Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Những vị khách được nuông chiều hay những nhà yêu nước tận tụy? Người Hoa ở Bắc VN thời kỳ 1954-1978



Nguồn: Xiaorong Han (2009). “Spoiled Guests or Dedicated Patriots? The Chinese in North Vietnam, 1954–1978”, International Journal of Asian Studies, Vol. 6, No. 1, pp. 1–36.
Biên dịch & Hiệu đính: Đỗ Hải Yến
Bài báo này đánh giá quan hệ ba bên giữa cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam, chính quyền Bắc Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt tập trung vào ảnh hưởng của mối quan hệ lên bản sắc quốc gia và dân tộc của Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam, trong thời kỳ 1954 đến 1978. Việc nghiên cứu kỹ lưỡng hai vấn đề trọng tâm về tư cách công dân và hệ thống trường học của người Hoa cho thấy các lãnh đạo Bắc Việt Nam thực hiện những chính sách khoan dung đối với Hoa kiều, chủ yếu bởi họ xem mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam với cộng đồng người Hoa là nhân tố cốt lõi trong mối quan hệ của Bắc Việt Nam với Trung Quốc. Các chính sách này rốt cuộc đã góp phần trì hoãn việc đồng hóa Hoa kiều và tới cuối những năm 1970, chúng vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ chuyển đổi những đối tượng lưu trú được ưu đãi thành công dân Việt Nam. Mặc dù nhiều Hoa kiều mang địa vị người nước ngoài được hưởng đặc quyền, số khác lại sẵn sàng thay mặt Việt Nam tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau khi tái thống nhất, với mong muốn làm rõ sự trung thành, nói cách khác là “thanh lọc” quốc gia – dân tộc, chính phủ Việt Nam đã khởi xướng một quy trình đồng hóa bắt buộc mang tính quyết đoán. Chính sách này cùng với sự suy thoái trong quan hệ Việt – Trung cuối những năm 1970 đã làm dấy lên một làn sóng di cư ra nước ngoài của các Hoa kiều.
Giới thiệu
Cuối 1977 và đầu 1978, đông đảo Hoa kiều ở miền Nam Việt Nam bắt đầu trốn khỏi đất nước, trở thành “những người tị nạn” lênh đênh trên biển khơi. Cũng khoảng thời gian đó, Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam bắt đầu vượt biên giới Việt Trung, trở thành những người tị nạn trên đất liền giống như bộ phận đang vượt biển.[1] Tới đầu tháng 6 năm 1978, số người tị nạn tại Trung Quốc đã đạt đến con số 100.000. Vào giữa tháng 7, tổng số người đã vượt mức 160.000.[2] Thành phố Hà Khẩu thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc tiếp nhận số người tị nạn cao nhất trong một ngày là hơn 1.900 người; ở Đông Hưng, một huyện biên giới thuộc Quảng Tây, con số 4.000 người mỗi ngày được ghi nhận.[3] Tiếp giáp với Đông Hưng là thành phố Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam, nơi người Hoa từng chiếm 80% dân số. Tháng 6 năm 1978, 70% Hoa kiều tại thành phố này cùng với 60% đồng hương ở tỉnh Quảng Ninh đã dời sang Trung Quốc.[4] Lượng người tị nạn đầu tiên xuất phát từ các tỉnh tiếp giáp Trung Quốc. Tiếp đến, Hoa Kiều từ những khu vực khác của miền Bắc Việt Nam đã hòa vào dòng người tị nạn.[5] Cuộc di dời bắt đầu từ những cư dân ở khu vực nông thôn, nhưng về sau, thành phần tị nạn bao gồm cả những Hoa kiều sống ở các thành thị.[6] Giữa tháng 7 năm 1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới với Việt Nam nhằm ngăn chặn dòng người tị nạn, nhưng các nhóm nhỏ vẫn tiếp tục tràn vào.[7] Tháng 2 năm 1979, khi Trung Quốc khởi động cuộc chiến kéo dài ba tuần chống lại Việt Nam, 202.000 người tị nạn đã có mặt tại Trung Quốc. Vài tháng sau cuộc chiến, số người tị nạn vẫn tăng với tỷ lệ trên 10.000 người mỗi tháng. Năm 1994, ước tính cho hay tổng số người tị nạn Đông Dương và con cái họ tại Trung Quốc là 288.000, 99% trong số đó xuất phát từ Việt Nam.[8]
Xét theo nhiều phương diện, cuộc di cư của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam có sự khác biệt so với những người vượt biên bằng thuyền ở miền Nam Việt Nam. Trong khi phần đông người vượt biên lựa chọn các nước phương Tây và các nước châu Á ủng hộ phương Tây, hầu hết người Hoa ở miền Bắc Việt Nam dời về Trung Quốc. Nhiều người vượt biên ở miền Nam Việt Nam quyết định rời bỏ đất nước chủ yếu bởi họ nhận thấy khó lòng thích nghi được với hệ thống xã hội chủ nghĩa mà đặc thù là chính sách tịch thu tài sản, các trại cải tạo và khu kinh tế mới. Ở miền Bắc Việt Nam, nơi hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tồn tại hơn hai thập kỷ, nhân tố cốt yếu duy nhất khiến cho người Trung Quốc phải di dời là sự sụp đổ khối liên minh Trung – Việt. Sau cùng, ở miền Nam Việt Nam, cuộc di cư của những người vượt biên không làm cho cộng đồng người Hoa tan biến. Đông đảo cư dân gốc Hoa vẫn sinh sống tại đây đến ngày nay. Tuy nhiên, ở miền Bắc Việt Nam, những cộng đồng Hoa kiều rộng lớn không còn tồn tại.[9] Khác biệt về tình trạng di cư, xét theo chừng mực nào đó phản ánh sự khác biệt về kinh nghiệm giữa cộng đồng Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam và những người đồng hương của họ ở miền Nam. Từ năm 1954 đến 1976, chủ yếu vì nguyên do chia cắt Việt Nam, Hoa kiều ở Việt Nam bị tách thành hai cộng đồng, có sự khác biệt lớn về quy mô, quyền lực kinh tế, tính đa dạng văn hóa, ngôn ngữ và nghề nghiệp, xu hướng chính trị và mối quan hệ với chính quyền sở tại cũng như với Trung Quốc.
Những khác biệt ấy đã đem lại động lực lớn lao cho việc nghiên cứu. Thay vì nghiên cứu các vấn đề liên quan đến toàn bộ Hoa kiều ở Việt Nam, bài báo này tập trung vào cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam trong suốt thời kỳ đất nước chia cắt. Bài viết sẽ nghiên cứu những đặc điểm riêng biệt của cộng đồng này, mối quan hệ ba bên giữa cộng đồng người Hoa, chính quyền Bắc Việt Nam và Trung Quốc cũng như ảnh hưởng của hiện trạng lên bản sắc quốc gia và dân tộc của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam. Luôn lưu tâm những động lực này, tôi đặc biệt chú ý đến những vấn đề xung quanh tư cách công dân của người Hoa và hệ thống trường học của người Hoa. Tôi cho rằng chính sách nhà nước của miền Bắc Việt Nam đối với người Hoa thời kỳ 1954-1978 khoan dung hơn nhiều so với những chính sách mà hầu hết các chính phủ Đông Nam Á khác vận dụng, chủ yếu bởi các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam xem mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam và cộng đồng người Hoa là nhân tố cốt lõi trong mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Sự ưu đãi của chính quyền Bắc Việt Nam dành cho Hoa kiều góp phần vào nỗ lực duy trì và củng cố khối liên minh giữa Bắc Việt Nam và Trung Quốc. Một phần kết quả của sự ưu đãi này là quá trình đồng hóa người Hoa thành cộng đồng người Việt đã bị trì hoãn. Cuối những năm 1970, cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam vẫn chưa hoàn tất việc chuyển đổi từ cộng đồng lưu trú sang nhóm dân tộc bản địa. Quá trình đồng hóa bị trì hoãn và sự suy thoái trong quan hệ Việt – Trung những năm cuối 1970 là những lý do quan trọng nhất cho sự di dời của Hoa kiều ra khỏi miền Bắc Việt Nam.
Những đợt di cư
Cuộc di dời của cư dân từ nhiều vùng miền – nay là lãnh thổ Trung Quốc – đến khu vực Đồng bằng Sông Hồng bắt đầu từ thời tiền sử. Nhiều nghiên cứu cho thấy các bộ tộc Lạc Việt cổ đại định cư ở miền nam Trung Quốc trước khi chuyển đến Đồng Bằng Sông Hồng. Người ta tin rằng vua An Dương Vương huyền thoại, vị vua đã kết thúc triều đại của các vua Hùng, xuất thân từ vùng tây nam Trung Quốc. Cuộc xâm chiếm Đồng Bằng Sông Hồng của nhà Tần và Vương quốc Nam Việt đã đưa cư dân từ vùng đất phía bắc sang lãnh địa mà sau này được biết đến như miền Bắc Việt Nam.[10]
Suốt thời kỳ đô hộ lâu dài của Trung Quốc (111 TCN đến 939 SCN), một dòng người liên tục di cư từ phương bắc đến Đồng Bằng Sông Hồng. Có thể phân chia họ thành nhiều nhóm, nhóm đầu tiên bao gồm quan lại, tướng lĩnh, lính và gia đình họ. Một số thành viên trong nhóm này ở lại Việt Nam vĩnh viễn, hòa nhập với cư dân bản địa và sau khi tướng của triều Hán là Mã Viện dẹp trừ tàn bạo cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 42 SCN, họ nổi lên như những gia tộc Hán – Việt đầy quyền lực.[11] Một số nguồn khẳng định rằng phần đông quân lính của Mã Viện đã định cư ở miền Bắc Việt Nam và ngày nay vẫn có thể nhận diện hậu duệ của họ.[12] Sau khi nhà Hán sụp đổ, nhiều người Hoa có thế lực chuyển đến Đồng Bằng Sông Hồng nhằm tránh xa thời kỳ hỗn loạn ở Trung Quốc.[13] Các quan lại người Hoa tiếp tục di cư thời kỳ triều nhà Tùy và nhà Đường trị vì tiếp nối. Nhóm thứ hai bao gồm các thương nhân, thợ thủ công và thường dân, họ tự chuyển đến Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội của riêng mình. Trong đó có cả người tị nạn chạy trốn khỏi Trung Quốc để tránh những tai ương về chính trị, kinh tế và xã hội. Nhóm cuối cùng là các phạm nhân được đưa đến vùng biên giới để thi hành án.[14] Tổng dân số miền Bắc Việt Nam vào thế kỷ thứ 3 và thứ 4 SCN theo ước tính là vào khoảng 500.000, trong số đó người Hoa chiếm 10.000 đến 100.000.[15] Những người nhập cư thế hệ đầu rốt cuộc đã bị đồng hóa; một số hậu duệ của họ, theo tranh luận, là những người tham gia tích cực trong các phong trào độc lập chống Trung Quốc vào thế kỷ thứ 6 và thứ 10.[16]
Sau khi Việt Nam giành độc lập vào thế kỷ thứ 10 SCN, Trung Quốc không còn đưa quan lại, tướng lĩnh, lính và phạm nhân tới Việt Nam nhưng những người nhập cư và tị nạn vì lý do chính trị và kinh tế vẫn tiếp tục chuyển đến. Nhìn chung, nhà cầm quyền Việt Nam khuyến khích người Trung Quốc đồng hóa thông qua đối xử bình đẳng, thậm chí là có lợi cho những cư dân gắn bó lâu dài và để mắt đến những vị khách nhất thời.[17] Châu Hải chỉ ra rằng, những đợt di cư quy mô lớn của người Hoa vào Việt Nam thường diễn ra trong các thời kỳ Trung Quốc có biến động về chính trị.[18] Chẳng hạn, cuộc xâm chiếm của người Mông Cổ ở Trung Quốc đã khiến một bộ phận người Hoa trốn chạy đến miền Bắc Việt Nam.[19] Do những tương đồng về hoàn cảnh chính trị và văn hóa, người Hoa nhập cư có khả năng giành được những vị trí quan lại ở Việt Nam khá dễ dàng. Danh sách những nhà khoa bảng đỗ đạt các kỳ thi tuyển công chức triều đại Lý và Trần cho thấy họ gốc Hoa chiếm tỷ lệ cao.[20]Quan lại và lính tráng Trung Quốc một lần nữa chuyển đến Việt Nam trong thời kỳ quân Minh chiếm đóng (1407-1427). Sau khi Việt Nam giành độc lập, số người Hoa có mặt ở Việt Nam được phép lưu lại.[21] Cuộc xâm lược Trung Quốc của người Mãn Châu vào thế kỷ thứ 17 đã dấy lên một làn sóng nhập cư mới, bộ phận nhập cư người Hoa này trở thành thợ mỏ, thương nhân, nông dân cũng như quan lại và lính tráng tại Việt Nam.[22] Ở miền Bắc Việt Nam, Hoa Kiều có tầm ảnh hưởng lớn đối với nghề làm gốm và nghề khai thác mỏ.[23] Họ cũng hoạt động mạnh ở Phố Hiến, một trung tâm thương mại sầm uất tại Hưng Yên. Ước tính có khoảng 56.000 người Hoa sống ở Bắc Kỳ vào thế kỷ thứ 18.[24] Bộ phận đông đảo những người nhập cư mới cho phép họ tạo dựng những cộng đồng riêng, một trong số đó được biết đến với cái tên Minh Hương.[25] Sau khi Việt Nam chinh phục Chăm Pa và Đồng Bằng Sông Cửu Long, càng nhiều dân nhập cư Trung Quốc bắt đầu đổ về miền Trung và miền Nam Việt Nam. Trên thực tế, các thủ lĩnh đất Việt sử dụng lực lượng Hoa kiều trốn chạy sang Việt Nam sau cuộc xâm lăng của người Mãn Châu làm đội quân tiên phong để mở rộng cõi Nam.[26]Châu Hải chỉ ra rằng trước thế kỷ thứ 17, người nhập cư Trung Quốc ở Việt Nam dễ bị đồng hóa vào xã hội bản địa. Về sau, dân số Hoa kiều lớn mạnh, đủ để hình thành những cộng đồng riêng. Những cơ cấu xã hội này rốt cuộc trở thành một trở ngại cho quá trình đồng hóa.[27]
Đầu thế kỷ thứ 19, triều Nguyễn thừa nhận một cơ cấu trong đó người Hoa ở Việt Nam được phân chia thành nhiều cộng đồng dựa trên thổ ngữ. Mỗi nhóm do một người đứng đầu, có nhiệm vụ truyền đạt chỉ dụ của chính quyền, thu thuế và hòa giải tranh chấp.[28] Cai Tinglan, một vị quan kiêm học giả Trung Quốc phải ghé vào Việt Nam tránh bão vào năm 1835, nói rằng ông gặp người Hoa ở khắp nơi ông đặt chân đến, dọc miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Hầu hết những người ông tiếp xúc xuất thân từ Quảng Đông, Phúc Kiến và Quảng Tây. Họ chủ yếu là thương nhân, trong số đó có cả quan lại và ngư dân. Ông khẳng định rằng Hoa Kiều có cộng đồng, khu định cư và người lãnh đạo riêng. Cai nhận thấy chính quyền giảm thuế và trao đặc quyền thương mại cho người Hoa, việc kết hôn khác tộc giữa đàn ông Hoa và phụ nữ Việt thường xuyên diễn ra và nhìn chung người Hoa giàu có hơn người Việt bình thường.[29]
Thời kỳ Pháp đô hộ, người Hoa tiếp tục di cư đến Việt Nam và cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam phát triển nhanh hơn nhiều so với ở miền Bắc. Tại miền Bắc Việt Nam, phiến quân, cướp và những đội quân người Hoa hoạt động rất tích cực thời kỳ những năm 1860 đến những năm 1880.[30] Nhân vật nổi tiếng Lưu Vĩnh Phúc và đội quân Cờ Đen của ông đã khuấy đảo người Pháp, giết chết những tên thực dân đình đám như Francis Garnier và Henri Riviere.[31] Một số phiến quân là thành viên của nhóm người Hoa không thuộc Hán tộc đến từ Quảng Tây. Ở Việt Nam ngày nay tồn tại những thông tin xác nhận người Tày là hậu duệ của quân Cờ Đen.[32] Vài người Hoa còn dính líu đến việc bắt cóc phụ nữ và trẻ em Việt Nam bán sang Trung Quốc.[33] Hoạt động trọng yếu nhất của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam có lẽ là khai thác mỏ.[34] Ước tính cho thấy người Hoa điều hành hầu như toàn bộ 124 hầm mỏ ở miền Bắc Việt Nam vào cuối thế kỷ 19.[35] Đầu thế kỷ 20, một bộ phận người Hoa ở Việt Nam tham gia vào cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên chống lại triều Thanh và sau khi nhà Thanh sụp đổ, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc nỗ lực bảo vệ người Hoa tại Việt Nam.[36]Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc cũng thiết lập hai tòa lãnh sự ở miền Bắc Việt Nam. Chính quyền của Tưởng Giới Thạch dàn xếp hai thỏa thuận với Pháp thời kỳ những năm 1930, trao cho người Hoa địa vị “ngoại kiều được hưởng đặc quyền”. Về lý thuyết, họ được đối đãi như người Pháp và hưởng nhiều đặc ân hơn cả bản thân người Việt.[37] Thái độ của người Pháp đối với người Hoa mang tính mâu thuẫn,[38] nhưng theo lập luận thuyết phục của Alain Marsot thì chủ nghĩa thực dân Pháp đã thúc đẩy tình trạng nhập cư của người Hoa bởi nó đem lại an ninh, cơ hội thương mại cùng nhu cầu về lao động.[39]
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Quân đội Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng miền Bắc Việt Nam trong thời gian ngắn. Thời kỳ này góp phần củng cố mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa kiều và nâng cao vị thế của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam. Thông qua một thỏa thuận Trung – Pháp được ký kết vào năm 1948, các lãnh sự Trung Quốc có quyền phủ quyết đối với các ứng viên cho chức vụ lãnh đạo cộng đồng người Hoa tại địa phương. Thỏa thuận cũng tuyên bố Hoa kiều tại Việt Nam có quyền tự do đi lại và giao thương, đồng thời duy trì địa vị cá nhân và gia đình theo tập quán của người Hoa.[40]
Các đặc điểm của cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam
Cộng đồng người Hoa có mặt tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1978 khác biệt so với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam về một số phương diện. Trước hết, vì người Hoa hiện diện ở miền Bắc Việt Nam từ thời cổ đại, có thể khẳng định rằng các cộng đồng Hoa kiều ở khu vực phía bắc có lịch sử lâu đời hơn nhiều so với các cộng đồng phía nam. Mặc dù sau vài thế hệ, thông thường người Hoa nhập cư bị đồng hóa, nhưng dòng nhập cư liên tục những cư dân mới trên thực tế đảm bảo cho một sự hiện diện rõ ràng của Trung Quốc (ở Việt Nam) kể từ năm 111 TCN.
Dù cộng đồng Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam nhỏ hơn nhiều so với miền Nam, miền Nam Việt Nam lại là điểm đến mà nhiều người Hoa lựa chọn để tái định cư suốt thời kỳ Pháp thuộc. Những biến đổi chính trị và xã hội về sau cũng góp phần vào sự dao động về quy mô dân cư giữa hai cộng đồng. Khi Chiến tranh Đông Dương lần I nổ ra vào năm 1946, một bộ phận người Hoa rời miền Bắc tới miền Nam Việt Nam,[41] số khác quay trở về Trung Quốc.[42] Năm 1954 khi Việt Nam bị chia cắt, gần 60.000 người Hoa di cư từ Bắc vào Nam.[43]Đồng thời trong khoảng thời gian đó, những nhà Cộng sản Trung Quốc cũng chuyển từ Nam ra Bắc,[44] nhưng với số lượng nhỏ.
Tồn tại những ước lượng khác nhau về số người Hoa ở miền Bắc Việt Nam. Các viên chức thực dân Pháp ước tính vào năm 1886, có 7.467 người châu Á ngoại quốc ở Bắc Kỳ; Alain Marsot tin rằng tất cả đều là người Hoa. Năm 1906 và 1907, có khoảng 30.000 người Hoa ở Bắc Kỳ. Số người Hoa ở Bắc Kỳ tăng lên 32.000 vào năm 1911; 41.800 vào năm 1913; 46.000 vào năm 1926; và 52.000 vào năm 1931.[45] Chính quyền Bắc Việt Nam tuyên bố có 1,5 triệu người Hoa tại Việt Nam vào năm 1951, trong đó 1,4 triệu ở miền Nam, 53.000 ở miền Trung và 90.000 ở miền Bắc Việt Nam.[46] Một số liệu khác ước tính rằng 170.000 người Hoa có mặt tại miền Bắc Việt Nam năm 1955,[47] nhưng Alain Marsot lại tuyên bố chỉ có 50.000 người Hoa ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1957, chiếm 0,4% dân số bản địa. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với con số tổng thể ở Đông Nam Á, vào khoảng 5%. Trên thực tế, trong số tất cả các khu vực và quốc gia ở Đông Nam Á, miền Bắc Việt Nam có tỷ lệ người Hoa thấp nhất trên dân số vùng.[48] Theo Victor Purcell, tổng số Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam là khoảng 55.000 người vào năm 1960, nhưng một cuộc điều tra dân số chính thức của Việt Nam được tiến hành cùng năm lại báo cáo có 174.644 người Hoa tại đây, chiếm 1,1% tổng dân số.[49] Hai học giả khác đưa ra số liệu 190.000 người Hoa ở miền Bắc Việt Nam năm 1965.[50] Chính quyền Việt Nam sau thống nhất ước tính số người Hoa ở miền Bắc Việt Nam vào những năm cuối 1970 trước khi họ dời đi là trên 200.000,[51] và một học giả khác cho hay vào năm 1978, có 300.000 người Hoa ở miền Bắc Việt Nam.[52]
Những số liệu khác biệt phần nào bắt nguồn từ sự thiếu thống nhất về mặt học thuật trong định nghĩa về người Hoa. Vài số liệu rõ ràng không bao gồm người Hoa ở vùng nông thôn trong khi những số liệu khác lại bao gồm không chỉ người Hoa ở nông thôn mà cả những nhóm người Hoa không thuộc Hán tộc. Chẳng hạn, theo một nghiên cứu, người Hoa chiếm đến 78% dân số Hải Ninh thời kỳ 1946 đến 1954, bởi trong nghiên cứu này, 100.000 người Nùng ở Hải Ninh được xem là người Hoa. Vấn đề tranh cãi đó là người Nùng có xuất thân từ tầng lớp nông dân người Hoa thuộc Hán tộc, được gọi là người Nùng sau năm 1885, chủ yếu là do người Pháp không muốn thừa nhận họ là người Hoa vì những lý do chính trị.[53] Vấn đề tương tự phát sinh khi nhận diện cộng đồng Minh Hương. Triều Nguyễn phân chia họ thành một nhóm riêng biệt nhưng lại trao cho họ hầu hết quyền lợi mà công dân Việt Nam được hưởng. Thời kỳ thuộc địa, có khi họ được đối đãi như người Việt, có khi lại như người Hoa. Mọi việc rắc rối hơn ở chỗ, vào cùng một thời điểm lịch sử, có những cá nhân được đối đãi như người Việt, trong khi số khác lại được xem là người Hoa.[54]
Hai cộng đồng còn có sự khác biệt về mặt phân bổ địa lý. Hầu hết người Hoa ở miền Nam Việt Nam sống trong thành thị và Sài Gòn là một trong những điểm tập trung đông đảo nhất của người Hoa nhập cư ở Đông Nam Á.[55] Tại miền Bắc, số người Hoa sống ở các thành phố lớn là khá ít ỏi. Người Hoa không còn tập trung ở khu vực thành thị. Số người Hoa sống ở Hà Nội theo ước tính là 2.000 vào năm 1913;[56] 4.200 vào năm 1920;[57] 5.000 vào năm 1931; 15.000 vào năm 1948;[58] 10.000 vào năm 1968;[59] và 13.000 vào năm 1978.[60] Hải Phòng có 8.500 người Hoa vào năm 1913;[61] 10.250 vào năm 1920;[62] 19.000 vào năm 1931[63] và hơn 30.000 vào những năm 1970.[64] Hầu hết người Hoa sống ở khu vực nông thôn thuộc các tỉnh giáp ranh với Trung Quốc, đặc biệt là tỉnh Quảng Ninh.[65]
Giữa hai cộng đồng còn tồn tại những khác biệt sâu xa hơn. Về tự nhiên, cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam gần Trung Quốc hơn rất nhiều so với cộng đồng ở miền Nam Việt Nam, phần đông sống dọc biên giới Việt – Trung. Tiềm lực kinh tế của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam không đáng kể so với những đồng hương người Hoa ở miền Nam. Trong khi người làm kinh doanh chiếm một tỷ lệ lớn dân số Hoa kiều ở miền Nam, nghề nghiệp của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam lại đa dạng hơn. Sau cùng, cư dân người Hoa ở miền Bắc Việt Nam thuộc nhiều dòng dõi khác biệt. Hầu hết người Hoa ở miền Nam đến từ Quảng Đông và Phúc Kiến. Tại miền Bắc Việt Nam, ngoài những cộng đồng đến từ Quảng Đông và Phúc Kiến còn có những cộng đồng quy mô lớn bắt nguồn từ Quảng Tây và Vân Nam.[66]
Cần lưu ý rằng người Hoa thuộc Hán tộc không phải là nhóm người duy nhất di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam. Trong số 54 dân tộc Việt Nam được nhận diện chính thức, hơn 20 dân tộc bao gồm những người Hoa nhập cư trong vài thế kỷ gần đây. Chỉ có hai dân tộc Hoa và Ngái nằm trong danh sách người Hoa thuộc Hán tộc theo hệ thống phân loại chính thức của người Hoa. Bài báo này chỉ xét đến dân tộc Hoa và Ngái, bỏ qua nhóm người không thuộc Hán tộc.[67] Đồng thời tôi cũng không đề cập đến bộ phận chuyên gia người Hoa thuộc bộ máy quân sự và chính trị, những người có mặt tại Việt Nam từ 1954 đến 1978.
Địa vị công dân ở miền Bắc Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chú ý đến bộ phận người Hoa ở Việt Nam ngay sau khi thành lập vào năm 1930. Chủ trương chính trị đầu tiên của Đảng xem người lao động gốc Hoa là đồng minh của những nhà cách mạng Việt Nam.[68] Sau đó, Đảng giải thích khối liên minh này bắt nguồn từ thực tế rằng cư dân gốc Hoa ở Đông Dương thuộc về một quốc gia nửa thuộc địa. Họ không được hưởng các đặc quyền của người phương Tây và bị người phương Tây bóc lột về nhiều mặt.[69] Khi Chiến tranh Đông Dương lần I nổ ra vào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh hứa hẹn rằng sau khi đội ngũ Cộng sản đánh bại thực dân Pháp, người Việt và người Hoa sẽ cùng chung sống hạnh phúc tại Việt Nam.[70] Năm 1951, chính quyền Bắc Việt Nam tuyên bố người Hoa được hưởng các quyền lợi tương tự như công dân Việt Nam.[71] Khi hầu hết các quốc gia mới độc lập ở Đông Nam Á quyết định áp dụng chính sách đồng hóa bắt buộc đối với cộng đồng người Hoa và xóa bỏ mối liên hệ giữa cộng đồng người Hoa với Trung Quốc, thì chính quyền Bắc Việt Nam lại thông qua chính sách bình đẳng và khoan dung đối với cư dân gốc Hoa đồng thời thắt chặt mối dây ràng buộc giữa Trung Quốc và cư dân bản địa của mình. Trên thực tế, những năm cuối 1940 và 1950, những người Cộng sản Việt Nam đã chuyển giao phần lớn trách nhiệm tổ chức cộng đồng Hoa kiều cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bởi họ tin rằng “ĐCSTQ có thể tổ chức cộng đồng Hoa kiều hiệu quả hơn”. Chi nhánh nội địa của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở miền nam Quảng Đông đã gửi những cán bộ nòng cốt cả về chính trị và quân sự đến miền Bắc Việt Nam nhằm tạo lập các cơ sở của đảng cũng như đơn vị quân đội trong lòng cộng đồng Hoa kiều.[72]
Sự chia cắt và nền độc lập của Việt Nam vào năm 1954 đã khiến cho việc giải quyết địa vị công dân người Hoa sống ở hai miền đất nước trở thành vấn đề cấp bách, một hiện trạng tồn tại ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á mới giành độc lập. Vấn đề trầm trọng thêm khi người Mãn Châu và các chính quyền Trung Hoa Dân Quốc thông qua nhiều đạo luật về quốc tịch, thừa nhận lưỡng quyền công dân và quyền công dân theo huyết thống.[73] Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa áp dụng chính sách tương tự khi nắm quyền vào năm 1949. Năm 1952, Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua một chỉ thị trong đó phân biệt tất cả Hoa kiều là “những người lưu trú gốc Hoa”.[74] Tuy nhiên, trong một nỗ lực giành lấy niềm tin từ các nước Đông Nam Á, năm 1955, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã tuyên bố tại hội nghị Bandung rằng Trung Quốc đã thay đổi chính sách và không còn ủng hộ lưỡng quyền công dân. Thay đổi này có nghĩa là những Hoa kiều đã nhập quốc tịch nước ngoài thì không còn là công dân Trung Quốc nữa. Những người không nhập quốc tịch nước ngoài vẫn được xem là kiều bào Trung Quốc, nhưng họ phải tôn trọng phong tục tập quán và tuân thủ luật pháp của quốc gia nơi họ cư trú.
Không bao lâu sau khi Trung Quốc tuyên bố thay đổi chính sách, miền Nam Việt Nam bắt đầu buộc cư dân Hoa kiều nhập tịch. Từ tháng 12 năm 1955 đến tháng 9 năm 1956, chính quyền ban hành bốn sắc lệnh quy định tất cả những người Hoa sinh ra ở Việt Nam sẽ tự động trở thành công dân Việt Nam. Trẻ em là kết quả của hôn nhân lưỡng tộc giữa người Hoa và người Việt cũng được xem là công dân Việt Nam. Những người không phải là công dân bị loại trừ khỏi mười một ngành nghề và trong vòng 6 đến 12 tháng phải thanh lý hoạt động kinh doanh. Một khi nhập tịch, người Hoa sẽ phải phục vụ trong quân đội và giải thể các bang hội của mình. Chính quyền miền Nam Việt Nam cũng tiến hành các biện pháp nhằm thay đổi hệ thống trường học của người Hoa. Tiếng Việt là ngôn ngữ bắt buộc phải sử dụng trong các trường trung học của người Hoa và người Việt được bổ nhiệm làm hiệu trưởng các trường này.[75]
Trung Quốc chỉ trích gay gắt chính sách nhập tịch bắt buộc của miền Nam Việt Nam và miền Bắc Việt Nam cũng tích cực tham gia vào cuộc công kích. Điển hình, ngày 23 tháng 5 năm 1957, tờ Nhân Dân xuất bản bài báo có nhan đề “Bè lũ Ngô Đình Diệm là kẻ thù chung của người Việt và Hoa kiều”. Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam – do đội ngũ Cộng sản hậu thuẫn – liên tục tuyên bố trong các văn kiện “… tất cả sắc lệnh và phương sách mà chế độ bù nhìn của Mỹ áp dụng đối với người Hoa sẽ bị xóa bỏ”, và rằng “người Hoa có quyền tự do cũng như quyền lựa chọn quốc tịch của mình”.[76] Miền Bắc Việt Nam cũng khuyến khích người Hoa ở miền Bắc tập hợp lực lượng và biểu tình nhằm phản đối các chính sách của Ngô Đình Diệm.[77]
Cách tiếp cận vấn đề quyền công dân của miền Bắc Việt Nam khác biệt so với miền Nam ở hai phương diện. Trước hết, chính sách của miền Bắc Việt Nam đối với quyền công dân khoan dung hơn so với miền Nam; thứ hai, Bắc Việt Nam đón nhận nó không phải với tư cách công việc nội bộ mà là vấn đề giữa Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời sẽ đàm phán với Trung Quốc thay vì với cộng đồng người Hoa về vấn đề quyền công dân. Năm 1955, ngay sau khi Trung Quốc thay đổi chính sách lưỡng quyền công dân, miền Bắc Việt Nam khởi động các cuộc đàm phán với Trung Quốc về người Hoa ở Việt Nam và hai chính quyền đi đến thỏa thuận miệng về chuyển đổi người Hoa thành công dân Việt Nam. Năm tiếp theo, nhân chuyến công du đến miền Bắc Việt Nam, Chu Ân Lai thúc giục cộng đồng Hoa kiều nơi đây xem Việt Nam là quê hương. Một thỏa thuận song phương được tiếp nối vào năm 1957, khẳng định người Hoa ở miền Bắc Việt Nam được hưởng các quyền lợi tương tự như công dân Bắc Việt Nam và được khuyến khích tự nguyện nhập quốc tịch Bắc Việt Nam sau khi “kiên trì và không ngừng thuyết phục cũng như giáo dục tư tưởng”.[78] Theo một nguồn tư liệu Việt Nam, thỏa thuận này đã đưa đại sứ Trung Quốc Luo Guibo đến miền Bắc Việt Nam và tuyên bố: “chúng ta phải tiến hành chuyển đổi toàn bộ người Hoa thành công dân Việt Nam trong khoảng thời gian 8 đến 10 năm, hoặc lâu hơn một chút”.[79] Nhằm thuyết phục người Hoa chấp nhận đồng hóa, chính quyền Bắc Việt Nam đã thành lập Tiểu Ban công tác người Hoa vào năm 1956 và Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam vào năm 1958.[80] Hai chính quyền cùng nhau khởi động một chiến dịch tuyên truyền nhằm quảng bá các khẩu hiệu như “xây dựng Việt Nam cũng như xây dựng Trung Hoa” đồng thời chỉ trích tư duy “đại Trung Hoa” và “tư duy làm khách”.[81] Chính quyền Bắc Việt Nam cũng khởi động chiến dịch phổ cập giáo dục, khuyến khích người Hoa học đọc và viết tiếng Việt.[82]
Người Hoa và chính quyền Bắc Việt Nam rõ ràng đồng ý từ từ tiếp cận vấn đề nhập tịch và về phía nội bộ cộng đồng người Hoa, một số nhóm nhỏ sẽ được nhập tịch trước các nhóm khác. Nhìn chung, họ mong muốn người Hoa ở nông thôn mang quốc tịch Việt Nam trước bộ phận người Hoa ở thành thị. Sự phân hóa có thể liên quan đến quy mô dân số và vị trí địa lý của người Hoa ở nông thôn. Như đã đề cập, đa số người Hoa ở miền Bắc Việt Nam sống ở nông thôn. Ngoài ra, họ sống dọc vùng biên giới chiến lược Việt-Trung. Một trong những nhóm người Hoa đông đảo nhất ở nông thôn là dân tộc Ngái, nhiều thế hệ trước đây đã di cư từ miền nam Trung Quốc đến tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam. Bộ phận dân số này được cho là bao gồm những người nói tiếng Hẹ (Khách Gia) và một số khác đến từ Vân Nam.[83] Mặc dù quy mô dân số chính xác vẫn chưa rõ ràng, ước tính có 160.000 người Hoa ở Quảng Ninh vào năm 1978, chiếm 22% dân số toàn tỉnh. Những số liệu này đã biến người Hoa ở Quảng Ninh thành cộng đồng lớn thứ hai tại đất nước Việt Nam thống nhất, chỉ đứng sau cộng đồng ở Chợ Lớn.[84] Họ tập hợp thành bốn huyện trong tỉnh, chiếm từ 50% đến 60% dân số mỗi huyện. Họ tham gia vào hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác mỏ, chế tạo gốm sứ, buôn bán và dịch vụ.[85]
Ngay từ tháng 10 năm 1945, chính quyền Bắc Việt Nam đã chủ trương tất cả dân tộc thiểu số ở Việt Nam, ngoại trừ “những người lưu trú gốc Hoa” thuộc tầng lớp tư bản thành thị, đều là công dân Việt Nam.[86] Tuy nhiên, chính sách này không được thực thi hiệu quả. Đó là nguyên nhân Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai thúc giục người Hoa ở Quảng Ninh nhập quốc tịch Việt Nam vào năm 1956, cuộc hô hào đã gặp phải sự phản đối từ cư dân Hoa kiều. Một tư liệu của Việt Nam cho hay vào năm 1957, đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội và chính quyền Bắc Việt Nam nhất trí quan điểm người Ngái ở Quảng Ninh được xem là công dân Việt Nam, trong khi vấn đề quốc tịch cho người Hoa sống tại các khu vực khác thuộc miền Bắc Việt Nam bị trì hoãn.[87]
Chính sách phân hóa người Ngái khỏi cộng đồng người Hoa ở thành thị có khả năng góp phần loại trừ họ ra khỏi Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam, một tổ chức chủ yếu bao gồm Hoa kiều tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định.[88] Việc phân hóa này cũng khiến cho chính quyền Việt Nam dùng đến một thuật ngữ riêng biệt đối với người Hoa ở Quảng Ninh. Trong một bài báo nhắc đến người Hoa ở Quảng Ninh năm 1965, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh dùng thuật ngữ “người Hán” (dân tộc Hán) thay cho Hoa kiều (người Hoa ở hải ngoại).[89] Bài báo viết về nông dân và ngư dân ở đảo Cô Tô cũng gọi họ là người Hán thay vì Hoa kiều,[90] trong khi nông dân người Hoa tại các tỉnh phía Bắc khác vẫn được gọi là Hoa kiều.[91] Nhìn chung, việc áp dụng chính sách phân hóa này không mấy ảnh hưởng tức thời đến người Ngái và bộ phận người Hoa ở nông thôn – họ vẫn có thể dễ dàng vượt qua biên giới mà không cần hộ chiếu. Thời kỳ khủng hoảng những năm cuối 1970, Việt Nam tuyên bố người Hoa ở miền Bắc đã tự nguyện trở thành những công dân Việt Nam thực sự, nhưng Trung Quốc biện luận rằng hầu hết những nỗ lực khuyến khích họ nhập quốc tịch Việt Nam đều thất bại.[92] Cuối những năm 1970, nhiều người Ngái trở về Trung Quốc hoặc đến các quốc gia khác cùng với người Hoa. Năm 1979, chính quyền Việt Nam thừa nhận những người ở lại là nhóm dân tộc riêng biệt, độc lập với dân tộc Hoa.[93]
Năm 1961, miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc đi đến một thỏa thuận khác, theo đó đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội sẽ ngừng phát hành hộ chiếu cho người Hoa ở Việt Nam. Người Hoa muốn đi thăm Trung Quốc phải nộp đơn xin chính phủ Việt Nam chấp thuận. Sau khi chấp thuận, đơn sẽ được trình lên đại sứ quán Trung Quốc, nơi sẽ cấp visa du lịch và giấy thông hành cho người nộp đơn. Đây là một bước rất quan trọng trong quá trình nhập tịch của cư dân gốc Hoa mặc dù Việt Nam vẫn chưa có thẩm quyền cấp hộ chiếu phổ thông cho họ. Điều này về cơ bản khiến cho người Hoa ở miền Bắc Việt Nam trở thành “người không có hộ chiếu”.[94]
Thời kỳ Cách mạng Văn hóa Trung Quốc, khởi đầu vào năm 1966, người Hoa ở miền Bắc Việt Nam gây nên nhiều xáo trộn. Họ tổ chức các cuộc biểu tình chống lại “bá quyền Liên Xô” và tiến hành các cuộc tuần hành “ủng hộ đường lối Mao-ít” tại Hà Nội.[95] Về sau, các lãnh đạo Việt Nam đã cáo buộc rằng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, “các Hoa kiều phản động đã truyền bá ‘tư tưởng Mao Trạch Đông’ và ‘Cách mạng Văn hóa’, xuyên tạc đường lối chính trị của Việt Nam và thiết lập một mạng lưới tình báo”.[96] Đây không phải những cáo buộc thiếu căn cứ. Thời kỳ này, Tân Việt Hoa Báo (Xin Yue Hua Bao), cơ quan tin tức của Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam, tràn ngập các báo cáo về người Hoa ở Việt Nam hô hào khẩu hiệu cách mạng, hát bài hát cách mạng, lên án chủ nghĩa xét lại, học tập đường lối của Chủ tịch Mao Trạch Đông và thể hiện lòng trung thành với vị lãnh đạo này.[97] Bí thư Đảng ủy của một trường tiểu học người Hoa ở Hà Nội về sau nhớ lại, trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, trường học trở nên hỗn loạn bởi các cuộc xung đột giữa các bè phái chính trị khác nhau.[98]
Nếu người Hoa ở miền Bắc Việt Nam sẵn sàng trở thành công dân Việt Nam trước cuộc Cách mạng Văn hóa thì Cách mạng Văn hóa đã đảo ngược, hay ít ra là trì hoãn tình hình. Mặc dù Trung Quốc đồng ý chuyển giao các vấn đề về cộng đồng Hoa kiều cho chính quyền Bắc Việt Nam vào năm 1957,[99] một tuyên bố của Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam năm 1967 ghi nhận rằng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam chịu sự chỉ đạo của “hai chính quyền và hai đảng”.[100] Các viên chức đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội một lần nữa lại can thiệp sâu vào vấn đề người Hoa ở địa phương. Trong chuyến viếng thăm vài trường học người Hoa tại Hà Nội, một bí thư đến từ đại sứ quán Trung Quốc bình luận rằng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam có quyền và nghĩa vụ đọc báo chí tiếng Hoa, nghe các chương trình phát thanh tiếng Hoa và thể hiện lòng trung thành với Chủ tịch Mao như người Hoa vốn làm ở Trung Quốc, rằng cộng đồng người Hoa và đại sứ quán Trung Quốc ràng buộc bởi tình máu mủ.[101]
Phản ứng trước những động thái và bình luận cực đoan này, chính quyền Việt Nam tiến hành những nỗ lực đặc biệt nhằm ngăn chặn người Hoa nghe các chương trình phát thanh tiếng Hoa, đọc báo cũng như tạp chí tiếng Hoa. Một số người Hoa giữ các chức vụ trong Đảng, quân đội hay chính phủ đều bị giáng chức. Chính quyền cũng tiến hành kiểm soát đối với các trường học người Hoa được Việt hóa.[102] Ngoài ra, chính quyền phát động chiến dịch Ba Chia Sẻ và Hai Tốt (chia sẻ vui buồn, sống chết, nghĩa vụ với người Việt đồng thời lao động tốt và chiến đấu tốt) nhằm hòa nhập người Hoa và người Việt.[103] Sau cùng, miền Bắc Việt Nam lại bắt đầu khuyến khích người Hoa nhập quốc tịch Việt Nam nhưng một lần nữa, họ thể hiện thái độ miễn cưỡng.[104] Báo cáo cho hay, sau tháng 3 năm 1967, chính quyền địa phương Lào Cai ngược đãi người Hoa và buộc họ phải nhập quốc tịch Việt Nam. Để phản đối, mười sinh viên người Hoa từ Lào Cai đã vượt biên trong đêm và có mặt tại Trung Quốc. Tháng 12 năm 1967, khoảng 1.000 người Hoa đã đặt chân đến Trung Quốc. Chính quyền Trung Quốc động viên họ trở về Việt Nam nhưng 101 người được phép ở lại Trung Quốc. Gần 400 người Hoa từ Việt Nam dời sang Trung Quốc năm 1968 vì những lý do tương tự và hầu hết được phép ở lại.[105] Nhiều người Hoa rõ ràng đã phớt lờ lời kêu gọi nhập tịch bởi vào năm 1976, Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam một lần nữa phải hối thúc bộ phận người Hoa ở thành thị tự nguyện nhập quốc tịch Việt Nam.[106]
So với các nước Đông Nam Á khác, cho đến cuối những năm 1970, kế hoạch chuyển đổi quốc tịch cho cư dân người Hoa của miền Bắc Việt Nam bất thành, một thất bại đặc biệt nghiêm trọng nếu xét quy mô nhỏ bé của cộng đồng người Hoa nơi đây. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất cho thất bại là bản chất ôn hòa của chính sách Bắc Việt Nam đối với người Hoa. Ở các nước như Malaysia, miền Nam Việt Nam và Indonesia, chính quyền có khả năng buộc người Hoa thay đổi quốc tịch, nhưng ở miền Bắc Việt Nam, theo như thỏa thuận giữa hai chính quyền Bắc Việt Nam và Trung Quốc, biện pháp duy nhất được áp dụng là thuyết phục và giáo dục nhưng rốt cuộc chẳng mấy hiệu quả.
Chính sách của miền Bắc Việt Nam đối với người Hoa không chỉ ôn hòa mà còn mang tính mâu thuẫn nội tại. Một mặt, chính quyền Bắc Việt Nam hăm hở động viên người Hoa trở thành công dân Việt Nam; mặt khác, chính quyền không chỉ trao cho người Hoa tất cả các quyền công dân Việt Nam được hưởng vào thời điểm trước khi họ mang quốc tịch Việt Nam mà còn trao cho người Hoa đặc quyền nếu họ vẫn duy trì quốc tịch Trung Quốc. Giống như công dân Việt Nam, người Hoa được phép tham gia bầu cử, tham gia Đảng Lao Động và làm công chức.[107] Đặc quyền chủ yếu nhất đối với người Hoa là miễn trừ quân dịch: suốt cuộc chiến tranh kéo dài với Mỹ và miền Nam Việt Nam, người Hoa ở miền Bắc Việt Nam không có nghĩa vụ tham gia quân đội.[108] Một người Hoa tị nạn ở Việt Nam giải thích rằng vào năm 1978, nhiều người Hoa không muốn mang quốc tịch Việt Nam vì địa vị ấy sẽ gắn liền với các nghĩa vụ quân sự cũng như chế độ phục dịch khác. Vài người tị nạn thừa nhận, một trong những lý do họ dời đến Trung Quốc những năm cuối 1970 là vì họ không muốn bị gửi sang tham chiến ở Campuchia.[109]
Hoa kiều cũng được hưởng tự do thương mại nhiều hơn công dân Việt Nam. Vấn đề xã hội hóa người Hoa ở miền Bắc Việt Nam bắt đầu vào những năm cuối 1950 và bao gồm hai chính sách: một là khuyến khích các thương nhân cùng thợ thủ công người Hoa tự tổ chức thành các hợp tác xã, và hai là khuyến khích một số thương nhân người Hoa trở thành chủ thể sản xuất, theo cách nói của chủ nghĩa cộng sản, tức là công nhân nhà máy hoặc nông dân.[110]Quá trình chuyển đổi ấy chưa được hoàn tất cho đến giữa năm 1974.[111] Đối với nhiều người Việt Nam, việc người Hoa có thể qua lại Trung Quốc là một đặc quyền khác, bởi lý do những chuyến viếng thăm này tạo cơ hội để người Hoa buôn lậu hàng Trung Quốc như nước hoa, bột, rượu, và dược thảo. Người ta tin rằng người Hoa kiểm soát một mạng lưới hàng hóa chợ đen.[112] Thời kỳ 1974 và 1975, Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam báo cáo tình trạng có quá nhiều thương nhân bán lẻ người Hoa và một vài trong số đó dính líu đến kinh doanh phi pháp.[113] Một người Việt tị nạn đến từ miền Bắc Việt Nam nhớ về các cư dân Hoa kiều:
Họ hưởng nhiều đặc quyền mà ngay cả người Việt chúng tôi không có được. Chừng nào quan hệ Việt – Trung còn tốt đẹp, họ khá giả về mọi mặt so với người Việt – những người buộc phải tham gia vào lực lượng lao động xã hội chủ nghĩa. Họ có những cơ hội giáo dục mà chúng tôi không được đón nhận và quyền tự do mua bán rộng rãi hơn. Chính quyền muốn người Hoa trở thành công dân để họ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội chủ nghĩa như người Việt, nhưng họ từ chối nhằm có thêm tự do và tránh chế độ quân dịch.[114]
Một người Hoa tị nạn từ miền Bắc Việt Nam cũng đồng tình: “Vẹn cả đôi đường. Người Hoa ở miền Bắc có mọi quyền cũng như đặc quyền của công dân Việt Nam mà không chịu bất lợi nào”.[115] Một bác sĩ người Việt gốc Hoa khẳng định rằng bệnh nhân người Hoa được đối xử tốt hơn người Việt tại các bệnh viện của Bắc Việt Nam.[116] Thậm chí vào năm 1978, khi Trung – Việt khởi động cuộc khẩu chiến quyết liệt vì vấn đề người Hoa ở Việt Nam, chính quyền Trung Quốc vẫn thừa nhận rằng trước năm 1975, Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam được đối đãi tốt.[117] Năm 1978, chính quyền Việt Nam lý luận rằng sở dĩ người Hoa được đối xử tốt bởi họ được xem là công dân Việt Nam chứ không phải người nước ngoài và chính quyền Việt Nam trao nhiều quyền lợi cho người Hoa ở Việt Nam hơn là Trung Quốc trao cho người Việt ở Trung Quốc.[118] Nhưng khi trao đặc quyền cho người Hoa, chính quyền Việt Nam vẫn duy trì một truyền thống bắt nguồn từ chính quyền thực dân Trung Quốc mà vài triều đại Việt Nam cũng như chính quyền thực dân Pháp còn giữ lại, trái ngược với ý định công khai là đối xử với người Hoa như công dân Việt Nam.[119] Đối xử ưu đãi có thể đã tác động mạnh đến việc gia tăng sự khác biệt mà người ta nhận thấy giữa người Việt và người Hoa, thúc đẩy cảm giác ưu việt của người Hoa và một sự gắn kết mang tính ảo tưởng với Trung Quốc, tất cả những điều này khiến họ miễn cưỡng đồng hóa.
Cần lưu ý rằng mặc dù phần đông Hoa kiều vui vẻ chấp nhận những đặc ân mà chính quyền mang lại, cũng có nhiều người tự nguyện từ bỏ đặc quyền và hành xử như những công dân tận tụy của Việt Nam. Điển hình là từ năm 1964 đến 1975, khoảng 1.800 người Hoa ở Quảng Ninh gia nhập quân đội mỗi năm. Suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam, tổng cộng 22.000 người Hoa tại tỉnh này đã tham gia quân đội.[120] Nhiều người Hoa từ các tỉnh và các thành phố lớn khác như Hà Nội và Hải Phòng cũng tình nguyện tham gia quân ngũ.[121] Thời kỳ 1967 đến 1974, chính quyền Bắc Việt Nam công nhận hai mươi bảy người Hoa ở Hải Phòng là các liệt sĩ bởi họ đã hy sinh thân mình cho “cuộc cách mạng Việt Nam nhằm bảo vệ thành phố Hải Phòng anh hùng”. Từ năm 1969 đến 1972, hơn 100 người Hoa ở Hải Phòng được trao danh hiệu “Lao Động Kiểu Mẫu” và hơn 1.000 người được trao danh hiệu “Lao Động Tiên Tiến”. Cùng thời kỳ, các cá nhân người Hoa ở Hải Phòng nhận 24 Huân chương Hồ Chí Minh, 11 Huân chương Lao Động, 5 Huân chương Quân Công, 2 Huân chương Kháng Chiến từ chính phủ và 10 bằng khen do Phủ Thủ tướng trực tiếp trao tặng.[122] Nhiều lãnh đạo Bắc Việt Nam, từ Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến Lê Duẩn, không ngừng tuyên dương các cư dân gốc Hoa vì sự đóng góp của họ đối với cách mạng Việt Nam trước năm 1978[123] và về sau, chính phủ Việt Nam tiếp tục công nhận những đóng góp này.
Bản chất khoan dung và mâu thuẫn nội tại từ chính sách của miền Bắc Việt Nam đối với người Hoa chỉ có thể giải thích bằng mong muốn mãnh liệt của các lãnh đạo Bắc Việt là duy trì quan hệ bền chặt với Trung Quốc, động thái mà họ nghĩ rằng có lợi cho nỗ lực tái thống nhất và tái thiết Việt Nam. Họ đối xử với người Hoa ở miền Bắc Việt Nam như những đại diện của Trung Quốc, tin tưởng rằng việc trao cho họ các đặc quyền sẽ thúc đẩy tình hữu nghị và đoàn kết giữa hai nước Việt – Trung.
Trường học người Hoa 
Vị trí của Trung Quốc trong quan hệ ba bên
Chính sách đồng hóa của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á nói chung
Tài liệu tham khảo
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Nguoi Hoa o Bac Viet Nam thoi ky 1954-1978.pdf

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Viện Nghiên Cứu & Giáo Dục cũng như Trung Tâm Giáo Dục Toàn Cầu thuộc Đại học Butler đã tài trợ cho những chuyến đi đến Trung Quốc và Việt Nam vào năm 2007, 2008. Tôi biết ơn những hỗ trợ nhiệt tình từ các giáo viên và bạn bè tại Trung Quốc và Việt Nam: Giáo sư Fan Honggui và Huang Xingqiu ở Quảng Tây; Ngài Liu Zhiqiang ở Bắc Kinh; Giáo sư Châu Thị Hải, Nguyễn Văn Hảo và Nguyễn Văn Huy ở Hà Nội; Ngài Truong Thai Du ở thành phố Hồ Chí Minh và Giáo sư Fan Ruiping ở Hồng Kông. Tác giả xin chịu trách nhiệm cá nhân cho mọi quan điểm cũng như sai sót nếu có trong bài báo này.
[1] Theo một ước lượng vào năm 1978, người Trung Quốc chiếm 85% số người vượt biên ở miền nam Việt Nam và 95% số người tị nạn di cư từ miền Bắc Việt Nam sang Trung Quốc. Chang P.M. 1982, trang 212-13.
[2] Amer 1991, trang 46.
[3] Beijing Review 2 tháng 6 năm 1978, trang 15.
[4] Nguyễn V. 1978, trang 43, 48.
[5] Beijing Review 16 tháng 6 năm 1978, trang 15.
[6] Godley 1980, trang 36.
[7] Porter 1980, trang 57.
[8] People’s Daily, 25 tháng 8 năm 1994.
[9] Một ước lượng cho hay vào năm 1989, có trên 900.000 người Trung Quốc ở miền Nam Việt Nam nhưng chỉ có 2.000 đến 3.000 người Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam. Guowuyuan qiaoban qiaowu ganbu xuexiao, 1993, trang 74. Báo cáo điều tra dân số chính thức của Việt Nam thống kê con số 961.702 người Việt gốc Hoa ở Việt Nam vào năm 1989. Chỉ còn lại một bộ phận nhỏ trong số họ sống ở miền bắc Việt Nam, 4.015 người ở Hà Nội, 2.659 người ở Hải Phòng, 2.287 người ở Lạng Sơn và 2.276 người ở Quảng Ninh. Châu 1992, trang 44-45.
[10] Lu 1964, trang 26, 39, 47.
[11] Tham khảo Taylor 1983, trang 69-80 để có được thông tin trọn vẹn về các gia tộc Hán Việt.
[12] Zhang W. 1975, trang 5.
[13] Lu 1964, trang 109-14; Taylor 1983, trang 69-80; Zhang C. 25 tháng 5 năm 1969.
[14] Zhang C. 23 tháng 5 năm 1969.
[15] Zhang C. 25 tháng 5 năm 1969; 27 tháng 5 năm 1969.
[16] Zhang C. 25 tháng 5 năm 1969; Châu 1992, trang 98; Zhang W. 1975, trang 17.
[17] Phân tích cô đọng về chính sách của Việt Nam đối với người Hoa từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 20, tham khảo Châu 2004, trang 69-85.
[18] Châu 1992, trang 17.
[19] Zhang C. 23 tháng 5 năm 1969; Châu 1992, trang 20.
[20] Woodside 1971, trang 8.
[21] Châu 1992, trang 23.
[22] Li B. 1990, trang 4-5.
[23] Li B. 1990, trang 68-72.
[24] Zhang W. 1975, trang 36; Châu 1993, trang 52-59.
[25] Li B. 1990, trang 6. Để hiểu thêm lược sử về Minh Hương và một nghiên cứu chi tiết về cộng đồng này, tham khảo Chen C. 1964.
[26] Châu 1992, trang 25-26; Ly Singko 1978, trang 32-41.
[27] Châu 1992, trang 100.
[28] Li B. 1990, trang 7. Thực dân Pháp về sau kế thừa hệ thống này và vào năm 1885 đã giảm số lượng cộng đồng từ bảy xuống còn năm, lấy năm thổ ngữ Trung Hoa chính làm cơ sở. Marsot 1993, trang 85.
[29] Dai 1997, trang 40-50.
[30] Châu 1992, trang 28-29; Li B. 1990, trang 8-9; Zheng 1976, trang 33-34.
[31] McAleavy 1968.
[32] Fan H. 2004, trang 203; Fan H. 1999, trang 163.
[33] Marsot 1993, trang 43; McAleavy 1968, trang 183.
[34] Zheng 1976, trang 85-86; Miller 1946, trang 268-79.
[35] Châu 1992, trang 121.
[36] Tôn Dật Tiên từng sáu lần viếng thăm Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1900 đến 1907. Những người ủng hộ ông đã tiến hành năm cuộc nổi loạn chống quân Mãn Châu ở Việt Nam. Zhang W. 1975, trang 90-91. Để biết thêm thông tin thú vị về mối quan hệ của Tôn Dật Tiên với người Pháp và người Hoa ở Việt Nam suốt những năm tháng trước Cách Mạng 1911, tham khảo Barlow 1979.
[37] Marsot 1993, trang 44-51, 53, 116-17.
[38] Purcell 1952, trang 209; trang 227-29.
[39] Marsot 1993, trang 84.
[40] Purcell 1952, trang 230.
[41] Thompson và Adloff 1955, trang 56.
[42] Purcell 1952, trang 265.
[43] Elegant 1959, trang 261; Mitchison 1961, trang 58; Zhang W. 1957, trang 43. Để biết thêm chi tiết về những trải nghiệm của một gia đình người Hoa ở miền Bắc Việt Nam trước và trong thời kỳ chia cắt, tham khảo Vuong-Riddick 2007.
[44] Qi 16 tháng 2 năm 1969; Xin Yue Hua Bao 24 tháng 8 năm 1961; 28 tháng 7 năm 1964; 31 tháng 8 năm 1965.
[45] Marsot 1993, trang 92, 95-98.
[46] Li B. 1990, trang 16.
[47] Li B. 1990, trang 81.
[48] Marsot 1993, trang 5.
[49] Fu 2004, trang 295.
[50] Fitzgerald 1972, trang 196.
[51] Sở Văn Hóa và Thông Tin Thanh Hóa, 1978, trang 17.
[52] Nguyen M. 1979, trang 1041.
[53] Qing 1996. Năm 1954, khoảng 5.000 người Nùng ở Hải Ninh theo Voong A Sang chuyển đến miền Nam Việt Nam. Ở đó, họ thành lập những cộng đồng riêng và bắt đầu tự nhận là người “Hoa Nùng” hay người Nùng gốc Hoa. Tham khảo Châu 2006, trang 112; Zhang W. 1975, trang 89. Những nghiên cứu gần đây về nhận diện người Nùng, tham khảo Hutton 2000, trang 254-76. Hutton chỉ ra rằng (trang 263) người Nùng gốc Hoa khác biệt so với người Thái-Nùng vốn là nhóm dân tộc có quy mô lớn hơn nhiều.
[54] Châu 1992, trang 58-60.
[55] Ước tính vào năm 1955, có 800.000 người Hoa ở miền Nam Việt Nam và trong số đó có trên 570.000 người sống ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Châu 1992, trang 38.
[56] Marsot 1993, trang 95.
[57] Châu 1992.
[58] Purcell 1952, trang 210, 214.
[59] Xin Yue Hua Bao 27 tháng 11 năm 1968.
[60] Kỳ 1978, trang 18.
[61] Marsot 1993, trang 96.
[62] Châu 1992, trang 35.
[63] Purcell 1952, trang 214.
[64] Xin Yue Hua Bao, 10 tháng 8 năm 1974; Kỳ 1978, trang 18.
[65] Nguyen M. 1979, trang 1041; Unger 1987, trang 598; Li B. 1990, trang 18.
[66] Lấy ví dụ, hầu hết những người Hoa ở Quảng Ninh có đất đai tổ tiên nằm ở Quảng Tây. Tham khảo Zhao 1993, trang 11.
[67] Danh sách hoàn chỉnh 19 nhóm dân tộc khác có nguồn gốc từ Trung Quốc, tham khảo Fan H. 1999, trang 162-246.
[68] Sở Văn Hóa và Thông Tin Thanh Hóa, 1978, trang 17; Kỳ 1978, trang 22.
[69] Xin Yue Hua Bao 6 tháng 11 năm 1969.
[70] Xin Yue Hua Bao 30 tháng 10 năm 1969.
[71] Xin Yue Hua Bao 7 tháng 11 năm 1969.
[72] Guo 2007.
[73] Mitchison 1961, trang 45-46; Evans 1990, trang 48.
[74] Woodside 1979, trang 389.
[75] Fitzgerald 1972, trang 114; Godley 1980, trang 46-47; Minority Rights Group, 1992, trang 26-27; Qiaowu weiyuanhui qiaowu yanjiusuo 1966, trang 30-40.
[76] Beijing Review 2 tháng 6 năm 1978; 16 tháng 6 năm 1978.
[77] Xin Yue Hua Bao 6 tháng 7 năm 1960; 17 tháng 7 năm 1960a; 17 tháng 7 năm 1960b; 17 tháng 7 năm 1960c.
[78] Evans 1990, trang 49.
[79] Unger 1987, trang 602.
[80] Châu 2006, trang 111.
[81] Zhuang S. 6 tháng 3 năm 1960; Xin Yue Hua Bao 30 tháng 3 năm 1960.
[82] Xin Yue Hua Bao 19 tháng 4 năm 1960; 12 tháng 5 năm 1960; 22 tháng 5 năm 1960; 19 tháng 4 năm 1961.
[83] Purcell 1952, trang 218; Unger 1987, trang 612; Fan H. 1999, trang 299.
[84] Kỳ 1978, trang 18. Theo Qing 1996, tổng dân số của Quảng Ninh là 664.000 vào tháng 1 năm 1976, bao gồm 142.000 người Hoa và người Hoa chiếm 21,4% tổng dân số.
[85] Nguyễn V. 1978, trang 41-42.
[86] Woodside 1979, trang 389.
[87] Unger 1987, trang 609. Một nghiên cứu gần đây về người Ngái, tham khảo  Hutton 2000, trang 254-76.
[88] Chính quyền Việt Nam về sau lập luận rằng bộ phận người Hoa ở thành thị cũng cần được xem là công dân Việt Nam vì ba lý do: thứ nhất, họ được đối xử như công dân Việt Nam; thứ hai, tổng hội của họ nằm dưới sự kiểm soát của Đảng Lao Động Việt Nam; và thứ ba, họ không có hộ chiếu do Trung Quốc cấp hay thẻ cư trú vĩnh viễn do Việt Nam cấp. Kỳ 1978, trang 23.
[89] Nguyễn T. 7 tháng 9 năm 1965.
[90] Xin Yue Hua Bao 13 tháng 5 năm 1961; Hồng 14 tháng 5 năm 1964.
[91] Xin Yue Hua Bao 27 tháng 4 năm 1963; 20 tháng 11 năm 1963.
[92] Cankao Xiaoxi, 18 tháng 6 năm 1978; Hãng thông tấn Xinhua, 15 tháng 6 năm 1978.
[93] Fan H. 1999, trang 73; trang 219-20; Fan H. 2004, trang 264.
[94] Hoàng 1978, trang 11; Bộ Ngoại Giao, Việt Nam 1978.
[95] Amer 1991, trang 17.
[96] Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 1979, trang 38.
[97] Xin Yue Hua Bao 19 tháng 10 năm 1966; 27 tháng 11 năm 1966; 11 tháng 12 năm 1966; 25 tháng 12 năm 1966; 5 tháng 7 năm 1967; 14 tháng 7 năm 1967.
[98] Xin Yue Hua Bao 7 tháng 12 năm 1973
[99] Porter 1980, trang 55.
[100] Xin Yue Hua Bao 21 tháng 9 năm 1967.
[101] Như trên.
[102] Fu 2004, trang 305.
[103] Xin Yue Hua Bao 20 tháng 8 năm 1966.
[104] Benoit 1981, trang 148.
[105] He Kou Xian Zhi, 1994, trang 608-09.
[106] Xin Yue Hua Bao 1 tháng 9 năm 1976.
[107] Xin Yue Hua Bao, 20 tháng 3 năm 1960.
[108] Mai 1978, trang 56. Ngay cả trước thời thuộc Pháp, Hoa kiều ở Việt Nam cũng thừa hưởng đặc quyền ấy; Purcell 1952, trang 224.
[109] Cankao Xiaoxi 13 tháng 5 năm 1978; 1 tháng 6 năm 1978.
[110] Xin Yue Hua Bao 16 tháng 1 năm 1960; 20 tháng 1 năm 1960; 23 tháng 1 năm 1960; 25 tháng 1 năm 1960; 27 tháng 1 năm 1960; 1 tháng 2 năm 1960; 13 tháng 6 năm 1965; 13 tháng 8 năm 1966; Zhuang Y. 1960.
[111] Stern 1986, trang 284.
[112] Benoit 1981, trang 144.
[113] Xin Yue Hua Bao 10 tháng 8 năm 1974; 29 tháng 3 năm 1975.
[114] Benoit 1981, trang 148.
[115] Benoit 1981, trang 144.
[116] Nguyễn V. 1978, trang 43.
[117] Chang P.M. 1982, trang 197.
[118] Hoàng 1978, trang 12; Sở Văn Hóa và Thông Tin Thanh Hóa, 1978, trang 17.
[119] Một tuyên bố trong Bộ Văn Hóa và Thông Tin Việt Nam, 1878, trang 6.
[120] Fu 2004, trang 296.
[121] Tham khảo Xin Yue Hua Bao 1 tháng 6 năm 1965; 30 tháng 8 năm 1966; 18 tháng 10 năm 1966.
[122] Li B. 1990, trang 143.
[123] Li B. 1990, trang 139-43.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sự va chạm giữa các nền văn minh


Nguồn: Samuel P. Huntington (1993). “The Clash of Civilizations?” Foreign Affairs, No. 72 (Summer), pp. 22-49.>>PDF
Biên dịch: Lưu Ngọc Trâm | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Hình thái tiếp theo của xung đột
Chính trị thế giới đang bước vào một giai đoạn mới, và các nhà trí thức đã không hề ngần ngại đưa ra vô số quan điểm về hình hài của nó – sự cáo chung của lịch sử, sự trở lại của mối thâm thù giữa các quốc gia – dân tộc, và sự suy tàn của các quốc gia – dân tộc dưới sức ép của chủ nghĩa bộ lạc, chủ nghĩa toàn cầu và các chủ nghĩa khác. Mỗi quan điểm đều nắm bắt một khía cạnh nào đó của hiện thực đang hình thành. Tuy nhiên tất cả đều không nắm bắt được một khía cạnh quan trọng, thực tế là trung tâm, của hình hài khả dĩ của chính trị thế giới trong những năm sắp tới.
Theo giả thiết cá nhân tôi, nguồn chính của xung đột trong thế giới mới sẽ không chỉ tập trung vào vấn đề hệ tư tưởng hay kinh tế. Thay vào đó khác biệt văn hóa sẽ là yếu tố chính gây nên sự chia rẽ loài người và là nguồn chính của xung đột. Quốc gia dân tộc vẫn sẽ tiếp tục giữ vai trò là chủ thể trung tâm của quan hệ quốc tế, tuy nhiên xung đột trong thế giới chính trị chủ yếu sẽ diễn ra giữa các quốc gia và các nhóm thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự xung đột giữa các nền văn minh sẽ chi phối chính trị thế giới. Và như vậy đường phân cách các nền văn minh sẽ trở thành các đường chiến tuyến trong tương lai.
Xung đột giữa các nền văn minh sẽ là bước phát triển mới nhất trong sự tiến hóa của xung đột trong thế giới hiện đại. Một thế kỷ rưỡi sau Hòa ước Westphalia cùng sự xuất hiện của hệ thống quốc tế hiện đại, các cuộc xung đột của thế giới phương Tây chủ yếu diễn ra giữa các đấng quân vương – các hoàng đế, các vị vua của chế độ quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến cố gắng mở rộng hệ thống nhà nước, quân đội, sức mạnh kinh tế theo tư tưởng trọng thương, và quan trọng nhất là mở rộng lãnh thổ cai trị. Tuy nhiên trong quá trình hình thành các quốc gia dân tộc, và bắt đầu từ cuộc Cách mạng Pháp, chiến tuyến chính của xung đột là giữa các quốc gia hơn là giữa các bậc quân vương. Năm 1793, R. R. Palmer nhận xét “Thời kỳ chiến tranh giữa các vị vua đã qua, thời kỳ chiến tranh giữa các dân tộc đã bắt đầu.” Mẫu hình xung đột của thế kỷ 19 kéo dài đến hết Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau đó, từ kết quả của Cách mạng Nga và các phản ứng chống lại cuộc cách mạng này, xung đột giữa các quốc gia đã nhường đường cho sự xung đột giữa các hệ tư tưởng, đầu tiên là giữa chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa dân chủ tự do, và sau đó là giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân chủ tự do. Suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, xung đột ý thức hệ này biểu hiện qua sự đối đầu giữa hai siêu cường là Mỹ và Liên Xô, cả hai nước này đều không phải là các quốc gia dân tộc theo nghĩa châu Âu cổ điển và mỗi quốc gia đều xác định bản sắc của mình trên phương diện hệ tư tưởng.
Xung đột giữa các bậc quân vương, giữa các quốc gia dân tộc và giữa các hệ tư tưởng cơ bản là những xung đột của nền văn minh phương Tây, hay “nội chiến giữa các nước phương Tây” theo như cách gọi của William Lind. Sự phân loại này là đúng nếu xét đến cuộc Chiến tranh Lạnh, hai cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh trước đó trong thế kỷ mười bảy, mười tám và mười chín. Với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, chính trị thế giới bước ra khỏi giai đoạn chi phối bởi phương Tây, và trung tâm của nó giờ đây là sự tương tác giữa các nền văn minh phương Tây với ngoài phương Tây hay giữa các nền văn minh ngoài phương Tây với nhau. Trong quan hệ chính trị giữa các nền văn minh, các dân tộc và chính phủ của các nền văn minh ngoài phương Tây không còn đóng vai trò chủ thể lịch sử là mục tiêu của chủ nghĩa thực dân phương Tây nữa mà đã cùng với phương Tây trở thành đối tượng thúc đẩy và định hình lịch sử.
Bản chất của các nền văn minh
Suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thế giới bị phân chia thành các nước thế giới thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Sự phân chia này giờ đây không còn phù hợp nữa. Giờ đây cách phân chia ý nghĩa hơn nhiều là phân loại các nước theo nền văn hóa và văn minh của họ chứ không phải theo hệ thống chính trị, kinh tế, hay theo trình độ phát triển kinh tế như trước kia.
Khái niệm nền văn minh nghĩa là gì? Một nền văn minh là một thực thể văn hóa. Các thôn làng, các vùng, các nhóm sắc tộc, các dân tộc, các nhóm tôn giáo, tất cả đều có những nền văn hóa riêng biệt với các cấp độ đồng nhất văn hóa khác nhau. Văn hóa của một ngôi làng miền Nam nước Ý sẽ có sự khác biệt với văn hóa một ngôi làng ở miền Bắc, nhưng cả hai đều chia sẻ nét văn hóa chung của nước Ý, phân biệt chúng với những ngôi làng ở nước Đức. Cũng như vậy, các cộng đồng châu Âu chia sẻ những đặc điểm văn hóa chung phân biệt họ với các cộng đồng người Ả Rập hay người Hoa. Tuy nhiên, các cộng đồng người Ả Rập, người Hoa hay các cộng đồng châu Âu không nằm trong một thực thể văn hóa lớn hơn nào khác. Họ cấu thành nên các nền văn minh. Như vậy một nền văn minh là nhóm văn hóa cao nhất của con người và là cấp độ rộng nhất của bản sắc văn hóa mà con người có được để phân biệt với các loài khác. Các yếu tố của một nền văn minh bao gồm các yếu tố khách quan chung như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, phong tục, các thể chế, và các yếu tố chủ quan để con người tự nhận dạng lẫn nhau. Con người có nhiều cấp độ bản sắc khác nhau: một công dân La Mã có thể tự xác định mình theo nhiều cấp độ như là một người La Mã, một công dân Ý, một người theo Công giáo, một tín đồ Cơ đốc giáo, một công dân châu Âu hay một người phương Tây. Trong đó nền văn minh là cấp độ bản sắc rộng nhất mà anh ta có thể dùng để tự nhận dạng. Con người hoàn toàn có thể và thực sự đã từng tái định nghĩa bản sắc của mình và do đó dẫn tới sự thay đổi trong thành phần và ranh giới của các nền văn minh.
Một nền văn minh có thể bao gồm một cộng đồng lớn người dân, ví dụ như Trung Hoa (“một nền văn minh vờ làm một quốc gia” như cách nói của Lucian Pye), hay cũng có thể chỉ bao gồm một số rất ít người như cộng đồng những người nói tiếng Anh ở vùng Caribbê. Một nền văn minh có thể gồm nhiều quốc gia dân tộc như nền văn minh của các nước phương Tây, các nước Mỹ Latinh hay các nước Ả Rập; cũng có thể chỉ gồm một quốc gia như trường hợp nền văn minh Nhật Bản. Giữa các nền văn minh sẽ có sự pha trộn và chồng lấn nhau, và có thể bao gồm cả các nền văn minh nhỏ hơn. Ví dụ như văn minh phương Tây có hai biến thể chính là văn minh châu Âu và văn minh Bắc Mỹ, hay như cộng đồng Hồi giáo có thể chia nhỏ thành văn minh Ả Rập, văn minh người Thổ hay cộng đồng các nước nói tiếng Malay. Tuy nhiên, các nền văn minh là các thực thể có ý nghĩa, và dù ranh giới giữa chúng rất mong manh, các ranh giới đó là có thật. Các nền văn minh cũng luôn vận động, chúng hưng thịnh rồi suy vong, chia tách rồi hợp nhất. Và như những người nghiên cứu lịch sử đều biết thì các nền văn minh còn biến mất và bị chôn vùi dưới rêu phong thời gian.
Người phương Tây có xu hướng quan niệm rằng các quốc gia dân tộc là chủ thể chính của các vấn đề toàn cầu. Các quốc gia dân tộc đã đóng vai trò đó, nhưng chỉ trong vài thế kỷ. Phạm vi rộng lớn nhất của lịch sử loài người chính là lịch sử của các nền văn minh. Trong cuốn Một nghiên cứu về lịch sử [A Study of History], Arnold Toynbee đã chỉ ra 21 nền văn minh chính, nhưng chỉ 6 trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Lý do các nền văn minh sẽ xung đột lẫn nhau
Bản sắc của nền văn minh đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tương lai khi thế giới sẽ được định hình phần lớn bởi sự tương tác giữa bảy hay tám nền văn minh chính, bao gồm văn minh phương Tây, văn minh Nho giáo, văn minh Nhật Bản, văn minh Hồi giáo, văn minh Ấn giáo, văn minh của người Slavơ –Chính thống giáo, văn minh Mỹ Latinh và cũng có thể sẽ gồm cả nền văn minh châu Phi. Xung đột quan trọng nhất trong tương lai sẽ diễn ra dọc theo đường chia cắt giữa các nền văn minh này.
Tại sao lại như vậy?
Thứ nhất, sự khác biệt giữa các nền văn minh không chỉ là có thật mà còn rất căn bản. Các nền văn minh phân biệt với nhau chủ yếu qua tôn giáo, ngoài ra còn qua các yếu tố khác như lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống. Người dân ở các nền văn minh khác nhau có sẽ những quan điểm riêng biệt về quan hệ giữa con người với Đấng tối cao, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với quốc gia, cha mẹ với con cái, quan hệ chồng vợ cũng như sự khác biệt quan điểm về tầm quan trọng của quyền lợi so với nghĩa vụ, sự tự do so với quyền hạn nhà nước, hay quan điểm về sự bình đẳng và phân chia thứ bậc. Những sự khác biệt này được hình thành từ hàng thế kỷ nay, do đó không thể dễ dàng biến mất. Những khác biệt này mang tính nền tảng hơn so với sự khác biệt giữa các ý thức hệ chính trị hay chế độ chính trị. Cho dù khác biệt không có nghĩa là xung đột và xung đột cũng không có nghĩa là bạo lực thì hàng thế kỷ qua, khác biệt giữa các nền văn minh đã tạo ra các cuộc xung đột kéo dài nhất và bạo lực nhất.
Thứ hai, thế giới đang dần thu hẹp lại. Sự tương tác giữa cư dân thuộc các nền văn minh khác nhau đang ngày càng tăng lên, kèm theo đó là sự gia tăng ý thức về nền văn minh cũng như nhận thức về sự khác biệt và tương đồng giữa các nền văn minh với nhau. Thái độ thù địch là phản ứng của người Pháp khi những người Bắc Phi di cư đến nước này, trong khi đó những người nhập cư Ba Lan Công giáo châu Âu “lương thiện” lại ngày càng được chào đón. Người Mỹ phản ứng tiêu cực hơn nhiều với những nguồn đầu tư từ Nhật Bản so với các nguồn đầu tư lớn hơn từ Canada hay các nước châu Âu. Tương tự như vậy, như Donald Horowitz đã chỉ ra, “đối với những người dân vùng Đông Nigeria, một người Ibo có thể là người Ibo Owerri hay người Ibo Onitsha. Ở Lagos, người đó đơn giản là người Ibo. Ở London, anh ta là một người Nigeria. Còn ở New York, người ta chỉ biết đó là một người châu Phi.” Tương tác giữa cư dân thuộc các nền văn minh khác nhau làm gia tăng ý thức về nền văn minh của họ, điều đến lượt nó sẽ tăng cường sự khác biệt và sự thù địch đã có, hoặc được cho là đã có, từ sâu xa trong lịch sử.
Thứ ba, quá trình hiện đại hóa nền kinh tế và thay đổi trong xã hội trên phạm vi toàn cầu sẽ đưa con người rời xa khỏi các bản sắc bản địa lâu đời. Chúng cũng sẽ làm suy yếu các quốc gia dân tộc trong vai trò là một nguồn tạo nên bản sắc. Thay vào đó các hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới sẽ nắm giữ vai trò này, thường là dưới dạng các phong trào được gọi là “trào lưu chính thống”. Những phong trào nào có thể được tìm thấy ở Kitô giáo Tây phương, Do Thái giáo, Phật giáo, Ấn giáo, cũng như Hồi giáo. Ở hầu hết các nước hay tôn giáo, những người tích cực đi theo các phong trào chính thống này chủ yếu là những chuyên gia kỹ thuật, những người có trình độ chuyên môn, hay các doanh nhân thuộc tầng lớp trung lưu, học cao và còn trẻ. George Weigel nhấn mạnh “sự phi thế tục hóa thế giới đang là một xu hướng xã hội chủ đạo vào cuối thế kỷ hai mươi.” Sự hồi sinh của tôn giáo mà Gilles Kepel gọi là “sự trả thù của Chúa” (la revanche de Dieu) đã tạo nên cơ sở của bản sắc cũng như sự cam kết vượt khỏi biên giới quốc gia để kết nối các nền văn minh với nhau.
Thứ tư, phương Tây đóng vai trò kép trong việc cải thiện ý thức về nền văn minh. Một mặt, nền văn minh phương Tây đang ở đỉnh cao của quyền lực. Mặt khác, điều này dẫn đến hiện tượng các nền văn minh phi phương Tây đang tìm cách quay lại các giá trị gốc rễ. Chúng ta ngày càng nghe nhiều hơn về xu hướng hướng nội và xu hướng “Á hóa” của Nhật, sự kết thúc của di sản Nehru và xu hướng “Hindu hóa” của Ấn Độ, sự thất bại của các ý tưởng về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc của phương Tây, từ đó dẫn đến xu hướng “tái Hồi giáo hóa” của vùng Trung Đông, hay cuộc tranh luận về xu hướng “phương Tây hóa” so với “Nga hóa” ở đất nước của Boris Yeltsin. Một phương Tây đang ở đỉnh cao quyền lực đang đối mặt với một thế giới ngoài phương Tây ngày càng có mong muốn, ý chí và các nguồn lực để định hình thế giới theo các cách thức phi phương Tây.
Trong quá khứ, giới tinh hoa của các xã hội phi phương Tây thường là những người có quan hệ mật thiết với phương Tây, được giáo dục tại những ngôi trường như Oxford, Sorbonne hay Sandhurst, hấp thu các quan niệm và giá trị phương Tây. Trong khi đó, dân chúng ở các nước phi phương Tây thường lại thấm nhuần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, các mối quan hệ này lại bị đảo ngược. Một quá trình phi phương Tây và bản địa hóa của giới tinh hoa đang diễn ra ở nhiều quốc gia ngoài phương Tây cùng lúc với việc các giá trị văn hóa, phong cách và thói quen của phương Tây, đặc biệt là Mỹ, lại ngày càng trở nên phổ biến với những người dân thường.
Thứ năm, các đặc trưng và khác biệt về văn hóa khó biến đổi, vì vậy việc thỏa hiệp hay giải quyết khó hơn so với các khác biệt về chính trị hay kinh tế. Như ở Liên Xô cũ, những người cộng sản có thể trở thành những người dân chủ, người giàu có thể thành người nghèo và người nghèo có thể giàu lên, nhưng người Nga không thể trở thành người Estonia, cũng như người Azerbaijan không thể trở thành người Armenia. Trong các xung đột về giai cấp và tư tưởng, câu hỏi mấu chốt là “Bạn thuộc phe nào?” và người ta có thể và thực sự đã chọn phe và cả đổi phe. Trong các cuộc xung đột giữa các nền văn minh, câu hỏi đặt ra là “Anh là ai?” Đó là một bản sắc mặc định không thể thay đổi? Như ta đã biết, từ Bosnia, tới khu vực Capcadơ và tới Sudan, trả lời sai câu hỏi trên có thể khiến một viên đạn găm vào đầu người đáp. Hơn cả khía cạnh sắc tộc, tôn giáo phân định con người một cách rõ ràng và riêng biệt. Một người có thể mang hai dòng máu Pháp và Ả Rập và đồng thời là công dân của hai nước nhưng lại khó hơn nhiều để vừa là người Công giáo vừa là người Hồi giáo.
Cuối cùng, chủ nghĩa khu vực về kinh tế đang phát triển. Tỉ trọng của thương mại liên khu vực trong tổng thương mại giai đoạn 1980 – 1989 tăng từ 51% lên 59% ở châu Âu, từ 33% lên 37% ở Đông Á, và từ 32% lên 36% ở Bắc Mỹ. Tầm quan trọng của các khối kinh tế khu vực sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai. Một mặt, sự thành công của chủ nghĩa khu vực kinh tế sẽ củng cố ý thức về bản sắc văn minh. Mặt khác, chủ nghĩa khu vực kinh tế chỉ có thể thành công khi xuất phát điểm của nó là từ một nền văn minh chung. Cộng đồng châu Âu tồn tại dựa trên nền tảng là văn hóa châu Âu và Kitô giáo phương Tây. Hay như thành công của Khu vực Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) dựa trên sự hội tụ đang diễn ra giữa các nền văn hóa Mexico, Canada và Mỹ. Ngược lại, Nhật Bản gặp khó khăn trong việc tạo nên một thực thể kinh tế tương tự ở Đông Á bởi vì bản thân Nhật Bản là một xã hội và là một nền văn minh độc nhất, riêng biệt. Cho dù các mối liên kết thương mại và đầu tư của Nhật Bản với các nước Đông Á khác có phát triển tới đâu thì những sự khác biệt văn hóa với các quốc gia này sẽ ngăn cản Nhật thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực như ở châu Âu hay Bắc Mỹ.
Ngược lại, văn hóa chung rõ ràng đang tạo thuận lợi cho sự mở rộng nhanh chóng quan hệ kinh tế giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hồng Kông, Đài Loan, Singapore với các cộng đồng Hoa kiều ở các nước châu Á khác. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự giống nhau về văn hóa ngày càng vượt qua những khác biệt về hệ tư tưởng, mang Trung Hoa đại lục và Đài Loan xích lại gần nhau. Nếu các nét chung về văn hóa là điều kiện tiên quyết cho sự hội nhập kinh tế thì khối kinh tế chính ở Đông Á trong tương lai sẽ có trung tâm là Trung Quốc. Khối này trên thực tế đang được hình thành. Như Murray Weidenbaum nhận xét,
Mặc cho hiện nay Nhật Bản đang thống trị trong khu vực, nền kinh tế dựa vào người Trung Quốc của châu Á đang nổi lên nhanh chóng trở thành trung tâm của các ngành công nghiệp, thương mại và tài chính. Khu vực chiến lược này bao gồm các thành tố đáng kể về trình độ phát triển công nghệ và chế tạo (Đài Loan), khả năng tiếp thị, kinh doanh và dịch vụ nhạy bén (Hồng Kông), một mạng lưới liên lạc tốt (Singapore), một nguồn tài chính dồi dào (cả ba), cũng như nguồn đất đai, tài nguyên và nhân công rộng lớn (Trung Hoa đại lục)… Từ Quảng Châu đến Singapore, từ Kuala Lumpur đến Manila, mạng lưới nhiều ảnh hưởng này – vốn thường dựa vào sự mở rộng các dòng tộc truyền thống – đã được miêu tả như là xương sống của nền kinh tế Đông Á.[1]
Văn hóa và tôn giáo đồng thời là nền tảng của Tổ chức Hợp tác Kinh tế (ECO), đem mười nước Hồi Giáo phi Ả Rập gồm Iran, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Tadjikistan, Uzbekistan và Afghanistan lại gần nhau. Đây là tổ chức được thành lập năm 1960 bởi Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan và Iran. Một động lực cho sự hồi sinh và mở rộng của tổ chức này là do sự nhận thức của lãnh đạo một vài nước rằng họ không thể gia nhập vào Cộng đồng châu Âu. Tương tự vậy, Caricom, Thị trường chung Trung Mỹ và khối Mercosur cũng dựa trên nền tảng văn hóa chung. Tuy nhiên, cố gắng xây dựng một thực thể kinh tế rộng lớn hơn ở Trung Mỹ và vùng Caribbean làm cầu nối giữa khu vực gốc Anglo và Latinh cho đến nay đã thất bại.
Bởi vì con người tự xác định bản sắc của mình trên khía cạnh dân tộc và tôn giáo, họ có xu hướng thấy một mối quan hệ đối chọi giữa “chúng tôi” với “họ” tồn tại giữa mình với những người thuộc các dân tộc hay tôn giáo khác. Sự sụp đổ của các quốc gia mang bản sắc hệ tư tưởng ở Đông Âu và Liên Xô cũ đồng nghĩa với việc vấn đề bản sắc và sự đối chọi về sắc tộc truyền thống nổi lên hàng đầu. Khác biệt về văn hóa và tôn giáo tạo nên những khác biệt về các vấn đề chính sách, từ các vấn đề về quyền con người đến các vấn đề nhập cư, thương mại và giao dịch cho đến các vấn đề về môi trường. Khoảng cách ngắn về mặt địa lý làm gia tăng các yêu sách lãnh thổ xung đột nhau ở Bosnia cho tới Mindanao. Quan trọng nhất, nỗ lực của phương Tây trong việc biến chủ nghĩa dân chủ và tự do thành giá trị toàn cầu, duy trì lợi thế quân sự sẵn có và nâng cao lợi ích kinh tế đang tạo ra sự chống đối từ các nền văn minh khác. Khả năng kêu gọi hỗ trợ và thiết lập các liên minh trên nền tảng hệ tư tưởng giảm xuống đã làm các chính phủ và các nhóm quốc gia phải ngày càng dùng bản sắc văn minh và tôn giáo chung như một cách khác để huy động sự ủng hộ.
Có thể nói, sự xung đột giữa các nền văn minh diễn ra trên hai cấp độ. Ở tầm vi mô, các nhóm nằm ở gần hai bên ranh giới giữa các nền văn minh đấu tranh lẫn nhau, thường là một cách bạo lực, để kiểm soát lãnh thổ của mình và kiểm soát lẫn nhau. Ở cấp độ vĩ mô, các quốc gia ở các nền văn minh khác nhau đấu tranh để giành quyền lực quân sự và kinh tế tương đối, đồng thời còn đấu tranh để kiểm soát các tổ chức quốc tế và các bên thứ ba, và cạnh tranh nhau để thúc đẩy các giá trị tôn giáo và chính trị cụ thể của mình.
Đường chia cắt giữa các nền văn minh
Kết thúc Chiến tranh Lạnh, ranh giới khác biệt giữa các nền văn minh dần thay thế các ranh giới về chính trị và hệ tư tưởng trở thành các điểm nóng xung đột và đổ máu. Chiến tranh Lạnh bắt đầu khi Bức Màn Sắt được dựng lên phân chia châu Âu theo hệ thống chính trị và hệ tư tưởng, và cũng kết thúc cùng với sự sụp đổ của bức màn này. Khi sự phân chia về hệ tư tưởng ở châu Âu biến mất, sự phân chia về văn hóa ở châu Âu giữa Kitô giáo Tây phương với Chính thống giáo và đạo Hồi lại xuất hiện trở lại. Đường phân chia đáng kể nhất ở châu Âu như William Wallace đã nhận xét là đường biên giới phía Đông của Kitô giáo Tây phương trong năm 1500. Đường này chạy dọc nơi bây giờ là biên giới giữa Phần Lan và Nga và biên giới giữa các nước vùng Baltic với Nga, đi qua Belarus và Ucraina, chia cắt những người Công giáo ở phía Tây Ucraina với người Chính thống giáo ở phía Đông Ucraina, lấn sang phía Tây chia cắt Transylvania với phần còn lại của Rumani, sau đó đi xuyên qua Nam Tư dọc theo đường chia cắt Croatia và Slovenia khỏi phần còn lại của Nam Tư. Ở vùng Bancăng, đường này trùng với biên giới lịch sử giữa đế quốc Ottoman và đế chế Hapsburg trong lịch sử. Các dân tộc ở phía Bắc và phía Tây của đường này là theo đạo Tin Lành hay Công giáo, cùng chia sẻ các giá trị lịch sử châu Âu – như chế độ phong kiến, thời kỳ Phục Hưng, cải cách Kháng Cách, thời kỳ Khai Sáng, cách mạng Pháp và cách mạng công nghiệp; họ có điều kiện kinh tế tốt hơn những người ở phương Đông và giờ đây có thể mong muốn tham gia vào nền kinh tế chung châu Âu và củng cố hệ thống chính trị dân chủ. Những người ở phía Đông và Nam đường này lại là người Chính thống giáo hay Hồi giáo, về lịch sử họ thuộc đế quốc Ottoman hay các đế chế thuộc Sa hoàng và chỉ bị tác động nhẹ bởi các sự kiện diễn ra ở phần còn lại của châu Âu; nền kinh tế của họ kém phát triển hơn và ít có khả năng phát triển các hệ thống chính trị dân chủ ổn định. Đường phân định chính của châu Âu giờ đây là Bức màn Nhung của văn hóa chứ không còn là Bức màn Sắt của hệ tư tưởng như trước kia. Những sự kiện ở Nam Tư cho thấy đó không chỉ là đường phân định sự khác biệt mà có lúc còn là chiến tuyến của xung đột đẫm máu.
Sự khác biệt dẫn đến xung đột giữa nền văn minh phương Tây và nền văn minh Hồi giáo đã diễn ra hơn 1300 năm nay. Sau khi Hồi giáo ra đời, người Ả Rập và người Moor đã xâm nhập về phía Tây và Bắc, và chỉ dừng lại khi lan đến Tours vào năm 732. Từ thế kỷ mười một đến mười ba đội quân Thập tự chinh luôn cố gắng mang Kitô giáo và các giáo lý Kitô đến Vùng đất Thánh nhưng chỉ đạt được các thành công tạm thời. Từ thế kỷ mười bốn đến mười bảy, quân Thổ Ottoman đã đảo ngược thế cân bằng, mở rộng thế lực đến vùng Trung Đông và Bancăng, chiếm Constantinople và hai lần bao vây Viên. Trong thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi khi sức mạnh của đế quốc Ottoman suy giảm, Anh, Pháp và Ý đã thiết lập sự kiểm soát của phương Tây lên trên khắp vùng Bắc Phi và Trung Đông.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đến lượt phương Tây bắt đầu rút lui, các đế quốc thực dân biến mất; thay vào đó là sự xuất hiện đầu tiên của chủ nghĩa dân tộc Ả Rập và sau đó là trào lưu Hồi giáo chính thống; các nước phương Tây bị phụ thuộc nặng nề vào các nước vùng vịnh Ba Tư trong vấn đề năng lượng; các quốc gia Hồi giáo có nhiều dầu giàu lên về kinh tế, và khi họ muốn, cũng giàu lên cả về vũ khí. Một số cuộc chiến đã xảy ra giữa người Ả Rập và người Israel (vốn được thành lập bởi phương Tây). Đã có một cuộc chiến đẫm máu giữa Pháp và Algeria diễn ra trong suốt những năm 1950; người Anh và Pháp xâm lược Ai Cập năm 1956; lực lượng Mỹ tiến quân vào Libăng năm 1958, sau đó quay trở lại Libăng để tấn công Libya, và tham gia vào nhiều đụng độ quân sự với Iran; quân khủng bố Ả Rập và Hồi giáo, với sự trợ giúp của ít nhất ba chính phủ Trung Đông, đã sử dụng vũ khí của kẻ yếu và đánh bom các máy bay, các cơ sở của phương Tây, và bắt giữ người phương Tây làm con tin. Căng thẳng trong cuộc chiến giữa phương Tây và người Ả Rập lên đỉnh điểm năm 1990 khi Mỹ gửi một lượng quân hùng hậu đến vịnh Ba Tư để bảo vệ một số nước Ả rập khỏi sự xâm lược của một nước Ả rập khác. Hậu quả của kế hoạch này là việc các kế hoạch của NATO ngày càng tập trung vào các mối đe dọa và bất ổn tiềm tàng dọc “biên giới phía nam”.
Các tương tác về quân sự giữa phương Tây và các nước Hồi giáo hàng thế kỷ qua không hề có dấu hiệu suy giảm. Cuộc Chiến tranh vùng Vịnh đã khiến một số người dân Ả Rập tự hào rằng Saddam Hussein đã tấn công Israel và đứng lên chống lại phương Tây. Cuộc chiến cũng khiến nhiều người cảm thấy bị sỉ nhục và giận dữ về việc lực lượng quân đội phương Tây đóng tại vịnh Ba Tư, việc phương Tây đang áp đảo về lực lượng quân sự, và sự bất lực của họ vì không thể tự định hình được số phận của mình. Rất nhiều các nước Ả Rập, bên cạnh các nước xuất khẩu dầu mỏ, đang đạt tới trình độ phát triển kinh tế xã hội mà khi đó hình thức chính phủ chuyên chế không còn phù hợp và các nỗ lực xây dựng nền dân chủ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Một vài cải cách đã được thực hiện trong hệ thống chính trị Ả Rập với kẻ hưởng lợi chính là các phong trào Hồi giáo. Nói một cách ngắn gọn, trong thế giới Ả Rập, chế độ dân chủ của phương Tây đã tạo sức mạnh cho các lực lượng chính trị chống phương Tây. Đây có thể chỉ là một hiện tượng mang tính nhất thời nhưng nó chắc chắn sẽ góp phần làm phức tạp hóa mối quan hệ giữa các nước Hồi giáo với phương Tây.
Các quan hệ này cũng bị phức tạp hóa bởi khía cạnh nhân khẩu học. Sự gia tăng mạnh dân số ở các nước Ả Rập, đặc biệt là ở Bắc Phi, đã dẫn đến việc tăng số lượng người di cư đến Tây Âu. Các diễn tiến trong lòng Tây Âu hướng tới xóa bỏ các ranh giới nội bộ đã làm rõ nét các vấn đề nhạy cảm về chính trị liên quan tới sự gia tăng này. Ở Ý, Pháp và Đức, nạn phân biệt chủng tộc ngày càng công khai, các phản ứng chính trị và bạo lực chống lại người di cư Ả Rập và người Thổ Nhĩ Kỳ trở nên mạnh mẽ và phát triển rộng khắp từ năm 1990.
Mối tương tác giữa Hồi giáo và phương Tây được coi là xung đột giữa các nền văn minh nếu xét từ cách nhìn của cả hai bên. M. J. Akbar, một tác giả Ấn Độ theo Hồi giáo nhận xét “cuộc đối đầu tiếp theo (chống lại phương Tây) chắc chắn sẽ đến từ thế giới Hồi giáo. Tất cả các quốc gia Hồi giáo từ khu vực người Hồi giáo Maghreb (Bắc Phi) tới Pakistan đều cho rằng cuộc chiến cho một trật tự thế giới mới sắp bắt đầu.” Bernard Lewis cũng có một kết luận tương tự:
Chúng ta đang đối mặt với một thái độ và một phong trào vượt xa phạm vi các vấn đề và chính sách, cũng như các chính phủ theo đuổi các chính sách đó. Vấn đề này không là gì khác ngoài cuộc xung đột giữa các nền văn minh – nghe có vẻ vô lý nhưng chắc chắn đó là phản ứng lịch sử của một đối thủ lâu đời đối với các di sản Kitô– Do Thái giáo của chúng ta, hiện trạng thế tục của chúng ta, cũng như sự bành trướng của cả hai yếu tố trên.[2]
Về mặt lịch sử, một sự tương tác mang tính đối đầu khác với nền văn minh Hồi giáo của người Ả Rập là với những người ngoại đạo, những người theo chủ nghĩa duy linh và đến hiện nay là với những người da đen ngày càng theo Kitô giáo ở phía Nam. Trong quá khứ, sự đối đầu này có thể được miêu tả bằng hình ảnh của những người buôn bán nô lệ Ả Rập và những nô lệ da đen. Nó còn được phản ánh trong một cuộc nội chiến đang diễn ra ở Sudan giữa người Ả Rập và người da đen, trong chiến sự ở Chad giữa quân nổi dậy được Libya ủng hộ và chính phủ nước này, hay căng thẳng giữa người Kitô Chính thống và người Hồi giáo ở vùng Sừng châu Phi, cũng như các xung đột về chính trị, các cuộc bạo loạn và bạo động tái diễn giữa người Hồi giáo và người Kitô giáo ở Nigeria. Quá trình hiện đại hóa của châu Phi và sự truyền bá rộng rãi của đạo Kitô ngày càng có nguy cơ gia tăng xác suất bạo lực dọc theo đường phân cách này. Biểu hiện của sự gia tăng xung đột này là bài diễn văn của Giáo hoàng John Paul  II ở Khartoum tháng Giêng năm 1993 công kích các hành động của chính phủ Hồi giáo Sudan chống lại thiểu số người Kitô giáo sống ở đây.
Ở biên giới phía bắc của đạo Hồi, xung đột ngày càng bùng nổ giữa người Kitô Chính thống và người Hồi giáo bao gồm các cuộc tàn sát ở Bosnia và Sarajevo, các vấn đề bạo lực âm ỉ giữa người Serbia và người Albania, quan hệ yếu ớt giữa người Bungari và sắc dân thiểu số người Thổ Nhĩ Kỳ, bạo lực giữa người Ossetia và người Ingushetia, các cuộc tàn sát lẫn nhau liên tiếp giữa người Armenia và người Azerbaijan, quan hệ căng thẳng giữa người Nga và người Hồi giáo ở Trung Á, và việc triển khai quân Nga ở Capcadơ và Trung Á để bảo vệ lợi ích của người Nga ở đây. Tôn giáo củng cố sự hồi sinh của bản sắc sắc tộc và đồng thời cũng khiến người Nga quan ngại hơn về an ninh ở biên giới phía nam. Mối quan ngại này được Archie Roosevelt tóm gọn như sau:
Phần lớn lịch sử Nga liên quan đến cuộc xung đột giữa người Slavơ và các dân tộc gốc Thổ Nhĩ Kỳ dọc theo các đường biên giới từ thời nhà nước Nga mới thành lập hơn một ngàn năm về trước. Cuộc đối đầu kéo dài hàng thiên niên kỷ giữa người Slavơ với những nước láng giềng phương đông này cung cấp chìa khóa để chúng ta hiểu được cả lịch sử lẫn tính cách Nga. Để hiểu được thực tế nước Nga ngày nay chúng ta bắt buộc phải có những ý niệm về nhóm dân tộc thiểu số gốc Thổ Nhĩ Kỳ vốn đã khiến nước Nga phải bận tâm từ hàng thế kỷ trước.[3]
Vấn đề xung đột giữa các nền văn minh cũng có gốc rễ sâu xa ở các nước châu Á. Lịch sử xung đột giữa người Hồi giáo và Ấn Độ giáo ở tiểu lục địa không chỉ biểu hiện ở sự đối đầu giữa Pakistan và Ấn Độ ngày nay mà còn ở sự gia tăng xung đột tôn giáo trong lòng Ấn Độ giữa các nhóm chiến binh Ấn giáo và cộng đồng thiểu số người Hồi giáo đáng kể ở Ấn Độ. Việc phá hủy đền thờ Hồi giáo ở Ayodhya tháng 12 năm 1992 đã đưa ra vấn đề nên chăng chuyển Ấn Độ từ một quốc gia dân chủ thế tục thành một quốc gia Ấn giáo. Ở Đông Á, Trung Quốc có các cuộc tranh chấp lãnh thổ nổi bật với phần lớn các nước láng giềng. Quốc gia này đưa ra các chính sách tàn nhẫn với người Phật giáo ở Tây Tạng cũng như với người Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ. Chiến tranh Lạnh đi qua, những khác biệt ẩn sâu giữa Trung Quốc và Mỹ như các vấn đề về quyền con người, thương mại và phổ biến vũ khí lại được khơi gợi lại. Những khác biệt này không dễ được dung hòa. Một “cuộc chiến tranh lạnh mới” đang diễn ra giữa Trung Quốc và Mỹ như lời Đặng Tiểu Bình nhận xét năm 1991.
Cụm từ này cũng có thể áp dụng cho mối quan hệ ngày càng khó khăn giữa Nhật Bản và Mỹ. Ở đây khác biệt văn hóa càng làm trầm trọng hơn các xung đột kinh tế. Cư dân của cả hai nước đều có sự phân biệt chủng tộc lẫn nhau, nhưng ít nhất là từ phía Mỹ các ác cảm đến từ văn hóa chứ không phải là sự phân biệt chủng tộc. Các giá trị, thái độ và mẫu hình hành vi cơ bản của hai xã hội hầu như hoàn toàn trái ngược nhau. Các vấn đề kinh tế giữa Mỹ và châu Âu không hề kém nghiêm trọng hơn so với giữa Mỹ và Nhật Bản nhưng hai bên không có mức độ cảm xúc và căng thẳng chính trị như giữa Mỹ và Nhật do khác biệt giữa văn hóa Mỹ và văn hóa châu Âu ít gay gắt hơn nhiều so với giữa nền văn minh Nhật và văn minh Mỹ.
Sự tương tác giữa các nền văn minh là khác nhau ở chỗ các tương tác đó được đặc trưng bằng bạo đến mức nào. Dễ thấy sự cạnh tranh về kinh tế là xu hướng chính trong quan hệ giữa các nền tiểu văn minh phương Tây ở châu Âu và Mỹ, và giữa chúng với Nhật Bản. Tuy nhiên, ở lục địa Á – Âu, sự gia tăng các xung đột sắc tộc, đại diện cực đoan bởi tình trạng “thanh lọc sắc tộc”, xảy ra không phải hoàn toàn ngẫu nhiên. Các cuộc xung đột này diễn ra thường xuyên nhất và bạo lực nhất là giữa các nhóm thuộc các nền văn minh khác nhau. Ở lục địa Á – Âu, đường ranh giới lịch sử giữa các nền văn minh lại một lần nữa bùng cháy thành xung đột. Điều này đặc biệt diễn ra dọc theo biên giới khối Hồi giáo có hình trăng lưỡi liềm trải dài từ phần lồi ra của châu Phi tới Trung Á. Bạo lực còn diễn ra giữa người Hồi giáo với rất nhiều nhóm người khác, như người Serbia theo Chính thống giáo ở vùng Bancăng, người Do Thái ở Israel, với người Ấn giáo ở Ấn Độ, người Phật giáo ở Miến Điện hay với những người Công giáo ở Philippin. Rõ ràng Hồi giáo đã có những đường biên giới đẫm máu.
Tập hợp lực lượng theo nền văn minh: Hiện tượng quốc gia “có họ hàng”
Phương Tây đối đầu với phần còn lại của thế giới 
Những quốc gia bị chia rẽ
Mối liên hệ giữa Nho giáo và Hồi giáo
Hàm ý chính sách đối với phương Tây
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Su va cham giua cac nen van minh.pdf

[1] Murray Weidenbaum, Greater China: The Next Economic Superpower? St. Louis: Washinton University Center for Study of American Business, Contemporary Issues, Tập 57, Tháng 2/1993, trang 2 – 3.
[2] Bernard Lewis, “The Roots of Muslim Rage”, The Atlantic Monthly, Vol. 266, tháng 9/1990, tr. 60; Time, 15/6/1992, tr, 24 – 28
[3] Archie Roosevelt, For Lust of Knowing, Boston: Little, Brown, 1998, tr. 332 – 333.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

BIẾU SÁCH

TRUYỆN CỰC NGẮN

NGUYÊN ĐỨC
tien2Giám đốc Sở tổ chức lễ ăn mừng nhà mới. Quan khách đông đủ. Nhiều nhất là anh em trong Sở, các phòng ở các huyện, các doanh nghiệp trực thuộc, các đối tác làm ăn. Cơm rượu từ trưa cho đến chiều. Vui. Mừng. Hân hoan. 7 giờ tan tiệc. Khách khứa vãn. Hai vợ chồng lên phòng ngủ, mở phong bì và đếm. Nói là hai vợ chồng mở phong bì nhưng thực ra chỉ có bà vợ là làm việc đó. Còn ông chồng ngồi hút thuốc, thả khói, tận hưởng niềm vui, tận hưởng cả niềm kiêu hãnh với vợ. 
          10 giờ, đếm xong, bà vợ trầm tư một hồi, rồi bỗng vỗ đùi đánh đét:
          – Còn thiếu một người. Đó là cái thằng mà anh luôn có ý nâng đỡ. Thằng Tuân được anh cho đi làm tiến sỹ nước ngoài mới về.
          Giám đốc Sở thần người:
          – Lẽ nào lại thế. À mà đúng rồi. Hôm nay không nhìn thấy cái mặt nó đâu cả.
          Bỗng có tiếng chuông cổng reo. Thằng nào mà bây giờ mới thò mặt đến. Bà giúp việc chạy lên bẩm:
          – Có chú Tuân đến mừng.
          Giám đốc Sở vênh mặt:
          – Bà thấy chưa? Tôi có nhìn người nhầm bao giờ. Bà xuống pha nước. Tôi xuống sau.
          Bà vợ tất tả xuống cầu thang. Nhìn thấy Tuân tay cầm cuốn sách dày cộp, bà bực mình, suýt nữa không cho vào. Rõ vớ vẫn. Mang sách đi mừng nhà mới. Nhưng rồi giữ phép lịch sự, bà mời Tuân vào, tuy chủ bụng, dứt khoát không pha trà. Giám đốc Sở từ lầu xuống. Tuân thưa:
          – Biết anh thích sách. Mừng anh có nhà mới, thế nào cũng có giá sách mới, em biếu anh cuốn tiểu thuyết “Thăng tiến” của tác giả Nguyễn Bá Trung.
          Bà vợ đứng lên. Giám đốc đứng lên. Tuân cũng đứng lên chào rồi về.
          Giám đốc vứt cuốn tiểu thuyết đang cầm trong tay xuống ghế. Cuốn sách bật lên, rơi xuống sàn nhà. Những đồng tiền giấy bay ra. Bà vợ vồ lấy cuốn tiểu thuyết: hóa ra cuốn tiểu thuyết “Thăng tiến” dày hơn 500 trang được kẹp giữa mỗi trang một tờ giấy bạc trăm ngàn đồng. Giám đốc Sở vỗ vào vai vợ rồi hôn chụt một cái:
          – Bà thấy chưa. Thằng có học có khác.
Trưa 13/11/2013

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Shinzo Abe – Người khiến Trung Quốc phải lo sợ?



Ngay từ những ngày đầu tiên lên làm Thủ tướng Nhật Bản, ông Shinzo Abe đã có những lời lẽ và hành động rất mạnh mẽ giành cho Trung Quốc. Abe được đánh giá là một người có lập trường và chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhất trong số các nhà lãnh đạo Nhật Bản trong một thập kỉ qua.
Những lo ngại của Trung Quốc dường như tăng vọt kể từ khi Thủ tướng Shinzo Abe giành chiến thắng dễ dàng trong cuộc bầu cử Thượng viện của Nhật Bản. Bên cạnh việc khôi phục nền kinh tế Nhật Bản, Abe còn đang nỗ lực tăng cường khả năng quân sự và tìm kiếm sự hỗ trợ cũng như hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, các đồng minh, đặc biệt là Mỹ. Ông luôn giữ một thái độ vô cùng cứng rắn đối với Trung Quốc.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe.

Với sự lãnh đạo của Abe, Nhật Bản đang có dấu hiệu phục hồi trở lại và chắc chắn điều đó sẽ khiến Trung Quốc không khỏi lo lắng. Abe muốn Nhật Bản trở lại là một cường quốc đứng đầu châu Á và chính sách kinh tế Abenomics của ông đã tỏ ra có hiệu quả.
Ông Abe cũng đã nói đến việc xem xét lại hiến pháp "hòa bình" để chuyển các Lực lượng Tự vệ Quân của Nhật Bản thành lực lượng quân đội thường xuyên, có khả năng tấn công phủ đầu. Điều này có nghĩa là, Nhật Bản sẽ chuyển từ một quốc gia phòng thủ sang một quốc gia có khả năng tấn công phủ đầu.
Nhiều nhà phân tích quân sự cho rằng Trung Quốc là lý do chính khiến Tokyo muốn thực hiện chính sách quốc phòng như trên. Và điều đó cũng đã được ông Abe khẳng định trong thời gian gần đây. Khi được hỏi về nguyên nhân Nhật Bản thành lập Hội đồng An ninh Quốc gia kiểu Mỹ, ông Abe đã thẳng thắn cho rằng chính sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc và các mối đe dọa từ phía Triều Tiên là lý do khiến Nhật Bản tăng cường an ninh trong khu vực.
Trong cuộc phỏng vấn với báo The Washington Post hồi tháng Bảy, ông Abe đã cáo buộc Trung Quốc đã có thái độ “ép buộc và hăm dọa” đối với những tranh chấp chủ quyền về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và cảnh báo rằng Trung Quốc có nguy cơ “mất đi sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế”.
Ngay sau khi lên làm Thủ tướng Nhật Bản, ông Abe đã tuyên bố quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là lãnh thổ cố hữu của Nhật Bản.
Ông Abe cũng cho rằng Trung Quốc sẽ phải đối mặt với những tác động tiêu cực do chính chính sách giáo dục chú trọng vào lòng yêu nước, tạo ra thái độ chống Nhật của mình. Thái độ này đã ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc với Nhật Bản, từ đó cũng tác động tiêu cực đến chính nền kinh tế của Trung Quốc. Và chính phủ Trung Quốc biết rõ điều này.
Cũng trong bài phỏng vấn với The Washington Post, ông Abe đã thẳng thắn cáo buộc Trung Quốc đã nhiều lần vi phạm vào các vùng biển, không phận của Nhật Bản. Ông khẳng định lập trường mạnh mẽ rằng sẽ bảo vệ đến cùng lãnh thổ của Nhật Bản. Ông nói: “Chúng tôi chắc chắn sẽ bảo vệ lãnh thổ Nhật Bản, vùng lãnh hải và không phận với quyết tâm cao.. Theo đó, lần đầu tiên trong 11 năm qua, tôi đã tăng ngân sách quốc phòng cũng như ngân sách cho lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản. Điều quan trọng là chúng tôi phải khiến cho họ [Trung Quốc] nhận ra rằng không thể dùng thái độ ép buộc và đe dọa. Liên minh Nhật – Mỹ, cũng như sự hiện diện của Mỹ có vai trò quan trọng trong vấn đề này”.
Ông luôn nhấn mạnh, quần đảo Senkaku đang nằm dưới sự kiểm soát hợp pháp của Nhật Bản và ông khẳng định sẽ khiến cho Trung Quốc nhận ra rằng Trung Quốc không thể thay đổi điều đó bằng cách ép buộc và đe dọa. Thái độ đó sẽ có ảnh hưởng đến chính hoạt động kinh tế của Trung Quốc vì nó sẽ khiến cho nước này mất lòng tin của cộng đồng thế giới, giảm lượng đầu tư vào Trung Quốc. Ông Abe còn khẳng định rằng Trung Quốc sẽ thay đổi chính sách khi nhận ra được điều đó.
Ông Abe cũng thẳng thắn cho rằng nền kinh tế Nhật Bản đang phải đối mặt với nhiều khó khăn đặc biệt là sau thảm họa động đất và sóng thần năm 2011. Những khó khăn đó phần nào làm giảm sự ảnh hưởng của các chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Sự ổn định trong vùng biển lân cận của Nhật Bản và trong khu vực châu Á Thái Bình Dương cũng bị ảnh hưởng bởi các hành động khiêu khích.
Hôm 26/10, trả lời phỏng vấn với Thời báo Phố Wall (WSJ), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cho biết, các quốc gia khác đang muốn Nhật Bản đóng vai trò tiên phong hơn nữa trong khu vực để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ông thể hiện lo ngại rằng “Trung Quốc đang muốn thay đổi hiện trạng bằng vũ lực hơn là luật pháp”. Tuy nhiên, ông khẳng định: “Nếu chọn con đường đó, Trung Quốc sẽ không thể trỗi dậy trong hòa bình. Không chỉ Nhật Bản mà nhiều nước khác cũng đang lo ngại sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhiều nước mong muốn Nhật Bản thể hiện quan điểm mạnh mẽ hơn. Họ hy vọng Trung Quốc phải hành động có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế”.
Kể từ khi ông Abe trở thành thủ tướng Nhật Bản vào tháng 12/2012, các phương tiện truyền thông Trung Quốc đã cảnh báo rằng nhà lãnh đạo mới của Nhật Bản sẽ khiến cho những căng thẳng về tranh chấp lãnh thổ và lịch sử giữa hai nước leo thang. Truyền thông Trung Quốc còn mô tả Thủ tướng Shinzo Abe là “một con chim ưng chính hãng”.
Họ còn chỉ trích việc ông Abe có kế hoạch sửa đổi Hiến pháp hòa bình của Nhật Bản và nâng cấp Lực lượng Phòng vệ thành một lực lượng quốc phòng.
Trước khi ông Abe nhậm chức Thủ tướng Nhật Bản, hãng thông tấn Tân Hoa Xã của Trung Quốc đã từng cho đăng một bài xã luận trong đó nói về những lo ngại trước các động thái của ông Abe. "Shinzo Abe đã rất cứng rắn trong suốt chiến dịch tranh cử, điều này cho thấy ông ta sẽ có những chính sách quốc phòng và đối ngoại kiên quyết".
Cao Hồng, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Nhật Bản thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc phát biểu trên truyền hình Trung ương Trung Quốc rằng sự thay đổi trong chính phủ Nhật Bản lần này sẽ dẫn đến một cách tiếp cận mới trong việc giải quyết bế tắc hiện nay giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Ông Cao Hồng còn khẳng định Abe có cả kinh nghiệm và tính linh hoạt. Ông có thể đưa ra những quyết định thực tế đem lại lợi ích quốc gia cho Nhật Bản sau khi trở thành thủ tướng.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Gái tí coi!

Con gái 3 miền:

CON GÁI BẮC
Con gái người Bắc (mà điển hình là con gái Hà Nội), là những cô gái khôn ngoan và tinh tế. Họ làm ra vẻ như rất giữ khuôn nếp nhưng thực ra họ đong đếm bạn kỹ lưỡng trước khi bật đèn xanh cho bạn tiến đến. Họ nghĩ nhiều đến vấn đề gia đình đôi bên môn đăng hộ đối, do đó khi đã thành đôi rồi, dù bên ngoài có nhìn vào như thế nào đi nữa họ cũng vẫn thấy vừa lòng với nhau và cuộc sống hôn nhân ít xao động.Nếu mà như thế được cả thì đâu có gì mà nói nhỉ?

Sau khi về nhà chồng thì những cái mà các cô dâu Bắc hay có là :
- Khắc kỵ với mẹ chồng.
- Kiểm soát chồng chặt chẽ và tranh giành tài sản cũng như quyền lực trong nhà chồng.


Còn trong gia đình thì khỏi nói : con gái Bắc coi chồng như một anh lao công và khi nắm quyền lực trong gia đình rồi thì bắt đầu nhiều lời.Những câu nói đay nghiến dấm dẳng không biết có phải từ trong tiềm thức tổ tiên để lại bắt đầu tuôn ra một cách rất tự nhiên. Khi những điều đó bành trướng lên quá đáng thì anh chồng bắt đầu ngao ngán gia đình.

- chuyện ngoại tình là sẽ đến và nếu có điều kiện là "chuồn" luôn cái bà vợ chán chường đó mà đi lấy một người vợ khác.Con gái Bắc còn có tật thiên vị tình cảm nội ngoại, và không ít những chuyện không hay thường bắt nguồn từ nàng dâu.
Thêm một tính nữa là hơi một tí là bỏ về nhà cha mẹ, và gia đình ngoại hay có chuyện can thiệp vào gia đình chồng.

Nói đến các cô gái Bắc còn phải nói đến cái tính điêu ngoa và đanh đá. Và từ đó dẫn đến hỗn láo xấc xược là rất gần. Những cuộc cãi nhau, chửi nhau của các bà vợ Bắc cứ như những bản nhạc được học thuộc lòng trước khi lên xe hoa.Tránh được mấy điều này thì các cô gái Bắc trở thành số một vì họ là những người tiếp tay cho chồng rất đắc lực trong công việc làm ăn, cai quản tài sản, chăm sóc con cái. Sẵn sàng hy sinh vì chồng. Ở tù, ăn đạn cho chồng cũng OK luôn.

CON GÁI TRUNG


Miền Trung được tính từ Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh vào đến Phú Yên, Ninh Hòa. Có thể nói đây là một khu vực nhân văn đa dạng.Phía Bắc thiên về văn hóa Hà thành còn phía Nam thiên về Sài thành. Họ đều có những đức tính chung của những người con của biển.

Con gái miền Trung cần cù, nhẫn nhục. Những bông hoa xương rồng lộng lẫy. Tình yêu của họ không rộ nở tưng bừng nhưng lại sâu lắng. Họ ít đòi hỏi nơi người chồng nhưng lại hy vọng rất nhiều vào người chồng. Nếu ai cần một người vợ để dựng nghiệp thì nên chọn con gái miền Trung. Bạn sẽ luôn được sự yên tâm về lòng chung thủy của họ. Họ cần cù nhẫn nhục chịu đựng gian khổ với bạn. Nhưng nếu mà bạn đổ đốn ra, phụ bạc chân tình của họ thì cũng hãy coi chừng đấy. Đã nghe câu "con gái Bình Định múa roi dạy chồng" chưa? Điểm yếu của những cô gái miền Trung là hơi quê mùa, dù rất nhiều cô tỏ ra mình bảnh như ca sĩ Mỹ Tâm chẳng hạn... bạn vẫn nhìn được cái nét quê mùa của họ. Miền Trung nói chung và nên có nói riêng về Huế. Đó là một vùng đất dường như là rất riêng biệt của Việt Nam .


Huế có văn hóa của cố đô nên Huế trầm lặng, lắng đọng và lãng mạn như những vần thơ. Những cô gái Huế có những nét rất riêng biệt đối với miền Trung và các vùng khác trên lãnh thổ cuả Việt Nam do cái truyền thống cố đô để lại. Nhưng nếu bạn cưới được một cô vợ người Đà Lạt thuần gốc...

Đó là những tiểu thư gốc người Huế vào Đà Lạt dựng nghiệp từ thời Pháp thuộc. Những tiểu thơ da trắng môi hồng với văn hoá Anh, Pháp, Việt. Bạn khó kiếm ở đâu trên thế giới một người vợ lý tưởng hơn ở đây. Cao nguyên Lâm Viên với rất nhiều thú vị cho những chàng trai đi tìm vợ. Có những cô gái làm bạn ngỡ ngàng về nhan sắc cũng như về phong cách. Bạn ngơ ngẩn bám theo và rồi hiểu ra đó là một cô gái Jarai lai Pháp từ cái thời ông cố nội nào đó. Bạn cũng có thể gặp những cô gái da trắng tóc vàng, mắt xanh và mũi cao như Tây.


Nhưng kìa, cô ấy nhu mì và có vẻ như không văn minh hơn những người Kinh. Họ là những người dân tộc Thái gốc Indian. Tôi khuyên bạn là nếu quen những cô gái ấy, đã yêu thương thì phải cưới, nếu không thì rất là phiền phức đấy! Làm quen với họ không khó nếu biết cách (vì họ có vẻ hơi cô lập). Mách bạn nhé : Bạn để ý con đường đi làm của nàng... có thể là ở đâu đó hay ở nương rẫy.... và chờ ở đoạn suối trên đường đi...Các nàng này rất thích tắm suối và khoe thân thể kiều diễm của mình... Bạn cứ việc ngắm và thích ai thì cứ để bụng, thò đầu ra lúc này mất mạng không ai thương đâu... Sau đó thì tìm cách gặp nàng và nói là đang tương tư nàng từ cái hôm ấy...Thành công hay không còn tùy cái bản mặt của bạn!

CON GÁI NAM


Những cô gái miền Nam thực sự tôi luôn thấy rất nhẹ nhàng mỗi khi tiếp xúc với họ... Cái chất đơn giản mộc mạc của họ là cái nét làm cho mọi người dễ gần. Giọng nói của người miền Nam trong sáng như tâm hồn họ vậy. Nếu nói là những cô gái miền Nam không có chiều sâu tâm hồn cũng có phần nào đúng, bởi nếu họ cũng sâu lắng thì lấy đâu cái nét hồn nhiên trong sáng kia chứ. Đó là cái đặc tính được thiên nhiên ưu đãi cho những con người sống trên vùng đất phù sa màu mỡ. Chinh phục một cô gái miền Nam không khó. Họ dễ tin, không tính toán quá xa xôi... Cũng vì thế giữ được một cô gái miền Nam trong vòng tay của mình lại đâm ra khó... vì ai họ cũng tin cả...

Ta có thể thấy số phụ nữ miền Nam thôi chồng, tái hôn rất nhiều là vì các ông chồng không có đủ bản lĩnh để giữ họ. Tâm hồn của họ gần như là người phương Tây. Khi mà bạn không còn là niềm tin của họ nữa thì họ cũng chẳng lưu luyến bạn làm gì cho mệt xác. Nói như thế không có nghĩa là nói họ không chung thủy hay hời hợt trong tình cảm. Do sự ưu đãi về phong thổ và tập tục, họ là những người thực dụng. Tình yêu của họ luôn có giá trị của bạn kèm theo. Họ là những bông hoa giữa trời, giữa đời... Nở rộ một thời xuân sắc và rất nhiều nỗi buồn khi đã tàn hương...Không nhiều người biết lo cho cái tuổi về chiều của mình... Họ sống tưng bừng một thời và chấp nhận những hẩm hiu trong buổi chiều cuộc đời. Đó là tình trạng đang có nhiều ở các bậc tiền bối của các cô gái miền Nam. Họ là những người rất đáng thương.


Lấy một cô gái miền Nam? Bạn có thể mà. Đó là một bông hoa, một con bướm tung tăng bên bạn. Sống rất nhiệt tình với bạn. Sự đòi hỏi của họ cũng không cao. Vấn đề là bạn cũng đừng quá tệ. Về phong tục tất nhiên là dễ dàng hơn mọi vùng miền: thương nhau một bữa cơm đơn giản cũng thành vợ thành chồng. Lấy một cô gái miền Nam làm vợ? Bạn hãy nên nếu bạn có một mức sống tương đối. Bạn ít khi phải đau đầu về họ và đó là một trong những bí quyết sống thọ. Nhưng đừng nghĩ tất cả họ là như thế nhé. Guốc dép sẽ bay vèo vèo khi mà bạn nhìn không kỹ và nghĩ ai cũng thế. Ở miền Nam con gái Sài Gòn là một đặc trưng. Họ không khác nhiều với những vùng phụ cận, có chăng là lịch lãm hơn và đương nhiên cái nhìn cũng cao hơn.

Ngày nay sự pha trộn của nông thôn vào Sài Gòn cũng làm bão hòa cái đặc tính của con gái Sài Gòn. Đó là dưới cái nhìn tổng quát về con gái Sài Gòn. Nhưng tinh ý một chút bạn vẫn có thể nhìn ra, phân biệt được con gái Sài Gòn và những cô gái nhập cư. Có ba dạng nhập cư:

1- Những cô gái từ các tỉnh thành tới Sài Gòn để làm ăn sinh sống.
2- Những cô gái theo gia đình nhập cư và định cư tại Sài Gòn.
3- Những cô gái mà cha mẹ nhập cư vào Sài Gòn và được sinh ra ở Sài Gòn. Trong thành phần thứ 3 này có cô thì đúng là sinh trưởng theo môi trường và thành dân đích thị chính hiệu. Có cô thì vẫn giữ nề nếp của gia đình như ngày ở tỉnh thành.


Tôi gặp nhiều bạn người Bắc vẫn còn giữ nguyên nề nếp từ lời ăn tiếng nói, cách sống y như những người ở quê nhà dù ông nội là người di cư vào Nam từ năm 1954. Sài Gòn với tất cả những cái phức tạp của một thành phố lớn nhất Việt Nam cho một cái nhìn đa dạng về con người. Có thể nói ở đây có tất cả mọi đẳng cấp - bạn thích đẳng cấp nào cũng có... 

Không ở đâu kiếm vợ dễ hơn ở Sài Gòn. Và cũng không ở đâu nuôi vợ khó như ở Sài Gòn. Vì mảnh đất này cái gì cũng phải trả tiền. Bạn phải có công ăn việc làm, thu nhập ổn định thì mới nên nghĩ tới việc lấy một cô vợ ở đây. Không thể không nói đến những người đẹp Bình Dương và Tây Đô (Cần Thơ) - hai vùng đất sản sinh ra những người đẹp nổi tiếng của miền Nam . Họ là những bông hoa đáng yêu và bạn dễ dàng chết ngất khi gần họ. 

Và muốn gần họ, thân cận với họ? Nói nhỏ cho bạn biết nhé:
Bạn phải biết nghe cải lương!

Ngọc Linh

CON GÁI BẮC


Con gái Bắc rất chịu chơi
Ta dân Nam bộ ngỏ lời cầu hôn
Chịu chơi vì lắm hồi môn
Chẳng hạn răng khểnh, má tròn, đồng xu
Chưa kể con mắt tiểu thư
Dáng đi công chúa, lời ru thiên thần
Ta thì dễ động lòng trần
Thấy con gái đẹp manh tâm ngó hoài
Các em mình hạc xương mai
Thấp – cao vẫn nhớ, mập – gầy vẫn thương
Chanh chua vẫn ngọt như đường
Nói xạo cách mấy vẫn tương tư hoài
Nhớ nhau “lồi hết vành tai
Lõm hai con mắt, lồi mười ngón chân”
Em tên Bích, Thảo, Phụng, Dung
Loan, Oanh, Thu, Yến… đã từng chịu chơi
Từng yêu khi mới chào đời
Đêm nay tao gọi các em ơi, ta buồn.
Hà Nội băm sáu phố phường
Ngó môi em hết nhớ đường về Nam…

CON GÁI TRUNG


Con gái Huế rất khó chơi
Ta dân Nam bộ thốt lời vũ phu
Khó chơi vì hát như ru
Nói như chim hót, bước như rắn trườn
Cộng lại thì thành văn chương
Trừ ra thì dễ bất thường động tâm
“Sơn bất cao, thuỷ bất thâm”
Lên núi Ngự mới ớn thầm sông Thương
Ta từ xưa thích du dương
Ưa trèo núi, khoái bơi xuồng, lội sông
Chưa hay một phút yếu lòng
Kêu lên hai tiếng mặn nồng: Huế ơi!
Dù các em rất khó chơi
Nhưng ta cũng thử ngỏ lời bướm ong
Các cô gái Huế nghe không
Kêu thêm tiểu muội đến bồng ta đi…

CON GÁI NAM


Con gái Nam rất hay cười
Ta dùng ngôn ngữ cao bồi biểu dương
Hay cười đến lúc lên giường
Thì em xuống giọng cải lương rất mùi
Sáng đèn em nhớ tối thui
Giàu sang em nhớ khoai lùi dính tro
Các em như miếng cá kho
Ngó vô thấy “đã”, cắn vô thấy… bà
Cắn vô xương gỡ không ra
Trừ khi trình diện bà già của em
Lên Đồng Nai, xuống Long Xuyên
Các em má lúm đồng tiền bắt ham
Chỉ người điên mới không ham
Ta tỉnh táo muốn gỡ làm vốn riêng
Kệ “đồng tiền” trắng hay đen
Ngày ta bỏ túi, đêm ta bỏ mùng
Các em mới liếc… đã khùng
Hèn chi thi sỹ, anh hùng phải tiêu
Mỹ nhân nghĩ thiệt trớ trêu
Xưa nay danh tướng biết điều dưới “cơ”
Vòng Bến Tre, bọc Cần Thơ
Ở đâu ta cũng choán giờ cơ quan
Nước dừa em tắm thả dàn
Ta vốn đàng hoàng cũng lén rình coi
Rình coi con quạ kêu rồi
Quạ kêu “nam đáo” nữ ơi, đề phòng
Phải không cô gái má hồng
Ta trai khác họ đem lòng nhớ thương.Tình gái Trung

(Không biết tác giả)


Tình gái Nam
Ý chèng ui
Hổng được đâu
Cái mặt ngầu
Tui ớn lạnh
Ngồi bên cạnh
Rục rịch hoài
Lỡ gặp ai
Kỳ qúa hà
Thôi dzô trỏng
Cho thỏa lòng
Đồ qủy sứ
Để từ từ
Nè cha nội


Dị kể chi
Răng làm rứa
Người chi mô
Nhột thấy mồ
Anh bên nớ
Tui bên ni
Răng cớ gì
Ưa lấn đất
Đừng lật đật
Mạ ra chừ
Mang tiếng hư
Nói nhỏ nì
Tối nay hỉ


Tình gái Bắc
Em chả đâu
Ngượng lắm đấy
Ai lại thế
Cứ như ranh
Tí tẹo thôi
Nhớ đấy nhé
Mặt dầy tợn
Chỉ nghịch ngợm
Không ai bằng
Cứ hung hăng
Như ăn cướp
Thôi cũng được
Phải giao trước
Cấm chạy làng
Hễ lang bang
Em xẻo trước

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

Quốc gia bần tiện và dân trọc phú


Trong khi Chính phủ TQ viện trợ nhân đạo cho Philippines 100 nghìn USD giải quyết hậu quả siêu bão thì một người đàn ông Trung Quốc mang 1.5 triệu đôla để đi hỏi vợ. Đây là văn hóa của xứ trưởng giả trọc phú hiện đại. Nếu trở thành siêu cường, thành nước lãnh đạo thế giới thì với văn hóa này, Trung Quốc sẽ cư xử với nhân loại như thế nào ? Đâu phải chỉ chuyện ở nước người, hãy nhìn Trung Quốc cư xử với dân Việt ta thì thấy rõ. Mới nhất là vụ này.
Mang 1.5 triệu đôla đi hỏi vợ
Tổng số tiền nặng tới hơn 100 kg và phải có tới 18 người gánh tới.
Một người đàn ông Trung Quốc đã gây sửng sốt khi mang số tiền “may mắn” 8.88 triệu nhân dân tệ (1.5 triệu đôla) tới lễ ăn hỏi vợ chưa cưới . Cả người đàn ông và cô dâu tương lai đều là con nhà giàu, ở độ tuổi ngoài 20, tại tỉnh Chiết Giang, báo City Express đưa tin.
Tin cho hay hai gia đình đồng ‎ý về số tiền này bởi 8 là con số may mắn tại Trung Quốc.

Việc chú rể mang tiền như lễ phẩm tới nhà gái là phổ biến tại Trung Quốc.
Báo City Express cho biết thêm hai người đã tìm hiểu nhau được khoảng ba tháng.

Ảnh từ trang mạng xã hội và các website tin tức cho thấy hàng chồng tiền với mệnh giá mỗi tờ 100 nhân dân tệ được đựng trong một số cái tráp và thuê người gánh tới nhà cô dâu tương lai.

Các phóng viên dự tính với số tiền đó, trọng lượng phải gánh tới là 102kg.

18 người được thuê để gánh tiền tới nhà cô dâu.

Anh của cô dâu nói với: "Để cho an toàn, sau khi kiểm tra quà đám hỏi, chúng tôi đã cho kế toán nhập số tiền này vào ngân hàng.”

Hiện chưa rõ đám hỏi diễn ra khi nào, nhưng sự kiện này đang được bàn luận rôm rả trên các trang mạng xã hội vào hôm thứ Năm, với hơn 200 ngàn bình luận trên trang Sina Weibo.

Nhiều người đã bình luận về số tiền lớn và mô tả chú rể tương lai là “trọc phú”.

"Nếu phô trương tài sản như vậy thì hãy coi chừng với kẻ trộm!" Natural Beauty V viết.

Trong khi đó Gao Yan Little Fried Meat viết: "May là tôi không từ Chiết Giang và tôi cũng không đòi hỏi như vậy. Đối xử với tôi tốt và chăm sóc tôi cho tới cuối đời thì đáng giá hơn là 8.88 triệu nhân dân tệ”.


Gánh 888 vạn tệ đi hỏi vợ
Một gia đình giàu có ở Trung Quốc vừa mang nhiều tráp đựng đồ sính lễ 
chứa đầy tiền mặt trị giá 888 vạn nhân dân tệ sang nhà con dâu tương lai.


Những tráp sính lễ này vừa được gia đình nhà trai ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, mang sang nhà gái hôm qua. Ngoài các món quà truyền thống, gia đình nhà trai còn chuẩn bị nhiều tráp đựng tiền mặt với tổng trị giá 888 vạn tệ (khoảng 1,46 triệu USD) và nặng tới 102 kg.


Những tệp tiền mới được sắp xếp ngay ngắn, đẹp mắt.


Đội ngũ gánh sính lễ sang nhà gái là những thanh niên trẻ khỏe mạnh.


Các đồ sính lễ được gánh đến nhà cô dâu tương lai trong lễ đính hôn.


Không gian bên nhà gái được trang trí đẹp mắt với 
bóng bay nhiều màu sắc và cổng chào kết hoa.


Quan viên hai họ cùng nhau ăn bữa cơm thân mật
 để chúc mừng hạnh phúc cho cô dâu, chú rể tương lai.

Hướng Dương
Ảnh: 163.com
Phần nhận xét hiển thị trên trang