Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013

Trí thức,văn nghệ sĩ trong và sát sau thời Stalin

Nguyễn Học

(dịch từ bản tiếng Nga)
Hồi ký Khrusev
(tiếp theo & hết)
LBT:
       Tiếp sau bài “Cái chết của Stalin”, nay tôi post đoạn cuối cùng Hồi ký của Krutchev. Vừa hay đoạn này Khrusev nói ý kiến của ông liên quan đến nhiều vấn đề về trí thức – văn học nghệ thuật cả dưới thời Stalin và sau khi Stalin chết và tác giả Hồi ký đã nắm cương vị đứng đầu ĐCSLX –Trong bài có nói Stermak với cuốn Bác sĩ Zivago, về Evtusenko, về Erenbourg, về Faadev -Chủ tịch đáng xấu hổ của Hội Nhà văn Liên xô mà mỗi lời tâu của hắn hầu như đều bay đầu một nhà văn tài giỏi! 
        Độc giả VN nhất là ở Hà Nội sớm biết tác phẩm và cuộc đời bất hạnh của họ, nhưng những điều nghe biết chỉ loáng thoáng. Nay trực tiếp đọc những dòng hồi ức do N. Khrusev - con người rất trung thực viết ra, chúng ta biết rõ đâu là nguyên nhân của mọi điều tội ác. Cám ơn dịch giả Nguyễn Học đã bỏ công dịch cuốn sách đáng đọc này và chúng ta chỉ đọc và trích dẫn ở mức độ cho phép, không làm bất cứ điều gì vi phạm lời cảnh báo bản quyền đã đăng ở đầu sách.NĐT.





Tôi muốn nói về quan hệ đối với trí thức ở Liên Xô. Chưa chắc tôi có khả năng lôi kéo tất cả mọi mặt của cuộc sống, nơi trí thức chúng tôi lao động. Nhưng cuộc sống trước tiên, tác động đến xã hội, thực hiện sự nghiệp mà ĐCS lãnh đạo. Với trí thức làm công tác kỹ thuật vấn đề có chuý đơn giản hơn. Mối quan hệ của Đảng với họ đơn giản hơn, vì những người này thể hiện năng lực và tài năng chủ yếu đối với các đối tượng cụ thể, phục vụ xã hội. Những hoạt động của họ tràn vào trực tiếp đến cuộc sống tinh thần và vấn đề hệ tư tưởng. Cổ vũ họ lao động để có lợi tăng sản xuất ở mức mới. Hóc búa nhất là những quan hệ với giới nghệ thuật, bao gồm nhà báo, nhà văn, hoạ sĩ, nhà tạc tượng, nghệ sỹ... Họ không tạo ra giá trị vật chất, mà thiếu nó con người không thể tồn tại, bù lại làm xã hội hưng phấn để lao động trong các lĩnh vực khác nhau của nhân loại, tràn vào cả chính trị, cũng như làm giầu của mọi người bằng những tác phẩm văn học, nghệ thuật và trong môi trường nhân văn. Nhưng bởi vì trong hệ tư tưởng ĐCS có xu hướng độc tôn, nên việc quan tâm của Đảng là thu hút giới trí thức này theo của mình không có phải giải thích nữa. Nhiều cái ở đây là cực kỳ chủ quan. Thí dụ, một Đảng viên có chức vụ, mở đài nghe âm nhạc, ông ta không thích nó hoặc tâm trạng xấu, và ông tắt đài. Sau đó người ta giải thích rằng tác giả bản nhạc là - Chaikovski hoặc, 479 thí dụ, Prokofev. Tác phẩm này ra sao? Ở đây có bối cảnh, ý nghĩa, nội tâm người nghe và hấp thụ của nó và nhiều thứ khác. Thế là phải thông qua khái niệm “thích”, “rất không thích”, “không thích”. Nhưng kết quả sau này liên quan đến số phận tác giả, và tất cả công chúng, có thể vô tình tước bỏ tác phẩm tuyệt vời. Tránh được sở thị hiếu này như thế nào? Đặc biệt nếu tính đến rằng cùng một tác phẩm có thể sống những thời kỳ khác nhau và gây một ấn tượng không giống nhau. Một số dễ hơn - tác phẩm của nhà văn. Họ như thợ nề hoặc thậm chí thợ tiện, mài dũa tác phẩm của mình từ các phía khác nhau. Nó tự động tràn vào tất cả môi trường xã hội, thông qua các nhân vật của mình. Đánh giá tác phẩm của nhạc sĩ, hoạ sĩ còn phức tạp hơn. Tôi muốn quay về Stalin đối xử thế nào đối với trí thức. Ông hiểu ý nghĩa xã hội của họ. Nhưng chủ yếu chừng mực nào ông tỏ ra độ lượng, kiên nhẫn, tôn trọng trong từng trường hợp cụ thể. Stalin là người chủ quan chủ nghĩa. Trong khi số phận bất kỳ người nào phụ thuộc vào một lời của ông. Chủ nghĩa chủ quan của ông đôi lúc tạo điều kiện mạnh cho sự phát triển một hướng sáng tạo, đôi lúc làm tê liệt, không cho quay về và chỉ ra bản thân, đôi lúc dẫn tới cái chết và của mọi người, và tác phẩm của họ. Cũng có những nhà văn, không cảm thấy cái ách thống trị này, làm việc mà chẳng có giới hạn trong và ngoài? Rôi khó nói về họ. Vì Stalin là bạo chúa, và ý nguyện của ông quyết định chính sách quốc gia. Nhưng mọi bạo chúa cư xử tốt với văn học chỉ có ở điều kiện nếu nhà văn viết tốt về họ và thời đại của họ. Vì lẽ gì Aleksandr I và Nicolai I hành hạ Puskin? Chính những công lao lịch sử của Puskin trước tổ quốc và văn họ của ông trở nên rõ ràng ngay khi ông còn sống. Tuy nhiên ông bị đi đày không phải một năm và hối tiếc hậu quả tính khí thất thường của Sa hoàng và thuộc hạ. Những thí dụ như thế trong quá khứ nhân loại có thể tìm hàng nghìn. Thời Stalin Vorosilov đảm nhiệm tương đối lâu trả lời về đường lối chính sách nghệ thuật xô viết. Ông là không thông minh từ hoạ sĩ Aleksandr Gerasimov. Tôi đồng ý rằng Aleksandr Gerasimov là hoạ sĩ giỏi. Tuy nhiên Vorosilov thích Gerasimov trước hết là Gerasimov ca tụng ông trong những bức tranh của mình. Cũng có thể nói về các ca sĩ. Những nhạc sĩ, sáng tác bài hát theo một phong cách và thể loại nhất định, đặc biệt nếu chúng làm nổi bật những nhân vật cụ thể, sáng tác nịnh bợ, bịa đặt, được thưởng và được cất nhắc. Bạo chúa tiến kéo họ lại về mình và bằng mọi cách cổ vũ họ. Điều này không cản trở thừa nhận tác phẩm tuyệt vời ở khía cạnh thuần tuý nghệ thuật. 480 Nhà văn Fadeev là người tài năng. Tác phẩm của ông “Sự thất bại” nói về những người du kích Viễn Đông gây ra ấn tượng chấn động. “Đội cận vệ trẻ” - cũng là một tiểu thuyết hay. Nhưng người ta chộp được nhà văn tài năng thậm chí thiên tài này. Cớ gì mà Stalin sau chiến tranh đặc biệt cám ơn chính Fadeev? Vì rằng trong thời gian đàn áp, Fadeev lãnh đạo Hội nhà văn Liên Xô, đã ủng hộ đường lối đàn áp. Và làm bay đi nhiều cái đầu của các tác giả vô tội. Chỉ cần viết rằng trong cửa hàng bán khoai tây thối, và điều này đánh giá như chống Liên Xô, người viết lãnh đủ. Thảm cảnh của Fadeev được giải thích là ông tự sát. Ngay sau khi người ta vạch mặt Stalin và chỉ ra rằng hàng nghìn nạn nhân là hoàn toàn vô tội, thì Fadeev, một người thông minh tế nhị, không thể tha thứ cho mình vì tội phản lại sự thật. Chính giới trí thức văn nghệ cũng chết cùng với những người khác. Còn Fadeev làm chứng gian rằng người ta phát biểu thế này thế nọ chống tổ quốc. Sẵn sàng nghĩ rằng ông làm điều này một cách chân thật, tin vào sự cần thiết của cái gì đã được làm. Nhưng mọi người đứng trước giới trí thức văn nghệ trong vai trò công tố viên của Stalin. Nhưng khi nhìn thấy vòng vâykhép lại, Fadeev chấm dứt cuộc sống của mình. Tất nhiên phải chú ý rằng Fadeev trước lúc đó, đã uống rượu và vì thế đã làm mất nhiều cá tính trước đây của mình. Stalin triệu tập Uỷ ban về giải thưởng Stalin (điều này phải làm trước khi chết để chính tay ông chia giải thưởng mang tên mình), ông đọc báo cáo tặng thưởng Fadeev. Nhưng khi tất cả kết thúc, Stalin nói về Fadeev: - Chật vật lắm mới đứng dậy được, say hoàn toàn! Mọi người thấy điều này, tất cả biết điều này. Không ít lần lãnh đạo phải giáo dục công an và cơ quan an ninh để tìm ông trong một chỗ mua vui nào đấy. Fadeev, đau khổ vji cắn rứt lương tâm đã đi đến tình cảnh như thế này. Ông loại bỏ mình và sợ mặt đốu mặt với những nhà văn mà ông giúp Stalin dồn họ vào tù, một số trong số họ quay về nhà sau này. Biện pháp như thế chỉ là một trong nhiều sai lầm, которые có thể gây ra đối với giới trí thức văn nghệ. Về Tvadovski. Thơ của ông trên miệng hàng triệu người - cả bộ đội đánh nhay với quân Hittler, cả nhân viên hậu cần. Thơ ông nói về Vasili Terkin, một tác phẩm bất hủ. Như mọi người biết Demian Bednyi trong thời gian nội chiến, đúng là Tvadovski nổi tiếng trong những năm chiến tranh vệ quốc. Sau đó thơ ông được viết trong nguyên bộ sách, còn các nhân vật của 481 chúng được vẽ thành tranh. Stalin cảm động nhìn bức tranh có hình Vasili Terkin. Khi Stalin lần đầu tiên nhìn thấy tranh, lập tức đề nghị; “Treo nó ở Kreml”. Và người ta treo nó ở đó, trước lối vào phòng Ekaerina. Nếu, ra từ phòng họp Xô viết tối cao Liên Xô, quay sang phải, то có thể thấy Terkin được vây quanh bởi các chiến sỹ sau giao chiến. Nhưng bây giờ con đường sáng tạo nghệ thuật của Aleksandr Trifonovich Tvadovski chấm dứt không có tôn vinh. Nhưng chính không phải là ở chỗ ông bây giờ chẳng ai thích. Không thể không thừa nhận vai trò sáng tạo nghệ thuật của ông. Nhân dân công nhận ông. Đây là hiện diện chủ nghĩa chủ quan thay đổi từ người lãnh đạo này tới người lãnh đạo kia. Tôi nói vài lời về Pastenak. Tôi không bàn về nghệ thuật thơ ông và chỉ sử dụng ý kiến của các nhà thơ đánh giá rất cao thơ Pastenak, kể cả bản dịch thơ ông từ tiếng nước ngoài. Ông viết tiểu thuyết “Bác sĩ Zivago” và rất muốn người ta in nó. Vấn đề về tác phẩm này được giải quyết như thế nào? Người báo cáo tôi về nó là Suslov, lãnh đạo tuyên huấn. Không có Suslov, không thể có thể đả động đến vấn đề đó. Suslov nói tác phẩm “Bác sĩ Zivago” là xấu, không theo tinh thần xô viết. Chi tiết luận cứ tôi không nhớ, tôi không muốn nói sai đi. Tóm lại, đây là một tác phẩm không đứng đắn, không đáng in. Tôi cũng chấp nhận quyết định này. Tôi cho rằng ở mỗi giai đoạn có những biến cố, ngoài Suslov, chưa ai trong số những người có trách nhiệm, đọc tiểu thuyết này. Tôi thậm chí còn ngờ Suslov đọc nó. Suslov, có lẽ, nên trình bày nội dung tác phẩm ba trang. Tất nhiên bàn về nghệ thuật, lại kết án tác phẩm và tác giả của nó, thật không chịu đựng được! Đâu đâu người ta cũng hỏi tôi? Tôi trả lời: tôi tiếc là bây giờ kết thúc cuộc đời hoạt động của mình như một người về hưu bị đày ở nhà nghỉ cuối tuần vùng Petrovsko-Dalnee ngoại ô Moskva? Trong những năm ấy, khi tôi có khả năng ảnh hưởng đến quyết định - in hoặc không in, chấp nhận hoặc không chấp nhận quan điểm của Suslov, người báo cáo, - thì chính tôi lại chưa đọc cuốn sách này. Tôi chưa đọc, nhưng nhưng lại đưa ra những biện pháp hành chính có hại nhất trong quan hệ với giới nghệ thuật. Đương nhiên, ở nước ngoài om xòm lên, khi bản thảo lọt ra và in nó. Tôi không biết, tác phẩm này tương xứng đến mức nào tiêu chuẩn giải Nobel, nhưng người ta tặng giải này cho Pastenak. Nảy sinh thêm chuyện ầm ĩ: Chính phủ xô viết không cho nhà văn đến nhận giải. Tôi đề nghị các đồng nghiệp: 482 - Hãy thông báo công khai rằng Pastenak nếu muốn, có thể ra nước ngoài để nhận giải của mình. Nhưng Pastenak trả lời qua báo chí rằng ông không đặt vấn đề ra nước ngoài nhân danh mục đích này. Cho đến bây giờ tôi tiếc rằng, thời tôi, cuốn tiểu thuyết ấy không được in. Không thể mang phương pháp cảnh sát để phán xét những người hoạt động nghệ thuật. Cái gì đặc biệt xảy ra, nếu như “Bác sĩ Zivago” được in khi đó? Chẳng có gì cả đâu, tôi tin như vậy! mọi người phản đôi tôi: - Anh tỉnh ngộ muộn. Đúng là muộn thật, nhưng muộn vẫn tốt hơn không bao giờ. Không phải tôi ủng hộ vấn đề của Suslov. Cứ để bạn đọc công nhận tác giả. Nhưng công nhận theo cách khác: tác giả đã bỏ sức lao động, người ta công nhận nó trên toàn thế giới, còn ở Liên Xô bằng các biện pháp chính quyền người ta cấm đoán nó... Tôi cay đắng là đã từng ủng hộ một trong những tác phẩm đầu tiên của Sonzenisyn. Khi tôi tiếp Tvadovski mang tác phẩm này, trình bày nội dung của nó và bày tỏ suy nghĩ của mình: - Tôi coi tác phẩm này là cực kỳ mạnh mẽ và nhận thấy tác giả sẽ là một nhà văn lớn trong tương lai. Đề tài ông đề cập có thể gây ra những đánh giá khác nhau. Mọi người hãy đọc đi. Nhưng tôi đề nghị không in tiểu thuyết này trong tạp chí “Thế giới mới”... Tôi không nhớ tiểu sử Sonzenisyn. Tôi được báo cáo rằng trước đây ông có thời gian dài ngồi tù. Trong cuốn tiểu thuyết, ông có những quan sát riêng. Tôi đã đọc nó. Cuốn tiểu thuyết nặng nề này để lại những ấn tượng, lo lắng, nhưng đúng sự thật. Nhưng chủ yếu gây ra sự kinh tởm những gì được tạo ra thời Stalinе, làm rung động những điều kiện tồn tại của những người dân chân chất. Không phải ngẫu nhiên mà độc giả chúng ta vồ lấy cuốn thiểu thuyết này. Mọi người tìm thấy lời giải thích tại sao những người tương tự Ivan Denisovich, lại bị nhốt vào trại tù trong những điều kiện một đất nước xã hội chủ nghĩa. Tác giả đánh thức nhận thức lơ mơ của nhiều người. Khi về hưu, tôi đọc cuốn hồi ký của tướng Gorbatov, người từng bị đàn áp. Tôi biết Gorbatov trong chiến tranh. Cuối 1941 ông tới mặt trận của chúng tôi đóng ở Kharkov. Khi đó tôi là uỷ viên hội đồng quân sự có thảo luận với ông. Ông không kể chi tiết về nhà tù, mà chỉ nói về những vị tướng Liên Xô vô tội nằm trong tù. Ông kể tên họ. Timosenko cũng quan tâm nghe 483 ông, vì ông cũng biết rõ những người này. Cả hai chúng tôi đã viết thư cho Stalin đề nghị thả họ và đưa họ ra mặt trận. Còn bây giờ tôi biết chi tiết, người ta phỉ báng như thế nào người chỉ huy quân sự xô viết trung thực Gorbatov. Liệu có ít chuyện thế này không? Với Sonzenisyn, ông tiếp tục viết, nhưng không in ở Liên Xô, mà ở nước ngoài. Lúc ấy ông ở “điều kiện đặc biệt”. Tuy nhiên một bộ phận trí thức chúng ta cảm thông với ông và thậm chí còn là liều nữa. Người ta nói ông sống ở nhà nghỉ cuối tuần của Rostropovich, một nhạc sĩ tuyệt vời, một tay violon nổi tiếng. Khi quyết định bước đi này, Rostropovich tự đặt mình vào tình thế không thuận lợi, nói mềm đi. Điều này chứng minh phẩm chất nhân văn và tinh thần mạnh mẽ của Rostropovich. Sonzenisyn không có một tội gì cả. Ông phát biểu suy nghĩ của mình, viết về những gì mình chịu đựng, đánh giá cá nhân về những điều kiện ông giết thời gian những ngày ngồi tù. Và nói chung, ý kiến của ông hoàn toàn đúng: Stalin là tội phạm, mà là bọn tội phạm thì phải khép tội dù chỉ là về tinh thần. Phiên toà mạnh nhất - phỉ nhổ chúng trong tác phẩm nghệ thuật. Ngược lại, tại sao người ta coi Sonzenisyn là tội phạm? Nếu ông viết dở, người ta không đọc ông. Nếu ông vu khống, có thể bắt ông chịu trách nhiệm, nhưng trên cơ sở luật pháp. Hình như không lôi cuốn vì điều này. Nhưng sợ stj. Mặt nghệ thuật trong trường hợp đã nêu chẳng can hệ gì. Chẳng hạn, tôi không thích tác phẩm “Cung điện Materin” của Sonzenisyn, nhưng đây chỉ là việc sở thích. Đừng cản trở người ta bằng thu thập ý kiến. Nói chung khổ sở nhất là dân chúng xô viết - trí thức chúng ta. Cá nhân văn nghệ sỹ đoạt trong tác phẩm của mình định đoạt những quan hệ giữa con người, chịu đựng về tinh thần của họ, sự tiếp xúc của họ với chính quyền và những người xung quanh. Ở đây nhà văn hiếm khi rơi vào tình thế nặng nề. Người ta bắt đầu can thiệp vào công việc của anh ta, kiểm soát ânh ta, kiểm duyệt. chúng ta vẫn nói là không có kiểm duyệt. Đây là chuyện vớ vẩn! Chuyện trẻ con. Tại Liên Xô không những có thật, mà tôi nói thậm chí còn là kiểm duyệt cực kỳ khắc nghiệt. Tôi nhớ số phận cuốn sách Kazakevich “Quyển vở xanh”. Một cuốn sách hay. Sau này nó được làm thành phim, tôi xem phim này hai lần trên TV. Sự thật, Zinovev trong phim là nhút nhát. Sau những biến cố rháng 7-1917 ở Petrograd, ông cùng với Lenin náu mình trong lều. Tác giả cuốn sách gửi cho tôi một bức thư ngắn và đề nghị tôi làm quen với 484 bản thảo. Người ta không chấp nhận in bản thaeo này. Tôi đọc, và tôi thích. Tô không nhận xét một cái gì cả có thể cho là không chấp nhận in nó. Khi đó, tôi nghỉ ở Kavkaz, gần chỗ Mikoian nghỉ. Tôi gọi cho Mikoian và nói: - Anastas Ivanovich, tôi gửi anh bản thảo, tôi đề nghị anh đoc nó, sau đó chúng ta gặp nhau và trao đổi những suy nghĩ. - Ý kiến của anh ra sao? - tôi hỏi, khi chúng tôi gặp nhau. - Tôi - Mikoian trả lời - tôi cho rằng cuốn sách viết tốt đấy. Tôi không hiểu, vì sao bộ phận kiểm duyệt không cho phép in. - Được thôi, khi về Moskva, chúng tôi đặt vấn đề để thảo luận trong Đoàn chủ tịch BCHTƯ - tôi nói. Người ta gửi cuốn sách cuốn sách này cho tất cả uỷ viên Đoàn chủ tịch, và vấn đề của nó được đưa vào nghị sự phiên họp thường kỳ. - Ai có ý kiến gì không? Vì sao cuốn sách này không được in? - tôi hỏi. - Thưa đồng chí Khrusev - Suslov phân vân - làm sao có thể in cuốn này được? Tác giả viết Zinovev gọi Lenin “đồng chí Lenin”, còn Lenin gọi Zinovev “đồng chí Zinovev”. Vì Zinovev- kẻ thù nhân dân. Lời của ông ta làm tôi kinh ngạc. Chẳng lẽ có thể xuyên tạc hoạt động và mô tả những sự kiện lịch sử không phải như thế sao, như chúng đã xảy ra? Thậm chí nếu chúng tôi vứt bỏ những tình tiết, kẻ thù hoặc không phải kẻ thù nhân dân Zinovev, thì sự thật này cũng chẳng cần tranh cãi: quả là, trong lều Lenin và Zinovev cùng sống với nhau. Họ giao tiếp với nhau thế nào? Họ thảo luận các vấn đề nóng bỏng hoặc nói chuyện với nhau khi uống trà trong lều? Hình như họ gọi nhau bằng từ “đồng chí”. Nhưng thậm chí tôi nghĩ rằng Lenin gọi Zinovev bằng tên - Grigori, vì ở họ khi đó là quan hệ gần gũi. Những tháng đầu tiên sau cách mạng tháng Hai họ giữ chung nhau một ý kiến về mọi vấn đề. Và tôi nhận xét: - Nhưng xin nghe, họ là những người bạn và sống trong cùng một lều. Họ nhiều năm chung nhau chống chính quyền quân chủ. Nói khác đi có thể họ gọi nhau là bạn? Làm gì khi một người sau này bị kết án? Zinovev bạn chiến đấu Lenin. Cách thể hiện, được tác giả sử dụng, là tất nhiên và bình 485 thường. Có thể, tất nhiên, làm phụ chú nhắc đến thân phận Zinovev sau này. Nhưng điều này là sự ngu ngốc. Những người tỉnh táo chẳng cần những phụ chú như thế. Các uỷ viên Đoàn chủ tịch ủng hộ tôi. Quyết định không không cản trở xuất bản, và cuốn sách đưa vào in. Liệu bây giờ nó gay ra ngờ vực nào đấy? Có thể các nhà phê bình không được hài lòng. Tuy nhiên đây là việc hoàn toàn khác. Việc phê bình để cổ vũ tạo điều kiện nâng cao tay nghề của văn học. Nhưng bỗng nhiên dùng biện pháp cảnh sát: kìm hãm và không dân chủ! Suslov vẫn thực hiện chức năng cảnh sát giống như trong quá khứ và hiện nay. Tất nhiên ông là người trung thực và trung thành ý tưởng cộng sản. Nhưng sự hạn hẹp cảnh sát của ông mang lại thiệt hại lớn. người ta nói với tôi: - Sao ông quá nhẫn nại ngồi cùng Suslov trong ban lãnh đạo đất nước? Đúng, tôi sai lầm. Đơn giản tôi cho rằng nếu Suslov làm việc trong tập thể, thì chúng tôi có ảnh hưởng đến ông và ông trở thành có ích. Vì thế tôi không đặt vấn đề thay ông, mặc dù nhiều người khi đó cảnh báo rằng Suslov phủ nhận vai trò. Trí thức quan hệ xấu với ông. Một lần nữa nhớ lại số phận cuốn sách “Bác sĩ Zivago”, không thể tha thứ cho mình việc cấm nó ở Liên Xô. Tôi có lỗi là không đặt vấn đề cuốn sách đó như đối với “Quyển vở xanh. Sự khác nhau (mặc dù cũng không đúng) là ở chỗ tôi đã đọc “Quyển vở xanh” và nhìn thấy tận mắt sự ngu ngốc của kiểm duyệt. Tôi đề nghị họ cho lời giải thích với Đoàn chủ tịch BCHTƯ. Họ tỏ ra vô căn cứ, thậm chí nhạo báng, và chúng tôi không đủ mạnh để sửa lại cách hành xử cảnh sát. Nhưng “Bác sĩ Zivago” tôi không đọc, và không ai trong lãnh đạo đọc cả. Người ta cấm cuốn sách, những người thực hiệc làm theo nghĩa vụ công việc theo dõi tác phẩm nghệ thuật. Chính việc cấm đoán này gây ra nhiều tội ác, gây ra thiệt hại trực tiếp cho Liên Xô. Đả lích chúng tôi là những trí thức ở nước ngoài, trong số này có cả những người không thù địch về nguyên tắc chủ nghĩa xã hội, nhưng họ được tự do phát biểu ý kiến. Bây giờ - về Erenburg. Tôi gặp ông ta không phải một lần. Một nhà văn giỏi, tài năng. Ông vẫn đọng lại như thế trong văn học. Nhưng ở ông có một cái gì đó dĩ hoà vi quý với những phương pháp lãnh đạo của Stalin. Có thể, tôi quá 486 khe khắt với Erenburg. Cuộc sống là như thế, không hoà giải có lẽ ông không sống nổi. Ông không đủ kiên trì bênh vực những hiểu biết riêng những biến cố, quan điểm của mình. Không phải luôn luôn như thế, thỉnh thoảng ông cũng thể hiện sự cứng rắn. Tôi nhớ, khi Stalin có một lần cần đến phát biểu công khai rằng Liên Xô không bài người Do thái, và Stalin quyết định tuyển mộ nhóm của ông, chính xác hơn, là chữ ký của ông (các tác giả khác Stalin hoàn toàn lo được chữ ký) Erenburg và Kaganovich. Kaganovich đúng là xoay xở tất cả, khi Stalin nói chuyện với ông theo lý do này. Có cảm giác rằng Kaganovich không muốn làm điều này. Nhưng Kaganovich lại làm tất cả những gì mà Stalin nói với ông. Sau đó Stalin giao cho ai đó nói chuyện này với Erenburg. Erenburg thẳng thừng phản đối ký vào văn bản ấy. Điều này chứng tỏ rằng ông có cá tính và dám đương đầu với ý định của Stalin, mặc dù Stalin với ông không trực tiếp nói chuyện này. Erenburg đem ra dùng từ “trời ấm lên”. Ông cho rằng sau khi Stalin chết cuộc sống của mọi người ấm lên. Tính cách đó không phải là tích cực. Hoàn toàn, làm yếu đi. Nếu nói theo ngôn ngữ cảnh sát chúng tôi bớt đi sự kiểm soát, mọi người phát biểu tự do hơn. Nhưng ở chúng tôi vẫn có cuộc đấu tranh hai cảm nhận. Một mặt, việc bớt hà khắc phản ánh tinh thần mới, mà chúng tôi hướng tới điều này. Mặt khác, trong số chúng tôi, còn cod những nhân vật cật sức không muốn làm ấm lên và quở trách: giá như Stalin còn sống, thì ông không cho phép làm điều như thế. Rõ ràng giọng điệu chống sự ấm lên. Nhưng Erenburg trong tác phẩm của mình rất biết rõ quan sát khuynh hướng ngày nay, đem lại đặc tính tương lai. Tôi cho rằng từ của ông phản ánh hoạt động, mặc dù chúng tôi phê bình khái niệm “trời ấm lên”. Sự phát triển tương tự những biến cố có thể trong công việc chính trị. Vì thế chúng tôi tựa như kiềm chế “trời ấm lên”. Chúng tôi sợ bị tước đoạt khả năng trước đây điều khiển đất nước, kiềm chế những tâm trạng, không vừa lòng quan điểm lãnh đạo. Chúng tôi sợ rằng lãnh đạo không có khả năng làm đúng chức năng của mình và lái sự tiến bộ để giữ xô viết tồn tại. Chúng tôi giải phóng sức sáng tạo của mọi người, nhưng sao cho những tác phẩm mới phải giúp phòng thủ CNXH. Tựa như muốn bú, và mẹ không cho. Có lần chúng tôi thảo luận trong BCHTƯ Đảng với trí thức văn nghệ. Erenburg cũng được mời. Tôi không nhớ, có mặt Simonov không, nhưng tôi nhớ có Tvadovski, Evtusenko, Ernst Neizvetnyi. Nói riêng, thảo luận về điêu 487 khắc. Cả Galina Serebriakova cũng có mặt tại cuộc thảo luận. Bà phát biểu rất mạnh chống Erenburg. Erenburg, nghe bà nói, đúng là như đỉa phải vôi, nhẩy cẫng lên, còn bà vẫn quất túi bụi, gọi ông là kẻ nịnh bợ nịnh bợ Stalin và lên án ông khi Stalin chặt đầu và lưu đầy nhà văn, Erenburg phát biểu ủng hộ chính sách Stalin trong quan hệ với văn nghệ sỹ. Erenburg rất bực tức. Tôi hiểu Serebriakova, một tác giả tài năng của bộ sách 3 quyển về Marx và Ăng-ghen. Bây giờ Serebriakova biến mất khỏi chân trời, từ lâu tôi không nghe tên bà, trên bìa sách thoáng qua không có tên bà. Có thể, tác phẩm của bà có những lời thú nhận và nhìn thấy ánh sáng? Bây giờ tôi tiếc nhiều người không có mặt tại buổi thảo luận. Khi phê bình Neizvetnyi, thậm chí tôi tỏ thô lỗ, nói rằng ông lấy cho mình cái họ như thế không phải vô cớ. Họ của ông làm tôi tức giận. Trong mọi trường hợp, từ phía tôi thể hiện sự thô lỗ, và nếu như tôi gặp ông bây giờ, thì tôi đề nghị ông tha thứ. Hơn nữa khi đó, tôi giữ chức vụ cao và không kiềm chế, không còn là cuộc trao đổi mà là quát mắng. Evtusenko phát biểu rất hăng, ủng hộ Neizvetnyi. Chủ nghĩa trừu tượng không phải là hướng mới trong văn hoá, nó có từ lâu và cũng từ lâu, một bộ phận trí thức đấu tranh chống xu thế này. Nó đặc biệt phát triển ở nước ngoài, mặc dù cả ở nước ta cũng có những người theo chủ nghĩa trừu tượng và những người khác khuynh hướng vị lai (tương lai). Một người trẻ tuổi theo chủ nghĩa vị lai là Maiakovski đi trong áo len vàng. Tôi vẫn chưa tán thành trào lưu đó trong văn học, kịch, và điêu khắc. Nhưng tôi không nói gì. Không thể bằng biện pháp hành chính chống lại những gì nảy sinh trong môi trườngvăn nghệ sỹ: kịch, điêu khắc, âm nhạc... Evtusenko khi đó nêu một thí dụ cụ thể chẳng hạn ở Cuba những những người theo trường phái trừu tượng và những người theo trường phái hiện thực phát biểu cùng với nhân dân bảo vệ thành quả cách mạng, chống xâm lược.! Và mặc cho những chứng cứ thông minh của Evtusenko, người ta vẫn phê bình Neizvetnyi rất mạnh. Neizvetnyi sau này nhắn tôi qua cán bộ Agitprov (không phải BCHTƯ Đoàn thanh niên cộng sản) rằng ông chuyển sang quan điểm hiện thực chủ nghĩa. Tất nhiên tôi hài lòng. Thật là Neizvetnyi - một người tài năng. Bây giờ báo chío viết rằng ông sáng tác một loạt tác phẩm tốt. Tôi cũng vui mừng. Chừng mực nào mà phê bình có thể giúp ông? Có thể, chính bản thân ông quay về vị trí hiện thực trong sáng tạo của mình. 488 Tôi hối hận về cách phê bình Neizvetnyi, theo bản chất, thì tôi và không đồng ý với những người theo chủ nghĩa trừu tượng. Đơn giản là tôi không hiểu, và chống. Tôi theo xu hướng hiện thực chủ nghĩa. Tôi nhớ, khi ở Anh, tôi sống ở nhà nghỉ cuối tuần ngoại ô và bàn bạc với Anton Iden. Ông nhân thể hỏi tôi: - Ngài Khrusev, Ý kiến của Ngài thế nào về chủ nghĩa trừu tượng và những trào lưu mode khác trong nghệ thuật hiện đại? Tôi trả lời: - Tôi không hiểu những thứ đó, thưa ngài Iden. Tôi đứng vững ở vị trí nghệ thuật hiện thực. - Và tôi cũng không - Iden nói - và cũng ở vị trí hiện thực chủ nghĩa. Sau đó ông cười và nói thêm: - Những người cộng sản cộng yêu Picasso, sao nhỉ? Picasso không phải là người theo chủ nghĩa hiện thực. Tôi nói với ông: - Đúng, Picasso - hoạ sĩ lớn, tác giả bức tranh nổi tiếng “Chim bồ câu hoà bình”, là biểu tượng đấu tranh cho hoà bình. Tôi chẳng phê bình mà cũng chẳng bênh Picasso. Tôi kính trọng Sostakovich. Bây giờ tôi không nhớ, Zdanov đã phê bình cụ thể cái gì trong tác phẩm của ông. Nhưng tôi không thể nói rằng Sostakovich nói chung bị ruồng bỏ thời Stalin. Ông viết nhiều tác phẩm hay, cả trong thời gian chiến tranh, khi ông sáng tác kiệt tác của mình - bản giao hưởng phòng thủ Leningrad. Về công lao, ông có vị trí nổi bật trong số nhạc sĩ và là một trong những nhạc sĩ giỏi của âm nhạc. Thời còn làm lãnh đạo Liên Xô tôi không hiểu Sostakovich tại sao ông ủng hộ nhạc jazzz. Nói thẳng là ông đúng. Không thể đấu tranh với âm nhạc, kể cả jazz bằng biện pháp hành chính. Hãy để chính nhân dân biểu hiện mối quan hệ với nó. Tôi không phí thời gian phê bình Utesov. Hồi còn trẻ, khi mọi người hát những bài hát của Utesov, thì báo Sự Thật chửi rủa Utesov. Tôi có một người bạn Lev Rimski, một người cộng sản trong trắng. Ông thường hát hát “Bánh mỳ vòng nóng ròn đây”, và kể cho tôi nghe những người bạn của ông làm việc ở xưởng in báo “Sự Thật”, chuẩn bị in những bài báo phê phán Utesov, nhưng chính họ lẩm nhẩm hát trong thời gian những bài hát thịnh 489 hàng. Đây là sự đánh giá của nhân dân! Tôi không phân tích sáng tạo nhiều mặt của Utesov, trong số này có những bài hát “tiếng lóng của bọn du đãng. Ngược lại, tôi rất hài lòng, lại xuất hiện những đĩa bài hát Utesov trong cửa hàng, mà tôi thường nghe. Còn cả những thứ khác. Tôi thường tắt radio khi phát bản jazz làm đâu đầu. Không phải là âm nhạc, mà là những tiếng chói tai. Tôi không hiểu những nhạc sĩ người như thế lại thích được nhạc này. Nhưng đây là việc của tôi. Nhưng có người nghe nó, vỗ tay và bốc lên sự thích thú. Tiếp theo, họ thích? Vì thế các áp dụng biện pháp hành chính cho nghệ thuật là không thể. Người phát biểu phải là khán giả. Tôi là người già, được giáo dục theo khuôn mẫu khác nghệ thuật âm nhạc. Tôi thích những bài dân ca, những điệu múa nhân dân, âm nhạc nhân dân. Tất nhiên và cả nhạc cổ điển. Nhưng không phải là jazz. Tôi ở đây tựa như mang sự sám hối, không phải tuyệt đói như thế: mà là thừa nhận những sai lầm của tôi, khi tôi có ủng hộ hoặc cấm trào lưu nghệ thuật nào đấy. Trong thâm tâm tôi bây giờ cũng chống một số trong chúng. Đơn giản tôi nhấn mạnh rằng không đấu tranh như thế với cái mà mình không thích. Có lúc những cô gái mặc váy ngắn. Sau đó lại xuất hiện váy dài. Mode thay đổi cả trong âm nhạc và còn lại tất cả. Phải có kiên nhẫn với sự thay đổi này. Nhưng có phải họ làm yếu hệ tư tưởng cộng sản? Theo tôi, hoàn toàn không! Ở đây Evtusenko đúng. Chúng tôi từng phê bình Maiakovski, còn Maiakovski để lại cho đất nước những tác phẩm cho đến bây giờ vẫn là vũ khí của ĐCS trong cuộc đấu tranh cho tương lai tốt đẹp. Chẳng hạn, không ai trong số các nhà thơ viết về Lenin truyền cảm hơn ông. Mặc dù Maiakovski theo phong cách thơ của mình đối với tôi rất khó. Khi tôi mang nó ra đọc, thì thơ ông tác động đến tôi không phải khi tôi nghe. Khi ngâm, những vần thơ vang lên nghiêm túc và được thúc giục. Tôi nói điều này để xác nhận Evtusenko nói đúng. Nhưng chính những vần thơ của Evtusenko liệu có làm tôi thích không? Đúng, tôi thích. Vả lại, tôi không thể nói về tất cả những bài thơ của ông mà tôi chưa đọc. Tôi biết rằng một số đã thành lời bài hát. Chẳng hạn, “Người Nga muốn chiến tranh phải không?”. Một số người phát biểu phê phán lời bài hát này: dường như thơ của Evtusenko nói chung phủ nhận chiến tranh và làm rã đám tinh thần bộ đội. Họ sai. Lời thơ của ông thể hiện bản chất cuộc đấu tranh chống quân sự hoá và cảnh báo nếu buộc chúng tôi phải chiến tranh, thì nước Nga có thể đường 490 hoàng đánh trả. Tôi cho rằng Evtusenko là nhà thơ rất khả năng, mặc dù và tính ông ngang tàng. Và lại sự ngang tàng là khái niệm phụ thuộc vào quan điểm. Đơn giản là con người ta không phải luôn luôn đặ trong khung, nếm mùi bởi kiểm duyệt, nghĩa là những những người tất cả phải chịu sự thần phục và làm vừa lòng người ta người ta. Nhưng nếu mọi người viết như nhau, dùng những luận cứ như nhau, xuất phát từ cùng một hiểu biết như nhau, thì chẳng bao giờ sinh ra nghê thuậtcả. Cuối cùng tất cả mọi người chỉ nhai đi nhai lại một thứ. Các tác phẩm như thế chỉ làm cho người đọc nôn mửa. Nhất định phải dũng cảm hơn tạo ra điều kiện cho văn nghệ sỹ phát biểu, hành động, sáng tác. Hãy sáng tác! N. S. Khrusev Hồi ký của Khrusev bị ngắt ở đoạn văn này được ghi trong số đầu tiên tháng 9-1971. Ngày 5-9-1971, ông bị đột quỵ lần thứ ba, ngày 11-9-1971 ông qua đời. Chương cuối cùng cuốn hồi ký “Tôi không phải quan toà...” không làm tác giả thích. Khi nghe băng, ông đề nghị xoá đi để có thể đọc lại. Nhưng số phận không điều khiển được. Chương này chứng minh tác giả đánh giá và đánh giá lại một số sự kiện trước đây, thỉnh thoảng không đồng ý với chính mình. HẾT

 Nguồn:http://www.tusachnghiencuu.org/pdf_files/HoiKy_Khrusev

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nếu không thay đổi thì Việt Nam không có tương lai !


Đổi mới là mệnh lệnh của thời đại

(phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội)
TT - “Tại kỳ họp lần này, Quốc hội tiếp tục thảo luận, xem xét thông qua việc sửa đổi Hiến pháp, đây là cơ hội lịch sử để chúng ta thiết kế nền quản trị quốc gia
VÕ VĂN THÀNH thực hiện


đáp ứng được yêu cầu của thời đại, tạo ra xung lực mới cho sự phát triển”. TS Nguyễn Sĩ Dũng (phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội) nói trong cuộc trò chuyện với uổi Trẻ. * “Nếu không đổi mới, chắc chắn VN sẽ khó khăn, tôi nghĩ Quốc hội cũng cảm nhận được điều này”. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh đã phát biểu như vậy tại Quốc hội. Cá nhân ông cảm nhận ra sao? "Chúng ta đang sống trong một thế giới đã thay đổi. Sống theo cách cũ, vì vậy sẽ không có tương lai" TS NGUYỄN SĨ DŨNG - Cá nhân tôi cảm nhận là Bộ trưởng Bùi Quang Vinh đã nói rất thẳng thắn và rất đúng đắn. Chúng ta đang sống trong một thế giới đã thay đổi. Sống theo cách cũ, vì vậy sẽ không có tương lai. Điều đáng lưu ý là không chỉ thế giới đã rất khác, mà những người dân cũng đã rất khác. Tôi có cảm giác là hàng chục triệu người dân đã hội nhập với thế giới hiện đại nhanh chóng và hiệu quả hơn so với nhiều thiết chế đang vận hành nền quản trị quốc gia của chúng ta. Sự khó khăn mà Bộ trưởng Vinh phát biểu tại Quốc hội có thể đến không chỉ từ việc phải cạnh tranh toàn diện với các quốc gia khác, mà còn từ những mong đợi và những đòi hỏi lớn hơn của những người dân đã hiểu biết và trưởng thành vượt bậc. * Vậy thì đổi mới tiếp theo nên bắt đầu từ đâu, theo ông? - Mọi chuyện đều nên bắt đầu từ chính cái đầu của chúng ta. Không có sự cầm tù nào thê thảm và tàn hại bằng sự cầm tù tư duy của con người. Đổi mới tư duy chính vì vậy phải là bước đầu tiên, cũng là bước tiếp theo cho mọi sự đổi mới mà chúng ta tiến hành. Đây rõ ràng không phải là điều gì quá mới mẻ. Điều này đã được Đảng ta nói tới hàng chục năm nay. Vấn đề là thiếu những kiến thức mới, những khái niệm mới..., thật khó lòng đổi mới được tư duy. Quả thật, làm sao có thể đổi mới tư duy bằng cách xào nấu lại các giáo điều xưa cũ?! Khi đã có tư duy mới, cái cần phải đổi mới trước tiên có lẽ là nền quản trị quốc gia. Thế giới đã chứng minh rằng không phải tài nguyên, vị trí địa lý hay thời tiết mà thể chế do con người xây dựng là nguyên nhân căn bản của sự thành công hay thất bại về kinh tế, cũng như về phát triển nói chung. Nhân đây, câu chuyện thành công của đội bóng U-19 gợi cho chúng ta điều gì? Phải chăng là nếu tổ chức được mô hình theo chuẩn quốc tế thì “thấp bé nhẹ cân” như các cầu thủ VN vẫn có hi vọng, và ngược lại? Tại kỳ họp lần này, Quốc hội tiếp tục thảo luận, xem xét thông qua việc sửa đổi Hiến pháp, đây là cơ hội lịch sử để chúng ta thiết kế nền quản trị quốc gia đáp ứng được yêu cầu của thời đại, tạo ra xung lực mới cho sự phát triển. * Ông hình dung nền quản trị quốc gia “đáp ứng được yêu cầu thời đại” như thế nào? - Tôi hình dung nền quản trị quốc gia hiện đại phải đáp ứng mấy yêu cầu sau: 1- Bảo đảm pháp quyền. 2- Bảo đảm trách nhiệm giải trình. 3- Bảo đảm sự minh bạch. 4- Bảo đảm sự tham gia và sự dự phần của mọi người dân. Tất nhiên, những điều nói trên hoàn toàn không phải là sáng kiến của cá nhân tôi. Đó là sự tổng kết của Liên Hiệp Quốc từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới. Như vậy, đòi hỏi đầu tiên đối với việc đổi mới nền quản trị quốc gia là phải xác lập cho bằng được pháp quyền (cách mà chúng ta hay gọi hơn là xây dựng nhà nước pháp quyền). Đây là một vấn đề mang tính kỹ trị. Ý chí chính trị phải kết hợp với kiến thức và sự hiểu biết mới giúp chúng ta xây dựng được pháp quyền. * Ông có đề xuất mô hình cụ thể nào không? - Khoảng một vài tuần trước khi cố thủ tướng Võ Văn Kiệt qua đời, bác Kiệt có gọi tôi lên trò chuyện, và tôi đã trình bày một số suy nghĩ của mình. Lúc bấy giờ tôi có nói rằng cần phải hết sức tránh việc hình thành hai nhà nước trong một đất nước. Chúng ta có thể nghiên cứu nhất thể hóa sâu rộng hơn, tương tự như Singapore chẳng hạn, để Đảng lãnh đạo thật sự “hóa thân” vào Nhà nước. Làm được điều này, chúng ta không chỉ tránh được rủi ro của những xung đột không đáng có giữa Đảng và Nhà nước, mà còn xác lập được chế độ trách nhiệm giải trình hữu hiệu, bảo đảm được quy trình ban hành quyết định minh bạch, rõ ràng và đỡ tốn kém thời gian, công sức hơn. Tôi cho rằng hiện nay đây là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất để đổi mới nền quản trị quốc gia của chúng ta. Thật ra, nhất thể hóa cũng là chủ trương đã được Đảng ta đề ra, chứ không phải là điều gì mới mẻ cả. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất lớn. Nhiều khía cạnh của vấn đề lại không thể chỉ giải quyết bằng mỗi một việc là sửa đổi Hiến pháp. Tất nhiên, có những vấn đề cơ bản khác nếu không được thiết kế trong Hiến pháp thì rất khó mở đường cho việc đổi mới tiếp theo nền quản trị quốc gia. * Văn kiện Đại hội XI có nói đến việc “tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận”. Vấn đề nêu trên chạm đến những lý luận rất lớn và sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, ông nghĩ tính khả thi đề xuất của mình đến đâu? - Người Anh có câu ngạn ngữ: “Bạn không bao giờ biết bạn có thể làm được điều gì, trước khi bạn thử làm điều đó”. Tôi nghĩ rằng người Anh không phải là không có lý. VÕ VĂN THÀNH thực hiện Bộ trưởng BÙI QUANG VINH - Ảnh: V.DŨNG “Năm 2016-2020 nếu VN không đổi mới chắc chắn VN sẽ khó khăn, tôi nghĩ Quốc hội cũng cảm nhận được điều này... Tôi tin tưởng đất nước VN sẽ phát triển với những con người thông minh và có học hành, chắc chắn VN sẽ không thua kém các nước như Hàn Quốc và Nhật. Tất nhiên ở nhiều góc độ nhìn khác nhau thì chúng ta thấy vấn đề khác nhau. Nhưng có thể nói trên bình diện thống kê, phân tích chi tiết thì chúng tôi thấy ta đang có bước phục hồi mặc dù phục hồi còn ít và chưa thật sự bền vững. Đó là những tín hiệu tốt, chúng tôi nghĩ rằng lúc này niềm tin là điều quan trọng và chúng ta cần phải xây dựng niềm tin để chúng ta vươn tới”. (Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh phát biểu trong phiên thảo luận của Quốc hội về kinh tế - xã hội sáng 1-11) Quốc hội thảo luận về Hiến pháp và Luật đất đai Trong tuần làm việc thứ ba của kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Quốc hội dành hai ngày để thảo luận tại hội trường về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (ngày 5-11), về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật đất đai sửa đổi (6-11). Hai nội dung này được truyền hình và phát thanh trực tiếp. Chương trình nghị sự của Quốc hội trong tuần còn gồm các nội dung quan trọng khác như thảo luận về dự thảo Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi); công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; công tác phòng chống tham nhũng năm 2013; việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012; việc sửa đổi, bổ sung nghị quyết số 38/2004/QH11 ngày 3-12-2004 của Quốc hội về chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh. Trong tuần, Quốc hội cũng sẽ nghe một số tờ trình về dự án Luật xây dựng (sửa đổi); dự án Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi); dự án Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế.
 MAI HƯƠNG - Nguồn: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/578150/doi-moi-la%CC%80-me%CC%A3nh-le%CC%A3nh-cu%CC%89a-tho%CC%80i-da%CC%A3i.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

LỤC BÁT... LẨN THẨN




                                                                   Nguyễn Hải Triều

Tự nhiên
rêu vẫn cứ xanh
tự nhiên ta đứng một mình
buồn thiu…

Mưa về
cột tiếng chim kêu
rồi mung lung nhớ
rồi liêu xiêu lòng

Nghe trong
từng nỗi đợi mong
từng mùa đi ở
lòng vòng gió mưa

Quạnh hiu ơi
em về chưa?
thốt trong làn khói
bóng xưa mập mờ

Ừ thì
còn mỗi giấc mơ
ừ thì còn những
đợi chờ xa xăm

Có ai khóc
với trăng rằm
ai cười ngửa gió sương
trăm lá cành

Tự nhiên
rêu vẫn cứ xanh
tự nhiên ta đứng một mình
buồn thiu…

                                         Tháng 10/2013
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lạm bàn về đạo đức cũ và đạo đức mới

Hiện nay người ta hay nghe cụm từ " suy thoái đạo đức ". Nhiều người không hiểu loại đạo đức suy thoái là loại đạo đức gì ?Đạo đức cũ hay đạo đức mới . Đạo đức cũ hay còn gọi là đạo đức cổ truyền đã bị suy đồi mai một từ thời Pháp thuộc khi :

                                                 "Cái học nhà nho đã hỏng rồi 
                                                  Mười người đi học chín người thôi " ( Trần Tế Xương )
   
    Như vậy cái đạo đức được đề cập đến ắt hẳn là đạo đức mới - đạo đức XHCN.Vào những năm sau 1975, có một mệnh đề rất phổ biến :Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới XHCN.  Loại đạo đức nầy được đưa vào chương trình giáo dục mỗi tuần từ 1 đến 2 tiết ở bậc tiểu học và trung học . Đó là môn Đạo đức , môn Giáo dục công dân Còn ở bậc đại học bất cứ phân khoa chuyên ngành nào cũng có giáo trình tư tưởng Hồ chí Minh .
  Có hai cực đoan trong mục tiêu giáo dục đào tạo : Một là đào tạo mộtcon người nhân loại phi thời gian phi không gian , có đủ mọi yếu tố tốt đẹp cho một con người nói chung . Đó là điều không tưởng. Hai là đào tạo một con người đáp ứng nhu cầu xã hội theo một định chế nhất định , một giai đoạn lịch sử nhất định . Đó là điều bi hài .
  Chính vì hai cực đoan trên mà nảy sinh ra đạo đức cũ và đạo đức mới .
  Đạo đức cũ là đạo đức cổ truyền đã có từ bốn ngàn năm văn hiến . Nó đã được ăn sâu trong huyết quản và mạch sống của dân  tộc . Ngày xưa việc giáo dục đạo đức là nhiệm vụ của các tôn giáo ( Nho , Phật , Lão ). Nhà Lý , nhà Trần mở khoa thi tam giáo để cử hiền tài . Việc dạy dỗ giáo huấn các sĩ tử cậy vào các nho sĩ , các nhà sư . Đến thời Lê thì Nho giáo độc tôn  . Cái học của Nho gia , Phật gia là cái học cốt để làm người . Lý Công Uẩn - vị vua đầu tiên của nhà Lý - học làm người trước khi làm vua . Ông xuất thân từ một sa di vừa học ở cửa Khổng vừa học ở cửa Không . Điểm khác nhau giữa đạo đức cũ và đạo đức mới ở chỗ tương quan giữa chính trị và đạo đức . Với đạo đức cũ thì chính trị diễn dịch từ đạo đức ; với đạo đức mới thì đạo đức diễn dịch từ chính trị .
  Chữ chính trị theo nghĩa từ nguyên có nghĩa là làm cho mọi việc được ngay ngắn . Trong học thuyết chính danh Khổng Tử nói : " Chính giã chính dã , tử xuất dĩ chính , thục cảm bất chính " ( Chính trị ấy là chính vậy , nay ngài ra chấp chính mà tự mình chính đính thì còn ai dám bất chính ).
   Chữ chính trong chính trị có nghĩa là chính (  ) thế mà bọn hôn quân, tham quan cầm đầu chính phủ cũng xưng là chính . Đó là danh không chính, ngôn không thụân .
   Như vậy , cổ thời , chính trị diễn dịch từ đạo đức và đạo đức đặt trên căn bản chính danh , chính tâm và thành ý .
  Một người bình thường biết tu thân , biết tề gia thì có thể ra đảm đương việc nước . Cái gốc của đạo đức là tu thân . Tu thân là trách nhiệm bản thân của mỗi con người bất luận lớn hay nhỏ , dân thường hay vua chúa .Đạo đức là một quá trình tự tu , tự chuyển hóa chứ không phải nghe rao giãng , học thuộc lòng , viết thu hoạch . Khổng Tử nói : " Tự thiên tử dĩ ư thứ dân , nhất thị dĩ tu thân vi bản" (Từ vua chúa cho đến thứ dân , ai cũng phải lấy việc tu thân làm gốc ). Không tu thân , thiếu đạo đức mà ra nắm quyền chấp chính đó là kẻ tiểu nhân ngạo mạn  làm liều .
  Muốn tu thân phải chính tâm , muốn chính tâm phải thành ý . Thành ý tột đỉnh gọi là chí thành . Cụ Phan Bội Châu đã nói : " Muốn làm thánh triết phải ở chính tâm , thắng được giặc tâm mới là danh tướng " .
   Đạo đức cổ truyền không đơn thuần là một môn học mà còn là một khoa học ; hơn thế nữa , là minh triết . Nhiều người bài xích đạo Nho cho đạo Nho là hủ lậu , phản khoa học . Đó là vì họ đánh đồng giữa chân Nho với ngụy Nho ( hủ Nho , hương Nho ).Thiết nghĩ cần định nghĩa lại khoa học : Khoa học là quan sát , phân tích , suy luận tường tận và trình bày minh bạch những sự kiện đã quan sát được , vạch rõ đâu là nguên do đâu là hậu quả , đặt sự kiện nào trước sự kiện nào sau theo hệ thống nhân quả .
 Theo định nghĩa đó thì hệ thống đức lý của Nho giáo là một khoa học , một minh triết . Những vấn đề đức lý được trình bày trong hai cuốn Đại học và Trung dung . Đại học dạy về tu thân , Trung dung dạy về chí thành.Mục tiêu đào tạo theo đường hướng giáo dục trong hai cuốn sách trên nhắm đến những ai có hoài bão , có trách nhiệm lãnh đạo quốc gia dân tộc . Tinh thần khoa học của Đại học và Trung dung nằm ở chỗ vấn đề tri bản được đặt ra bằng phương pháp rõ ràng : Mọi vật đều có gốc có ngọn , có trước có sau , ta phải biết đâu là gốc đâu là ngọn , đâu là trước đâu là sau . Cái học nhà Nho là cái học đào tạo con người và chuyên môn một cách song hành : học cho biết cương thường đạo lý để làm người ; học cho biết cách vật chí tri . Cương tức là tam cương . Thường tức là ngũ thường . Tam cương : Quân thần cương  , phu thê cương , phụ tử cương . Ngũ thường : Nhân , nghĩa , lễ , trí , tín . Nói đến luân lý đạo đức mà không nhắc đến tam cương ngũ thường là phi đạo đức ( dù là đạo đức cũ hay đạo đức mới ). Việc tu thân làm gốc , việc giữ gìn giềng mối tam cương ngũ thường không bao giờ là lạc hậu dù nhân danh bất kỳ ý hệ nào .Đạo đức diễn dịch từ chính trị xuất phát từ việc mất đạo nên còn lại đức ,  mất đức nên còn lại nhân ,  mất nhân nên còn lại nghĩa , mất nghĩa, trí , tín nên còn lại lễ .Bấy giờ lễ chỉ là hình thức lễ nghi ( theo kiểu Tàu - Chinoisie). Đặt đạo đức trên căn bản chính trị chẳng khác nào dộng ngược đầu - gốc trên ngọn , mạc trên bản. Bản mà loạn thì mạc không thể có được .
  Ngoài đạo Nho , đạo Phật cũng góp phần giáo hóa con  người trở thành con người đích thực , xa hơn nữa là Phật giáo đưa con người đến chỗ siêu hóa vượt lên chính mình để thể nhập cuộc sống toàn diện . Đường hướng giáo dục Phật giáo không tách rời giáo dục và đức dục , trí tuệ và từ bi . Phương châm giáo dục gồm có ba chữ : Bi- Trí - Dũng .Bi , trí , dũng không tách rời ba thành phần khác nhau và không đối nghịch nhau .Cả ba dĩễn tả một thực tại sống động : Trí đích thực là trí khi có bi và dũng kèm theo . Bi đích thực là bi khi có trí soi sáng và có dũng ủng hộ . Một người được mệnh danh là trí thức là người có lòng trắc ẩn và can đảm đấu tranh cho sự thật không sợ hãi trước nguy khốn . Nhờ có tinh thần đại hùng , đại lực , đại từ bi mà quân dân nhà Lý đã làm cho quân Tống khiếp sợ ; nhà Trần đã làm cho quân Nguyên Mông ba lần thất bại thảm hại . Cũng trong tinh thần đó mà vua dám bỏ ngôi , quan biết từ chức , dân không thiết chức khi thấy mình không đủ tài năng .
  Trong thời Pháp thuộc , phong trào Tây học lấn áp Nho học . Đạo Nho bị suy tàn . Không ai mặn mà với cái học Nho ; và đạo đức cổ truyền cũng dần dần mai một . Cách đây tám mươi bảy năm , vào ngày 17 tháng  3 năm 1926 cụ Phan Bội Châu đọc diễn văn tại trường Khải Định trong đó có đoạn viết : " Tới lúc bây giờ , hình thức học đường tuy là khác học đường khoa cử ngày xưa rất nhiều , da vỏ bề ngoài hình như vừa mắt , nhưng xét đến tinh thần cốt tủy có khác gì vượn học tiếng người , đạo đức cũ đã sạch sành sanh , và văn hóa mới chẳng có chút gì dây vướng ở học đường , ra rồi chưa có thành tựu gì mà chỉ thấy cái bình rượu Tây , túi cơm Tây , ngồi xe Tây ngày ngày rộn rịp trước mắt người ta , tuy có một vài người phảng phất chỉ giống như muôn người không được một . Vậy cho nên những người thương tâm thế đạo ai cũng bảo rằng : Cái mục đích người ta ngày nay vào học chẳng qua vì cầu quan to , hốt đồng bạc , để làm môi giới cho rượu Tây , đồ mặc Tây , xe Tây , lầu Tây mà thôi " .  Lời của cụ Phan vừa mô tả thực trạng suy đồi của đạo đức cũ vừa tiên tri cảnh báo cho thế hệ mai sau . Ngày nay nếu đem lời cụ Phan nghiệm lại thì quả thật chẳng khác gì ngày ấy . Những người có bằng cấp có học vị lẽ ra phải tự hỏi rằng với từng ấy năm ăn học họ phải có trách nhiệm gì với đất nước , với xã hội . Nhưng trái lại họ chỉ  cố tìm mọi cách để thu hồi vốn hầu được vinh thân phì da . Tệ hại hơn nữa là một số trong họ môi giới kết cấu với bọn gian thương , tham quan để hiếp đáp dân lành . Ngày xưa , do thấm nhuần đạo đức cũ nên đã từng có một Chu văn An , một Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ can gián vua , khi vua không nghe bèn cáo quan về quê ẩn dật . Đạo đức cũ là những giá trị cổ truyền , những tinh hoa cố hữu của dân tộc đã sản sinh ra những con người liêm sĩ khí tiết , có tinh thần dân tộc . Vì mất căn bản đạo lý Khổng Mạnh , nên nền giáo dục sai đường chệch hướng đã sản xuất ra những người con bất hiếu , những công dân bất trung , những con người bất nghĩa .
   Đạo đức cổ truyền -cũng như văn hóa truyền thống -là cái gốc ; còn văn minh văn hóa mới được thâu hóa giống như những nhánh cây cấy ghép . Cái gốc mà bị chết khô thì việc cấy ghép trở nên vô ích .

  Ngày nay , chúng ta chú trọng  nhiều đến việc đào tạo chuyên môn hơn là việc giáo hóa con người . Đức dục không được coi là một khoa học mà chỉ được coi như là một môn học và chỉ chiếm một thời lượng ít ỏi trong chương trình .Nhà trường nào cũng đua nhau treo câu biểu ngữ " tiên học lễ , hậu học văn " nhưng đó chỉ là khẩu hiệu suông . Trí dục không song hành cùng với đức dục thì đó là mối hiểm họa cho xã hội . Nói như sử gia Guizot : " Trí dục nếu không đi đôi với đức dục sẽ là gốc của sự kiêu ngạo , bất phục tùng , ích kỷ và như thế thì rất nguy hiểm cho xã hội
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TỄU - BLOG: NHÀ BÁO PHẠM CHÍ DŨNG TỪ BỎ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM...

TỄU - BLOG: NHÀ BÁO PHẠM CHÍ DŨNG TỪ BỎ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM...: Tâm thư từ bỏ đảng của Nhà báo Phạm Chí Dũng Thụy My RFI 05-12-2013 Nhà báo Phạm Chí Dũng, cây bút bình luậ... Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phương Bích: BÙI MINH QUỐC - CUỘC THAO DƯỢT ÔN HOÀ VĨ ĐẠI VÀ GI...

Phương Bích: BÙI MINH QUỐC - CUỘC THAO DƯỢT ÔN HOÀ VĨ ĐẠI VÀ GI...: Bài này bác Bùi Minh Quốc viết đã lâu, gửi qua email cho tôi. Nhưng tôi rất ít khi vào hộp thư nên giờ mới đọc. Chắc hẳn có nhiều trang đã ... Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đúng là Tễu, chả bao giờ viết ra bài nghiêm văn chỉnh!

DÂN 90 TRIỆU,AI NGƯỜI LỚN ?

tễu blog 4.12.13

    
Tô Văn Trường

Trước hết,  tôi phải xin lỗi cụ Tản Đà khi  chọn tiêu đề bài viết này để tưởng nhớ đến một tâm hồn, một tài thơ Việt Nam núi Tản sông Đà, ngập tràn lãng mạn, ngập tràn thơ, nhiều khi hóm hỉnh sâu xa đầy gợi mở, thấm đượm yêu nước và tình người, biết bao thương xót.
.
“Dân hai nhăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con “

Thời cụ Tản Đà, nước ta còn dưới ách nô lệ thực dân Pháp không có công dân mà chỉ có “dân đen” như Nguyễn Trãi nói, lại lo không biết “bức dư đồ rách ai bồi”  nên Tản Đà mới mong mỏi trong số 25 triệu đồng bào, ai là người có chí lớn, đủ tài lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập cho đất nước. Cụ xót thương nước có bốn ngàn năm lịch sử mà dân vẫn còn trong vòng phong kiến tối tăm,  chưa được khai trí về kiến thức văn minh của nền tự do dân chủ, nên so với trình độ dân trí ở các nước thì vẫn như là đứa trẻ nít.

Trên mạng xã hội, nhiều bài viết phản ánh Nghị trường Quốc hội mới diễn ra nhiều câu nói ấn tượng nổi tiếng và  kết quả bấm nút cuối cùng về Hiến pháp và Luật đất đai sửa đổi như dấu chấm than về vận nước! Chẳng cần chờ đến hậu thế mà ngay thế hệ ngày nay cũng đủ trí tuệ, để soi xét, đánh giá. Những người tỉnh táo không thất vọng vì có kỳ vọng đâu mà thất vọng!

Người ta nhận xét, Quốc hội Việt Nam như sân khấu, nhiều diễn viên không vượt qua được chính mình. Lúc này, lại nhớ đến mấy câu thơ từ thời sinh viên (thập niên 60) khi đi tham gia biểu diễn văn nghệ ở khoa:
“Đóng kịch phải hóa trang
Tô đỏ đôi môi tô đen đôi mắt
Bắt đêm đen thức dạy làm ngày
Cười lúc đau nước mắt nước vui
Sân khấu và cuộc đời
Cánh gà là khoảng cách”
.

Nhà viết kịch nổi tiếng đi trước thời đại từ  thập niên 80, Lưu Quang Vũ để lại nhiều dấu ấn cũng một phần nhờ dàn diễn viên giỏi tay nghề và đầy bản lĩnh “thổi hồn” hàng chục vở diễn đi vào lòng người như : Tôi và chúng ta; Hồn Trương Ba da hàng thit; Ông không phải là bố tôi; Mùa hạ cuối cùng vv… Trong vở kịch “Lời thề thứ  9” tác giả Lưu Quang Vũ để cho nhân vật anh lính Đôn sứt tiến đến đứng trước mặt khán giả dõng dạc, khảng khái tuyên bố trong tiếng vỗ tay vang dội của người xem “Nhân dân ta rất anh hùng nhưng thật ra hèn lắm”.
.
Câu nói của người lính trên kịch trường Việt Nam đã 30 năm, lại làm chúng ta nhớ đến Shakespeare nhà viết kịch nổi tiếng trên thế giới người Anh ở thế kỷ 16 (thời kỳ phục hưng) đã để cho nhân vật Hamlet có câu nói bất hủ cho đến tận ngày nay  ”To be or not to be” có nghĩa là “tồn tại hay không tồn tại”. 

Nhìn lại sự phát triển của đất nước, ta hãy lấy Đại Hàn Dân Quốc làm so sánh. Sau chiến tranh thế giới,  Hàn Quốc nghèo nàn, lệ thuộc và độc tài, không được tôn trọng cho lắm nên gọi là Nam Triều Tiên – như chế độ Sài gòn cùng thời, thậm chí nghèo hơn Hòn Ngọc Viễn Đông. Người độc tài khét tiếng bị ghét bỏ và bị ám sát lần lượt cả vợ trước, chồng sau là Tổng thống Pak Chung-hee (tại vị 1963-1979). Ông ta từng ra lịnh đàn áp, bắn chết hơn 3.000 sinh viên biểu tình ở Quang Du và bắt kết án tử hình lãnh tụ đối lập Kim Dae-jung (sau này làm Tổng thống  do dân bầu).
.
Tội ác của Pak Chung-hee là độc tài, thảm sát sinh viên  nhưng  có công  lớn đưa kinh tế đất nước hóa Rồng nhờ động lực là các Chebol và xác lập nền pháp trị làm nền tảng cho dân chủ đa nguyên đa đảng – một chỉ dấu của chế độ chính  trị văn minh bền vững. Một đất nước còn tệ hơn Nam Việt Nam cùng thời, vậy mà nay kinh tế Hàn Quốc đứng hạng 11 trên thế giới, cạnh tranh qua mặt Nhật Bản về thị trường, thị phần ô tô, điện tử và một phần công nghệ đóng tàu thật đáng khâm phục.
.
Hay hơn nữa là con gái nhà độc tài Pak Chung-hee, nay  là Tổng thống Pak Geum-hye (2/2013) lại thắng áp đảo trong cuộc bỏ phiếu dân chủ cạnh tranh giữa các đảng phái. Ánh hào quang hiện tại soi sáng lịch sử nghèo nàn, độc tài, đen tối để lộ ra một Đại Hàn Dân Quốc như ta thấy làm thế giới phải ngả mũ thán phục.
.
Còn Việt Nam ta lịch sử oai hùng trước chiến tranh thế giới, sau 1975 là” trái tim và lương tâm thời đại”. Vậy mà ta, nay lại hạng trên dưới 100 trong số hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xin vay, bám bầu vú viện trợ ODA sử dụng không hiệu quả, chỉ số ICOR cao ngất ngưởng nhất khu vực, để lại khoản nợ khổng lồ cho con cháu, trong khi giáo dục xuống cấp, tham nhũng tràn lan, lòng người ly tán, có đau và nhục không chứ ?!. Vậy thì không ai lớn và trẻ con mãi (chứ không phải trẻ mãi – thanh xuân – không già) là đúng quá rồi!
.
Bây giờ dân 90 triệu rồi, so ra dân trí cao hơn thời xưa nhưng chí khí lại thụt lùi, quan trí tụt hậu so với thế hệ vàng Hồ Chí Minh, không chịu làm theo lời dạy của Người: “Dân chủ là  để  cho người dân được mở miệng”.
.
Chỉ riêng chuyện đất đai, nhiều người đã nói mãi, nói rất đúng về khái niệm mơ hồ sở hữu toàn dân chỉ là kẽ hở cho nhóm lợi ích, là nguyên nhân chủ yếu khiếu kiện gây bất ổn xã hội bấy lâu nay nhưng rồi đa số đại biểu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước vẫn phải bấm nút theo hướng đã được “chỉ tay”! Trong phạm trù sở hữu được nêu ra, nên chăng ta cứ nôm na hóa vấn đề như câu cửa miệng, dân giã thường đặt ra để cân nhắc, đắn đo, suy xét : “Ai nắm đằng chuôi “.  Và, thế là rõ ngay cái thế : Ai sẽ “đứt tay” khi cái “chuôi” ngọ nguậy?!
.
Trong lịch sử, chế độ quân chủ coi đất là của Thiên tử. Chế độ ấy gần như không lúc nào yên được vì người nông dân (nông nô) không ngày nào được ổn định trên mảnh đất mà mình canh tác (vì chủ đất thu hồi – lấy lại lúc nào không biết). Và chế độ quân chủ độc tài vĩnh viễn bị xóa bỏ. Chế độ tư bản, khởi đầu từ Hoàng đế Napoleon: Nông dân có quyền làm chủ đất. Ngày nay, nhân dân Pháp vẫn còn thỉnh thoảng hô: “Hoàng đế muôn năm!”. Vậy là sao? Chế độ công hữu đất đai dưới các chế độ gọi là Xã hội Chủ nghĩa chưa thấy ở đâu mà yên. Hơn chục nước XHCN  đã không tồn tại, chỉ duy nhất còn vài nước “lai lai” kinh tế thị trường mà sở hữu đất đai thì là của Nhà nước (còn công là của cá nhân) như Trung Quốc và Việt Nam ta.
.
Người ta thường nói đất nước suy thoái cần phải chấn hưng. Từ chấn hưng phong phú, giàu ý nghĩa. Trong “chấn hưng”, có cải cách, có đổi mới, có khôi phục, có bảo tồn, có phát triển. Chấn hưng đấ́t nước là chấn hưng những gì? Thế giới thường nói: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Nước ta đã bổ sung: Mở mang văn hoá, chấn hưng giáo dục, và phát triển con người.
.
Tiếc thay, cũng như cảm thán của cụ Tản Đà năm xưa, ngày nay 90 triệu dân muốn chấn hưng đất nước nhưng  lĩnh vực quan trọng quyết định là chế độ xã hội, thể chế  chính trị, và chống tham nhũng thì ngay cả các đại biểu Quốc hội cũng chưa được nói, được viết và được làm có hiệu quả như cần có.
.
Lâu rồi, đã có lần người viết bài này đưa ra nhận xét, nhìn ra thế giới,chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm thành công của các con Rồng Châu Á là nhờ :
.
Thứ nhất, có một người đứng đầu là bậc hiền tài giầu tài năng đức độ, không bị lực cản kìm hãm hoặc hạn chế, mà có tổ chức và cơ chế thuận lợi để phát huy hết tài năng,  đức độ làm giầu, làm đẹp, giữ vững và mở mang đất nước.
.
Thứ hai, cần có nguồn nhân lực gồm những cán bộ hành chính biết quản lý Nhà nước pháp quyền hiện đại có hiệu lực và hiệu quả cao. Những doanh nhân biết kinh doanh tại các doanh nghiệp công và tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao cho bản thân, cho doanh nghiệp và cho đất nước. Các nhà khoa học, ban đầu biết lựa chọn, tiếp thu, vận dụng tốt các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến trên thế giới, tiếp đó biết tiến lên sáng tạo thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của chính nước nhà.
.
Thứ ba, có một dân tộc với một sự thông minh và tài năng được đào tạo, bồi dưỡng bởi một nền giáo dục quốc dân hiện đại có chất lượng cao.
.
Ngày nay, ngẫm suy bài học kinh nghiệm hóa Rồng của các nước và 2 câu thơ nói trên của cụ Tản Đà, một nỗi đau trước thời cuộc, trước cái sự “trẻ con” mãi không chịu lớn? chỉ biết cảm thán:
“May thay cho nước ta
Không may thay cho nước ta”!

Phần nhận xét hiển thị trên trang