngominh blog 5.1.14

Theo BVN

I. Vài lời của tác giả nhân việc đăng bài lên mạng Internet
Bàì viết về hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt mà quý vị độc giả sẽ đọc dưới đây được viết theo lời nhắn nhủ từ một biên tập viên của báo Người Đại biểu Nhân dân (nay là báo Đại biểu Nhân dân). Trước đó, tác giả đã viết bài 170 sai lầm trong một cuốn từ điển và đã gửi cho tạp chí Thế Giới Mới để đăng nhiều kỳ, nhưng chỉ mới đăng được 6 kỳ (từ số 582 ra ngày 26/4/2004 đến số 587 ra ngày 31/5/2004) với 67 ví dụ thì bị dừng lại. Tác giả đã đến Văn phòng đại diện của tạp chí Thế Giới Mới ở Hà Nội để tìm hiểu sự tình và được một biên tập viên ở đó cho biết, đại ý như sau: “Bài này được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng trong một cuốn từ điển từng được nhiều người “có tiếng” ca ngợi.

Tuy nhiên, dẫu chưa nêu rõ ai là tác giả của quyển từ điển có hại kia nhưng nhiều độc giả đã phát hiện ra GS Nguyễn Lân, mà như ông đã biết, GS Nguyễn Lân được coi là một ngôi sao sáng của ngành giáo dục Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện”. Nghe vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giới Mới.

Dường như hiểu được khó khăn của tác giả trong việc công bố một bài mà một biên tập viên đáng kính của báo Đại biểu Nhân dâncho là “rất cần phổ biến rộng rãi”, người này đã nhắn tin qua nhà văn Vương Trí Nhàn và nhắc rằng do chức năng và khuôn khổ của báo Đại biểu Nhân dân, nên chỉ có thể đăng được bài ngắn mà thôi. Thế là tác giả phải gói ghém lại trong khoảng 4000 chữ, với 20 ví dụ về những lầm lỗi của GS Nguyễn Lân. Vì phải đụng chạm với một ngôi sao trong làng từ điển tiếng Việt (được trao tặng Giải thưởng nhà nước năm 2001 về khoa học và công nghệ cho “Cụm công trình về giáo dục học từ điển tiếng Việt”) nên tác giả phải “dè dặt”, bèn đặt tiêu đề là “Những quyển từ điển có rất nhiều sai lầm”. Trong khi đó, tác giả cũng gửi bài gần giống bài này (lấy những ví dụ khác) cho tạp chí Nghiên cứu và Phát triển với tiêu đềHai quyển từ điển có hại cho tiếng Việt thì được BBT tạp chí này thêm một chữ rất (trở thành Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt) và đăng ngay. Tạp chí Văn hóa Nghệ An số 56 (tháng 01/2005) cũng đăng bài này với tiêu đề ấy. Tác giả rất cảm ơn và thấy đúng là phải đặt tiêu đề như thế. Bởi vậy, ở đây, tác giả xin lấy tiêu đề như tạp chí Nghiên cứu và Phát triển đã sửa chữa giùm.

Cũng xin nói thêm về “số phận” của bài này sau khi được đăng trong hai số báo Người Đại biểu Nhân dân (số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005).

Sau khi bài này được đăng trên báo Người Đại biểu Nhân dânchừng hai tháng, nhân khi tác giả đến tòa soạn để nộp một bài khác (hình như là bài Chớ nên bịa đặt cứ liệu lịch sử nói về việc bịa đặt cứ liệu lịch sử trong sách Lịch sử Hà Tĩnh (nói rằng sáchĐường thư đã ghi chép việc “Mai Thúc Loan từng làm phu gánh quả vải tươi sang kinh đô Trường An”, mà tất cả các nhà sử học hàng đầu, được gọi là “tứ trụ” của giới sử học đều phạm phải) nên đã hỏi thăm về phản ứng đối với bài Những quyển từ điển… Tác giả được biết rằng tình hình ở đây tuy giống như ở tạp chí Thế Giới Mới (bài báo được hoan nghênh) nhưng có hơi khác một chút xíu. Số là ngay trong ngày 27/4/2005, nghĩa là khi bài báo mới in được một nửa, GS Nguyễn Lân Dũng đã gọi điện thoại đến tòa soạn (vì ông là đại biểu Quốc hội, được phát báo đến tận tay), cực lực phản đối việc đăng bài này, với lý do đại để nói rằng ”GS Nguyễn Lân là một nhân vật nổi tiếng đã “thành danh”, sao dám làm mất uy tín của ông? Ban biên tập đã trả lời đại ý là: “Vì thấy bài này viết rất chặt chẽ, có chứng cứ đầy đủ, rất có trách nhiệm và rất bổ ích nên chúng tôi đăng. Còn nếu đồng chí thấy có gì sai thì cứ viết bài phê phán, chúng tôi sẽ đăng ngay”. Từ đó đến nay đã gần 8 năm trôi qua mà vẫn không thấy GS Nguyễn Lân Dũng hoặc bất cứ ai vạch được điều gì sai trái của tác giả. Điều đó chứng tỏ rằng những sai lầm nghiêm trọng của GS Nguyễn Lân mà tác giả Lê Mạnh Chiến đã phê phán là hoàn toàn chính xác, không thể bác bỏ. Sự im lặng của GS Nguyễn Lân Dũng và của những người mê tín GS Nguyễn Lân là bằng chứng hùng hồn nhất để khẳng định điều đó.

Mặc dầu những người muốn phản đối bài báo này đều đành phải bó tay nhưng tác giả vẫn cảm thấy rất đáng buồn, bởi vì, tuy người ta vẫn luôn mồm nói câu “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nhưng báo Giáo dục và thời đại thì từ chối, không đăng bài nói về mối hại đối với tiếng Việt, Bộ Giáo dục thì coi như không có vấn đề gì xảy ra. Đặc biệt, GS Nguyễn Lân Dũng, một đại biểu Quốc hội được tiếng là thẳng thắn, cương trực, vì dân, v.v. thì lại cực lực phản đối bài báo rất cần cho dân, sau đó, liên tục cho tái bản hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt mà vẫn không có ai lên tiếng. GS tiêu biểu, được coi là chuyên gia hàng đầu về tiếng Việt, ngôi sao của ngành giáo dục thì như vậy, GS Đại biểu Quốc hội thì như vậy, Bộ Giáo dục thì như vậy, các trường đại học và cả một đội ngũ giáo sư đông đảo… tất cả đều thờ ơ với số phận của tiếng Việt như vậy, thử hỏi, làm sao mà nền giáo dục không “xuống cấp”, văn hóa không lụn bại, đạo đức không suy đồi? Tác giả tuy có quyền tự hào nhưng vẫn mang trong mình một nỗi đau khôn nguôi.

Bao giờ nền giáo dục nước ta mới hồi sinh?

Bài này được viết đã lâu nhưng chưa hiện diện trên mạng Intternet. Nhận thấy nó còn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, tác giả mong được các blogger cho phổ biến tới đông đảo độc giả. Sau đây là bài mà báo Người Đại biểu Nhân dân đã đăng ở số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005.

II. Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt

Mùa thu năm 2003, thầy giáo về hưu H.H.Phúc ở Hà Tĩnh có đưa cho chúng tôi xem một quyển từ điển giải nghĩa các từ Hán-Việt dày hơn 860 trang, mà theo thầy thì nó rất tồi tệ, rất có hại cho người sử dụng vì nó có quá nhiều sai lầm nghiêm trọng. Thầy đề nghị chúng tôi đọc và phân tích, phê phán những chỗ sai để cảnh báo trước toàn xã hội về tai hại của nó. Chúng tôi liền mở ra xem, lướt qua vài chục tờ ở vần A thì giật mình khi thấy ở từ ác ôn, soạn giả giải thích rằng ôn nghĩa là bệnh dịch. Thực ra, vốn là 惡 棍 ác côn, do sự biến âm chút ít mà thành ra ác ôn. Chữ côn có nghĩa gốc là cái gậy và nghĩa mở rộng là kẻ hư hỏng; nó có mặt trong các từ du côncôn đồ. Do đó, ác ôn là kẻ hư hỏng, gây nhiều tội ác. Lướt qua vài trang, gặp từ anh hùng thì thấy giải thích rằng hùngnghĩa là loài thú khỏe nhất. Tuy từ điển này không ghi chữ Hán, nhưng qua cách giải thích như vậy thì ta biết rằng soạn giả nghĩ đến chữ hùng (熊) nghĩa là con gấu. Nhưng, trong từ anh hùng 英雄 thì hùng (雄) nghĩa là người có tài trí kiệt xuất. Cách giải thích các từ tố ôn và hùng như thế chứng tỏ rằng soạn giả không hề biết chữ Hán (mặc dầu có thể đã từng đi học chữ Hán, nhưng “chữ của thầy đã trả hết cho thầy” rồi), mà chỉ đem lời đoán mò để giảng giải các từ ngữ Hán-Việt, may ra thì đúng. Lật vội mấy trang nữa, liếc vào từ đại sứ 大使, một từ rất quen thuộc, ta lại phải kinh ngạc vì ở từ này, chữ đại nghĩa là lớn (大) thì soạn giả lại giảng rằng đại nghĩa là thay thế (代).

Chỉ với ba ví dụ vừa nêu cũng đủ để kết luận ngay rằng quyển từ điển này không đáng tin cậy và rất có hại cho người sử dụng nó. Lúc bấy giờ, chúng tôi chưa biết ai là người biên soạn, vì quyển sách bị xé mất mấy trang đầu và vài trang cuối. Thầy H.H. Phúc bảo tôi: “Rồi ta sẽ biết tên sách và tên tác giả thôi, nhưng trước mắt, ông nên chiu khó đọc và phát hiện thêm nhều sai lầm trong đó để cảnh báo trước công luận về mối nguy hại do nó gây ra”. Tôi đồng ý với thầy vì thấy điều đó là cần thiết, hơn nữa, tôi cũng có chút tò mò, muốn biết soạn giả này liều lĩnh và vô trách nhiệm đến mức nào. Thế là tôi phải đọc tương đối kỹ hơn, và bước đầu đã phát hiện được khoảng 170 sai lầm trong cuốn từ điển này.

Tạp chí Thế Giới Mới từ số 582 đến số 587 (từ ngày 26.4. đến 31.5.2004 ) đã công bố bài 170 sai lầm trong một cuốn từ điển nhưng độc giả chưa biết tên cuốn từ điển đó. Bài ấy đã được đăng liên tiếp trong 6 kỳ mà chỉ mới nêu được 68 từ phạm sai lầm. Nhưng, như thế cũng đủ cho thấy nhiều sai lầm rất đáng sợ mà soạn giả đã phạm phải.

Sau đó, được một số độc giả mách bảo, chúng tôi đã xác định được rằng quyển sách chứa hàng đống sai lầm kia chính là Từ điển từ và ngữ Hán Việt của GS Nguyễn Lân (bản mà chúng tôi đã đọc là của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, HN, 2002). Một số độc giả còn cho biết thêm rằng những sai lầm mà chúng tôi đã nêu đều có mặt đầy đủ trong quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000), mà người biên soạn cũng chính là GS Nguyễn Lân. Chúng tôi đã đối chiếu hai quyển với nhau thì thấy rằng Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2112 trang) chứa gần như trọn vẹn cả Từ điển từ và ngữ Hán Việt (867 trang), cho nên, những từ bị giảng sai trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì đều có mặt trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cũng được đọc bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, trong quyển Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm của tác giả Huệ Thiên (do Nhà xuất bản Trẻ phát hành vào quý 3 năm 2004; bài này được in lại từ tạp chí Văn ở TP Hồ Chí Minh , số 6, tháng 9 và số 8, tháng 11 năm 2000), trong đó, tác giả chỉ mới ‘’đọc lướt’’ các vần A, B, C (chiếm 1/5 quyển sách) mà đã vạch ra được 117 điều “chưa ổn’’. Những ý kiến phê bình của ông Huệ Thiên rất xác đáng. Tuy nhiên, vì chỉ mới “đọc lướt’’ cho nên trong phần mà ông đã đọc qua vẫn còn những sai lầm nghiêm trọng chưa bị phát hiện. Từ đó, chúng ta biết rằng ngoài những sai lầm giống như ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt (mà chúng tôi đã tìm thấy hơn 200 trường hợp), Từ điển từ và ngữ Việt Nam còn chứa vô số sai lầm khác nữa, rất có hại cho việc học tập và giảng dạy tiếng Việt.

Như vậy, riêng GS Nguyễn Lân đã biên soạn ra hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt. Điều này làm cho nhiều người đau lòng, nhưng đó là sự thực không thể chối cãi. Với số lượng sai lầm nhiều đến mức ấy thì phải in thành sách hoặc đăng nhiều kỳ liên tiếp mới có thể tải hết được. Trong phạm vi một bài viết cho một lần đăng báo, chúng tôi chỉ có thể nêu vài chục ví dụ về những sai lầm nằm trong cả hai quyển từ điển kể trên để độc giả chứng giám.

1. ẩn lậu 隱漏

Theo soạn giả thì ẩn = giấu kỹ, lánh đi, ngầm; lậu = rỉ ra ngoài, vàẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra. Quả thật, trong chữ Hán, chữ lậu 漏 này có nghĩa là rỉ ra ngoài. Nhưng như thế thì các từ tố ẩn và lậu có vẻ như trái nghĩa với nhau, bởi vậy, giải nghĩa như vậy là không thoả đáng, mà có thể nói là sai. Chữlậu còn có vài nghĩa khác nữa, mà trong trường hợp này nó có nghĩa là lọt, là thoát (lậu võng nghĩa là lọt lưới), cũng là trốn tránh mà thôi. Vậy ta có thể nói rắng, ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, là lẩn tránh. Soạn giả định nghĩa rằng ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra là để “khắc phục” điều mâu thuẫn mà ông cũng nhận thấy như chúng tôi chăng, nhưng, không thẳng thắn nói ra nghĩa là nói một cách ấp úng vì sợ sệt, hoặc là ở trong tình thế không thể giấu giếm được nên đánh phải nói ra chứ đâu có phải là ẩn lậu.

2. bàn hoàn 盤桓

Từ bàn hoàn có hai nghĩa: a) quanh quẩn không dứt ra được; b) quấn quýt với nhau. Giải thích như thế cũng tạm được. Về các từ tố, soạn giả cho rằng bàn là quanh co, hoàn là uốn éo. Thực ra,bàn 盤 nghĩa là vòng vèo, còn chữ hoàn 桓 này có các nghĩa như sau: a) cột gỗ dựng bên cạnh các dịch trạm (tức là trạm chuyển công văn) hoặc các công thự để quy định vị trí đứng đợi. Như vậy, từ bàn hoàn 盤桓 có nghĩa ban đầu là đi lại quanh quẩn cái cột mốc để mong ngóng. Về sau, nó có nghĩa mở rộng là bồi hồi, vương vấn, và quấn quýt.

3. bắc thần 北辰

Bắc thần nghĩa là sao bắc cực. Chữ thần 辰 này có nhiều nghĩa, trong đó, có nghĩa là thiên thể, là tinh tú, là ngày tháng, là đế vương (khác hẳn với chữ thần 臣 nghĩa là kẻ bề tôi hoặc chữ thần神 trong từ tinh thần 精神). Trong trường hợp này, thần 辰 có nghĩa là ngôi sao. Nó còn có âm là thìn để chỉ ngôi thứ 5 trong 12 ngôi địa chi (tí, sửu, dần, mão, thìn, tị…). Soạn giả đưa ra một định nghĩa rất dài dòng: bắc thần là ngôi sao sáng hình như đứng yên một chỗ trên bầu trời và giúp ta xác định hướng chính bắc. Ðịnh nghĩa này không sai nhưng quá rườm rà. Ðiều không thể tha thứ được là ông đã “phán” bừa rằng thần nghĩa là tinh thần.

4. bị cáo 被告

Bị cáo là người bị tố cáo và bị toà án đem ra xét xử. Soạn giả đã hiểu đúng nghĩa của từ này, nhưng thật đáng ngạc nhiên khi thấy ông giải thích rằng cáo nghĩa là báo cho biết! Nếu đúng như vậy thì từ bị cáo chẳng liên quan gì với việc báo cho biết. Ðành rằng chữ cáo 告 cũng có nghĩa là báo cho biết, nhưng nó còn có một số nghĩa khác nữa, mà cụ thể ở đây làbuộc tội, vạch tội.

5. bức xạ 輻射

Theo soạn giả, bức nghĩa là bắt buộc, xạ nghĩa là bắn; bức xạ là sự phát và truyền năng lượng dưới dạng sóng và dạng hạt. Có thể chấp nhận định nghĩa này về bức xạ. Nhưng soạn giả đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi ông đoán liều rằng bức nghĩa là bắt buộc. Chữ bức 輻 ở đây (khác hẳn chữ bức 逼 là bắt buộc) có nghĩa gốc là nan hoa ở bánh xe, và có nghĩa mở rộng là toả ra khắp mọi phía xung quanh.

6. cử tọa 擧座

Về từ tố cử, soạn giả nêu ra các nghĩa: cất lên, đưa lên, nổi dậy, thi đỗ; còn tọa thì có nghĩa là ngồi. Thực ra, chữ tọa 座 ở đây có nghĩa là chỗ ngồi (khác với chữ tọa 坐 nghĩa là ngồi). Về chữ cử, ngoài vài nghĩa mà soạn giả đã nêu, còn có nhiều nghĩa khác, trong đó có nghĩa là tất cả., và đó chính là nghĩa của nó trong từcử tọa. Vì thế, cử tọa nghĩa là tất cả những người ngồi dự một cuộc họp

7. dạ hợp 夜合

Theo lời soạn giả thì dạ = ban đêm; hợp = thích hợp; và dạ hợp là một loài cây cùng họ với ngọc lan, hoa trắng rất thơm, nở về ban đêm. Cách cắt nghĩa từ tố hợp như trên đã khiến ông tin rằng dạ hợp nghĩa là thích hợp với ban đêm nên loài hoa này ắt phải nở về đêm! Ðó là một điều sai nghiêm trọng. Ðúng là chữ hợp 合 có một nghĩa là thích hợp, là phù hợp, nhưng nó còn có nhiều nghĩa khác nữa. Trước hết, nghĩa ban đầu của nó là khép lại, mà đó cũng chính là nghĩa cụ thể trong từ dạ hợp 夜合. Từ điển Từ nguyên nói về cây dạ hợp như sau: “mộc bản, diệp trường, hoa thanh bạch sắc, hiểu khai dạ hợp, cố danh”. Nghĩa là: thân gỗ, lá dài, hoa màu trắng xanh, trời sáng thì nở, ban đêm thì cụp lại, do đó mà có tên ấy. Như vậy, vào ban đêm, hoa dạ hợp không thể nở được, dẫu đã nở rồi cũng phải cụp lại.

8. Ðịa Trung Hải 地中海

Ðịa là đất, là lục địa; trung là ở trong, ở giữa; hải là biển. Ðịa Trung Hải là biển ở trong lục địa. Tuy nhiên, từ này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển cụ thể, có diện tích 25 triệu km2, nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi, phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển Ðỏ qua kênh đào Suez. Ðiều đáng ngạc nhiên là sau khi giải thích rằng Ðịa Trung Hải là biển ở giữa lục địa, soạn giả đưa ra một câu ví dụ: Biển Caxpiên của Liên xô là một địa trung hải. Như vậy, ông đã không định nghĩa được từ Ðịa Trung Hải, lại còn dùng từ này như một danh từ chung, với nghĩa là cái hồ lớn. Hơn nữa, biển Caxpiên còn có 43.200 km2 thuộc chủ quyền của Iran chứ không hoàn toàn thuộc Liên Xô trước đây.

9. đồng lõa 同伙

Có lẽ ai cũng biết rằng từ đồng lõa có hai nghĩa: 1) người trong cùng một nhóm để làm một việc bất chính (danh từ), và 2) cùng tham gia một nhóm làm việc bất chính (động từ). Soạn giả dạy rằng lõa là cái bọc. Thực ra, lõa là âm đọc chệch từ chữ hỏa 火 nghĩa là lửa, là bếp. Theo binh chế thời xưa, mười người lính thì cùng nấu một bếp, tạo thành một hỏa, như một tiểu đội vậy. Đồng hỏa 同伙 (chữ hỏa 火 ở đây thường được viết là 伙 để chỉ người) nghĩa là người trong cùng một bếp ăn, mở rộng ra là bọn người cùng một nhóm “làm ăn với nhau” (thường là bất chính.)

10. giám quốc 監國

Soạn giả cho biết: giám nghĩa là trông coi, quốc là nước. Đúng. Nhưng ông định nghĩa rằng giám quốc là người đứng đầu một nước cộng hoà tư sản thì sai to. Càng sai nữa khi ông viết rằngNgày nay người ta dùng từ “tổng thống” để thay từ “giám quốc”. Thực ra, giám quốc là người cầm quyền tạm thời khi vua vắng mặt hoặc khi vua còn nhỏ. Ví dụ, năm 1908, Phổ Nghi lên ngôi khi mới hai tuổi, đình thần nhà Thanh đã cử cha của ông ta là Tải Thuần làm giám quốc. Cuối năm 1787, tướng của Nguyễn Huệ là Vũ Văn Nhậm ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận (chú của Lê Chiêu Thống ) làm giám quốc vì Lê Chiêu Thống đã chạy khỏi kinh thành để cầu cứu quân Thanh. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, ông vẫn để Lê Duy Cận làm giám quốc.

11. kinh lạc經絡

Soạn giả cho biết rằng chữ kinh 經 có các nghĩa: sửa trị, đường dọc, sách vở, từng trải, thường. (Chúng ta hiểu rằng trong từ kinh lạc, thì kinh có nghĩa là đường dọc). Còn chữ lạc thì ông cho rằng đó là dây thần kinh, và kinh lạc là hệ thống dây thần kinh nối liền các huyệt. Nhưng, theo từ điển Từ Hải thì kinh lạc là mạng lưới các đường vận chuyển khí huyết (theo quan niện của Đông y, gần có nghĩa như năng lượng) trong cơ thể. Kinh 經là những đường chính chạy theo chiều dọc của cơ thể; lạc絡 là những đường nối ngang giữa các đường dọc ấy; các huyệt châm cứu đều nằm trên mạng lưới kinh lạc. Hệ kinh lạc khác hẳn hệ thần kinh, và các đường kinh lạc không trùng với các dây thần kinh.

12. linh sàng 靈床

Linh là thiêng liêng, là liên quan đến người chết; sàng là cái giường. Các từ tố này đã được soạn giả giải nghĩa đúng. Nhưng ông cho rằng linh sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn. Nếu như vậy thì phải chăng Nguyễn Du đã dùng sai từ này ở hai câu thơ trong Truyện Kiều:

Sang nhà cha, tới trung đường,/ Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.

Thật ra, từ linh sàng có hai nghĩa: 1) giường đặt thi thể người chết khi đám tang; 2) cái bàn nhỏ đặt trước bàn thờ, làm “chỗ nghỉ” cho linh hồn người chết khi chưa hết tang. Đó chính là cái “giường thờ”, rồi từ đó, dân ta cũng gọi cái bàn thờ là “giường thờ” khiến nhiều người, kể cả những người biên soạn từ điển tiếng Việt đã định nghĩa: “giường thờ” là bàn thờ tổ tiên, cao và rộng! (Hoàng Phê). Trong hai câu thơ trên đây, linh sàng mang nghĩa thứ hai.

13. lộng hành 弄行, lộng quyền 弄權

Lộng hành nghĩa là hành động một cách coi thường mọi người.Lộng quyền nghĩa là đem quyền hành ra làm trò đùa, muốn làm gì thì làm, chẳng kể gì đến phép tắc luật lệ. Chữ lộng 弄 có một số nghĩa thông thường là: chơi đùa; đem sự vật khác hoặc sự việc khác ra làm trò đùa; khinh nhờn, coi thường. Với nghĩa như thế, người ta còn có từ lộng nguyệt, nghĩa là chơi đùa với trăng, tức là vui chơi dưới ánh trăng, lộng ngôn là nói năng bừa bãi, thích nói gì thì cứ nói, và lộng bút nghĩa là viết lách vô trách nhiệm, không biết cũng viết bừa, coi thường mọi người. Tiếc thay, soạn giả chỉ nắm được nghĩa sơ sài của các từ lộng hành và lộng quyền rồi suy ra rằng lộng nghĩa là lấn át. Chưa kể đến hàng trăm trường hợp giảng giải liều lĩnh khác, chỉ riêng trường hợp này cũng đã đủ cho phép mọi người coi ông là một kẻ lộng bút.

14. lưu chiểu 留照

Soạn giả giảng rằng lưu = giữ lại; chiểu = văn bản; và lưu chiểu là tác phẩm văn nghệ nộp cho cơ quan lưu trữ của nhà nước để làm tài sản chung. Nhưng, chẳng có chữ chiểu nào có nghĩa là văn bản cả. Hơn nữa, chúng ta biết rằng chữ chiểu ở đây chính là biến âm của chữ chiếu 照, tức là đối chiếu, là so sánh để phát hiện thật hay giả hoặc đúng hay sai. Lưu chiểu là giữ lại bản mẫu của văn bản đã lưu hành để so sánh, kiểm tra khi cần thiết. Mục đích chính của việc lưu chiểu là như thế chứ không phải để làm tài sản chung. Soạn giả đã không hiểu chữ chiểu và cũng không hiểu gì về từ lưu chiểu.

14. lỵ sở治所

Lỵ sở là trung tâm hành chính của một địa phương. Nhưng thật là sai lầm khi soạn giả đoán rằng lỵ là đến nơi. (Chữ này có mặt trong từ lỵ nhậm 蒞任, nghĩa là đến nơi nhậm chức). Ông không biết rằng lỵ sở vốn là trị sở治所 nhưng bị đọc chệch đi và đã trở thành thói quen. Lỵ ở đây chính là trị 治, nghĩa là cai quản, điều hành công việc, và cũng dùng để gọi tắt từ trị sở.

15. thôi thúc 催促

Từ này tưởng là quá đơn giản, thế mà soạn giả đã giảng sai. Theo ông, thôi nghĩa là thúc giục, và thúc nghĩa là buộc. Thực ra, chữthúc 促 này có nghĩa là giục giã, là đòi phải tăng tốc, như trong từđốc thúc, khác với chữ thúc 束 nghĩa là buộc. Chữ thúc trong từthôi thúc cũng có âm là xúc, và có mặt trong từ xúc tiến.

16. thế nghiệp 世業

Soạn giả đã giảng rằng thế nghĩa là quyền lực hoặc trạng thái (có dạng chữ Hán là 勢), nghiệp nghĩa là nghề, và thế nghiệp là chức vụ do cha ông để lại trong thời phong kiến. Thực ra thế 世 nghĩa là đời, nghiệp 業 là sự nghiệp hoặc sản nghiệp. Thế nghiệp 世業 là sự nghiệp hoặc tài sản do đời trước để lại. Các bộ từ điển đáng tin cậy đều định nghĩa như thế.

18. trữ tình 抒情

Vì không biết “mặt chữ” mà chỉ phỏng đoán theo cảm tính nên soạn giả đã giảng giải rằng trữ là chứa chất, tình là tình cảm; trữ tình là chứa chất tình cảm. Thật là sai lầm nghiêm trọng. Nên nhớ rằng ở đây, trữ 抒 nghĩa là biểu đạt, là bày tỏ. Trữ tình nghĩa là bày tỏ tình cảm. Cần phân biệt chữ trữ 抒 này với chữ trữ 貯 trong từ tích trữ.

19. vi điện tử 微 電 子

Vi điện tử là hạt điện tử rất nhỏ, đó là cách giải thích của soạn giả, khiến người đọc buồn cười. Điện tử, tức electron, là một loại hạt cơ bản bền vững, là hạt tích điện âm trong mọi vật chất thông thường, có khối lượng bằng khoảng 9,11 x 10-28gram và điện tích khoảng -1,602 x 10-19 coulomb. Như vậy, điện tử có khối lượng và điện tích rất cụ thể, làm gì có thứ điện tử rất nhỏ khác nữa?

Từ vi điện tử vốn được dịch từ tính từ microelectronic(al) trong tiếng Anh (hoặc micro-electronique trong tiếng Pháp), nó chỉ có thể đóng vai trò tính từ, như trong các cụm từ như mạch vi điện tử, thiết bị vi điện tử, v.v. để chỉ mạch điện tử hoặc thiết bị điện tử có kích thước cực kỳ nhỏ bé.

20. viễn phố 遠浦

Soạn giả giải thích rằng viễn = xa; phố = chỗ bán hàng, nhà trạm; và viễn phố = nơi ở xa. Rồi ông trích dẫn câu thơ Gác mái, ngư ông về viễn phố… của Bà huyện Thanh Quan. Ông không hiểu rằng ở đây, phố 浦 nghĩa là bến sông chứ không phải phố 鋪 là cửa hàng. Viễn phố 遠浦 nghĩa là bến sông ở xa. Bà huyện Thanh Quan ở thế giới bên kia hẳn phải nổi giận và vô cùng đau lòng cho đất nước nếu bà biết rằng có một nhà biên soạn từ điển tiếng Việt ở cuối thế kỷ XX đã giảng giải thơ của bà như thế.

Vài chục thí dụ trên đây chỉ là một phần mười của những sai lầm mà chúng tôi đã phát hiện được trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt, mà cũng nằm cả trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân. Đương nhiên, vì Từ điển từ và ngữ Việt Nam chứa trọn nội dung của Từ điển từ và ngữ Hán Việt và còn thêm rất nhiều từ ngữ khác ít liên quan đến Hán ngữ nên nó còn phạm vô số sai lầm khác mà tác giả Huệ Thiên đã cho thấy một phần qua bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân.

Qua những thí dụ này, chúng ta thấy soạn giả Nguyễn Lân luôn luôn sẵn sàng “sáng tác” nghĩa cho các từ tố; hơn nữa, ông lại rất thiếu kiến thức về văn hóa, lịch sử và khoa học. Nếu trong đời một giáo viên đứng trên bục giảng mà một hai lần phạm vài sai lầm như những trường hợp kể trên thì cũng trở thành trò cười và mang tiếng cả đời rồi. Huống chi, từ điển là sách cung cấp những hiểu biết chính xác về từ ngữ, ở đây là từ ngữ tiếng Việt, mà phạm đến vài trăm sai lầm lớn như thế, sao có thể chấp nhận được?Một thực tế rất đáng buồn là Từ điển từ và ngữ Hán Việt chứa nhiều sai lầm nghiêm trọng như vậy nhưng sau lần xuất bản đầu tiên năm 1989 (Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh), nó đã được tái bản nhiều lần. Vì thế nên đến năm 2000, GS Nguyễn Lân lại cho ra đời quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam lớn hơn và càng nhiều sai lầm hơn. Đặc biệt, Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì được GS Lê Trí Viễn coi là cuốn từ điển Hán Việt tốt nhất từ trước đến nay, và nó sẽ là công cụ tra cứu không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của từ và ngữ Hán Việt trong tiếng Việt hiện nay. Còn về giá trị của Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì GS Vũ Khiêu cho rằng “trí tuệ và tâm huyết của tác giả đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang mong đợi” (theo Lời giới thiệu).

Khỏi phải bàn về tính khả tín của hai vị giáo sư này.


L. M. C.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

38 người Việt được đưa khỏi Tacloban bởi 1 người… không tổ quốc

38 người Việt được đưa khỏi Tacloban bởi 1 người… không tổ quốc

Sổ tay phóng viên
Ngọc Lan/

MANILA, Philippines (NV) - Tôi gọi anh là “người không tổ quốc”, vì dù đã 13 năm anh sống nhờ ở đậu trên đất Phi, nhưng không được công nhận quốc tịch Phi, không được làm công dân Phi, và đau đớn hơn, anh cũng không còn một quê hương chôn nhau cắt rốn để quay về.


Hoàng Văn đang trao quà cứu trợ cho người dân Philippines. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)


Bởi lẽ...

Anh là người tị nạn chính trị... một cách bất đắc dĩ.

Thế nhưng, người đàn ông tưởng chừng nhỏ thó đó lại chính là người đã không quản công trong suốt một tuần rong ruổi ở vùng tâm bão Tacloban, Philippines để tìm kiếm và đưa 38 người Việt Nam ra khỏi nơi nguy hiểm này, sau khi cung cấp cho họ tiền bạc đủ làm hành trang tìm cái ăn và phương tiện di chuyển trong một thời gian ngắn.

Anh tên là Hoàng Văn, một trong những thiện nguyện viên của tổ chức VOICE, nơi đảm nhận trách nhiệm chuyển tiền cứu trợ của đồng bào hải ngoại đến tận tay những người cần giúp đỡ trong cơn nguy khó bị gây ra bởi cơn bão lịch sử Haiyan.

“Người ta cần thì mình đi thôi” 

Có làm người đặt chân đến mảnh đất bị tàn phá bởi cơn thịnh nộ của thiên nhiên mới hiểu hết được những gian truân, khó khăn của những người phải có mặt tại vùng đất này, dù với bất cứ lý do gì, nhất là trong những ngày đầu trận bão mới đến.
Hoàng Văn, từ thành phố Manila - nơi bão Haiyan chỉ được biết qua tin truyền hình - là một trong những người có mặt dọc ngang khắp vùng Tacloban chỉ sau 3 ngày trận bão đánh tan thành phố này.

Ðể làm gì? - Tìm những người Việt Nam bị kẹt lại tại tâm bão để đưa họ đến nơi an toàn.

Những người đó có quen biết gì với anh không? - Không, tôi không quen biết ai hết trong số họ.

Anh Hoàng kể, “Khi bão Haiyan xảy ra, tôi không hề nghĩ đến chuyện mình đi đến Tacloban. Tuy nhiên, có một người ở vùng bị bão đã gọi điện thoại cho người thân của họ ở Mỹ cầu cứu. Người này gọi cho Trịnh Hội vì biết Trịnh Hội có văn phòng ở Manila. Trịnh Hội gọi cho tôi. Thế là tôi khăn gói lên đường và đi theo số điện thoại họ đưa.”

Khởi đầu là như vậy.

Rất may mắn, người đàn ông đầu tiên từ vùng bão gọi ra là một người mua bán các thiết bị điện thoại nên ông có được một số pin “xơ-cua”, nhờ đó mà Hoàng Văn cứ gọi để liên lạc, xác định vị trí.

Từ người đàn ông này, lại chỉ ra tiếp những người Việt khác. Hoàng liên lạc, yêu cầu họ tìm đường tập trung về một điểm nào đó. Hoàng tìm xe tới, cho mỗi người 10,000 peso (tương đương $250, tiền cứu trợ của đồng bào hải ngoại gửi đến), đưa họ đi tìm chỗ ăn uống, cho họ tiền trả tiền xe cộ, tàu xe để đi về Cebu, tá túc ở nhờ nhà của một đồng hương gốc Việt khác, trước khi tiếp tục tìm phương kế mưu sinh.+

Một tuần lễ liền, cứ mỗi sáng từ khách sạn ở Cebu, anh Hoàng lại đón tàu, xe đi về hướng Tacloban để tìm người Việt, cho đến khuya lại mới trở về Cebu. “Hầu như buổi trưa tôi không ăn gì hết, vì có gì đâu mà ăn. Chỉ có đi và nhìn thấy những hình ảnh mà chưa bao giờ mình tưởng tượng ra. Trong vòng một tuần, tôi sụt 4 ký lô.” Anh nhớ lại.

Không chỉ chứng kiến những ngọn dừa bị chặt ngọn, những ngôi nhà đổ nát hoàn toàn, Hoàng còn nhìn thấy những nghĩa trang mà xác người chết vừa mới chôn đã bị quật lên, phơi mình trên mặt đất, phải bước qua những con đường ngập ngụa xác người, xác súc vật, hòa cùng rác rưởi và mùi tử khí vương đầy trong hơi thở.

Và Hoàng bật khóc, trước những cảnh tượng đó, nhất là khi tìm được nhóm 7 người Việt sau cùng, nhìn họ ngấu nghiến ăn bữa cơm đầu tiên với thịt gà, sau suốt nhiều ngày đói khát, cầm cự sự sống bằng cách ăn dừa hay bất cứ thứ gì có thể cho vào miệng, nuốt xuống bao tử.

“Họ có biết anh là ai không?” - “Không.” Tôi hỏi và Hoàng cười trả lời.

“Lúc đầu, họ không hề nghĩ là có người Việt nào lại đi tìm họ. Họ cũng chẳng biết VOICE là ai, vì những người này chỉ đơn thuần đến Phi để mua bán làm ăn, họ không phải di dân. Nhưng khi nghe có người đi tìm thì họ mừng, gặp mình họ cũng ôm lấy mình mà khóc. Tôi thì mừng khi thấy tất cả đều còn sống, dù tài sản mất hết, sổ nợ mất hết.” Anh kể.

Hơn một tháng rưỡi trôi qua, sau thời điểm kinh hoàng đó, duy chỉ có gia đình anh Phước Nguyễn còn trụ lại ở Tacloban (vì vợ anh người Phi, các con anh sanh ra ở Phi), những người Việt khác đều đã ra khỏi vùng đất đau thương này.

“Có ai gọi điện thoại lại báo cho anh biết họ đã đi đâu và như thế nào không?” - “Không có ai hết.” Hoàng Văn cười giòn tan, dù mắt buồn đau đáu.


“Chiến sĩ bất đắc dĩ” 

Như đã nói ở trên, người đi tìm 38 người Việt Nam kẹt trong vùng bão và cung cấp tiền bạc, phương tiện để họ đi đến nơi an toàn là “một người không tổ quốc”.


Hoàng Văn (đứng, thứ ba từ trái sang) trong chuyến đi cứu trợ ở Tacloban. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Ðến Philippines và ở lại nơi này trong suốt 13 năm qua - trong khắc khoải, tuyệt vọng - chưa bao giờ là kế hoạch được định sẵn trong hành trang tương lai của Hoàng Văn.

“Ba vợ tôi làm việc cho Mỹ, nhưng làm gì thì chỉ có chính phủ Mỹ mới biết. Chỉ biết là ba má vợ tôi được tin phải rời khỏi Việt Nam liền. Vợ tôi cũng phải đi để tránh sự bắt bớ của chính quyền, thì tôi cũng phải đi theo thôi, không còn lựa chọn nào khác, không có dự trù gì trước.” Hoàng nhớ lại.

Tuy nhiên, trong khi ba má vợ Hoàng có visa bay thẳng sang Mỹ, thì Hoàng cùng vợ phải đi bằng con đường du lịch đến Philippines, chờ làm thủ tục tị nạn chính trị. Khi đó là Tháng Chín, năm 2000.

Lý do để Hoàng Văn chọn Phi làm nơi tá túc bước đầu là vì “Phi là quốc gia nói tiếng Anh, không thân cộng sản và có một người Phi ở đây quen với bên vợ ở Mỹ, ông ta nói nên qua Phi sống có gì ông ta giúp đỡ. Chính vì vậy mà chúng tôi chọn Philippines.”

Ngày Noel 2013, bên hiên ngôi nhà mà VOICE chọn làm văn phòng ở Manila, cũng là nơi sinh sống hiện tại của vợ chồng Hoàng Văn cùng đứa con gái 11 tuổi, người đàn ông có nụ cười thật hiền nhưng ánh mắt thật buồn nhớ lại những cột mốc đặc biệt đã trôi qua cuộc đời gia đình anh trong 13 năm qua.

“Suốt ba năm đầu sang đây, chúng tôi hoàn toàn sống bằng tiền mang theo, và một phần được sự giúp đỡ từ ba má vợ ở Mỹ, bởi vì không biết làm sao để tìm phương cách sinh nhai. Thời gian đó, đầu óc cả hai vợ chồng rất là khủng hoảng, tinh thần suy sụp, nhưng không hề nghĩ đến chuyện quay về Việt Nam, vì biết chắc chắn về sẽ bị bắt.”

Dẫu vậy, thời gian đó, người Việt tị nạn tại Philippines hãy còn rất đông, ra vào trông thấy người Việt, nghe có tiếng Việt, nhìn thấy đồng hương nên vợ chồng Hoàng vẫn còn an ủi phần nào.

Anh tiếp tục, “Nhưng đến năm 2005, khi người Việt được đi định cư ở Mỹ hết, còn lại chơ vơ có mình, thì lúc đó rất là khủng hoảng. Phía Mỹ lại từ chối hồ sơ của tôi vì chương trình đó chỉ dành cho người Việt đi vượt biên từ năm 1996. Khủng hoảng kinh khủng.”

Chưa hết, thời gian vừa mới nguôi ngoai thì đến năm 2007, lại thêm một đợt cuối cùng, 300 gia đình còn sót lại ở Phi được đi định cư tại Canada. “Họ đi sạch, nhìn quanh thấy trống lỗng. Lại thêm một lần suy sụp.”

Anh vừa nói vừa có cười nhẹ để che đi nỗi xúc động cố gắng kìm giữ, “Một tương lai vô vọng. Không biết khóc như thế nào. Sống cũng không biết sống như thế nào. Chỉ biết nói chung một cảm giác là khủng hoảng nặng nề.”

Ðến thời điểm này, nhận ra con đường được định cư của mình tại một quốc gia thứ 3 hãy còn rất lâu, không phải là chuyện một sớm một chiều, hai vợ chồng Hoàng tìm cách mua bán, sau chuyển qua làm việc online, để mưu sinh.

Ðến năm 2008, Hoàng mới chính thức trở thành thành viên của VOICE, dù đã biết đến Trịnh Hội và tổ chức này 6 tháng sau khi đến Manila.

“Hiện tại, ở Philippines, người ta nhìn anh trong tư cách gì?” Tôi dè dặt hỏi.

“Tị nạn chính trị.” Anh đáp.

“Mình là người tị nạn chứ không phải là người Phi nên mình không có quyền lợi như người bản xứ. Mình không được mua đất, không được mở cửa hàng kinh doanh, không được mua 'franchise,' không được đi bầu. Họ nói mình có quyền đi học, đi làm. Nhưng khi đi xin việc không ai cho hết, kể cả tư nhân lẫn nhà nước, vì họ nói rằng người dân Phi còn không đủ việc làm thì làm gì đến mình.” Hoàng giải thích thêm.

Anh nói, “Phi là nơi cho mình dung thân một cách yên bình nhưng nó không phải là quê hương của mình. Thế nên, tôi vẫn đau đáu một nỗi buồn là càng nghĩ tới tương lai thì càng không biết mình đi về đâu.”

Mang nặng tâm trạng đó nên không thể diễn tả được Hoàng đã bật khóc như thế nào khi vào Tháng Ba vừa qua, nghe Luật Sư Trịnh Hội từ Úc gọi điện thoại báo tin “hồ sơ của ông đã được chính phủ Canada chấp thuận”.

“Tôi khóc như trẻ con, vì những gì mình chờ đợi từ 12 năm nay sắp thành hiện thực,” anh nói.

Nhưng...

Lại thêm một chữ “nhưng” tàn nhẫn.

Hai tháng sau đó, cơ quan di trú Canada có thư chính thức gửi Hoàng Văn cho biết hồ sơ của gia đình anh đã bị bác vì không đủ điều kiện tị nạn chính trị.

Anh cười buồn, “Họ bảo tị nạn chính trị tức là đi tìm tự do. Giờ mình đã ở Phi, tức một quốc gia tự do rồi thì không còn đi đâu nữa. Tôi điếng người, chết một lần nữa, chết lần thứ 3.”

Như một câu hỏi kinh điển, bởi lẽ, tôi không biết phải nói thêm lời gì trong hoàn cảnh này, trước khi rời Manila trở lại Mỹ, “Vậy mục đích sống hiện giờ của anh là gì?”

“Thì chỉ là sống thôi. Sống chờ ngày Trịnh Hội mát tay thì giúp mình đi sớm, có tương lai cho con gái. Còn hiện tại thì tôi bằng lòng với những gì mình có, giúp cho VOICE, người ta cho mình cơm ăn áo mặc, nhà ở miễn phí, khỏi lo nghĩ về vấn đề sinh nhai. Ðối với tôi thì không còn tính gì nữa. Ði đâu cũng làm việc thôi, nhưng thật sự mà nói cứ tiếp tục làm cho VOICE thì con tôi không có tương lai. Một mai VOICE dời qua một quốc gia khác, như Việt Nam chẳng hạn thì tôi làm gì? Tôi chỉ mong được định cư càng sớm càng tốt để cho con gái tôi còn có cơ hội, có tương lai, có quê hương.” Anh nói một hơi dài. Rồi im lặng.

Có những mảnh đời, bươn bả vì người. Còn số phận mình... không tổ quốc.

Khoảng lặng đó theo tôi đến hôm nay...

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sau khi anh Hun đi Việt Nam về:

Giới chức Campuchia bác đề nghị biểu tình của phe đối lập 
(TTXVN) 
Giới chức Campuchia dỡ lều bạt của người biểu tình (Nguồn: TTXVN)  
Giới chức Campuchia dỡ lều bạt của người biểu tình (Nguồn: TTXVN)
Lo ngại những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn và trật tự công cộng tại thủ đô, ngày 4/1, Tòa thị chính Phnom Penh đã bác bỏ kế hoạch biểu tình và tuần hành hàng ngày (bắt đầu từ ngày 6/1) của đảng Cứu nguy Dân tộc Campuchia (CNRP).

Trong một thông báo trả lời thư đề nghị biểu tình của Chủ tịch CNRP Sam Rainsy, Đô trưởng Phnom Penh Pa Socheatvong nhấn mạnh trong thời gian qua, đặc biệt những ngày gần đây, trong một số cuộc biểu tình của công nhân ở các khu công nghiệp cũng như của những người ủng hộ đảng đối lập tại Quảng trường Dân chủ, nhiều người đã có những hành vi quá khích, kích động, trái pháp luật, dẫn tới bạo lực gây thương vong, phá hoại tài sản cá nhân và công cộng, ảnh hưởng tới hoạt động giao thông....gây hậu quả nặng nề đến an ninh và trật tự công cộng.

Do đó, nhằm bảo đảm an ninh, trật tự trị an và dựa trên các quy định về biểu tình bất bạo động, Tòa thị chính Phnôm Pênh quyết định không cho phép CNRP tổ chức biểu tình ở Quảng trường Dân chủ cũng như tuần hành trên các đường phố thủ đô kể từ ngày 4/1 cho đến khi tình hình an ninh và trật tự trở lại bình thường.

Sau khi có thông báo của Tòa thị chính, lực lượng chức năng hỗn hợp, gồm công an, cảnh sát chống bạo động và dân phòng, đã đến Quảng trường Dân chủ, dỡ bỏ tất cả những vật dụng phục vụ biểu tình, trong đó có lều bạt để ngủ qua đêm và giải tán những người biểu tình tại đây.

Một quan chức thành cảnh sát cho biết, các lực lượng hỗn hợp đã được lệnh bắt những người không tuân lệnh của Tòa thị chính và sẽ đưa ra xét xử về tội chống người thi hành công vụ.

Trong khi đó, trang mạng Tin nhanh Campuchia cho biết Chủ tịch đảng đối lập CNRP Sam Rainsy và Phó Chủ tịch Kem Sokha đã chạy vào Sứ quán Mỹ ở gần Quảng trường Dân chủ./.
 

Cảnh sát Campuchia tấn công khu trại biểu tình của phe đối lập 
Bảo vệ và công nhân tháo dỡ các căn lều tại 1 khu trại bị người biểu tình chống chính phủ chiếm đóng ở Phnom Penh, 4/1/2014
Bảo vệ và công nhân tháo dỡ các căn lều tại 1 khu trại bị người biểu tình chống chính phủ chiếm đóng ở Phnom Penh, 4/1/2014
Cảnh sát Campuchia đã xua đuổi những người biểu tình chống chính phủ ra khỏi khu trại ở thủ đô Phnom Penh và ra lệnh cấm tất cả những vụ biểu tình chống lại chính phủ của Thủ tướng hun Sen.

Hàng trăm nhân viên an ninh trang bị dùi cui và khiên ngày hôm nay đã tràn vào khu trại ở Công viên Tự do, làm cho hàng ngàn người biểu tình phải bỏ chạy.

Đô trưởng Phnom Penh đưa ra một thông cáo viện dẫn lý do an ninh để cấm sử dụng công viên này và cấm những cuộc tuần hành trên đường phố. Thông cáo này khiến người ta không rõ là một cuộc biểu tình phản kháng dài 3 ngày, bắt đầu từ ngày mai, có được xúc tiến như kế hoạch hay không.

Vụ đột kích vào Công viên Tự do diễn ra một ngày sau khi cảnh sát nổ súng vào đoàn người biểu tình của công nhân dệt may đình công, giết chết ít nhất 4 người.

Quyền cai trị 28 năm của Thủ tướng Hun Sen đang gặp phải những thách thức ngày càng tăng từ những công nhân dệt may đòi tăng lương và từ phe đối lập do ông Sam Rainsy lãnh đạo. Phe này đòi nhà lãnh đạo Campuchia từ chức và tổ chức một bầu cử mới vì cuộc bầu cử hồi tháng 7 có gian lận.
 

Campuchia khôi phục trật tự trị an tại Phnom Penh (TTXVN) 
 
Quân đội Campuchia tuần tra đảm bảo an ninh tại thủ đô. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Chiều 4/1, Bộ Nội vụ Campuchia thông báo các cơ quan chức năng đã thiết lập lại trật tự ở Quảng trường Dân chủ, vốn bị những người biểu tình của đảng Cứu nguy Dân tộc Campuchia (CNRP) chiếm giữ nửa tháng qua, nhằm khôi phục trật tự trị an nơi công cộng.

Những người tụ tập trái phép tại Quảng trường Dân chủ đã bị giải tán và các phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ biểu tình do CNRP dựng lên trái phép ở đây đã bị dỡ bỏ. Toàn bộ tiến trình này diễn ra không gặp bất kỳ sự chống đối nào.

Bộ Nội vụ Campuchia nêu rõ người dân có quyền biểu tình nhưng phải tuân thủ pháp luật. Trong khi đó, trong những ngày gần đây, các cuộc tụ tập đã dẫn tới bạo lực, cản trở giao thông, phá hoại tài sản cá nhân và công cộng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh, trật tự xã hội và đời sống hàng ngày của công dân.

Vì vậy, bộ trên nhấn mạnh, nhằm bảo đảm trật tự trị an nơi công cộng, phe đối lập phải tạm dừng các cuộc biểu tình, tụ tập nơi công cộng hay tuần hành. Bộ Nội vụ kêu gọi người dân bình tĩnh, tránh tham gia các hoạt động trái pháp luật, ảnh hưởng tới lợi ích xã hội, vì hòa bình, ổn định và phát triển của đất nước.

Trong khi đó, CNRP cũng ra tuyên bố yêu cầu những người ủng hộ mình kiềm chế, tránh các hành động quá khích và lãnh đạo đảng này sẽ cân nhắc những chiến thuật mới.

Theo giới phân tích, tuyên bố của CNRP cho thấy nhiều khả năng đảng này hủy kế hoạch tổ chức một cuộc biểu tình quy mô lớn tại Phnom Penh vào ngày 5/1 cũng như các cuộc biểu tình hàng ngày tiếp đó.

Những hành động kiên quyết của chính quyền hiện nay dường như đã khiến CNRP phải thận trọng hơn trong các quyết định của mình.

Trước đây, lợi dụng sự nhân nhượng, kiềm chế tránh xung đột của chính phủ, CNRP đã nhiều lần phớt lờ các lệnh cấm hay quy định của chính quyền để tổ chức các cuộc biểu tình, tuần hành bạo lực tại Phnom Penh.

Những biện pháp kiên quyết này được đưa ra một ngày sau khi xảy ra các vụ bạo lực nghiêm trọng tại làm ít nhất 4 người thiệt mạng tại Phnom Penh.

Giới chức khẳng định có những phần tử cực đoan từ bên ngoài đội ngũ công nhân lợi dụng cơ hội kích động công nhân gây nên tình trạng bất ổn, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công nhân, nhà đầu tư cũng như an ninh-trật tự xã hội./.

Campuchia: Ông Sam Rainsy có thể trốn ra nước ngoài 

(Vietnam+) 
Lãnh đạo Đảng CNRP Sam Rainsy. (Nguồn: THX/TTXVN) Lãnh đạo Đảng CNRP Sam Rainsy. (Nguồn: THX/TTXVN)
Tờ Tin nhanh Campuchia phát hành bằng tiếng Khmer ngày 4/1 dẫn lời một quan chức cấp cao Đảng Cứu nguy Dân tộc Campuchia (CNRP) đối lập cho biết có thể trong ngày 5/1, Chủ tịch CNRP Sam Rainsy sẽ rời Campuchia để trốn tránh lệnh bắt từ Chính phủ.

Ngay trong buổi trưa 4/1, trong khi chính quyền Phnom Penh tiến hành cuộc giải tỏa Quảng trường Dân chủ, nơi được coi là đại bản doanh của CNRP trong các cuộc biểu tình, ông Sam Rainsy và Phó Chủ tịch CNRP Kem Sokha đã chạy vào Đại sứ quán Mỹ ở Phnom Penh nhằm tìm kiếm sự can thiệp.

Tối 4/1, cơ quan thông tin và phản ứng nhanh của Hội đồng Bộ trưởng Campuchia đã chính thức đưa ra cáo buộc các lãnh đạo CNRP phải chịu trách nhiệm về hành vi kích động biểu tình bạo lực, gây rối loạn trật tự xã hội, thiệt hại về tài sản và nhân mạng.

Hiện chưa có thông tin cũng như phản ứng gì từ chính quyền về những đồn đoán cho rằng lãnh đạo cấp cao của CNRP và các tổ chức công đoàn gây ra các cuộc đình công bạo lực vừa qua sẽ bị chính quyền bắt giữ trong nay mai./.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hoàng Sa - thiên đường của chúng ta!


Bình minh trên quần đảo Hoàng Sa là thời khắc huy hoàng nhất trong ngày. “Chúng tôi thấy mặt trời đỏ rực, to và rất gần. Nắng lên một chút, nước biển ven bờ xanh một màu ngọc bích đẹp lạ lùng, xa xa hơn một chút nữa màu xanh dương rồi tới xanh lục. Chiều chiều rảnh rỗi chúng tôi bơi ra xa lặn xuống xem những rạn san hô với cá đủ màu sắc...” – ông Phát kể như vậy.
Ngày 11.12.2006, lần đầu tiên, chính quyền Đà Nẵng mở kho tư liệu Hoàng Sa và mời những người từng sinh sống và làm việc ở Hoàng Sa đến gặp mặt và tham quan. Hàng năm, Sở Nội vụ và huyện đảo Hoàng Sa đều tổ chức gặp gỡ những nhân chứng này. Các nhân chứng trong bài viết nay có người còn, người mất. Đây là chứng cứ chân thật nhất về một thời Hoàng Sa.

“Sáng đó (20.1.1974), chúng tôi dậy tập thể dục. Mặt trời lên rất đẹp. Bất ngờ một người nhìn thấy ngoài khơi có rất nhiều tàu bao vây quanh đảo. Mọi người vội vàng chạy vào lấy ống nhòm ra nhìn và biết đó là tàu của Trung Quốc” – ông Tạ Hồng Tân, một trong những người Việt Nam cuối cùng rời khỏi Hoàng Sa nhớ lại như vậy.

Bị Trung Quốc bắt làm tù binh

Đó là một ngày không quên trong đời ông Tân. Năm 2006, ông Tân 73 tuổi sống bằng nghề dạy kèm tiếng Anh, tiếng Pháp tại phường An Hải Đông thành phố Đà Nẵng.


Nhân chứng Tạ Hồng Tân (ảnh chụp năm 2006), người bị Trung Quốc bắt làm tù binh sau trận hải chiến Hoàng Sa 1974.

Ông là người gốc sài Gòn, làm nhân viên quan trắc cho Đài khí tượng Sài Gòn, được điều ra Trung tâm khí tượng Đà Nẵng làm quan trắc viên Trạm khí tượng Hoàng Sa cuối năm 1973 cho đến ngày bị Trung Quốc bắt làm tù binh.

Khi đó, trên đảo có một trung đội Địa phương quân thuộc Đại đội 157, địa phương quân Đà Nẵng của chế độ Sài Gòn và 6 nhân viên thuộc Trạm khí tượng Hoàng Sa.

Ông Tân kể: “Thấy tàu chiến nhiều quá chúng tôi rất lo âu. Nhân viên vô tuyến của trạm liên lạc về Đài khí tượng Đà Nẵng cầu cứu. Kêu thì kêu vậy nhưng biết không làm gì được vì lực lượng bên đó quá đông!”.

Từ sáng sớm đến hết cả ngày 20.1.1974, tàu chiến Trung Quốc án binh bất động. Lúc đó, đã xảy ra hải chiến ngoài khơi, ở các đảo xung quanh, nhưng những nhân viên khí tượng này không biết. Khoảng 5 giờ chiều, sau một đợt pháo kích, Trung Quốc cho quân đổ bộ vào đảo bắt sống toàn bộ trung đội Địa phương quân và 6 nhân viên khí tượng, trong đó có ông Tạ Hồng Tân.

“Họ đưa chúng tôi lên tàu về đảo Hải Nam ngày hôm sau. Chúng tôi được chuyển lên xe bịt bùng về giam ở đâu không biết!” – ông Tân kể.


Hai chiếc vỏ ốc này là kỷ vật của nhân chứng Phạm Khôi. Nay hai vỏ ốc này đã được tặng cho Kho tư liệu Hoàng S.

Chúng tôi xác định được nhà giam ông Tân cũng như các binh lính khác là nhà lao Thu Dung thuộc tỉnh Quảng Châu. Vào nhà giam, mọi người bị lấy lời khai nhưng được đối xử tử tế.

Khoảng gần 3 tuần sau, ông Tân nói có một cán bộ Trung Quốc tới trại, đem theo người phiên dịch nói cho chúng tôi biết: “Hoàng Sa là đảo của Trung Quốc nhưng Việt Nam chiếm làm đài Khí tượng. Nay Trung Quốc lấy lại và các anh sẽ được trả tự do trong vài ngày tới”. Khoảng gần 1 tuần sau, ông Tân cùng toàn bộ tù binh bị Trung Quốc bắt đưa qua Hồng Kông.

Chính quyền Sài Gòn điều một chiếc máy bay C130 sang Hồng Kông nhận trao trả tù binh. Phần lớn số tù binh sau đó về lại nơi làm việc ở Đà Nẵng.

Tiễn chúng tôi ra về tới cửa, ông Tân còn nheo nheo mắt hỏi: “Không biết bây giờ tên của tôi có còn ngoài Hoàng Sa không?”. Một câu hỏi thật khó trả lời.

Tất cả những binh sĩ chế độ Sài Gòn và nhân viên khí tượng khi đến Hoàng Sa, những giờ rảnh rỗi họ ra những tảng đá ven biển khắc họ tên và địa chỉ mình lên đó làm kỷ niệm. Khi ông Tân ra thì đã thấy lớp lâu lớp mới tên người Việt Nam trên đá, ở những vị trí tuyệt đẹp.

Thiên đường đã mất

Một trong những người từng làm việc lâu đời ở Hoàng Sa tại Đà Nẵng là ông Nguyễn Tấn Phát, nhân viên quan trắc Đài khí tượng Sài Gòn. Đầu năm 1958, ông Phát được điều theo dạng luôn phiên ra Đà Nẵng rồi đi Hoàng Sa. Đó là một thời kỳ đẹp đẽ nhất trong đời của một chàng trai Sài Gòn.


Nhân chứng Nguyễn Tấn Phát (ảnh chụp năm 2006). Đây là người đã nói: "Tôi đã để một phần đời của tôi ở lại Hoàng Sa". Phần đời còn lại của ông là nỗi hoài nhớ về Hoàng Sa, nơi mình đã từng sống.

Ông nói: “Mỗi nhân viên chỉ đi Hoàng Sa luân phiên 3 tháng, mỗi lần đi có 6 người gồm 4 quan trắc viên, 1 nhân viên vô tuyến và 1 nhân viên phục vụ lo thổi bóng hơi quan trắc cao không đo gió kiêm hậu cần. Tôi lúc đó mới 23 tuổi, chưa lập gia đình, thấy cảnh sắc thần tiên nên mê và xin ở lại luôn cả nửa năm”.

Nửa năm sống trên đảo trong ký ức của ông Phát bây giờ là nửa năm làm Từ Thức!. Công việc quan trắc cũng khá nhẹ nhàng, chủ yếu vài thời điểm trong ngày. Thời gian còn lại ông cùng những đồng nghiệp mình ngao du khắp đảo Hoàng Sa.

Lâu lâu, ông kể là đi theo xuồng máy của đơn vị Thủy quân lục chiến chế độ Sài Gòn đi thăm các đảo có chim sinh sống. Đó là những bãi cát vàng rực trong ánh chiều tà. Chân chúng tôi len lỏi giữa những ổ trứng chim. Chim nhiều vô kể, chúng không hề sợ hãi khi thấy người tới gần.

Bình minh trên quần đảo Hoàng Sa là thời khắc huy hoàng nhất trong ngày. “Chúng tôi thấy mặt trời đỏ rực, to và rất gần. Nắng lên một chút, nước biển ven bờ xanh một màu ngọc bích đẹp lạ lùng, xa xa hơn một chút nữa màu xanh dương rồi tới xanh lục. Chiều chiều rảnh rỗi chúng tôi bơi ra xa lặn xuống xem những rạn san hô với cá đủ màu sắc...” – ông Phát kể như vậy.


Nhân chứng Võ Như Dân (ảnh chụp năm 2006). Ông Dân là người có thời gian sống và làm việc lâu nhất ở Hoàng Sa: 3 năm rưỡi!

Đặc biệt nhất tại Hoàng Sa là cá. Cá nhiều vô kể, nhất là cá mú. Lính đảo cùng các nhân viên khí tượng sống nhờ nguồn thực phẩm khá dồi dào tại Hoàng Sa. Cá, ốc, mực, bạch tuộc, chim...

“Chỉ cần quăng câu chừng vài phút là được gần cả chục con cá mú, cá khế, cá xanh xương... Con nào con đó nặng trên 5 – 7 ký” – đó là ký ức của ông Võ Như Dân, người ở Hoàng Sa nhiều nhất.

Ông Dân làm nhân viên hậu cần cho Trạm khí tượng Hoàng Sa từ năm 1956. Đội hậu cần thời đó chỉ có 3 người luân phiên nhau ra Hoàng Sa.

Chính vì vậy, cho đến ngày Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974, ông Dân có 14 chuyến ra Hoàng Sa, mỗi chuyến 3 tháng, tổng cộng là 3 năm rưỡi sinh sống trên đảo. Cảnh sắc quen thuộc thân thương quá đỗi đến mức ông bảo: “Hôm qua tôi xuống Sở Nội vụ TP Đà Nẵng, nơi có kho tư liệu và hành ảnh về Hoàng Sa, tối về tôi nằm mường tượng nó ở trước mặt tôi. Cả phần đời tôi đã ở đó...”.

Nhiệm vụ là hậu cần nên suốt ngày ông Dân đi câu cá phục vụ thức ăn cho toàn đội. Đồ hộp cũng nhiều nhưng không ai ăn. Khu nhà khí tượng do Pháp xây trên đảo có những hầm chứa nước mưa dùng uống quanh năm.

Khoảng năm 1958, có lần một đoàn tàu Trung Quốc đến gần nhưng bị Thủy quân lục chiến chế độ Sài Gòn bắn dọa đuổi đi. Tàu cá của Nhật cũng có tới xin nước ngọt. Họ không biết tiếng Việt nhưng ra dấu xin lên đảo lấy nước rồi cúi đầu cảm tạ...

Bao nhiêu kỷ niệm còn sống trong lòng những người đã từng ở Hoàng Sa. Ông Phạm Khôi, nguyên là lính địa phương quân Việt Nam cộng hòa, hiện sống ở Đà Nẵng mở tủ lấy ra hai chiếc vỏ ốc hoa còn khắc ngày ông đặt chân lên Hoàng Sa: 23 tháng chạp năm 1969. Đó là hai chiếc vỏ ốc ông mang về và trở thành báu vật của đời ông!

Huyện đảo Hoàng Sa

Được thành lập từ tháng 01.1997, là một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà Nẵng 170 hải lý (khoảng 315 km).

Huyện bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đảo Đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, Đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến, Đá Tháp.

Huyện Hoàng Sa có diện tích: 305 km2, chiếm 23,76% diện tích thành phố Đà Nẵng.

Ngày 21.4.2009, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Trần Văn Minh ký quyết định bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ làm chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa trong nhiệm kỳ 2009-2014.

Cổng TTĐT thành phố Đà Nẵng

Minh Sơn

Ảnh đại diện: Ngư dân Mai Phụng Lưu tại lao Ông Già thuộc quần đảo Hoàng Sa (ảnh chụp tháng 8.2011). Mời bạn đọc theo dõi tiếp bài sau: Bí mật bộ ảnh duy nhất về Hoàng Sa năm 2011.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bất ổn kinh tế và vấn đề xã hội


2013 là năm thứ năm liên tiếp tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rơi vào suy giảm. Mặc dù lạm phát không còn là nỗi ám ảnh thường trực như trong giai đoạn 2007-2008 hay 2011, song nền kinh tế trong năm 2013 không chỉ tăng trưởng chậm (ước đạt 5,4%) mà còn tỏ ra thiếu sức sống, thậm chí suy kiệt, thể hiện qua con số trung bình gần 5.000 doanh nghiệp dân doanh giải thể hay dừng hoạt động mỗi tháng. 
Giao thông Việt Nam là một thảm họa !
Cũng trong năm 2013, các chương trình tái cấu trúc được triển khai chậm chạp và thiếu hiệu quả, làm cho hy vọng về sự phục hồi tăng trưởng ngày càng trở nên xa vời. Trong bối cảnh này, có thể thấy trước rằng ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự của Chính phủ trong năm 2014 vẫn sẽ là tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu và phục hồi tăng trưởng kinh tế.

Trong khi bị chi phối bởi vô số các ưu tiên trước mắt, đặc biệt là các vấn đề kinh tế, người ta có thể không đánh giá hết được hệ lụy của nhiều vấn đề xã hội đã đặc biệt trở nên nhức nhối trong mấy năm gần đây. Biểu hiện của các vấn đề này ngày một nhiều, không những thế càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần nhìn vào những ngành, những lĩnh vực vốn được coi là có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ “lương tâm của xã hội” như thầy giáo, thầy thuốc, tôn giáo, tâm linh, tòa án, công an, báo chí thì cũng có thể thấy rõ tình trạng này.

Một số người có thể vội vàng quy kết những vấn nạn xã hội này cho kinh tế thị trường. Thế nhưng nếu suy xét kỹ thì chúng ta sẽ thấy sự quy kết này là thiếu cơ sở. Một nền kinh tế thị trường đích thực sẽ không dễ dàng làm hại rồi ngang nhiên quẳng xác khách hàng xuống sông để phi tang. 

Rồi những sai trái trong các giao dịch phi thị trường (như tìm hài cốt liệt sĩ hay điều tra thủ phạm giết người) hay ít tính thị trường (như đào tạo ở đại học công lập hay xét nghiệm y tế ở bệnh viện công) hiển nhiên cũng không thể đổ tại kinh tế thị trường mà chỉ có thể bắt nguồn từ lòng tham và sự bất nhân. 

Mặc dù lòng tham có thể là một tính xấu phổ biến của con người, nhưng sự bất nhân không hề có tính phổ quát, trái lại nó đến từ sự sa đọa của bản thân con người và/hoặc từ niềm tin là một người có thể phạm tội mà không bị phát hiện, và/hoặc nếu bị phát hiện thì cũng không bị trừng phạt một cách tương xứng – tất cả đều không phải là hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường.

Một số người cho rằng nhiều vấn nạn xã hội, đặc biệt liên quan đến tội phạm, đơn giản chỉ là “bần cùng sinh đạo tặc”. Tất nhiên là có một phần sự thật trong câu nói được lưu truyền trong dân gian này. Tuy nhiên, cần nhớ rằng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2008-2013, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn tăng trung bình gần 10%/năm theo giá cố định. Như vậy, nếu quả thực “bần cùng sinh đạo tặc” thì vấn đề không phải là do mức sống chung của xã hội thấp đi, mà là do kết quả kinh tế đã bị phân bổ không công bằng giữa các nhóm dân cư trong xã hội.

Một số người khác lại cho rằng những vấn đề xã hội bắt nguồn từ hệ thống thể chế – mà theo GS. Douglass North, người được giải Nobel Kinh tế năm 1993 – bao gồm hệ thống các quy tắc thành văn (bao gồm hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật), các quy tắc bất thành văn (như phong tục, tập quán), và các cơ chế cưỡng chế thi hành các quy tắc này.

Rất tiếc là cho đến nay chúng ta có quá ít các điều tra và nghiên cứu xã hội nghiêm túc để có thể chỉ ra ngọn nguồn của những vấn đề xã hội nổi cộm cùng những hệ lụy của chúng. Tình trạng này càng trở nên trầm trọng khi người ta thường có xu hướng chăm chú nhiều hơn vào các vấn đề kinh tế, đặc biệt là các vấn đề có tính tình thế, kỹ thuật, thậm chí không thực chất.

Lịch sử dạy chúng ta rằng khi kinh tế đi xuống, có thể chỉ cần vài năm để hồi phục, song một khi niềm tin bị mất, lòng người không yên, nhân tâm ly tán thì ngay cả vài thập kỷ cũng không biết có đủ để khôi phục hay không, mà đây chính là những nền tảng để một xã hội có thể phát triển. Như vậy, để giảm thiểu chi phí xã hội trong quá trình phát triển ở Việt Nam, các vấn đề xã hội cần được đặt vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự của Chính phủ, trong chương trình nghiên cứu của các trường và viện nghiên cứu, và trong sự quan tâm của xã hội nói chung.

VŨ THÀNH TỰ ANH/THEO THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2014

Chán chả buồn xem:


Ngột ngạt tâm linh, văn minh & văn hóa

(Lộng ngôn của Béo)

Mấy hôm nay, báo chí lá cải phương Tây đưa tin, một thầy phù thủy được thuê với số tiền rất lớn (15.000 USD) để ém bùa cho siêu sao Ronaldo-CLB Real Madrid bị chấn thương nặng. Thế là người nhà của danh thủ tìm cách thuê thầy phù thủy khác cao tay ấn hơn giải nạn... Quái lạ, cái xứ Đầu bò tót này, văn minh đến thế là cùng! Thời buổi mà ngồi trên màn hình vi tính có thể biết mọi chuyện thế gian, một quả tên lữa có thể bắn trúng mục tiêu nửa vòng trái đất, vài quả bom nguyên tử nhỏ xíu có thể hủy diệt địa cầu to lớn này và con người nhỏ bé có thể dạo chơi cung trăng xa tít kia... mà giới phù thủy lại được trọng dụng ưu ái thế!

Mà bọn báo chí phương Tây nó cũng lạ?! Việc gì nó cũng đăng được, từ cô người mẫu vú to vú nhỏ cho đến vị tổng thống đáng kính bị ném giày vô mặt.., nó viết thoải mái thật! Chẳng như cái xứ An-Nam hiện nay, một nguyên thủ bị hắt ly rượu hay sinh viên, trí thức choàng quốc kì trên vai bày tỏ lòng yêu nước thì đố báo nào dám lên bài, nhưng một cô bé diễn viên tự quay phim sex hay hoa hậu siêu dốt... thì nhào vô đánh hội đồng ngay, viết như cha như mẹ người ta, viết như chưa bao giờ được viết!

Mấy lão giáo sư tiến sĩ khoa học xã hội nhăn văn cứ cù lần tranh cãi thế nào là văn minh, là văn hóa, lẩm cẩm thật, phí thời gian. Cứ như thằng Béo này định nghĩa, cái gì thấy thoải mái là văn minh, cái gì không thấy thoải mái là văn hóa. Ngày xưa, từ quan đầu triều cho đến dân đen, từ học trò cho đến con buôn, từ trọc phú cho đến phường trộm cướp... đều tung hô "Đức vua vạn tuế vạn vạn tuế", rất thoải mái, nhưng nếu có người nói "Bệ hạ địt thúi quá!" (đánh rắm) thì lập tức bị chém đầu, chẳng thoải mái chút nào!

Ngày thống nhất, các chiến sĩ giải phóng vào tiếp quản miền Nam, rất hiền lành và chân thật, cứ đến tối ngày rằm, đêm 30 âm lịch, hể nhà dân nào mang bàn thờ ra cúng thì bị ngăn cản, bắt phải dập hương, dẹp bàn thờ.., bảo là mê tín, duy tâm, không biện chứng, phản khoa học... làm người dân sợ và giận lắm! Thời cuộc thay đổi, cùng tấc biến, kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã đem hàng hóa tư bản đến tận vùng sâu vùng xa. Lại thấy xuất hiện chuyện cúng bái, mà quan chức lại cúng to, cúng lớn, cúng hoành tráng hơn dân đen. Muốn con trai cũng cúng bái, muốn thăng quan tiến chức cũng cúng bái...

Blog nhà báo Trương Duy Nhất trong entry đã viết "Có cái gì mà hết ông này đến bà kia bị kỷ luật. Có cái gì mà cứ mỗi mùa đại hội lại đánh đấm lung tung. Cái gì... khiếp sợ đến nỗi vị Tỉnh trưởng vừa trúng Hội đồng xong đã phải tất bật leo gần 2.000 bậc đá lên núi Thần... cúng vái?" ...

Đất nước hội nhập, muốn thế giới biết đến ta thì quảng bá du lịch là một điều tất yếu, thế là, từ xóm, xã, huyện, phường, tỉnh, thị, trung ương... tổ chức lể hội, những cái trước kia được coi là mê tín, dị đoan, tàn dư của chế độ phong kiến... lần lượt được khai thác lại dưới mác "văn hóa dân gian truyền thống"... Văn minh là thế đấy, thoải mái vô cùng!

Thủ tướng đứng trước Quốc hội thuyết trình về vấn đề mở rộng Thủ đô Hà Nội, để cho bài thuyết trình của mình nặng tính thuyết phục, vị nguyên thủ đã đem yếu tố phong thủy để diễn đạt... Thế là, đa số phiếu đồng thuận của nhóm đại biểu Quốc hội Việt Nam. Quá thoải mái!

Cơn bão Cét-sa-na vừa qua, Việt Nam mình gọi là cơn bão số 9, blog nhà báo Nguyễn Thế Thịnh trong một entry "Vía bác nhẹ quá" kể rằng Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đi đến đâu thì bão né đến đó, chưa kịp đến thị sát Quảng Nam, Quảng Ngãi thì bão nện cho 2 tỉnh đó te tua.., để rồi ông Dự Báo và ông Quan tỉnh phải đổ thừa trách nhiệm cho nhau, cái văn hóa nó chẳng thoải mái chút nào!

Có anh nhà báo tự xưng mình là Osin (kẻ hầu, người giúp việc, người làm thuê, người ở đợ...) không biết anh ta làm Osin cho ai nhưng được cái rất hay, cứ mổi entry ra đời trong blog của mình thì bạn đọc nhảy vào còm liên tục với đủ điều hỉ nộ ái ố, tức giận có, hả hê có, hy vọng có, thất vọng có.., thế rồi chuyện gì tất đến phải đến, anh ta bị thôi việc, bị tước thẻ nhà báo chỉ vì một entry trong blog ấy! Văn hóa nó khốn nạn đến thế đấy!

Mấy năm gần đây, chùa chiền hay những cái tương tự như chùa chiền mọc lên như nấm .., Việt Nam còn tổ chức Đại lể Phật Đảng toàn thế giới. Dưới mái trường XHCN, bao thế hệ được dạy và học về Triết học Mác, Mác nói "Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân". Sách triết còn nhận định rằng: "Nhìn chung, ở thời kỳ nào, nơi nào mà khoa học phát triển, tinh thần khoc học phổ biến rộng rãi, thì mê tín dị đoan giảm hẳn, xã hội hưng thịnh. Còn ở thời kỳ nào, nơi nào mà tinh thần khoa học sút kém, là lúc đó ở nơi đó tôn giáo lộng hành, tà thuyết phát triển, bước tiến của xã hội chậm lại."

Có ông giáo sư tiến sĩ triết học tuyên bố rằng, đã hơn 70 tuổi rồi mà ông chỉ cô gắng làm có 3 chữ duy nhất. Mọi người ngạc nhiên hỏi và ông trả lời: Đó là họ, tên lót và tên của chính ông. Nghe có vẻ hài hước nhưng nghiệm lại mới đáng nễ đáng kính. Khi nằm xuống, dưới nắm mồ là cái cốt, mọi người đến thắp hương hay nguyền rũa chỉ gọi cái tên ghi trên tấm bia của cái cốt đó mà thôi.

Ngột ngạt quá! Tâm linh, văn minh, văn hóa!


MP
Phần nhận xét hiển thị trên trang