Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Trung Quốc đã rệu nát từ bên trong


     
Một sinh hoạt tưởng niệm tại Bắc Kinh, nhân ngày Quốc khánh Trung Quốc thứ 64 hôm 01/10/2013.
Một sinh hoạt tưởng niệm tại Bắc Kinh, nhân ngày Quốc khánh Trung Quốc thứ 64 hôm 01/10/2013.
REUTERS/Jason Lee

Tú Anh          
Chế độ Trung Quốc không tránh được sụp đổ hay bị lật đổ . Trên đây phân tích của hai nhà trí thức  có uy tín tại Bắc Kinh nhân 64 năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa : một người là thư ký riêng của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương, một người là giáo sư đại học Bắc KinhTrung Quốc  dường như đang chiếm thế thượng phong trong mọi lãnh vực ngoại giao  đến  quân sự nhờ vào nền kinh tế được xếp vào hạng thứ hai trên thế giới. Tại thượng đỉnh APEC và ASEAN  trong hai ngày 07 và 08 tháng 10, chủ tịch Trung quốc Tập Cận Bình nổi bật như ngôi sao sáng  trong khi lãnh đạo siêu cường Hoa Kỳ, Barack Obama phải vắng mặt vì khủng hoảng  chính trị và  ngân sách.

Các nhà phân tích quốc tế không ngần ngại kết luận là chính sách « chuyển trục » sang Châu Á Thái Bình Dương của Mỹ gặp vấn đề và Trung Quốc với sức mạnh kinh tế, quân sự đang lên sẽ « lấp khoảng trống ».
Tuy nhiên đây không phải là nhận định của những nhà phân tích  dám suy nghĩ độc lập tại Hoa lục : xem vậy mà không phải  như vậy.
Công luận đã biết giải Nobel Hòa bình 2010 Lưu Hiểu Ba lãnh án 11 năm tù vì cùng với hơn 300 nhân sĩ (trong danh sách phổ biến đầu tiên) vào cuối năm 2008, công bố Hiến Chương 08 phân tích những nhược điểm của chế độ Trung Quốc và đề ra kế hoạch  dân chủ hóa gồm 19 điểm để cứu nước, cứu dân và cứu đảng cầm quyền.
Vào lúc Trung Quốc rầm rộ kỷ niệm 64 năm chế độ được mệnh danh là « Cộng Hòa Nhân Dân » thì nhà ly khai Bào Đồng, nguyên là thư ký riêng của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương, nhà lãnh đạo cải cách  bị cách chức vì chống biện pháp đàn áp phong trào Mùa Xuân Bắc Kinh năm 1989, khẳng định : Trung Quốc thực chất không phải là nền cộng hòa mà cũng không tôn trọng nhân dân.
Trong một bài phân tích dài  với tựa đề : « Trung Quốc ăn mừng 64 năm chế độ xây dựng trên sự áp bức nhân dân » được  phổ biến trên mạng của  Asia News.it, nhà ly khai nhận định một cách thẳng thừng : Hệ thống chính trị Trung Quốc mang bản chất trấn áp, bất công và tham nhũng. Từ khi  Trung Hoa được « giải phóng », quyền của công dân bị xem là « tà ngụy ». Dưới bảng hiệu  « chuyên chế vô sản » một hệ thống độc tài khác khai sinh : đảng Cộng sản tự cho mình có toàn quyền thống trị mọi lãnh vực xã hội, kinh khiếp hơn bất kỳ chế độ phong kiến hay độc tài cá nhân nào. Nhân dân « được giải phóng » phải tuân thủ mệnh lệnh của đảng Cộng sản.
Nếu trước năm 1949, những hành vi áp bức, bóc lột được xem là phi lý  thì sau ngày « giải phóng » hiện trượng thối nát đó được sống lại và được đảng tôn vinh : sau khi kích động bần cố nông tước đoạt tài sản của địa chủ thì tài sản khổng lồ này bị đảng tóm thu hết nhân danh hợp tác xã. Thực chất thì đất đai, công ty xí nghiệp được « biến hóa » thành tài sản riêng của  những người gọi là cách mạng và con cháu họ   dưới nhãn hiệu « tài sản xã hội chủ nghĩa » dù Mao không nói  đến « chia chác » như vậy.
Đó chính là lý do sâu xa mà bộ máy tuyên truyền lờ đi giai đoạn « cướp chính quyền » mà tập trung vào chuyện  bí ẩn « xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ».
Về niềm kiêu hãnh « nhờ Đảng mà Trung Quốc lên hàng cường quốc kinh tế thứ hai thế giới » thì ông Bào Đồng nhắc dân Trung Hoa hãy nhớ là trước năm 1949, Trung Quốc đã chiếm thứ hạng này, và phải mất 64 năm mới trở về thứ hạng cũ. Ông bình  luận một cách mỉa mai : Phải mất 64 năm học tập, người dân Trung Hoa  mới ngộ ra « sự thật »  là xứng đáng được những kẻ cầm quyền hiện nay lãnh đạo. Mà  « sự thật » trong chế độ này là do đảng quyết định.
Hệ quả là người dân Trung Hoa từ thế hệ này qua thế hệ khác phải chịu đựng  tệ nạn tham nhũng tràn lan, nạn ô nhiễm từ trên trên trời xuống lòng đất.
Đó là « mô hình » Trung Quốc được xây dựng  trong 64 năm qua. Trong khi đảng  cố gắng phô bày bộ mặt phấn son với quốc tế thì trong nội bộ, họ ý thức được các nhược điểm cốt lõi này với những lời « bôi nhọ lẫn nhau » hay biện minh là « cần học hỏi thêm ».
Để kết luận, nhà ly khai Bào Đồng khẳng định ông không có ý hạ nhục chế độ,  nhưng một cơ chế chính trị  không chấp nhận đối kháng là một cơ chế tiêu vong, trừ phi còn có những người có tinh thần can đảm cải cách nó.
Đây cũng là nhận định  của giáo sư Hạ Vệ Phương. Ông không phải là nhà ly khai hay đối lập mà là một chuyên gia luật  pháp của Đại học Bắc Kinh. Trả  lời phỏng vấn của nhật báo South China Morning Post, giáo sư Hạ Vệ Phương cho biết ông Tập Cận Bình đã làm giới trí thức thất vọng. Nếu không chấp nhận tự do báo chí và  tư pháp độc lập để trong sạch hóa guồng máy chính quyền, thì chế độ này, theo giáo sư Hạ Vệ Phương, sẽ bị cáo chung : « Khi dân chúng mất hết niềm hy vọng, khi không còn gì để mất, thì chỉ còn giải pháp sau cùng : nổi dậy làm cách mạng ».
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nước mắt cá sấu ( Đầu đề do chủ nhà đặt )

KHÔNG ĐỀ
(Cho lão CHÕE BÒ thức đêm)

Ngáp dọc rồi lại ngáp ngang
Ngáp miệng cá sấu, ngáp hang thuồng luồng
Ngáp tứa nước mắt ròng ròng
Ngáp lên phía bắc, ngáp vòng phía nam
Ngáp xéo lệch cả quai hàm
Ngáp gì mà ngáp dữ dằn thế nay (này).

Thôi chào lão Chõe làng Phây
Em không chịu nổi thì này đi ngu (ngủ)
Chúc lão phượt web vù vù
Tình Phây thỏa chí lu bù mà chem (chém).


bạn và rác




tặng Nguyễn Xuân Hoàng Freunde, es gibt keine Freunde!

Văn chương là một hình thức thông giao để con người tìm đến nhau. Cho nên nếu chỉ có một con người độc nhất sống trên hành tinh này, ắt không có văn chương. Kể từ khi nhân loại sống thành quần thể, dầu ở hoàn cảnh dã man nhất, con người đã có tiếng nói là khởi sinh của một hình thành văn chương. Nói với ai? viết cho ai? dường như viết hay nói, với không một ai?
Chưa hẳn! Khi hắn – tên nhà văn, dầu viết những độc thoại, lảm nhảm riêng mình, hắn vẫn đang nói với đối tượng – bạn đó.
Có nghĩa là, trong hoàn cảnh cùng cực nào đó, cũng có chiếc bóng, không phải hắn, nhưng bạn, những người hợp thành Hữu-ta-quy/für-uns-Sein [thuật ngữ triết học dùng ở đây là một khái niệm khá bao quát trong triết học và văn chương, mà hai nhà triết học Fichte và Nicolai Hartmann sử dụng trong học thuyết của họ: Fichte thì nói mọi sự là hữu ta quy; Hartmann thì luận về hữu tinh thần, như trong văn chương, đọc một bản văn cổ, nhận biết được tinh thần chứa trong nó, không phải ở tự tại của nó, mà chỉ hiện hữu nơi chúng ta, für uns sein (người đọc, người xem, người nghe); tôi thì dùng nó để nói đến tình bạn].
Tình bạn, dường như trên con đường tư tưởng, những người rắc rối nhất đã ngay từ thời cổ đại, triết gia Aristote, chẳng phải chỉ phân minh rạch ròi giữa tình cảm và chân lý khi nói có kính yêu Platon, song yêu chân lý hơn (Amicus Plato, sed magis amica veritas), nhưng trong câu nói tôi dẫn làm đề từ ở trên, mượn từ Nietzsche, rồi đến những người sau Nietzsche, đọc Nietzsche, theo Nietzsche như Derrida ở chương đầu tiên trong sách Chính trị của tình bạn dẫn lời này từ Montaigne gán cho Aristote: Hỡi các bạn tôi, không có bạn, nhưng Nietzsche đã lặp lại ở cuối tiết 376 sách mà ông gọi là viết cho những tinh thần tự do/phóng khoáng, rất ư là tự do/phóng khoáng , khi luận về bằng hữu, viết như cách ngôn: Và như vậy, hãy để chúng ta chịu đựng kẻ khác, như chúng ta có thể chịu đựng được chúng ta.
Đọc, chúng ta phải chịu đựng, làm quen, Foucault ca ngợi, dự báo người bạn triết lý của mình: một ngày kia, thế kỷ này có lẽ sẽ là của Deleuze. Đọc, họ đã viết về nhau trong tranh biện thân hữu, như những người trong nhóm Tel Quel về sau.
Có một quyển tiểu thuyết, dường như ít người để ý của Ngọc Giao, tác giả của Quán Gió, Cầu Sương, mang cái nhan đề bình dị Nhà Quê, nhưng thực sự là viết về sinh hoạt của bốn, năm người bạn văn chương với nhau, như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân…
Nguyễn Xuân Hoàng viết Kẻ Tà đạo trong những năm đầu 70 của thế kỷ trước. Không rõ người đọc có để ý những người bạn/nhân vật mang tên Phùng, tên Nhật, tên Tâm thường sinh hoạt, gặp nhau với nhân vật chính mang tên Thăng. Nhật là Nguyễn Nhật Duật, Tâm là Huỳnh Phan Anh còn mang dính cái nickname “khô khốc thiền sư”…
Trong cái thế giới, xã hội tao loạn, tha hóa đó, ai là kẻ tà đạo? Tà đạo thực sự là những païen, nhữngphilosophes païens/triết gia vô tín ngưỡng đã từ thời cổ đại, mà Alexandre Kojève (người lý giải Hegel) cất công viết dòng dã suốt ba tập sách về những triết gia tiền-Socrate…
Chúng tôi, những người ngồi với nhau giữa quán thành phố mang tên Cái Chùa/La Pagode, có người gọi “nơi ấy tụ họp các quần tinh lộng lẫy trong thế hệ văn chương khai phóng”, bên những ly cà phê, những tách trà nóng hổi sớm mai, nói chuyện văn chương. Phùng, Nhật, Tâm, Thăng, những gã từ những trường ốc đại học đào tạo, đầu óc thấm đẫm triết lý… Từng có nhà văn gọi, bọn ấy trong nhóm “tiểu thuyết mới”, cái tên nghe như từ miền trời tây phương xa lạ.
Đọc, không phải chỉ những nhà tiểu thuyết mới Pháp, những tên tuổi thường được nhắc trên những tạp ghi thời sự văn chương; đọc, những người đã ra đi hay còn sống đó trong thế giới của văn chương triết lý mà xem như nếu không có kiến thức chuyên môn, sẽ sa đà, bỡ ngỡ…
Viết, chúng tôi viết, để đọc được cái viết còn xa lạ, thách đố với bạo động, viết như không thể thiếu; vì nếu không viết, không thể đi vào cảnh giới riêng tư đó, không thể tuyên chiến thân hữu với khoảng không kia; viết để cảm nhận nỗi đau trần trụi, lạc thú tự do; viết để gìn giữ cái khả hữu của văn chương còn lại…
Để nói về Nguyễn Xuân Hoàng, phải gặp ở nơi không còn gì cùng cực hơn trong cảnh biển dâu thay đổi, để thấy văn chương trong khi đời sống đầy bất ổn, để thấy bạn ta vẫn lồng lộng viết, như thể cầm dao, cầm đá khắc lên chữ nghĩa.
Tôi chọn một đoạn văn của Hoàng, trích từ Bụi và Rác:
“Tôi đứng ngay giữa phòng, dưới ngọn đèn bóng vàng vọt, cầm trên tay một cây bút và một tờ giấy cũng vàng như ngọn đèn, như màu tường, như những tháng ngày tôi đang sống.
Tôi ngó lên trần nhà. Trần nhà thấp quá. Tôi đặt tờ giấy và cây bút xuống sàn gạch bóng. Tôi thọc hai tay vào túi quần. Tôi ngó xuống đôi dép dưới chân. Tôi không hiểu mình sẽ phải làm gì. Tôi không hề đợi chuyện sẽ xảy ra sáng hôm nay. Tôi không tìm ra lý lẽ để cắt nghĩa những diễn biến mà tôi đang phải đương đầu. Tôi khai gì? Tôi có gì mà khai?
Cả một thời phong kiến trước đây trong các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Bùi Hiển, Nam Cao…bây giờ đang sống lại một cách rực rỡ chưa từng thấy. Đời sống mới mẻ minh họa cho những trang tiểu thuyết của xã hội trước năm Bốn Mươi Lăm. Cai tổng, Lý trưởng, ông Cò, thầy Đội…tái sinh trong những bộ quần áo mới, ngôn ngữ mới.
Tôi xếp tờ giấy làm tư, đến bên cửa sổ, nhìn xuống. Cả ba người đàn bà vẫn còn đứng đó. Ba cái đầu không còn chụm vào nhau. Cả ba khôn mặt đều nhìn về một phía cánh cửa chính của đồn công an khu vực. Tôi đẩy tờ giấy qua kẽ lá sách. Tờ giấy mỏng chao lượn trong không làm trái tim tôi cũng chao lượn theo. Rất chậm, nó đáp xuống chân của bà chị dâu tôi. Đó là lúc cả ba cái đầu vừa chụm lại. Không ai nhìn thấy tờ giấy tôi vừa thả xuống. Một đỗi lâu, cả ba mái đầu mới rời ra. Quỳnh sửa thế, quả quyết bước thẳng. Bà chị dâu tôi và cháu Thùy theo sau. Tôi thấy chân bà chị dẫm lên tờ giấy của tôi. “Cả thế giới này bỏ quên tôi rồi”. Tôi nghĩ trong đầu như vậy.
Tôi thấy mình như một con thú bị cái bản năng chật chội hành hạ. “Bình tĩnh! Bình tĩnh!’ Tôi nhớ lại lời nói của giáo sư linh mục Alexis Cras ở Viện Đại học Đà lạt…
“Ông Cố Đạo”, Cha hay tự gọi mình như vậy, giảng triết học hiện sinh rất hay, nói chuyện Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng như một nhà phê bình văn học chính thống, đọc Truyện Kiều giọng Tây, bình thơ Đỗ Phủ, kê chuyện Esope theo một tác phẩm Con cáo và chùm nho của một kịch tác gia Nam Mỹ. Esope trong vở kịch là người nô lệ nhưng đồng thời cũng là một nhà ngụ ngôn. Theo Cha Cras, ngụ ngôn không phải là một câu chuyện bịa đặt. Ngụ ngôn là chân lý. Mà chân lý là mục tiêu duy nhất, chúng ta sống vì nó, chết cũng vì nó…Esope nói, “đối với tình yêu và đời sống ta còn trẻ quá, còn xanh non quá. Nhưng đối với tự do thì ta đã chín rồi. Vực thẳm mà các ông đã chọn sẵn cho người tự do ở đâu? Ở đâu? Ở đâu?”
Tôi không phải và không bao giờ là Esope. Tôi thấy mình hèn nhát. Tôi lo sợ. Một mình giữa bốn bức tường…Trời ơi, tôi hiểu ra rồi, cả một đất nước chúng ta đầy những Esope. Thời cổ Hy Lạp có một Esope, còn thời đại của chúng ta biết bao nhiêu là Esope. Tự do hay là chết! Không phải người ta bỏ nước ra đi vì muốn làm một cuộc phiêu lưu. Người ta phải ra đi vì người ta không thể ở lại. Đi hay là ở? Câu hỏi ấy là câu hỏi lớn nhất chiếm đầy đầu óc mọi người.”
Nếu người đọc Án xử, Lâu đài của Kafka, thấy nhân vật K. trong cái cùng cực phi lý của thế giới tha hóa, người đọc phải ngưỡng mộ cách tả cũng lạnh lẽo, dửng dưng ở đây, thấy nhân vật trong căn phòng giam của xã hội trở nên phạm tội này. Tôi gọi Nguyễn Xuân Hoàng là Kafka của Việt nam. Những năm học Triết đã làm Hoàng lớn hơn nhiều người viết ở ngoài ex cathedra…
Nhân vật Thăng nhìn vào đời, thấy toàn bụi và rác. Ứng xử trong cuộc sống, tôi coi những người không đáng nói đến, cho nên mới có bạn và rác nơi trần gian này. 
 
Đặng Phùng Quân
Phần nhận xét hiển thị trên trang

QUÁ TAM BA BẬN


            Truyện ngắn Hồng Giang

Lần thứ hai mình vào quán của em. Một cái quán nhỏ, sâu hun hút, ẩm thấp, độ âm so với gương đường.
Vốn dĩ nó là cửa hàng photo coppy không ăn khách, em thuê lại. Lòng quán hẹp chỉ kê duy nhất một dãy ba cái bàn gỗ ép, chân bàn bằng sắt uốn, có thể gấp lại được. Ban ngày khoảng trống ấy dùng làm chỗ ngủ, những hôm em không có việc gì, đi đâu đó..
Một gian xép làm chỗ đun nấu, chỉ nhóm bếp lò đun than vào lúc xâm xẩm tối.
Quán như thế, không thể bán hàng ăn buổi sáng, buổi trưa hay buổi chiều vì không chứa được bao nhiêu khách.
Dĩ nhiên rồi.
 Em chỉ bán về đêm, cho những khách cơ nhỡ dọc đường. Như mình chẳng hạn. Hoặc cánh lái xe, người đi chợ đêm ngoài thành phố. Đông nhất là đám con bạc, kẻ ăn sương ( chỉ có giời mới biết là họ đang làm những gì )!
Em có vẻ mừng khi thấy mình đỗ xe trước cửa:
- Cứ tưởng không có khi nào còn được gặp nữa.. Em đang mong anh đây!

Mình sướng. Một gã như mình vẫn có người mong chờ, ngóng đợi nữa hay sao?
Chả cứ mình, trừ những thằng ngu ra, ai chả sướng khi có người khác quan tâm đến mình, còn bảo là “đợi” nữa? Người “mong” ấy lại là một cô nàng có bề ngoài khả ái, nom “đường được” như thế này?
Nhưng không biết chuyện gì mà em mong?
Mình không phải đợi lâu. Em pha cho mình cốc trà chanh nóng, đúng như sở thích của mình. Còn cẩn thận đưa cho mình cái khăn lạnh lau mặt. Cử chỉ này khiến mình nhớ đến cô vợ lành hiền chất phác ở quê của mình. ( Tất nhiên về mặt nhan sắc, vợ mình chả ăn thua con mẹ gì với cô chủ quán này đây ). Nói thế cho vui. Vợ bao giờ chả “Năm bờ oăn”? Gái đời có xinh bằng mười, cũng không thể hơn vợ quê của mình được.
( Ngàn đời nay, truyền thống gia đình Việt “vẫn là”, “mãi là” thế mà! )
Bởi vì vợ ngoài chữ “tình”, còn hơn cái “nghĩa” ở đời với nhau. “Bồ hay đến mấy, mãi chỉ là bồ”.
Mình thề!

Em dạo khúc đầu:
- Thật là ngại quá! Mới quen biết mà nhờ anh chuyện này em thấy áy náy quá.. Nhưng vì gấp quá rồi, em cứ đánh bạo. Được thì được, không được thì thôi, anh đừng cười nhé?
- Gì mà cứ phải úp mở như thế?
- Còn một ngày nữa, em phải trả nốt số tiền cho người ta. Dạo này buôn bán ế ẩm quá, dự tính của em không thành công. Có hai triệu bạc mà khó như người ta cả trăm, cả tỷ.. Nếu anh có, cho em mượn tạm. Chỉ một tuần đổ lại em sẽ trả đầy đủ..
Không cần em nói, mình quá biết sự buôn sự bán hiện thời như thế nào. Buôn thua bán lỗ đâu chỉ mình em?
Hàng trăm siêu thị, nhà hàng trong nam ngoài bắc có ngày không bán được đồng tiền hàng nào. Khách ra vào chủ yếu để “xem” và “ngắm”.
Tiền bạc như có trí khôn, và rất kỹ tính, cứ tìm cách chui vào két sắt các đại gia, các ông to bà lớn, chả thèm để ý đến cái ví lép xẹp của dân nghèo, đến người buôn bán phọt phẹt, công chức quèn như tôi và em.
Bạc tiền ở một đất nước không thiếu. bởi quê hương nền tảng của nó là: “rừng vàng biển bạc, rẽ cá mới thấy nước” hết chiến, hết loạn rồi, “đang phới phới đi lên”. Bảo hết tiền hết gạo là cớ làm sao?
Em một thân một mình. Ăn tiêu đáng bao nhiêu, để mang công mắc nợ?

-  Em hận cái thằng chồng cũ của em nên cố mua cái xe này ( Em chỉ cái xe tay ga hình như mua lại vì không được mới cho lắm ). Hơn ba chục vé đấy anh ạ. Cứ nghĩ thiếu một tý, dành dụm trả dần.
Lần đầu tiên mình thấy có người hỏi vay tiền khách qua đường là mình như em!
Ít ra nó cũng phải “có quá trình”, “hình thành và phát triển”, cái gọi là tình củm một chút với nhau!
Chưa hề cầm tay, chưa hẹn hò, thề thốt, ai lại làm quả hỏi “vay đứng” như thế này?

Em bảo nếu không thể trả cả một lần, em sẽ trả làm mấy đợt.”mỗi đợt hai trăm”. Thật, mà lại không thật. Có chút gì ẩn ý, điêu điêu, kín hở ở trong?
Có lẽ là em hiểu sai mình. Mình đến không phải vì “chuyện ấy”, vì cách cho vay “kiểu ấy”! Nhưng dù sao thì vẫn ý tứ, tế nhị kín đáo hơn cách tiếp thị của kẻ chuyên nghiệp, không trắng trợn vì mới vào nghề.
Hai triệu bạc không phải số tiền to, nhưng cũng không nhỏ. Bằng cả tháng lương giáo viên tiểu học của đứa em dạy hợp đồng. Bằng cả vụ “nông nhàn” vất vả của chị gái anh ở quê. Và nữa, bằng bữa “ăn rượu” vô tư nhà hàng của bọn môi giới đủ hạng đãi nhau.. Bằng..và không bằng gì gì nữa? Chả cần quan tâm!
Rất may là mình có lý do chính đáng. “Đêm hôm nằm một mình ở chân cầu mang tiền theo làm gì?”
Em cười, tin là thật. Em biết thừa mình đang làm ở đội thi công cầu. Một cây cầu cách đây không xa. Cầu khởi công hơn ba năm rồi vẫn chưa xong. Không phải vì thiếu vật liệu. Vật liệu thời nay có thừa. Máy móc thiết bị cũng sẵn, chả thiếu thứ gì. Thời hội nhập, mở cửa ra với thế giới bên ngoài, máy móc thiết bị cần gì cũng có. Chỉ thiếu mỗi tiền..
Mà cũng chả giống ai. Cầu xây gần xong rồi, giải phóng mặt bằng vẫn chưa xong ở hai bên đầu cầu!
Đáng lẽ ra chuyện này phải “đi trước, đón đầu một bước”. Ban quản lý dự án “chơi theo kiểu du kích”, đánh tỉa. Tưởng đâu bớt được chút tiền đền bù.
Đâm ra thất cách.
Khi giải ngân lại mỗi nhà một giá, không làm đồng loạt, kẻ trước người sau. Người nhận sau lại đòi thêm một tý. Người sau nữa đòi lên một tý nữa..
Từ giá theo quy định chung, thành giá ảo.. Người dân vì vậy mà không nhận tiền đền bù, không biết đâu là giá “chuẩn”, đòi ngước mãi lên.. May mà chưa có kiện cáo nào xảy ra.

Chỉ tạm dừng công trình. Công ty tạm đưa người, máy móc, thiết bị làm công việc khác.
Giá như làm đồng loạt, sự thể đã không nên nỗi. Có phải “chiến thuật du kích”, cò con bất cứ lúc nào cũng áp dụng tốt được cả đâu?
Tiến độ thi công chậm, bên A “ách lại” không giải ngân!
Ông “Tổng”, ông “Giám” cong đít lên mà “chạy”, huy động nguồn vốn. Mà đồng tiền bấy giờ như có “tinh”, thấy chỗ mắc mớ, “có vấn đề”, vướng mắc một tý là nó liền thắt hầu bao lại. Trừ đi vay “sấp”, “tín dụng đen”. Nhưng đó là cái “lỗ đen” chết người. Các ông ấy còn do dự chưa dám “ vào chơi”.
Đã không ít nạn nhân chui vào cái lỗ này để rồi chả bao giờ có đường ra. Công ty chúng anh là không có dại, chả dám dây vào!

Để lại hai thằng anh ở lại trông nom thiết bị, với kho vật liệu đợi chờ.. Ăn vật, nằm vạ gần cả năm nay. Cứ như hai thằng tù lỏng, chỉ quanh quẩn hai bên đầu cầu, chả dám đi đâu xa.
Đến hàng của em như trường hợp này chỉ là việc hãn hữu.

Em có biết đâu lương bọn anh chậm cả hai tháng nay rồi, chưa nhận được đồng nào?

Vợ ở quê cứ liên chi hồ điệp gọi điện, nhắn tin. Nào là mua xe cho thằng anh lớn chuẩn bị đi làm. Nào là đóng học phí, tiền trọ cho con bé em đang học ở Hà Nội..
Từ lâu nhà nước đã “Xã hội hóa giáo dục và đào tạo”, quả bóng giáo dục đá hẳn sang sân ở phía người dân.
Sự học của con trẻ tất tần tật cha mẹ phải lo. Tiền đóng gạo góp như biết đường lên trời, mỗi ngày mỗi tăng!
Không như ngày xưa anh đi học chuyên nghiệp trung cấp. Tiền đã chả mất đồng nào, lại có thêm học bổng. Dù chỉ số ít, dưng mờ an tâm vô cùng em ạ!
Chỉ là tiền xà phòng đánh răng, tiền cơm hai bữa, nhưng mà đỡ khối. Không như bây giờ.
Ai chê thời bao cấp điểm nào thì chê. Chứ anh thì anh thấy thời ấy đi học khá thuận lợi, lại trong sáng, tử tế hơn bấy giờ nhiều. Còn được nhà nước quan tâm.
Giờ khó thế đấy, theo được thì theo. Mặc!
Vợ chồng anh bóp mồm bóp miệng gửi hầu hết số tiền kiếm được của mình cho con. Em đâu có biết chuyện này? Đừng nghĩ bọn anh ở “Đội công trình số 4” tiền như nước sông, “Đông như quân Nguyên” mà lầm, em ạ!
Kể ra thì cũng không phải. Phái yếu, đang kỳ cơ nhỡ như em mở lời mà không giúp được, cũng cảm thấy ngượng, và áy náy thế nào trong lòng. Nhưng con người ta có phải điều gì muốn cũng làm được cả đâu?
Đêm nằm lại nghĩ. Chắc là em nói đùa thế, chứ em chả đến nỗi nào, hoặc là thấy cảnh nhếch nhác của bọn anh muốn đuổi khéo. Sợ ghi sổ nợ, ảnh hưởng đến quán của em. ( Nếu đúng thế, hẳn là em không biết. Giai cấp công nhân chúng anh bao giờ cũng mẫu mực, làm gì có chuyện nhố nhăng, chằng bửa? )
Hoặc em nghĩ: Không có gì chấm dứt ngay được sự hiện diện của kẻ mình không thích dây dưa bằng cách hỏi vay tiền!
 Nhất là trong quan hệ của hai bên khác giới với nhau. Bảo “yêu”, bảo “mến” ư? Cứ thử hỏi vay tiền là biết ngay.
Cũng chẳng cứ quan hệ khác phái.
Ngay như bọn đực dựa với nhau, chơi bời, qua lại bao nhiêu năm giời.. Có lúc hứng lên nói như thể sẵn sàng cởi áo cho nhau mặc. Nhưng phép thử “Vay tiền” là biết hết!

Chung quy, bởi lòng tin giữa con người với con người. Hình như có điều gì đó không ổn. Đề cao lối sống vật chất, trọng tiền bạc đúng nó là khắc tinh của truyền thống tình nghĩa đời nay.
Mà đâu phải do khó khăn, bần hàn quá gây nên?
Dù sao so với ngày trước, có khó cũng một trời, một vực. Có còn ai phải thèm ăn thèm mặc đói rách quá thể nữa đâu?
Tinh thần và vật chất như con đường hai chiều, hai lối đi trái ngược hẳn với nhau. Đỡ va chạm thật, dưng mờ buồn, lỏng lẻo hết cả chân tay!
**
Lần đầu mình đến quán của em là bởi do sếp.
Nếu “Giám” không đưa tới mình cóc biết chỗ này là chỗ quái nào đâu? Một là không có “xiền”, hai là lo lắng công việc, chả dám đi đâu xa. Quanh quẩn ngày ngày bên hai chân cầu, sợ thằng nào vô phúc phá hoại, trộm cắp gì đó thì gay.
Công trình chưa hoàn thiện đã bàn giao được với “cơ quan chức năng” nào đâu? Trông coi chủ yếu vẫn hai thằng mình
Chín giờ tối “giám” đột xuất đến! Đây là kiểu kiểm tra bất ngờ chưa từng có trong lịch sử quản lý nhân viên công ti mình.
May, mình lúc ấy đang soi đèn “kiểm tra kho bãi”. “Giám” có vẻ hài lòng. Lão ấy nói:
- Tinh thần các cậu thế là tốt. Tớ chả mang theo gì. Bây giờ hai cậu lên xe, ra quán thích gì tớ đãi một chầu!
Lão để tài xế ở lại trông lán thay mình, tự tay lái xe. Hai thằng lộc ngộc lên xe. Bấy giờ mình mới để ý đến cái xe của lão. Không phải “con” bóng mượt, long lanh trước kia. ( “Con ấy” mấy tỷ kia chứ không ghẻ như con này! ). “Con” bây giờ như “xe bà già”, đời cũ lắm rồi. Có lẽ “giám” đã đổi xe để “xén” ra tý vốn?
Mình nghĩ thế nhưng không dám hỏi. Lão bực, điên lên chả hay gì vào lúc này. Người ta không nên gợi câu chuyện buồn những khi không phải lúc!
Dầu sao vẫn là đi “xế hộp”, không phải đi bộ là được rồi.
Mấy khi được sếp ưu ái, đãi ngộ như này?
Chả cứ công ty mình, chỗ quái nào cũng vậy. Phần nhiều nhân viên đãi sếp. Mấy khi sếp đãi nhân viên? Chả hóa ra là “đãi ngược” à? “Giám” đãi nhân viên như này là trời “để chân” ra ngoài!
Hiếm có lắm!
Thật là không may! Xe mới chạy được quãng, ạch ạch mấy cái rồi lịm hẳn. Thằng bảo vệ cùng cánh với mình có võ vẽ biết sửa xe một tý. Hắn vốn là lái xe đổi nghề. Mò mẫm mãi, hết cả pin điện thoại, cũng không biết nó là cái bệnh tội nợ gì?  Đành bó tay chấm than!

Sếp bảo cái tật của xe này chỉ tay lái xe nó biết. Thường vẫn xảy ra luôn. Chả biết tay ấy nó sờ sờ, mó mó thế nào lại chạy tốt?
Mình mới bảo:
- Thôi sếp cứ ngồi lên xe, bọn em đẩy về lán cho anh ấy sửa. Chả đi hôm này, đi hôm khác. Với lại bữa chiều bọn em vớ được con rắn ráo, thêm hai xị cũng khơ khớ rồi. Chẳng qua sếp bảo thì chúng em đi cùng cho vui thôi. “Điện” nạp đã đủ, sếp không phải lăn tăn!

Câu này mình thực tâm. Thỉnh thoảng mình với gã cùng làm “công tác bảo vệ” có kiếm thêm. Ở gần sông cũng phải biết “hưởng lợi” từ nguồn sông chứ? Cải thiện thêm “chất”, có sức khỏe để cống hiến lâu dài. Chiều nào cũng thả vài cái dọ tôm, nhờ tài lẻ từ hồi còn bé của mình, hôm nào cũng có đĩa tôm kho. Cứ đậu phụ mãi, nhạt miệng, chịu sao nổi?
Sếp không chịu. “Ai lại làm thế? Các cậu là công nhân viên nhà nước, với mình bình đẳng như nhau. Có phải quan hệ chủ tớ đâu để các cậu đẩy xe như thế? Phong kiến, lạc hậu bỏ mẹ!”
Câu này khiến mình rưng rưng cảm động. Mình nghĩ ra một cách:
- Hay là sếp cứ lên xe ngồi đây. Em chạy một lèo gọi lái xe ra?
Sếp không nói gì, nhìn quanh. Chợt thấy gần đó có ánh đèn, một quán ăn thì phải?
Ba thày trò đẩy xe đến trước cửa quán. Đúng ngay quán của em, mình đang kể trong câu chuyện này.
Quán nghèo, chả có gì vì em mới mở được nửa năm, chưa kịp “phát triển kinh doanh”. Mấy tháng trước còn có món chân gà nướng, nhưng giờ thì không.
Thiên hạ rỉ tai nhau, rồi truyền thông cũng đưa tin: “Chân gà nhập ngoại là thực phẩm không hợp vệ sinh, chứa nhiều độc tố của hóa chất bảo quản. Có khi đọng trong kho ba bốn năm mới sang đến nước mình”. Khách chê nên em cũng không nhập về nữa. Em bảo:
- Kể ra người mình cũng khôn các anh nhỉ?
Hỏi khôn làm sao?
- Không dùng thực phẩm bỏ đi, đầu thừa đuôi thẹo của nước ngoài kém phẩm chất. Ưu tiên dùng hàng Việt cho kinh tế Việt có cơ hội cạnh tranh với nước ngoài ngay sân nhà, mà lại an toàn thực phẩm. Em cho đó là giải pháp khôn ngoan!
Sếp không để ý đến lời em nói. Có lẽ mấy câu này ông nghe quen tai, nghe nhiều ở các hội nghị. Nhưng mình phục.
Tuổi em ý, lại quán khiêm tốn thế này, nghĩ được tầm “Vĩ mô” như thế không phải chủ quán nào cũng nghĩ được. Thậm chí chủ các nhà hàng to lớn, sang trọng chưa tất đã nghĩ ra. Chắc là em ấy có ăn học.Hoàn cảnh thế nào mới rẽ bước, sang ngang ?
Quả là mình đã đoán không sai?
Chuyện được một lúc, chợt sếp của mình nhớ ra chuyện từng quen biết chồng em thời gian đã lâu, đã từng ăn cơm với vợ chồng em tại tư gia!
Chủ khách không nhận ra nhau, vì sếp không ngờ gặp em trong tình cảnh này.
Chồng em cũng là “giám” của một công ty đã tuyên bố phá sản cuối năm ngoái. Không biết giờ đang lưu lạc nơi đâu?
Em không tin người ta nói chồng em đang làm thợ xây bên Lào. Ngôi biệt thự của hai vợ chồng hiện nhà nước đang thông báo bán thanh lý nhưng chưa có người mua. Em là kế toán trưởng của công ty giờ chuyển sang dịch vụ “bán hàng ăn đêm” cho khách qua đường.
Món nhậu đã sơ sài thì chớ, vì chỉ có trứng vịt lộn ăn với lá dăm, thêm câu chuyện buồn nữa, rượu như nhạt hẳn đi.
Mình chả có số đào hoa, gặp toàn chuyện buồn là chuyện buồn.
Và bây giờ là lần gặp thứ hai!
**
Ba tháng sau.
Mình hỏi tình hình cây cột cái bây giờ ra sao rồi? Em lặng im không nói. Mắt rơm rớm lệ, em tảng lờ như không nghe thấy. Mình hẫng, ai lại vô duyên hỏi em như thế? Mình có là cái gì của em đâu mà đi sâu vào đời tư người ta?
Định đứng dậy ra về. Lúc ấy em mới bảo:
- Hôm qua quán em không có khách. Nồi cháo gần như còn nguyên, buồn hết cả chân tay anh ạ! Cũng bởi tại em mua cái xe này. Nhà em về bảo mang đi để lấy phương tiện làm ăn, em không cho. Thế là sinh sự. Hắn bảo viết đơn ly dị. Em bực, ly dị thì ly dị, em cóc cần. Không ngờ hắn làm thật. Đơn đã gửi ra tòa rồi, chỉ chờ ngày tòa gọi.. Anh bảo em nên làm sao bây giờ?
Thì ra không phải em khinh mình. Tôn trọng, tin cậy là đằng khác! Sở dĩ không trả lời ngay câu mình hỏi là vì tâm trạng không được vui. Mình chả biết góp ý với em thế nào? Xui người ta làm phúc, ai giục người làm tội bao giờ? Chia rẽ vợ chồng người ta, các cụ ngày xưa bảo “sau này xuống âm phủ bị tội cưa đầu xẻ tai”. Là một cái tội không nhỏ. Nhưng bảo em cứ ràng buộc với người chồng không còn yêu thương mình như em kể liệu có nên? Mà mình biết nội tình hai người ra sao mà góp với chả ý? Nhỡ chỉ là quá bức xúc nhất thời mà xung đột, mình thêm dầu vào lửa là chuyện chẳng nên gì.
Mình nước đôi:
- Cái này phải là người trong cuộc mới tự quyết định được. Người ngoài dễ phiến, diện chủ quan lắm!
Em cười gượng:
- Anh nói cứ như nhà đài. Nói thế em còn hỏi anh làm gì?
- Thực ra em đâu có tiếc anh ấy? ( Em đổi cách gọi tên chồng, có lẽ để giữ ý ). Nhưng anh có biết bây giờ anh ấy thế nào không? Chán ở bên Lào chả mang được đồng nào về thì thôi chả nói làm gì. Vợ chồng với nhau không phải thấy lúc xa cơ nhỡ bước mà chia lìa. Thôi thì cùng nhau làm lại từ đầu, no đói có vợ có chồng, mãi rồi cũng qua..
Hai tay em cứ đan vào nhau, nói như thể với mình chứ không phải người khác nghe: “Người ta nói mưa to, gió lớn mới biết cây cứng mềm. Thiếu gì người lên voi xuống lợn cuối cùng cũng nên người? Đằng này vấp váp một tý hoang mang chán nản. Tệ nhất sinh ảo tưởng hoang đường. Phát mại tài sản còn một chút đầu tư vào chứng khoán. Em nói thực người Việt mình còn lâu mới chơi được trò ghê gớm, đáo để này. Đấy là cách mấy anh giàu non học làm sang, mấy anh nữa chết đuối mơ vớ được cọc!  Lại thêm máu mê đỏ đen cờ bạc, số đề. Anh ấy bảo “ Giẫm phải gai phải lấy gai mới nhỉ được, cần cù ăn dè hà tiện biết đến bao giờ trả hết công nợ?” Chịu, không thể hiểu cái  kiểu tính toán, kiểu hy vọng của anh ấy. Vay mượn chả thiếu đâu. Hết chỗ mới tính cái xe của em.
Em nói cái xe này là em mua chịu người ta trả dần. Không phải để làm sang, cốt lấy chân đi. Cốp xe rộng là nơi cất giấy tờ vài thứ quan trọng khác không biết để đâu. “Anh tính quán xá thế này, tủ ỷ chả có, những thứ ấy cất vào đâu? Đã không thương vợ thì chớ, đến nước này còn dồn thêm, em chịu làm sao được?”
Không nói mình cũng biết. Từ đây ra chợ cũng khá xa. Không có xe máy hàng ngày em đi chợ bằng gì?
Trông cái dáng người có vẻ quý bà của em, nếu không biết chuyện, ngay đến mình cũng không thể biết em đang khổ đến cỡ nào?

Chuyện khủng hoảng suy thoái đâu phải là chuyện bên Tây, bên Tầu? Nó ở ngay trước mũi mình. Chính bản thân mình cũng đang là nạn nhân của nó?
Tình hình lúng túng này rồi sẽ ra sao? Đã lâu mình mù tịt, chả có thông tin gì. Có mỗi hai “nhân” thằng mình, công ty chả bõ bố trí một cái ty vi. Báo chí cũng ù suông nốt.
Sống gần thành phố mà như chỗ không có con người, như trên cung trăng hay nơi hoang mạc..
Một kẻ như thế, không có tiền giúp cho em vay thì chớ, đến câu góp ý thỏa đáng trong trường hợp em cũng tịt luôn.
Có thằng mù nào chỉ dẫn được cho người sáng bao giờ không?
Quá tam ba bận. Đây là lần nữa đến quán em, toàn gặp những điều khó nói.
Đành âm thầm cầu chúc cho em chân cứng đá mềm, qua khỏi cái đận này!
Đừng trách nhau, mà tội nghiệp!

==========



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Có cái déo gì đâu? Để ồn ào mãi nhẩy?



Thôi, dẫu nghèo một tí
Đã thấm gì đâu em

Miễn đêm nào mình cũng
Vật nhau ra, vì thèm

Mặc sáng, ôm bụng đói
Hai đường, mình mưu sinh

Miễn cuối chiều, mình lại
Hẹn nhau, như người tình

Người tình về chợ cóc
Ghé một mớ cua đồng
Bâng khuâng lòng tự nhủ
Người yêu mình thích không?

Người tình về trên phố
Mua rô bốt siêu nhân
Làm đôi câu thơ cóc
Nịnh nhau, như bao lần

Thôi dẫu nghèo một tí
Cuộc đời có gì đâu

Đêm, hãy cười như thể
Ngày mai, ta sẽ giầu

Có cái đéo gì đâu!@ thơ của con DG bụng nhái.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dịch vụ "Chim phóng sinh"



Nhóm phóng viên tường trình từ VN 

    
034_1627039-305.jpg    
Một người đang phóng sinh chim tại một ngôi chùa ở Việt Nam trong ngày rằm.
             AFP photo
Những con chim tự do trên bầu trời, bỗng dưng một ngày nào đó, chúng bị sa vào bẫy, bị nhốt vào lồng, thi thoảng người ta tưới nước lên chúng, gọi là tắm cho mát, rồi sau đó mang đến trước cổng chùa để chờ một ai đó phát tâm từ bi mà mua đi phóng sanh. Những con chim nhỏ tội nghiệp này trở nên nhút nhát, khờ khạo và ngơ ngác khi được phóng sanh. Chúng không biết mình phải bay đi đâu và cũng không biết rằng để bị bắt và để được thả, đôi cánh nhỏ của chúng, sinh mạng của chúng phải chở cả giấc mộng áo cơm của nhân quần.
Chim tự chui vào lồng
Có thể nói rằng khắp các chùa Việt Nam, nơi nào có phóng sanh thì nơi đó có chim, cá, rùa… bị bắt mang về để phóng sanh. Đặc biệt, trước sân chùa Bà ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, cảnh mua bán chim phóng sanh diễn ra chộn rộn nhất. Cả môt sân chùa toàn mùi hương và mùi lông chim, phân chim bốc lên, không tài nào ngồi quá mươi phút ở đây.
Một người bán chim tên Hưng, là thành viên lâu nay của nhóm chim phóng sanh ở chùa Bà chia sẻ với chúng tôi là ông đã làm nhà, mua xe máy và nhiều thứ cần thiết trong gia đình nhờ vào chim phóng sanh. Và mỗi ngày, ông bán được từ 20 con đến 100 con chim ổ già, chim di. Tùy vào khách sộp hay khách bình dân, giá mỗi con chim dao động từ 5 ngàn đồng đến 25 ngàn đồng. Ngày nào ông cũng ngồi bán ở đây, một mình ông làm dịch vụ này lo cho cả gia đình, ông ngồi bán từ 7h sáng đến 6h chiều.
Chúng tôi lấy làm lạ vì nếu như một mình ông làm dịch vụ này thì lấy đâu ra thời gian để đi bẫy chim về bán và nếu như ông mua lại chim của người khác bẫy thì mua với giá bao nhiêu để có thể bán dao động từ 5 ngàn đồng đến 25 ngàn đồng mỗi con. Khi nghe chúng tôi đặt câu hỏi về vấn đề mình thắc mắc, có vẻ như ông Hưng không vui, ông nói lảng sang chuyện khác và tìm cách thoái thác, không nói chuyện với chúng tôi nữa. Chúng tôi tiếp tục trò chuyện với những người bán chim khác và được biết là mức lợi nhuận từ chim phóng sanh không phải là thấp nhờ vào bầy chim mồi của họ. Nhưng vẫn chưa giải quyết được thắc mắc.
Một người bẫy chim tên Hồ, đứng phía ngoài cổng chùa, bị nhóm bên trong loại khỏi cuộc, không cho vào bán, cho chúng tôi biết rằng ông đi bẫy gần một tuần mới được ngót nghét trăm con, bây giờ nếu bán cho quán nhậu thì chúng phải chết, mà ông thì nghèo quá, không đủ dũng khí để thả bầy chim, thôi thì tìm người có lòng từ tâm họ mua thả, được cả một công đôi chuyện. Nhưng đến đây gặp tình hình này, chắc là phải bán cho quán nhậu.
Ông Hồ lắc đầu chua chát, nói thêm rằng ông đã đứng ở cổng chùa cả buổi và ngộ ra một điều là thà tự tay ông phóng sanh hoặc bán cho quán nhậu để bầy chim được chết một lần, như vậy sẽ đỡ đau khổ cho chúng hơn. Ông Hồ tiết lộ thêm là tất cả những bầy chim phóng sanh ở chùa đều rất khờ khạo và bị nghiện một số chất, trong đó có cả thuốc phiện loại nhẹ. Bầy chim đã được cho ăn thức ăn khác thường, cho uống nước đường và bả thuốc phiện, chúng đâm ra nghiện loại thức uống này nên khi được thả ra khỏi lồng, cách gì chúng cũng tìm mùi của chiếc lồng để chui vào lại. Chính vì thế, mỗi bầy chim có thể được thả cả vài trăm lần trong một năm. Chuyện con người phóng sanh đối với chúng chỉ là chuyện thả ra khỏi lồng để đi tắm nắng gì đó rồi chúng lại quay vào lồng để được uống thức uống đã nghiện.
Lúc ông Hồ kể chuyện này, bên trong sân chùa, có một người đàn ông mập mạp, trán hói và ăn mặc sang trọng, có dáng dấp quan chức đang cầm chiếc lồng chim nâng ngang trán để cầu nguyện điều gì đó, chừng mươi phút, ông này mở cửa lồng và thả chim ra ngoài. Bầy chim được thả ra không vội bay đi, chúng túa ra khắp sân chùa đứng tắm nắng và lượm những hạt gạo trong đám gạo muối vãi cô hồn vương vất khắp sân.
Ai phóng sanh?

chim-phong-sanh-o-san-chua-ba-250.jpg  
Chim phóng sinh bày bán ở sân chùa Bà. RFA photo

Một Phật tử chia sẻ với chúng tôi: “Phóng sanh là tạo cho người ta một cái thiện tánh. Chứ thực ra nó cũng có cái hay và không hay. Hay là người họ bỏ tiền ra để chuộc sự sống của loài vật.
Không hay là người bán họ tội lỗi, họ cố bắt để bán lấy tiền cho người phóng sanh. Cho nên cái phóng sanh nó có lợi nếu như theo Đức Phật tức là bất khả tư nghì. Theo đạo Phật tức là làm mà đừng nghĩ đến nguyên nhân. Giống như Đức Phật đã dạy tam thực dục, không nghe, không thấy,không biết. Không nghe tiếng khóc, không nghe tiếng kêu, không nghe tiếng la. Không thấy tức là không thấy người ta giết. Không biết tức là không biết đồ vật đó là cái gì. Cho nên phóng sanh cũng vậy. Có người họ thấy con chim bị bắt, bị nhốt khổ quá, họ bỏ tiền ra mua rồi phóng sanh. Người này được phước. Nhưng người đi bắt thì rước cái tội về mình, sau này có những cái không hay với bản thân. Thường thường người phóng sanh đôi khi thấy con cá ở dưới ao nó mắc kẹt, người ta vớt con cá ra rồi đưa xuống sông thả lại. Như vậy thì cái phước lớn hơn và cũng không mang nghiệp như những người bán. Phóng sanh được cái là nó tạo từ Phước, tức là nó tạo cho con người cái từ tâm…”
Phần lớn những người đến phóng sinh ở chùa đều là người buôn bán và vợ các quan chức, thậm chí các quan chức đến chùa để phóng sinh, xin lộc cũng không phải ít. Chùa Bà vồn nổi tiếng là ngôi chùa linh thiêng trong việc vay lộc, hằng năm, nhất là dịp đầu năm, khách thập phương kéo về đây để mua một nhành hoa vào cúng bên trong chánh điện và cầu xin Bà ban cho lộc làm ăn. Sau khi cúng kính, khách lại rút một nhành hoa trong độc bình mang về, gọi là vay lộc Bà để làm ăn, năm sau sẽ quay trở lại để trả lộc năm cũ và tiếp tục vay lộc năm sau.
Trong dịp Tết, mỗi ngày có đến vài ngàn lượt khách đến chùa Bà để vay lộc. Thường, những người nghèo có niềm tin vào việc vay lộc rất sâu, họ thành kính mua hương đèn, hoa quả đến cúng và vay lộc, còn giới nhà giàu, quan chức thì chuộng việc phóng sanh, sau đó cúng lễ rình rang rồi mới vay lộc.
Một người tên Loan, bán chim phóng sanh lâu năm ở sân chùa Bà chia sẻ với chúng tôi rằng cô vẫn biết làm công việc của cô là trái với đạo lý luân thường, và nếu thật sự Bà linh thiêng thì Bà sẽ giận vì chuyện này. Nhưng cô vẫn hy vọng bề trên tha thứ cho cô vì cơm áo gạo tiền, đó cũng là cái lộc, cô chỉ nuôi một bầy chim, làm mồi, rồi nhờ vào lộc bà xui khiến, những quan chức và nhà giàu đến mua để thả.
Vì dù sao, theo như quan niệm của Loan, làm quan chức ở đất nước này, chẳng ông nào, bà nào mà không có tội, không mang một vết chàm nào đó trong linh hồn. Chính vì thề, việc cô bán bầy chim đã huấn luyện cho họ đến phóng sinh hằng ngày, suy cho cùng, đó cũng là liều thuốc chữa bệnh cho tâm hồn méo mó của giới nhà quan. Điều này chí ít cũng giúp họ hướng thiện đôi chút.
Và, suy cho cùng, điều cô Loan nói cũng có cái lý riêng của cô. Vấn đề là cái lý này như thế nào. Vì trong một đất nước có văn hóa, ít tham nhũng, tệ nạn quan liêu ít, thì cái lý của người dân cũng phát triển tỉ lệ, cũng là cái lý có văn hóa, có suy tư. Còn ở một đất nước nghèo nàn lạc hậu, tham nhũng, bất đạo, cái lý của người dân cũng dựa trên nền tảng bất đạo này mà phát triển.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Nhà Văn Đông La kể công xin tiền Tô Huy Rứa



Tâm sự của Đông La:

Ngay từ năm 1997, tôi đã viết bài phê bình ra tấm ra món đầu tiên trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội “đánh” Đỗ Minh Tuấn, làm rung rinh cả giới sĩ phu Bắc Hà khụng khiệng, chiếu trên chiếu dưới, và được trao tặng thưởng năm đó. Tôi  đã đến Văn nghệ Quân đội ở Lý Nam Đế và được chào đón như thượng khách. Ông Anh Ngọc nói vừa ăn vừa đọc bài của tôi hay quá làm rơi cả đũa; ông Nam Hà ôm lấy tôi: “Đông La đây à”! v.v… Một đời viết có được những khoảnh khắc đó quả là thú vị! Tiếp theo đó tôi đã gởi bài sang tận Đức đăng trên Talawas phê phán Bùi Tín, gởi sang Ba Lan đăng trên Đàn chim Việt phê phán Dương Thu Hương; gởi sang Mỹ đăng trên Giao điểm “đánh” Trần Mạnh Hảo. Như vậy cái chương trình “dư luận viên” mà ông Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội tuyên bố đã đi sau tôi rất nhiều. Thậm chí, khi Trần Mạnh Hảo hung hăng chống phá, báo chí chính thống im lặng, tôi đã từng viết thư gởi thẳng cho ông Tô Huy Rứa:

Còn chuyện bạn Hòa Bình e ngại là những bài viết giá trị của tôi liệu có đến được những nơi cần đến không? Tôi nghĩ là có vì đã có một lần một người bạn dự cuộc họp về báo chí của Ban Tư tưởng VHTƯ đã gởi cho tôi biên bản cuộc họp, trong đó có nhắc đến bài viết “Cuộc đối thoại ông chẳng bà chuộc” của tôi về chuyến Dương Thu Hương đi Mỹ:
Cái chính là sau khi đọc tôi cũng như những  ý kiến có giá trị của mọi người, những người có trọng trách cần phải làm gì? Như nhiều vấn đề tôi viết trong những truyện ngắn cách đây gần 30 năm nhưng vẫn còn nguyên đó, vẫn đang được bàn thảo sôi nổi trên nghị trường.

Tôi là một nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực, đã có những công trình được áp dụng vào thực tế và đã và sẽ in nhiều sách, vì vậy tư duy của tôi luôn mang tính khoa học, luôn logic và thống nhất. Tôi cũng luôn đứng cao hơn hoàn cảnh bản thân mình để viết vì cái chung, vì điều tối thượng là sự ổn định và phát triển của đất nước. Chỉ thế thôi!
TPHCM 25-3-2013

ĐÔNG LA (DongLaSG)




Nhân Đông La kể chuyện gặp các tên tuổi  trong làng bút ăn lương như Anh Ngọc, Nam Hà. Mình kể chuyện này.

Có lần mình ăn cháo lòng ở Nam Đồng, có hai ông già rất bình dân ngồi ăn bàn bên cứ ngắm mình. Lúc sau mình ăn xong trả tiền, chủ quán chỉ hai ông già nói các bác ấy trả tiền rồi.

Mình quay lại hỏi sao bác lại trả tiền cho cháu. Một ông cười hỏi. Cháu ở phường Hàng Buồm phải không.? Mình gật đầu vâng ạ. Ông già cười bảo. Thế thì bác phải trả cho mày nhiều nữa cũng chưa đủ, vì bác nợ mày, nợ gì bác chưa nói được. Giữ sức con nhé.


Phần nhận xét hiển thị trên trang