Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Thử làm báo có lề tý nhóe?

GHI CHÉP Ở LÀNG SUỐI HOA
                                                                          
      
         Ở Kiến Thiết  có ba điểm làng người H’Mông lập cư,  tập trung tương đối đông. Qua cầu cạn Pắc Cụp, phia trên bến Tram, chưa tới trung tâm xã, là lối rẽ vào Suối Triển. Một làng người Mông nổi tiếng về nuôi nhiều gà xước và lợn sọc dưa.
           Khỏi trung tâm xã một chút, theo đường quốc lộ 2C lên Kim Bình có lối vào làng Suối Mu. Con đường cấp phối mới mở sẽ đưa bạn đến một thung lũng rộng nằm bên trong thác nước nhỏ. Nơi ngày xưa có đủng nước, vào dịp ngày trời nắng nóng thường bắt gặp hàng đàn lợn rừng tắm ngụp, vùng vẫy vang động cả khu rừng. Những đêm trăng sáng thợ săn có lúc nhìn thấy chúa sơn lâm ngồi chồm hổm trên mỏm đá rình mồi. Ban ngày cả vùng ríu rít tiếng chim. Thỉnh thoảng vài chú nai tơ ngơ ngác, chạy vụt qua đường.
         Nơi ngày nay bạt ngàn nương ngô của người Mông có sản lượng cao nhất nhì tỉnh này ( Có người không tin vì chưa hiểu người Mông làm cách nào để có hiệu quả như vậy? Nhưng đấy lại là câu chuyện khác, sẽ kể lần sau. Không muốn ôm đồm trong bài viết này). Muốn tìm con trâu giống cực đẹp, để cày bừa hay tham gia lễ hội chọi trâu hàng năm thì đến đây là chỗ thích hợp và dễ tìm hơn cả.
         Còn một điểm nữa, tôi muốn kể với bạn, nếu bạn là người có thú thưởng ngoạn sơn kỳ, thủy tú, thích nghe những câu chuyện đường rừng, thích tìm hiểu về văn hóa sống của người Mông.. Mời bạn hãy cùng tôi vào Khuổi Rác. Cái tên nghe thật không mấy ấn tượng, nhưng bạn sẽ nhớ rất lâu sau chuyến đi này bởi những con người, sản vật bạn gặp nơi đây. Đó là một làng người Mông ở lưng chừng chân núi có tên là Đỉnh Mười, một tọa độ được đánh dấu trên bản đồ khoáng sản từ thời người Pháp còn đô hộ. Một đôi lần được nhắc đến trong “Những chuyện đường rừng” của Lan Khai. Một nhà văn đáng kính về lòng yêu mến quê hương của ông, người tỉnh này.
 
**
          Thời ấy nơi đây còn là núi rừng hoang vu, thưa dấu vết con người. Ít ai biết đến nơi hiểm trở này vì không có đường đi lại.
Một bên núi đá sừng sững, vách đá gần như dựng đứng không có lối lên. Một bên là dòng suối sâu, lau lách rậm rịt, chỉ có chồn cáo mới biết cách ngang qua được con suối này.
         Người ta kể rằng cư dân đầu tiên ở đây xưa kia là người Dao đỏ và một ít người Tày. Họ ở rải rác, thưa thớt lắm, dọc theo hai bên bờ suối.
Một năm, đã lâu lắm rồi, trời làm thiên tai, xảy ra trận đại dịch kinh hoàng. Người Dao bị một căn bệnh kỳ lạ, không thuốc nào chữa khỏi, chết gần hết cả làng. Số còn lại bỏ đi nơi khác.
Lâu ngày nhà cửa mục nát, đồ đạc vụn gãy cuộn thành đám theo nước lũ cuốn thành từng bè rác lớn trôi về.. Cái tên Khuổi Rác có từ độ ấy.
          Một địa danh nghe đến, muốn nổi da gà bởi bao câu chuyện ma thiêng, nước độc. Nơi bạt ngàn cây lá han, lá ngón, chỉ có rắn rít, hùm beo ngự trị.. Người này nghe kể thêm vào một ít, người kia thêm vào ít nữa.. Chuyện càng hoang đường, càng đáng sợ.
          Mãi sau này số người Kinh miền xuôi lên khai hoang mới có con đường đi men theo suối. Vẫn chỉ là con đường mòn nhỏ, có chỗ hiểm trở không mở được đường, người ta phải lần theo lòng suối mà đi. Mùa lũ nước to thường bị gián đoạn, làng Suối Hoa như một phần đất bị cô lập với bên ngoài có đợt kéo dài hàng tuần lễ.
            Đầu thập niên tám mươi, mới có người H’Mông chạy giặc từ Đồng Văn về sau biến động biên giới phía bắc. Cuộc định cư của họ ở đây là cả một câu chuyện dài đầy gian nan, cách trở.
Lúc đầu chuyển đi, chuyển lại không biết bao nhiêu lần do nhiều quan ngại từ phía nhà quản lý. Sợ ảnh hưởng đến sự toàn vẹn của rừng, sợ phức tạp di dân tự do, khó quản lý, sợ đời sống người dân gặp khó khăn vì chưa có quy hoạch khu dân cư tổng thể, lâu dài..vv
           Nhưng rồi đất lành chim đậu. Làng người H’Mông tồn tại từ đó đến giờ để có câu chuyện kể hôm nay.

**
         Sùng Mẫn Cường là một trong số những chàng trai người Mông khá đặc biệt. Cái vẻ hồn nhiên, xởi lởi hay chuyện rất khác với bản tính trầm tĩnh ít nói của phần nhiều chàng trai người Mông ở lứa tuổi anh.
Anh là một chàng trai H’Mông hiện đại, đi nhiều, biết nhiều chuyện, quen nhiều người, có những ý tưởng độc đáo trong cách nghĩ cách làm. Lại sâu sắc những câu chuyện về quá khứ của dân tộc mình.
         Mùa xuân năm ngoái tôi gặp Sùng ở hội chợ thương mại, anh nói với với tôi:
- Truyện anh viết về người Mông chúng tôi còn chưa đúng mấy đâu. Muốn biết hôm nào lên chơi, ngủ với nhau vài đêm, mình kể cho mà nghe..
Tôi hỏi chuyện gì? Sùng bảo có mấy chuyện. Như chuyện về cây khèn, chuyện cái cửa vào nhà người Mông, hay chuyện bánh dày chẳng hạn?
Quả thật lúc đó tôi có hơi tự ái và cảm thấy lòng rất buồn. Mình đã rất công phu tìm hiểu, chả lẽ mọi hiểu biết của mình về người H”Mông từ trước đến nay đều sai lầm? Đều chưa chính xác? Và cần phải học hỏi lại từ đầu?
        Ý nghĩ ấy cứ tran trở áy náy mãi trong tôi. Định có ngày nào đó sẽ lên với Sùng để hỏi lại cho rõ. Lẽ nào mình bằng lòng theo kiểu thầy bói xem voi?
Võ đoán, chủ quan, hời hợt đối với bất cứ trường hợp nào cũng đều sai trái, tối kỵ. Huống gì lại là công việc mình hết lòng hết sức để tâm tới?

        Khuổi Rác từ ngày có người H’Mông về đổi tên thành thôn Tiền Phong. Nhưng người dân ở đây thích gọi làng mình bằng cái tên thật mới: “Làng Suối Hoa”.
         Khi những vạt lá han, lá ngón dần biến mất, cây đào có từ đã lâu trên đất này phục hồi, sinh sôi nảy nở thêm nhiều. Cuối năm chuẩn bị sang xuân là cả cánh rừng hai bên lối đi đỏ thắm, lung linh một màu hoa. Những cành đào đẫm sương buổi sáng, trong nắng lên đẹp đến nao lòng. Khiến người ta liên tưởng câu chuyện ảo huyền, tưởng như không có thật trên mặt đất, dưới gầm trời này. Có chút gì đó từa tựa như vào chốn bồng lai..
          Nhưng phải một tháng nữa người ta mới có thể nhận thấy phong cảnh ấy. Còn bây giờ dịp cuối năm chỉ có thể thấy những vạt ngô vàng rộm phía xa xa, lưng chừng núi. Chỉ thấy con đường đất đỏ phơi mình bên dòng suối trong xanh, nước dịu dàng, yên bình chảy ra sông, ra bể.. Chỉ gặp bên đường từng tốp ngựa mướt mồ hôi, lưng thồ nặng khoai tàu, ngô quả về làng. Một đôi cô gái má hồng, chúm chím miệng cười, té nước đùa vui sau buổi kiếm củi, nhặt nấm hương, mộc nhĩ chuẩn bị cho ngày tết. Cô nào cũng có trong túi mang theo chiếc gương tròn nho nhỏ. “Người Mông dù bận rộn đến đâu, trước lúc về làng cũng mặt quang mày sạch”. Ấy là người già bảo thế. Tay áo đỏ, màu váy  tươi hồng, thổ cẩm tự tạo của các chị các cô in bóng xuống làn nước trong. Suối dẫu vô tình cũng phải gợn lên chút sóng lăn tăn cảm động, như khe khẽ hát bài ca âm thầm kín đáo của mình.
    Tôi lên làng Suối Hoa vào dịp gần tết của người Mông. Một khung cảnh khác hẳn ngày thường. Bãi cỏ rộng đầu làng nhộn nhịp người.
Không phải tìm lâu, tôi bắt gặp ngay Sùng Mẫn Cường đang có mặt tại đấy. Anh bảo công việc chuẩn bị vui chơi cho dân làng là việc cần gấp rút. Thương hiệu “Rượu chuối Suối Hoa” đành gác lại đến ra giêng mới tiếp tục làm.
        Cả năm có một lần tết, việc gì quan trọng đến đâu cũng gác lại đã. Ngày xuân đâu phải việc riêng của đất trời, của hoa hoa lá cỏ cây? Mùa xuân còn mùa của cả con người. Những con người quanh năm vất vả, leo núi, trèo nương, vật lộn với mưa nắng ba trăm sáu mươi lăm ngày. Cũng cần thư giãn, nghỉ ngơi, lấy thêm sức lực, hào hứng cho một năm mới chứ!
        Tuy vậy Sùng cũng tranh thủ  cho tôi biết: Anh đã tạm xong phần đăng ký chất lượng theo tiêu chuẩn nhà nước cho mặt hàng mới mẻ của mình.
        Tỉnh, huyện đã phê duyệt, máy lọc rượu, đóng chai, nhãn hiệu đã đặt một cơ sở tin cậy mãi trong thành phố Hồ Chí Minh.  Lô hàng thực nghiệm đầu tiên đã ra lò. Gọi là “Rượu chuối Suối Hoa”, đóng chai nom hình thức khá đẹp, chả khác gì Vốt Ka hay Uýt xKi nhập ngoại.
       Mới chỉ khiêm tốn, đủ uống chơi và làm quà biếu trong dịp tết, chưa có nhiều để bán ra thị trường. Sùng có vẻ tư lư khi anh bảo :” Còn vài vướng mắc khâu công nghệ do quy mô sản xuất còn bé nên giá thành chưa được như ý muốn. Khả năng tiêu thụ có lẽ chỉ nơi nhà hàng khách sạn mới chấp nhận. Vì giá còn khá cao chưa tiêu thụ được ngay  trong vùng”.
        Thì vẫn. “Cái gì mà chả “Vạn sự khởi đầu nan”? Khắc phục dần tất sẽ được như muốn”. Tôi mừng, nỗi lo ám ảnh lâu nay về rượu của nhiều người đã có lối ra.
        Văn hóa rượu, nói gì thì nói với mọi dân tộc đều không bỏ được.  Ngày tư ngày tết, khi có bạn hiền, có chén rượu nâng lên hạ xuống làm vui câu chuyện, vẫn là cái không thể thiếu. Mà rượu không theo tiêu chuẩn, lại làm từ “men Tàu”, bằng hóa chất như gần đây thực đáng ngại. Thứ men không ủ từ cơm nấu chín, mà ủ sống ngay bằng gạo, rất được rượu, nhưng hại chưa biết đâu mà kể. Uống thứ rượu ma quỷ ấy có người như bị phát điên, phát cuồng bởi tác động thần kinh. Không ít đám sớ hay xảy ra các vụ va chạm, thậm chí gây chết người vì thứ rượu này. Chưa kể những tác hại lâu dài khó lường do độc tố từ chất men mờ ám ấy gây nên!
         Nói Sùng Mẫn Cường là anh trai mèo hiện đại chắc không có gì là quá lời. Anh đã tìm và thấy lối ra cho sản vật của quê mình. Những vạt chuối bạt ngàn dọc theo thung lũng tôi vừa đi qua từ nay sẽ không chịu cảnh bị ép giá. Không bán được cho thương lái chuối quả, sẽ có nơi tiêu thụ chuối ổn định là “Xưởng rượu” của Sùng. Một thứ rượu an toàn cho người tiêu dùng được cất từ men lá, theo kiểu truyền thống của người Dao trong vùng. Xã hội hòa nhập, các dân tộc học hỏi cái hay của nhau, không kỳ thị, bảo thủ ý riêng của mình, thật là điều đáng mừng
Một sáng kiến đáng kể như vậy, Sùng vẫn khiêm tốn nói: “Nếu như chưa có điện lưới quốc gia kéo vào tận đây, dù có muốn đến mấy, ý đồ của của mình cũng không thành được!”. Sùng nói với tôi như vậy. Điều đó đương nhiên rồi.

       Chợt nhớ đến một hai câu chuyện trước đây của mình. Quả là có chuyện không ổn thật. Mô tả gì mà ..những làng người Mông tăm tối, nhà cửa sơ sài, thấp bé lụp xụp? Đã là cái rất xưa rồi. Nếu không đến tận nơi, bạn sẽ nghĩ đây là câu chuyện viết để tuyên truyền!Thực ra là không phải vậy.
         Dọc hai bên đường những ngôi nhà trong câu chuyện cũ hiển nhiên giờ này đã không còn.  Thay vào đó là những ngôi nhà rộng rãi, khang trang, cột vuông, kẻ truyền, thưng ván được bào nhẵn nhụi. Có nhà còn lát đá hoa, cửa hộp như ngoài thành phố.           Trước cửa nhà nào cũng có chảo ăng ten kỹ thuật số. Ti vi mấy chục kênh đủ các đài trong nam ngoài bắc. Người làng Hoa Đào bây giờ nhìn ra thế giới, không còn bị hạn chế tầm nhìn, cách nghĩ như nhiều năm trước đây.
      Ngoài ngựa ra, xe máy nhà nào cũng vài ba “con”. Xe xấu dùng vận chuyển ngô đỗ, thóc gạo. Xe đẹp để đi chơi.
       Thỉnh thoảng người ta vẫn bắt gặp giữa phố phường đông đúc của thành Tuyên chàng trai H’Mông đèo người yêu của mình váy áo sặc sỡ ngồi phía sau trên những chiếc xe tay ga bảy, tám chục triệu..

      Tôi ngồi đợi Sùng Mẫn Cường bên bãi cỏ vẩn vơ nghĩ bấy nhiêu chuyện. Chuyện gì cũng khá bất ngờ.
        Chỉ có mấy năm, trở lại đất này, làng người H’Mông ở đây như một làng khác, mình chưa được tới bao giờ. Mới thấm thía “Quyền lực mềm” của công nghệ thông tin, chủ trương “Điện đường trường trại” có sức khởi phát, mạnh mẽ như thế nào!
Nghèo nàn lạc hậu là kết quả của dân trí thấp dẫn đến dân sinh khổ cực, văn hóa không phát triển được.  Có điện, có đường là mở ra cục diện mới, chấm dứt nghèo đói của người vùng cao.
         Không có những thứ đó, làm sao có chàng trai Sùng Mẫn Cường sử dụng thành thạo intơnet, để rồi đem ứng dụng nó vào công việc thường ngày? Dùng máy phát cỏ tăng năng xuất lao đông gấp hàng chục lần, mới có thể tra ngô hàng tạ giống, thu hàng chục tấn ngô mỗi vụ. Rồi việc bảo quản vật nuôi, cây trồng  thế nào cho hiệu quả nhất?

        Bây giờ thì anh đang hướng dẫn đám trẻ trong làng trò chơi “Rồng ấp trứng”. Một trò chơi rất thú vị của người H’Mông có từ lâu, nhưng chưa được chơi ở làng này. Sùng ghi chép tỉ mỉ từ hôm đi dự tết Độc Lập trên Mộc Châu về, dạy cho lũ trẻ. Đây là trò chơi có từ năm đếm sáu người tham gia. Một số hòn sỏi tượng trưng cho trứng rồng để ở giữa vòng tròn. Một người sắm vai rồng chống hai tay quờ trên mặt đất cùng với hai chân làm thành cái khung bảo vệ trứng. Người này phải là người nhanh nhẹn, khỏe mạnh, tinh mắt, phán đoán được ý đồ đối phương. Năm người kia rình sơ hở lấy trứng rồng. Nhưng nếu bị chạm vào tay vào người là bị thua cuộc. Sau thời gian nhất định, trứng vẫn giữ được không mất quả nào, người đóng rồng sẽ thắng. Tuy nhiên phải xoay chuyển liên tục mới có thể đối phó với “kẻ thù” xâm chiếm, bảo vệ được  trứng của mình.
        Ngoài trò này ra, Sùng còn tham gia chuẩn bị cho một số trò chơi khác như ném Pao, đẩy gậy, bắn nỏ cho mấy ngày tết bắt đầu từ rằm tháng một này cho đến.. sang rằm tháng giêng.. Những trò này các năm trước đã có rồi nên không cần hướng dẫn. Chỉ cần sửa sang lại bãi đất làm sân chơi một chút là được.

***
Trong bữa trưa hôm ấy, tôi hỏi Sùng bí quyết làm ăn thành công khá nhanh của anh? Sùng cười thản nhiên:
-   Thứ nhất chịu khó, bền bỉ. Thứ hai cái gì chưa biết, chưa hiểu cứ hỏi “Gu gồ”, enter “một phát” là ra!
Thật là quá bất ngờ đối với tôi về chuyện này. Nhà tôi có đám bưởi bị nấm dong, nguy cơ thất quả vụ sau. Tôi lo.  Mất công đi cả ngày giời về trại giống cây trồng để hỏi cách trị bệnh này. Đáng ra chỉ mất mấy phút tra trên mạng!
         Cùng ngồi mâm với tôi còn mấy người nữa. Cao tuổi hơn là bác Mùa A Tráng, nhà cách nhà Sùng Một quãng, Hầu A Chẩng, Háng A Pao sấp sỉ với tôi, nhà xóm trên. Nhân câu chuyện về các họ người H’Mông, Sùng nói:
- Các ông có cái sai chết người về chuyện này, có biết không?
Tôi bảo không biết. Sùng cho hay: “ Người Mông vóc dáng thấp, nhỏ do trước đây có cả quá trình dài di cư, thiếu thốn về sinh hoạt. Nói suy dinh dưỡng do thời trước thì được. Nhưng bảo do lấy vợ lấy chồng cùng huyết thống như cánh nhà báo mô tả là sai hoàn toàn. Người mông không bao giờ có chuyện đó. Con trai con gái trước khi kết bạn đều hỏi họ của nhau. Nếu không cùng họ mới lấy nhau được chứ? Dù ở Thái Lan, ở Lào hay ở Mỹ ..Xa mấy cũng vậy thôi. Đã cùng một họ thì chỉ kết bạn, không lấy nhau được đâu!”
      Còn chuyện cây khèn, Sùng bảo tôi hỏi bác Mùa A Tráng nói cho mà nghe. Bác Mùa đứng lên, lại chỗ gần chỗ kê giường nằm, lấy ra cây khèn.
       Ông bảo: “ Chả biết mày tả cây khèn thế nào? Bọn người H’Mông tao hay nghĩ bằng mắt”. Rồi ông dựng cây khèn lên, chỉ từng bộ phận: “ Đầu của cây khèn này tượng trưng cho ngọn núi cao, lưng chừng ở giữa bầu khèn là làng bản người Mông ở quây quần lấy nhau, còn bên dưới là các ống khèn này tượng trưng cho các ruộng bực thang..” Ông ngừng lời một lúc, lim dim đôi mắt. Một lúc sau mới tiếp:
- Còn một câu chuyện nữa. Đó là ban nhạc của mấy cha con người H’Mông xa xưa.. Mỗi người dùng một cây sáo trúc to, nhỏ khác nhau để thổi. Người bố sợ sau này mình chết, các con không đoàn tụ, mỗi người một phách, mất lòng nhau không còn ăn ý, mới chế ra cái bầu khèn này để anh em họ gắn bó,hòa hợp với nhau..”
Tôi giật mình. Bấy lâu cứ tưởng mình am tường đôi chút về văn hóa, lối sống người
H’Mông hóa ra không phải!
Người H’Mông hiểu giản dị mà lại sâu sắc hơn mình biết rất nhiều!
       Rượu chuối làng Suối Hoa càng uống càng êm, càng cảm thấy ngon bởi hương thơm dịu của nó. Câu chuyện vì thế càng vui. Mỗi người góp vào một câu chuyện của mình, thêm một ý. Nhưng văn hóa là thứ ngấm dần dần như rượu, không thể hấp tấp hỏi ngay, ghi chép ngay lấy được.
        Cứ để tự nhiên người ta sẽ bộc lộ với mình.
Câu chuyện về tập quán làm bánh dày theo tôi hiểu trước đây lại là một sự sai nữa. Mình cứ hình dung người H’Mông sống gắn bó với rừng, nơi sơn cùng thủy tận thường yêu quý, coi trọng mặt trăng, thực ra không phải vậy. Ngoài ý nghĩa tượng trưng trời tròn đất vuông khi làm thứ bánh này như nhiều dân tộc khác, người H’Mông còn có câu chuyện riêng của mình.
Chuyện rằng: xưa thật là xưa, trong bản người H’Mông có đôi trai tài gái sắc. Hai người yêu nhau thắm thiết. Những đêm trăng sáng chàng trai có tên là Pờlai thường mang khèn ra bờ suối thổi, đợi người yêu. Họ quấn quýt bên nhau đến gần sáng mới rời. Dọc đường cô gái không may bị thần hổ cướp đi. Chàng trai đau khổ, quyết tâm đi tìm. Trước khi đi chàng làm ra thứ bánh này để ăn đường. Qua hết năm sông, mười núi vô cùng gian khổ..Thần hổ cảm tấm lòng son sắt thủy chung của chàng, bèn để cho cô gái trở về đúng vào mùa hoa đào  chớm nở.        
        Từ đó tết người H’Mông dù giàu dù nghèo, nhà nào cũng có thứ bánh này..
Rồi cái cửa của nhà người H’Mông vì sao lại chỉ mở trở vào bên trong, không mở ra phía ngoài như các dân tộc khác.. Tôi ngồi nghe và hết sức ngạc nhiên bởi nhiều ý nghĩa mới mẻ đến giờ mình mới biết.
        Ngủ lại vài đêm như Sùng Mẫn Cường nói là không thể. Năm hết tết đến rồi, tôi còn nhiều việc phải làm. Tết Nguyên Đán chừng nửa tháng nữa mới tới, nhưng công việc bề bộn cuối năm phải chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Những câu chuyện khác đành để lại lần sau. Từ giã mọi người, tôi rời làng Suối Hoa khi trăng đã mọc.
Con đường rừng nhấp nhoáng ánh trăng. Đâu đó văng vẳng tiếng cười xen trong tiếng nhạc. Ánh điện từ ngôi nhà nào đó hắt lên vòm cây, không giống như ánh điện nơi phố thị, đơn sơ gần gặn mình hơn.
Có một chút gì đó mơ hồ mà thật bâng khuâng!


======
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

THE END OF LOVE




Đây là đoạn cuối một chuyện tình, cuối tuần tôi kể...( ảnh nhặt trên OF )





Thêm cái nữa, không liên quan ( ảnh lấy bên nhà gã Văn Công tên Hùng )

CAO BÒI GIÀ

Nếu tin theo lời của một vài du khách có vội vàng khi nặng lòng mến yêu thủ đô thì ở Hà Nội ấn tượng hình như đáng kể nhất, đơn giản nhất vẫn là “mái ngói thơm nâu” hay “cây bàng lá đỏ”. Tất nhiên các “tua rít gia” còn kể lể nhiều thứ nữa. Này là sương loang hồ Tây, nào là thu vàng ngõ nhỏ. Rồi thì công phu ẩm thực, rồi thì kỹ tính thú chơi. Hà Nội đương nhiên đã và sẽ đầy đủ những thứ đó, nhưng cũng giống như một phức tạp tuyệt đại mỹ nhân hay một thâm trầm kiệt hiệt anh hùng, cái vượt thoát khỏi sự hay dở làm người ta tâm phục khẩu phục nửa kính nửa nhường lại hoàn toàn không nằm ở chuyện múa may son phấn.

Người có cốt cách Hồ Nội mang một phong độ rất riêng, nó là bản năng phố phường có được từ “chất.” (Những năm còn bao cấp sắp sửa manh nha sang đổi mới, dân chợ Giời rất hay dùng chữ “chất” khi phải mặc định một giá trị gì. Ví như cái quần bò này “chất” nhỉ, Lìvai Mỹ hay Kinngiô Thái. Hoặc siêu hình Xếchxi hơn, con bé ấy cực “chất”). Vì thế chỉ cần nghe một vài ngữ điệu giao tiếp người ở Hà Nội sành sỏi biết ngay người đối thoại thuộc loại nào. “Chất chơi” hay “chất quê.” Thậm chí còn định vị đúng anh/ chị ta đang sống ở phố cổ hay ở rìa cửa ô. Những cao thủ khinh bạc ngửi, rồi lọc lõi phán xét chính xác được về “chất” thường là những đàn ông có tuổi ngoài năm mươi trở lên mà giới vỉa hè trân trọng gọi cũng như bọn họ trịnh thượng tự nhận là cao bồi già Hà Nội.

Đó là những ngoại hình trung niên, rất khó đoán tuổi đã ngoài sáu mươi hay ngoài bảy mươi. Quần áo phẳng phiu hàng hiệu, hoặc là kiểu “đờ mi xe dông” (quần kaki áo vest), hoặc một bộ đũi sáng sang trọng đĩ tính bật nổi ra khỏi cái hồi khó khăn khi đồ cotton chưa lên ngôi. Bọn họ thích đi bộ, có lẽ cũng vì già, nhiều tay phô phang thì tay cầm batoong, mồm ngậm tẩu, đầu đôi “phớt” dạ và dưới thắt lưng da nâu có thấp thoáng một sợi dây xích sáng trắng từ cái đồng hồ quả quýt nắp bạc.

Bọn họ ăn sáng ở linh tinh các quán, các hàng rong, nơi những ông chủ bà chủ nổi tiếng nấu ngon cùng tài nhớ mặt khách, rồi khệnh khạng đi tới một hàng cà phê quen. Có điều, tất cả những hàng này, bắt buộc những hàng này phải trong bán kính một ki-lô-mét quanh hồ Hoàn Kiềm. Lờ mờ trong khói thuốc thơm câu chuyện của bọn họ khá tục, không phải vì bọn họ hay đệm mà do các chất trải nghiệm kẻ chợ cay đắng kiêu bạc đến mức tàn nhẫn. Phần nữa là bọn họ thường bỏ học dở dang, bởi người đã đúng là kẻ chợ thì tuy khát khao tôn trọng yêu trí thức nhưng hoàn toàn lại lười ngại để trở thành trí thức.

Do hầu hết xuất thân ở những gia đình dư giả có truyền thống buôn bán nên cho dù gia đình đang lụi bại xập xệ tất thẩy bọn họ đều ham chơi. Cái hỗn danh “mải chơi” không hẳn chỉ dành cho một người và xung quanh “hỗn danh” này có không biết bao nhiêu truyền kỳ phảng phất hoang đường.

Có một đôi ngoại tình yêu nhau không còn trẻ lắm đến chơi nhà một tay cao bồi già. Hồi ấy Hà Nội chưa có nhà nghỉ. Tay cao bồi ở trong một biệt thự cũ đang nhếch nhác chia năm xẻ bẩy nhưng vẫn có phòng riêng. Cặp tình nhân đưa ít tiền cho tay cao bồi đi mua đồ ăn trưa. Sau khi cẩn thận khóa cửa (phần lớn cao bồi thường ghét và khinh hàng xóm), tay này đi ra chợ Hàng Bè thì gặp đám bạn ngẫu hứng rủ đi Sài Gòn. Anh ta nhận lời ngay, lên tầu Thống Nhất đi luôn một tháng. Khỏi cần phải kể nỗi khổ kinh hoàng của đôi tình nhân bị nhốt kia trong suốt tháng ấy. Tuy mải chơi nhưng không hiểu sao các ông cao bồi toàn đẻ ra con cái (cả trong và ngoài giá thú) luôn luôn thành đạt. Ở Hà Nội hôm nay, đám con cái ấy đều phát tài thành cự phú. Bọn chúng đồng thanh bảo đấy là nhờ hấp thụ được cái sắc sảo lăn lộn tinh quái của người cha. Thảng trong đám đó có đứa phát phúc học hành, đàng hoàng làm giáo sư làm tiến sĩ.

Do bản chất tài hoa, đám cao bồi hầu hết tinh tế ham thích âm nhạc văn thơ hội họa. Thơ bọn họ chua chát trắng trợn hiểu người nên mặt lạ lắm. “Không vênh vang mặt giai không sợ. Không giáo giở lòng gái không thương.” Đây là hai câu vào loại nhẹ nhất trong bài thơ có nhan đề “Đời có ra chi mà đ… chửi” của một chân chính cao bồi ngoài bát thập. Và cũng chính từ họ, đám trẻ của Hà Nội nghìn năm văn hiến mới hiểu được câu thành ngữ khét tiếng “Gái Hàng Khoai, trai Hàng Lược.” Vì thế, cao bồi già thường nhìn các nhà “Hà Nội học” bằng cái nhìn “đểu”. Với họ, những nhà đấy ngoài việc thuộc tên phố thì còn lại chẳng biết cái quái gì.

Ngày nay, lớp cao bồi già đang dần dần tự tuyệt tự. Chẳng biết họ hay hay dở, nhưng bọn họ xứng đáng được ghi vào sách đỏ để bảo vệ giữ gìn như một loài khác lạ quý hiếm. Bởi không có họ, cũng như không có kẻ cắp chợ Đồng Xuân hoặc “phe phẩy” chợ Giời, Hà Nội sẽ vĩnh viễn mất đi một khoảng trống bi tráng nhố nhăng.

Mà nhố nhăng là một đặc tính làm nên một đô thị lớn, Vũ Trọng Phụng chuyên viết về cao bồi gốc Hà Nội đã bảo vậy.

@tản mạn của Nguyễn Việt Hà.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chân lý khoa học hay sự tưởng tượng kỳ quái?


SỬ DỤNG TOÁN HỌC ĐỂ CHỨNG MINH
SỰ TỒN TẠI CỦA LINH HỒN

TS. Đỗ Xuân Thọ - Thiếu tướng Chu Phác
1. MỞ ĐẦU
Trong bài báo này, chúng tôi sử dụng lý thuyết tập hợp và phương pháp tiên đề để chứng minh sự tồn tại của linh hồn. Để biết thật tường tận mong độc giả đọc tài liệu tham khảo [1]
2. VŨ TRỤ VÀ TÂM VŨ TRỤ
2.1. VŨ TRỤ
Trước khi đưa ra những tiên đề, định lý về Vũ trụ chúng ta phải xây dựng được các khái niệm cơ bản. Các khái niệm này như là vật mang tin. Nó giống như chữ viết và ký hiệu để diễn đạt một ngôn ngữ.
Ta sẽ bắt đầu bằng khái niệm Đối tượng. Đối tượng dùng để chỉ mọi thứ: bát cơm, manh áo, con người, trái đất, hệ mặt trời, thiên hà, ý nghĩ,khái niệm, học thuyết, xã hội, một chính thể v.v... Khái niệm Đối tượng có tác dụng tạo ra một sự khu biệt trong tư duy khi ta xét đến một vật, một thực thể, một khái niệm, một hệ thống v.v... nào đó. Đối tượng, như sau này sẽ thấy, nó gần giống như khái niệm tập hợp nhưng không phải tập hợp vì không có đối tượng nào trống rỗng tuyệt đối.
Tiếp theo là khái niệm Lớp và Tập hợp. Đầu tiên ta tạm hiểu nó như khái niệm lớp và tập hợp cổ điển [3] và lớp mờ, tập hợp mờ theo nghĩa của A.L. Zadeh [4].
Khái niệm Vô cùng dùng để chỉ sự vô biên, vô tận, không bờ bến, không bị hạn chế v.v...
Duy nhất là khái niệm chỉ sự: chỉ có một không có hai.
Tiếp theo là khái niệm Vận động. Vận động có thể hiểu như sự đổi chỗ trong không gian và thời gian, sự thay đổi trong các phản ứng hoá học, sự phát triển hoặc suy thoái của một quốc gia, một học thuyết hoặc một chính thể. Nó chỉ sự sinh trưởng hoặc chết đi của một sinh vật, sự thay đổi trong tư duy của một con người v.v...
Cùng với sự vận động còn có khái niệm vận tốc, gia tốc v.v...
Ta sẽ bắt đầu bằng việc đưa ra quan niệm của chúng ta về Vũ trụ.
Định nghĩa 1: Vũ trụ là một lớp V tất cả các đối tượng x sao cho x=x: 
V= { x | x = x }.
Định nghĩa 1 nói lên quan niệm của chúng ta về vũ trụ, đó là một lớp các đối tượng sao cho « nó » là « nó » và ngược lại bất cứ một cái gì mà « nó » là « nó » thì nó sẽ thuộc vũ trụ V.
Cũng theo định nghĩa 1, ta thấy Vũ trụ của thiên văn học chỉ là một phần của Vũ trụ vừa được định nghĩa. Vũ trụ của thiên văn học không chứa hồn của một làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh (với tư cách là một đối tượng) chẳng hạn…
Định lý 1:Giữa hai đối tượng bất kỳ bao giờ cũng tồn tại ít nhất một mối liên hệ
CM: Giả sử A và B là hai đối tượng bất kỳ, V là vũ trụ. Vì A=A nên A ÎV, vì B=B nên BÎV . Khi đó mối liên hệ “A và B cùng thuộc vũ trụ V” hiển nhiên là một trong các mối liên hệ giữa A và B => đ.p.c.m
Từ nay, khi nói đến một đối tượng ta phải hiểu nó cùng với tập hợp các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác. Đôi khi để nhấn mạnh ta sẽ gọi là đối tượng đầy đủ.
Tiếp theo ta sẽ thừa nhận tiên đề mà hầu như mọi triết học đều công nhận
Tiên đề 1: Mọi đối tượng trong Vũ trụ đều luôn luôn vận động.
Tiên đề này cho ta thấy vận động là thuộc tính của mọi đối tượng. Mọi đối tượng trong Vũ trụ đều vận động theo vô vàn các phương thức khác nhau. Từ định nghĩa 1 và tiên đề 1 ta thấy rằng mọi đối tượng trong vũ trụ đều có đặc trưng “nó” là “nó” nhưng lại không phải là “nó”... Thật kỳ diệu !…
Định lý 2:Vũ Trụ V là vô cùng theo mọi phương
CM: Giả sử H là một hệ quy chiếu có gốc O tuỳ ý thuộc vũ trụ V và các trục Oxi, với i thuộc tập các chỉ số C tuỳ ý (C có thể là tập có vô hạn phần tử). Các trụ Oxi là những đường thẳng, làm thành các trục số của tập số thực R. (Sự tồn tại một hệ quy chiếu như thế, trong vật lý có thể còn tranh cãi nhưng trong vũ trụ V của chúng ta , vũ trụ bao gồm cả vật chất và ý thức, là điều hiển nhiên. Ví dụ hệ quy chiếu đó tồn tại ngay trong tư duy của ta chẳng hạn) Ta sẽ chứng minh bằng phản chứng. Giả sử tồn tại một chỉ số j thuộc C sao cho Vũ Trụ V hữu hạn trên trục Oxj. Không giảm tổng quát ta giả sử nó hữu hạn ở phần dương của Oxj (Nếu hữu hạn ở phần âm CM tương tự). Khi đó tồn tại một số thưc A để sao cho mọi đối tượng của V đều có toạ độ theo phương Oxj đều nhỏ hơn hay bằng A. Chọn điểm M có tất cả các toạ độ khác bằng 0 trừ toạ độ trên Oxj là bằng A+1. Rõ ràng A+1>A và M=M nên điểm M (với tư cách là một đối tượng) thuộc vũ trụ V (theo định nghĩa vũ trụ). Sự vô lý này chứng tỏ V vô hạn trên Oxj suy ra không tồn tại một chỉ số i nào thuộc C để vũ trụ V hữu hạn theo phương Oxi => điều phải chứng minh.
Chú ý: Việc chọn các trục tọa độ là đường thẳng chỉ là một trong vô hạn cách chọn để nhấn mạnh và làm dễ hiểu cho độc giả. Các trục tọa độ của hệ quy chiếu H có thể là bất cứ cái gì: đường cong, một sợi tư duy thậm chí chỉ là một ước mơ… trong đầu của một người nào đó (ở Trái Đất hoặc ngoài Trái Đất).
Đến đây ta đưa ra một định lý rất quan trọng.
Định lý 3: Vũ trụ là duy nhất
CM: Giả sử V1và V2 là hai Vũ trụ khác nhau. Khi đó với đối tượng d bất kỳ thuộc V1 thì suy ra d=d do V1 là vũ trụ. Mặt khác vì d = d nên d thuộc V2 vì V2 cũng là vũ trụ. Suy ra V1 được chứa trong V2 (1). Ngược lại với đối tượng d bất kỳ thuộc V2 thì d =d do V2 là vũ trụ. Mặt khác vì d = d nên d thuộc V1 vì V1 cũng là vũ trụ. Suy ra V2 được chứa trong V1 (2). Từ (1) và (2) suy ra V1 trùng với V2. Suy ra đ.p.c.m.
Định lý 3 khẳng định Vũ trụ của chúng ta là duy nhất, không có Vũ trụ thứ hai.
Vũ trụ của chúng ta thật vô cùng vô tận mà sống động. Đó là Vũ trụ duy nhất, không có Vũ trụ thứ hai.
2.2. TÂM VŨ TRỤ
Đến đây ta sẽ đưa vào một khái niệm mới – Tâm Vũ trụ. Khái niệm này được trình bày một cách ngắn gọn nhất nên nó là một khái niệm hết sức trừu tượng nhưng lại là khái niệm trung tâm của phần này. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng một định nghĩa ngắn gọn:
Định nghĩa 2:Tâm Vũ Trụ là một đối tượng TVT sao cho TVT là miền giao của mọi đối tượng của vũ trụ V : TVT = ∩ V
Định nghĩa này cho ta thấy Tâm Vũ trụ là cái chung nhất của tất cả các đối tượng trong Vũ trụ. Nó là “Thuộc tính” có trong mọi đối tượng.
Ngay sau đây ta sẽ chứng minh hai định lý mang tính nhận thức luận.
Định lý 4: Tâm Vũ Trụ là tồn tại :TVT ≠ Ø
CM: Ta phải chứng minh miền giao của mọi đối tượng trong Vũ trụ là khác trống. Thật vậy vì tính vận động là có trong mọi đối tượng như tiên đề 1 đã khẳng định nhưng tính vận động đến lượt nó lại là một đối tượng trong Vũ trụ nên giao của mọi đối tượng trong Vũ trụ chứa đối tượng vận động nên rõ ràng khác trống => đ.p.c.m.
Định lý 5:Tâm Vũ Trụ là duy nhất
CM : Giả sử TVT1 và TVT2 đều là Tâm Vũ trụ. Ta phải chứng minh TVT1 trùng với TVT2. Thật vậy vì TVT1 là Tâm Vũ trụ và TVT2 là một đối tương nên
TVT1 Ì TVT2 (TVT1 được chứa trong TVT2) (1).
Vì TVT2 là Tâm Vũ trụ và TVT1 là một đối tượng nên
TVT2 Ì TVT1 (TVT2 được chứa trong TVT1) (2)
Từ (1) và (2) suy ra TVT1 º TVT2 (TVT1 trùng với TVT2) => đ.p.c.m
Ngay tại đây chúng ta sẽ đưa ra một hệ quả trực tiếp từ định nghĩa Tâm Vũ trụ:
Định lý 6:Tâm Vũ Trụ có trong mọi đối tượng
CM: Tâm Vũ trụ là miền giao của mọi đối tượng và Tâm Vũ trụ tồn tại duy nhất. Theo định nghĩa phép giao trong lý thuyết Tập hợp suy ra nó có trong mọi đối tượng trong Vũ trụ. (đ.p.c.m.)
Thực ra, đã từ lâu loài người đã cảm nhận được sự tồn tại của Tâm Vũ trụ và gọi nó với các cái tên khác nhau như: Thuộc tính, Bản chất, Tạo hoá, Chân lý Tối thượng, Tự nhiên, Trời, Thượng đế v.v... Nhưng có thể nói khái niệm Tâm Vũ trụ ở đây rành mạch, sâu sắc và tổng quát hơn nhiều những khái niệm kể trên.
Định lý 8:Mọi đối tượng trong Vũ trụ không tự nhiên mất đi một cách vĩnh viễn mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác.
CM : Giả sử rằng A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ. Khi đó theo định lý 6, A chứa Tâm Vũ trụ. Nếu A bị mất đi vĩnh viễn suy ra Tâm Vũ trụ sẽ bị mất đi vĩnh viễn. Điều này trái với hai định lý về sự tồn tại và duy nhất của Tâm Vũ trụ. Suy ra đ.p.c.m.
3. VŨ TRỤ LINH HỒN
3.1. LINH HỒN
Trước hết, ta đưa vào hai khái niệm cơ bản: đối tượng hữu hình và đối tượng vô hình
Định nghĩa 3:Đối tượng hữu hình là đối tượng có kích thước hình học
Cái bàn, cái cốc, thân thể con người, con sông, dãy núi, trái đất, hạt nhân nguyên tử, hạt quắc, các phô tông ánh sáng, thân xác các siêu vi khuẩn. v.v… là các ví dụ về các đối tượng hữu hình
Định nghĩa 4: Đối tượng vô hình là đối tượng không có kích thước hình học
Tư duy, ý nghĩ, khái niệm, truyền thống, tình yêu, hạnh phúc, lòng căm thù, tính cao thượng, linh hồn, điểm hình học, văn hoá phi vật thể...v.v…là các ví dụ về các đối tượng vô hình.
Định lý 9: Tâm Vũ Trụ vừa là đối tượng hữu hình vùa là đối tượng vô hình
CM: Vì các đối tượng hữu hình hay đối tượng vô hình đều là đối tượng trong Vũ Trụ nên theo định lý 6 chúng đều chứa Tâm Vũ Trụ. Điều này suy ra Tâm Vũ Trụ vừa là đối tượng vô hình vừa là đối tượng hữu hình (đ.p.c.m).
Đến đây chúng ta phát biểu một định nghĩa nói lên quan điểm rứt khoát của chúng ta về linh hồn.
Định nghĩa 5: Giả sử A là một đối tượng đầy đủ bất kỳ trong vũ trụ. Linh hồn của A là lớp tất cả các thành tố vô hình tạo nên A.
Như vậy linh hồn của A bao gồm lớp những phần vô hình trong A và lớp tất cả các mối liên hệ vô hình của A với mọi đối tượng trong Vũ Trụ
Ở đây ta thấy khái niệm linh hồn của chúng ta tường minh, tổng quát và sâu sắc hơn tất cả những quan niệm về linh hồn của loài người trước đây.
Định lý 10:Tâm Vũ trụ chứa linh hồn
CM: Theo định lý 9 Tâm Vũ Trụ vừa là đối tượng hữu hình vừa là đối tượng vô hình nên theo định nghĩa 5 suy ra Tâm Vũ Trụ chứa linh hồn (đ.p.c.m.)
Định lý 11:Mọi đối tượng trong Vũ trụ đều có linh hồn
CM: Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ., theo định lý 6, A chứa Tâm Vũ Trụ . Vì Tâm Vũ Trụ chứa linh hồn nên A có linh hồn Suy ra điều phải chứng minh (đ.p.c.m).
Mọi đối tượng đều có linh hồn kể cả những vật mà loài người cho là vô tri nhất. Do khái niệm về đối tượng vô hình và định nghĩa linh hồn suy ra hòn đá có hồn của hòn đá, nó cũng có các cảm xúc như yêu thương, giận hờn v.v… và ta có thể giao tiêp với nó. Định lý 11 còn cho ta giải thích tại sao loài người, đặc biệt là trong văn chương lại có loại văn nhân cách hoá; tại sao loài người lại thờ nhiều thần như thế : thần biển, thần núi, thần gió, thần mặt trời v.v…; tại sao lại có các khái niệm “ hồn nước”, “hồn thiêng song núi”,v.v…
Mọi đối tượng đều có linh hồn nhưng đối tượng nào “gần” Tâm Vũ Trụ hơn sẽ có linh hồn mạnh hơn. Ví dụ loài người và loài chó đều có linh hồn nhưng loài người gần Tâm Vũ Trụ hơn nên có linh hồn mạnh hơn nên có thể thuần dưỡng và điều khiển được loài chó.
Vì linh hồn cũng là một đối tượng trong Vũ trụ nên nó tuân theo tiên đề 1: Nó luôn luôn vận động
Để cho hoàn chỉnh và theo mạch tư duy ta sẽ chứng minh một loạt các định lý sau.
Định lý 12: Linh hồn giao tiếp với nhau giữa hai đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ bao giờ cũng phải thông qua Tâm Vũ Trụ
CM: Giả sử A và B là hai đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ, f là một mối liên hệ vô hình bất kỳ giữa A và B. Theo định nghĩa linh hồn suy ra f là một thành tố của linh hồn. Nhưng đến lượt mình f lại là một đối tượng trong Vũ Trụ. Theo định lý 6 , f phải chứa Tâm Vũ Trụ. Hay nói cách khác f phải thông qua Tâm Vũ Trụ. Suy ra đ.p.c.m.
Định lý 13:Tâm Vũ Trụ chứa toàn bộ linh hồn của mọi đối tượng trong Vũ Trụ
CM: Ta chứng minh bằng phản chứng. Giả sử tồn tại một đối tượng A có một phần linh hồn F(A) không có trong Tâm Vũ Trụ. Khi đó tồn tại một giao tiếp f chứa trong F(A) không thông qua Tâm Vũ Trụ. Điều này trái với định lý 12 vừa phát biểu. Suy ra đ.p.c.m.
Định lý 14:Tâm Vũ Trụ truyền linh hồn đến mọi đối tượng trong Vũ trụ là tức thời trong mọi hệ quy chiếu
CM: Ta chứng minh bằng phản chứng. Giả sử tồn tại một đối tượng A trong Vũ Trụ nhận được linh hồn từ Tâm Vũ Trụ đến mình không tức thời. Suy ra tồn tại một thời điểm t0 mà tại đó A không có linh hồn. Điều này trái với định lý 11 suy ra điều phải chứng minh(đ.p.c.m.)
Định lý 15: Vận tốc của ánh sáng c » 300000 km/s không phải là giới hạn vận tốc truyền linh hồn trong Vũ trụ
CM: Giả sử A và B là hai đối tượng cách nhau 1 tỷ năm ánh sáng, f là một thành tố linh hồn được truyền từ A đến B. Theo định lý 12 “đoạn đường” mà f chuyển động được chia thành 2 phần d1: từ A đến Tâm Vũ Trụ và d2: từ Tâm Vũ Trụ đến B. Theo định lý 13 suy ra f chuyển động trên d1 là tức thời (1). Theo định lý 14 f chuyển động trên d2 cũng tức thời (2). Từ (1) và (2) suy ra f chuyển động từ A đến B là tức thời. A và B cách nhau 1 tỷ năn ánh sang nên f có vận tốc lớn hơn vận tốc ánh sáng c hàng tỷ lần. Suy ra đ.p.c.m.
Chúng ta đã chứng minh chặt chẽ một loạt các định lý vô cùng quan trọng. nó chứa đựng một Vũ Trụ Quan khác hẳn với loài người từ trước tới nay. Tâm Vũ Trụ chứa toàn bộ linh hồn của Vũ Trụ và ban phát những ý tưởng, những cảm xúc, những tình yêu, những chân lý.v.v.. xuống các đối tượng một cách tức thời làm cho chúng ta tưởng rằng những thứ đó có sẵn trong các đối tượng. Bộ não của chúng ta thực chất chỉ là cái sơ mướp không hơn không kém nếu Tâm Vũ Trụ không truyền linh hồn đến chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không phải bù nhìn, con dối vì theo định lý 6 suy ra chúng ta chứa Tâm Vũ Trụ. Nếu chúng ta tiến về Tâm Vũ Trụ thì đến một lúc nào đó ta là Tâm Vũ Trụ và Tâm Vũ Trụ chính là ta. Sự hòa hợp Thượng Đế này diễn ra ngay từ khi ta đạt đến lân cận số 3 của Tâm Vũ Trụ. Khi đó ta dần dần hiểu được cả Vũ Trụ vô cùng vô tận hiện tồn này như hiểu lòng bàn tay của mình vậy.
Khi truyền tình yêu hoặc lòng căm thù đến một người nào đó thì tình yêu đó, lòng căm thù đó phải tập kết ở Tâm Vũ Trụ rồi mới được truyền đến người đó…không có gì có thể giấu được Tâm Vũ Trụ…
Ở Tâm Vũ Trụ không có cái gì là tương đối, là ngẫu nhiên, là may dủi. Tất cả là tuyệt đối là chính xác hoàn toàn là chắc chắn vĩnh cửu.
Mọi sự độc ác, mọi sự đê tiện, mọi sự hèn hạ…khi tiến đến gần Tâm Vũ Trụ đều biến đổi và trở thành lòng tốt tuyệt đối, cao thượng tuyệt đối, dũng cảm tuyệt đối….
Dễ dàng chứng minh chặt chẽ rằng Tâm Vũ Trụ là nỗi cô đơn tuyệt đối, là niềm hạnh phúc tuyệt đối, là tình yêu tuyệt đối.
Tiến đến một lân cận nào đó của TVT ta có thể yêu một cơn bão “tàn bạo vô tri” như yêu một người đàn bà đẹp, hiền thục… Thương kẻ đã thọc dao sau lưng ta như thương một người khuyết tật…Và ta điều khiển mọi đối tượng trong vũ trụ bằng một tình yêu khủng khiếp mang dấu ấn của Tâm Vũ Trụ.
3.2. VẬT CHẤT (THÂN XÁC)
Vật chất đã được các nhà vật lý nghiên cứu rất kỹ nên ta chỉ nói lướt qua, việc đưa nó vào lúc này chỉ để tạo sự cân đối cho lý thuyết.
Định nghĩa 6:Giả sử A là một đối tượng đầy đủ bất kỳ trong Vũ trụ. Lớp tất cả các thành tố hữu hình tạo nên A được gọi là vật chất của A 
Định lý 16:Tâm Vũ Trụ chứa vật chất
CM: Theo định lý 9 Tâm Vũ Trụ vừa là đối tượng hữu hình vừa là đối tượng vô hình nên theo định nghĩa 6 suy ra Tâm Vũ Trụ chứa vật chất (đ.p.c.m.)
Định lý 17:Mọi đối tượng trong Vũ Trụ đều có phần xác (vật chất)
CM: Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ., theo định lý 6, A chứa Tâm Vũ Trụ . Vì Tâm Vũ Trụ chứa vật chất suy ra A có vật chất Suy ra điều phải chứng minh (đ.p.c.m).
Như vậy một đối tượng A bất kỳ trong Vũ Trụ đều gồm 2 phần: phần xác và phần hồn
Chú ý:

1) Đối với một đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ bao giờ cũng có cả phần xác và phần hồn trong nó. Không có đối tượng nào là vô tri. Núi có hồn của núi, sông có hồn của sông, các cơn bão cũng có linh hồn v.v..Ngược lại không có đối tượng nào chỉ có thuần túy linh hồn. Linh hồn của một người đang sống hoặc đã chết vẫn có các mối liên hệ vật chất với các đối tượng hữu hình. Tư duy của một con người có thể biến thành một sức mạnh vật chất.
2) Mọi đối tượng đều có linh hồn nhưng mạnh, yếu khác nhau. Đối tượng nào càng gần Tâm Vũ Trụ thì linh hồn càng mạnh. Trong hai đối tượng, đối tượng nào có linh hồn mạnh hơn sẽ điều khiển được đối tượng kia. Ví dụ, loài người và loài chó đều có linh hồn nhưng loài người gần Tâm Vũ Trụ hơn nên có linh hồn mạnh hơn . Do đó loài người có thể thuần dưỡng và điều khiển được loài chó
3.3.VŨ TRỤ LINH HỒN
3.3.1. VŨ TRỤ VẬT CHÂT VÀ VŨ TRỤ LINH HỒN
Trước hết, để cho cân đối ta định nghĩa Vũ Trụ Vật Chất và Vũ trụ các Linh Hồn và phát biểu 2 định lý khẳng định sự tồn tại của chúng
Định nghĩa 7:Vũ trụ Linh Hồn là lớp tất cả các linh hồn của mọi đối tượng trong Vũ Trụ và ký hiệu là Vyt
Định nghĩa 8: Vũ trụ Vật Chất là lớp tất cả các vật chất của mọi đối tượng trong Vũ Trụ và ký hiệu là Vvc
Vì một đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ đều có hai thành tố vật chất và linh hồn nên sự tồn tại của Vyt và Vvc là hiển nhiên. Do đó ta có hai định lý
Định lý 18: Vũ trụ Vật Chất Vvc là tồn tại.
Định lý 19: Vũ trụ Linh Hồn Vyt là tồn tại
Đến đây ta chứng minh một định lý tuyệt vời cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa vũ trụ Linh hồn và vũ trụ V. Định lý này tạm gọi là:”Định lý Cầu được, ước thấy” hay « Định lý MUỐN LÀ ĐƯỢC »
Định lý 20: Định lý MUỐN LÀ ĐƯỢC
Giả sử Vyt là vũ trụ Linh Hồn, V là vũ trụ. Khi đó mọi tập con khác trống A của Vyt bao giờ cũng tồn tại một ánh xạ 1-1 f và một tập con B khác trống của V sao cho B là ảnh của A qua ánh xạ f
CM: Giả sử a1 là một phần tử của tập A và b1 là một phần tử của V (Theo tiên đề chọn ta luôn chọn được b1). Vì a1 và b1 đều là các đối tượng nên theo định lý 1 về mối lien hệ phổ biến suy ra tồn tại ít nhất một mối liên hệ giữa a1 vả b1. Ta chọn một mối liên hệ f1 giữa a1 và b1. Tương tự với phần tử a2 (khác a1) ta chọn b2 thuộc V khác b1. và vẫn theo định lý 1 ta lại chọn được mối liên hệ f2 giữa a2 và b2…v.v . Sau khi chọn hết các phần tử của A ta có tập các mối liên hệ f gồm các mối liên hệ fi và tập con B của V gồm các bi vừa kể trên. Rõ rang f là ánh xạ 1-1 từ A vào B. suy ra điều phải chứng minh
Ánh xạ f vừa mô tả trong chứng minh có thể từ vũ trụ Linh Hồn Vyt đến vũ trụ Vật Chất Vvc hoặc đến chính vũ trụ Linh Hồn Vyt
Định lý này có thể suy ra:" Mọi sự tưởng tượng của chúng ta dù điên rồ đến đâu bao giờ cũng tồn tại một thực tế có thực trong vũ trụ đúng như ta tưởng tượng"......Các bạn cứ ước mơ đi dù điên rồ tới đâu cũng được.....sẽ có một vùng nào đấy của vũ trụ mà ở đó ước mơ của bạn là hiện thực....Người Pháp có câu ngạn ngữ tuyệt hay:" Muốn là được" nhưng chưa chứng minh chặt chẽ . Việt Nam cũng có câu tuyệt hay:”Cầu được ước thấy” .Các bạn có thể khuyên con mình phải tiết kiệm tiền nhưng khi ước mơ đừng bao giờ tiết kiệm....
3.3.2. VŨ TRỤ LINH HỒN
Bây giờ ta sẽ bàn sâu về Vũ trụ Linh Hồn Vyt, một phần của Vũ Trụ mà loài người còn biết rất mù mờ về nó.
Trước hết ta sẽ đưa ra định nghĩa về nền văn minh Trái Đất sau đó sẽ chứng minh trong Vũ Trụ có vô hạn các nền văn minh tương tự như nền văn minh Trái Đất
Định nghĩa 9: Lớp tất cả cáclinh hồn của loài người trên Trái Đất được gọi là nền Văn Minh Trái Đất và ký hiệu Nyt
Để khẳng định Vũ Trụ Linh Hồn Vyt theo quan niệm của chúng ta khác hẳn với loài người ta sẽ phát biểu và chứng minh định lý sau đây
Định lý 21: Tồn tại vô hạn các nền Văn Minh tương tự như nền văn minh Trái Đất Nyt trong Vũ Trụ
Có hàng loạt cách chứng minh định lý 21 này. Ở đây ta sẽ đưa ra một cách chứng minh dễ hiểu nhất
CM cách 1: Ta sẽ chứng minh bằng phản chứng. Giả sử trong Vũ Trụ chỉ tồn tại hữu hạn các nền Văn Minh tương tự như Nyt. Gọi f là phương “các nền Văn Minh tương tự như Nyt” suy ra Vũ Trụ bị hữu hạn theo phương f. Điều này trái với định lý 2 về tính vô cùng vô tận của Vũ Trụ . Suy ra đ.p.c.m.
CM cách 2: Do định lý 21 là một tập con khác trống A của vũ trụ Linh hồn Vyt nên theo định lý Muốn là được 20 tồn tại một tập con khác trống B trong vũ trụ V cùng với một ánh xạ 1-1 f từ A vào B sao cho B là ảnh của A qua f. Điều này có nghĩa rằng có vô hạn các nền văn minh tương tự như Trái Đất Nyt trong Vũ Trụ. Suy ra đ.p.c.m.
Như vậy có vô hạn các nền Văn Minh ngoài trái đất. Nếu lấy Nyt làm gốc ta sẽ thấy có những nền Văn Minh yếu hơn Nyt (lạc hậu hơn Nyt), có những nền Văn Minh mạnh hơn Nyt (tiến bộ hơn Nyt). Lẽ dĩ nhiên nền Văn Minh mạnh nhất Vũ Trụ chính là Tâm Vũ Trụ. Nền Văn Minh A gần Tâm Vũ Trụ hơn nền Văn Minh B thì A sẽ mạnh hơn B và “chỉ huy “ được B
Vũ trụ Linh Hồn Vyt được “dệt” nên bởi vô hạn các đường truyền linh hồn của vô hạn các đối tượng trong Vũ Trụ. Như định lý 1 về mối liên hệ phổ biến và định nghĩa linh hồn, suy ra về nguyên tắc chúng ta luôn luôn phải “thu” tất cả các đường truyền linh hồn của mọi đối tượng trong Vũ Trụ và “phát” đi bằng ấy các đường truyền phản xạ.
Do đó suy ra chúng ta, những con ng,ười trên Trái đất, hàng ngày hàng giờ,hàng phút, hàng giây, hàng nano giây... đang được “nhúng” trong một “mạng lưới” các đường truyền linh hồn của Vyt .
Vì các đường truyền linh hồn của Vyt không nhìn thấy được kể cả khi dùng các thiết bị hiện đại nhất của loài người nên chúng ta không biết nó tồn tại .
Những đường truyền này có dạng sóng với vô hạn tần số. Ta sẽ gọi các đường truyền đó là Sóng Ý Thức (SYT). Chúng ta có thể nhịn thở được 3 phút nhưng không thể thiếu SYT trong 3 nano giây....
SYT có vô hạn tốc độ. Chúng có thể truyền tức thời vào đầu ta từ một đối tượng cách chúng ta hàng tỷ năm ánh sáng và cũng có thể truyền vào đầu ta chậm như rùa bò một một bài toán cực khó đối với ta trong quyển sách bài tập toán trên bàn làm việc.
Không một bức tường vật chất nào cản được SYT nên mọi đặc trưng chuyển động của nó chỉ có thể đo bằng chính linh hồn.
Mọi đường truyền của SYT của mọi đối tượng trong Vũ Trụ đều phải “ tập kết” ở Tâm Vũ Trụ trước khi đến “địa chỉ” cần truyền.f
4.KẾT LUẬN
Như vậy , chúng tôi đã trình bầy quan niệm của chúng tôi về vũ trụ, về tâm vũ trụ về thể xác và về linh hồn một cách tổng quát nhất thông qua các khái niệm cơ bản và 9 định nghĩa. Bằng việc phát biểu 1 tiên đề, phát biểu và chứng minh chặt chẽ 21 định lý, bức tranh về vũ trụ hiện tồn , về tâm vũ trụ và sự tồn tại của linh hồn đã được chứng minh một cách chính xác bằng toán học.
Tất cả các kết quả này là một sự chọn lọc và tinh giản các kết quả của học thuyết Tâm Vũ Trụ mà chúng tôi đã công bố gần đây [1], [2]. Vì dung lượng của báo có hạn nên không thể trình bầy chi tiết hơn. Rất mong độc giả thông cảm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Xuân Thọ : Tâm Vũ Trụ, NXB Dòng họ Đỗ Việt Nam, Hà Nội, 2012.
[2] Đỗ Xuân Thọ: Lý giải từ góc độ toán học một số luận điểm cơ bản của triết học về vũ trụ. Tạp chí Triết học tháng 1 năm 2003, Việt Nam
[3] Kelly J.L.: General Topology, New York (USA), 1967
[4] Zadeh L.A. : Fuzzy Set,California (USA) 1965

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bằng chứng sự tồn tại của người ngoài hành tinh ở Trái Đất



Nhiều người khẳng định các dạng sống ngoài hành tinh đã ghé thăm Trái Đất trong suốt quá trình phát triển của nền văn minh con người.
Tuy nhiên, tuyên bố như vậy mà không có bằng chứng thì rất dễ bị cho là lừa đảo, viển vông. Dưới đây là những dấu vết còn sót lại của người bạn màu xanh được phát hiện.
1. Bánh răng UFO ở Nga
Những bằng chứng tố cáo sự tồn tại của người ngoài hành tinh ở Trái Đất
Một người Nga đã vô tình tìm thấy một mảnh bánh răng kỳ lạ trong khi đang nhóm một đống lửa ở Vladivostok, thủ phủ hành chính của vùng Primorsky Krai, nước Nga. Mặc dù tàn tích máy móc không hề hiếm gặp nhưng người đàn ông này bỗng thấy tò mò và đem mẫu vật tới cho các nhà phân tích địa phương.
Kết quả thử nghiệm cho thấy bánh răng này được làm từ nhôm tinh khiết và hoàn toàn do ai đó thiết kế ra. Ngoài ra, tuổi của nó lên đến 300 triệu tuổi. Trong khi đó, con người chỉ mới tìm ra cách phân tách nhôm nguyên chất từ năm 1825. Thật lạ khi chiếc bánh răng co thể là một phần của chiếc kính hiển vi hoặc một thiết bị kỹ thuật tinh vi nào đó.
Những bằng chứng tố cáo sự tồn tại của người ngoài hành tinh ở Trái Đất
2. Tượng đá khổng lồ ở Guatemala
Năm 1930, các nhà thám hiểm đã phát hiện một bức tượng sa thạch khổng lồ ở giữa khu rừng Guatemala. Khuôn mặt tượng đá không hề tương đồng với đặc điểm của người Mây hay bất kỳ dân tộc nào sống gần đó. Quan sát kỹ có thể thấy phần hộp sọ kéo dài và các đường nét chưa từng được ghi nhận trong cuốn sách lịch sử nào cả.
Họ đã tuyên bố bức tượng tạc hình một thành viên của nền văn minh ngoài hành tinh cổ đại tiên tiến hơn bất kỳ nền văn minh nào trước Tây Ban Nha và Mỹ. Một số suy đoán đây chỉ là một phần của công trình lớn hơn nằm phía dưới lòng đất. Tuy nhiên, cơ hội tìm hiểu về bức tượng này đã không còn nữa vì nó đã trở thành mục tiêu phá hủy của quân đội cách mạng sau đó.
3. Phích cắm điện hóa thạch
Những bằng chứng tố cáo sự tồn tại của người ngoài hành tinh ở Trái Đất
Năm 1998, một người leo núi tên John J. Williams phát hiện thấy một vật thể như bằng kim loại lồi ra khỏi mặt đá. Ông đào lên, làm sạch nó và nhận ra đó là một thiết bị rõ ràng nhân tạo, có phần giống một cái phích cắm điện hiện nay.
Phần đá trở thành bí ẩn nổi tiếng trong giới đam mê UFO. Nó được lên mặt báo Fortean Times và tạp chí UFO, đều là những trang thông tin uy tín về hiện tượng bí ẩn. Williams là một kỹ sư điện và ông chăc chắn đó là một chiếc phích cắm cổ đại bị cá lớp đá bao phủ xung quanh bảo quản tới ngày nay.
Phân tích địa chất cho thấy viên đá có tuổi thọ khoảng 100.000 năm tuổi và chiếc phích cắm không thể là sản phẩm lừa đảo do Williams dựng lên nhằm chuộc lợi.
4. Máy bay cổ đại
Những bằng chứng tố cáo sự tồn tại của người ngoài hành tinh ở Trái Đất
Người Inca và người thời tiền Columbo để lại cho con cháu những món trang sức vô cùng khó hiểu, một số được gọi là các máy bay cổ đại bằng vàng ròng với thiết kế chuẩn với máy bay phản lực hiện nay. Chúng là những mô hình hoàn hảo về khí động học, có đuôi và cả bộ phận hạ cánh. Người ta đã thiết kế lại một mô hình khác lớn hơn và cho bay thử nghiệm, kết quả là chúng đều có thể dễ dàng bay lượn như một chiếc phản lực thực thụ.
Như vậy có phải người Inca đã từng tiếp xúc với người ngoài hành tinh, được trao cho công nghệ xây dựng một máy bay phản lực tiên tiến. Những người cố chấp thì cho rằng đó chỉ là mô hình của một sinh vật bay, một con ong, con cá bay nào đó mà thôi.
5. Người thằn lằn Ubaid
Al Ubaid là một mỏ vàng cho ngành khảo cổ và sử học ở Iraq, nơi có nhiều cổ vật từ thời đại Ubaid khoảng 5900 – 4000 năm trước Công nguyên. Một trong số cổ vật có bức tượng giống khuôn mặt của một con người nhưng có nhiều nét tương đồng với loài thằn lằn. Đó có thể là một vị thần cổ đại đầu động vật như người Ai Cập vẫn thường tín ngưỡng.
  
Tất nhiên, bức tượng không nằm ngoài giả thiết một giống nòi ngoài Trái Đất mang hình dạng thằn lằn đã lang thang, can thiệp vào nền văn minh con người thời đó.
  
6. Tảo thiên thạch Srri Lanka
Các nhà nghiên cứu đã phân tích các phần còn lại của một thiên thạch rơi xuống Sri Lanka và tìm thấy một thứ còn quan trọng hơn cả mảnh thiên thạch đó. Một sinh vật ngoài hành tinh đúng theo nghĩa đen. Hai nghiên cứu độc lập đều tìm thấy các loại tảo rõ ràng có nguồn gốc ngoài Trái Đất.
  
Sự sống tồn tại khắp nơi trong vũ trụ và nó đi theo các thiên thạch gieo mầm sống xuống các hành tinh như Trái Đất. Tuy nhiên, sau đó dấu vết thiên thạch đã được cải biến lại rằng đây chỉ là một loài tảo được tìm thấy trên Trái Đất và dường như nó đã bị biến đổi trong thời gian sống trên hành tinh chúng ta trước khi chu du ra bên ngoài vũ trụ rồi lại quay trở về.
  
7. Tấm thảm Triumph’s Summer
Tấm thảm nổi tiếng ở Bruges, Bỉ được ra đời từ năm 1538 và hiện đang nằm trong viện bảo tàng quốc gia Bayerisches. Trên tấm thảm rõ ràng có in hình những vật thể bay giống như miêu tả của các UFO mà dù khó hiểu đi chăng nữa nó cũng đã là một họa tiết của Triumph’s Summer. Một số người tin rằng các UFO được thêm vào để tôn vinh sự cai trị của Thiên Chúa. Một câu hỏi đặt ra tại sao người Bỉ thế kỷ 16 lại có thể vẽ được chiếc đĩa bay và liên tưởng chúng tới đấng quyền năng?
  
Đây không phải tác phẩm nghệ thuật duy nhất về UFO của người xưa để lại. Có thể kể tên như: hình vẽ trên quan tài Pacal được vẽ lại khi ông trong con tàu vũ trụ cất cánh, tay đặt trên bảng điều khiển, chân ở trên bàn đạp và còn có cả ống thở oxy (Pacal đại đế cai trị người Maya suốt thế kỷ thứ 7) , bức tranh “Madonna và Thánh Giovannino” mô tả trinh nữ Maria và xuất hiện một người đàn ông bí ẩn đang mải mê ngắm nhìn một vật thể bay lơ lửng trên bầu trời phía sau Thánh Maria.
  
8. Hiện vật bí ẩn của của Maya
  
Năm 2012, chính phủ Mexico đã tiết lộ một hiện vật của người Maya mà họ đã bí mật cất giấu hơn 80 năm qua. Mảnh đá được khám phá từ một kim tự tháp chưa từng được tìm thấy ở bên dưới kim tự tháp Calakmul, một trong những thành phố Maya cổ đại hùng mạnh nhất.
  
Những hiện vật bị cho là lừa đảo và là sản phẩm của một nghệ nhân thủ công nào đó. Hai người đứng ra sản xuất bộ tài liệu về chúng là Raul Julia Levy (con trai nam diễn viên Raul Julia) và nàh tài chính Elisabeth Thieriot đều bị chính phủ xử phạt. Đằng sau sự thật của những hiện vật kỳ lạ vẫn còn là bí ẩn của chính phủ Mexico.
  
Theo NLD

Phần nhận xét hiển thị trên trang