Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

CŨNG LÀ“LỠ BƯỚC SANG NGANG”?

MINH DIỆN

Vào ngày này 58 năm trước, 2-9-1955, tờ báo Trăm Hoa ra đời, đặt Tòa soạn tại 15 Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đó là tờ báo tư nhân hiếm hoi xuất bản vào đúng ngày Quốc khánh năm thứ 10 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do nhà giáo, nhà văn Nguyễn Mạnh Phác tức Trúc Đường làm chủ nhiệm, và nhà thơ Nguyễn Bính, em trai ông, làm chủ bút. Tờ Trăm Hoa chỉ tồn tại được hơn tám tháng, phát hành được 31 số báo, đến giữa tháng 5-1956 phải đình bản vì lỗ vốn và cũng do một sắc lệnh...Năm tháng sau, 20-10-1956, tờ Trăm Hoa tiếp tục xuất bản (hay còn gọi “Trăm hoa mới”), dời tòa soạn về 17 Lê Văn Hưu, do Nguyễn Bính làm chủ nhiệm và cũng là chủ bút. Nhưng Trăm Hoa này mệnh cỏn yểu hơn, chỉ ra được 16 số , đến đầu tháng 6-1957, Nguyễn Bính phải tuyên bố “làm đám ma cho báo Trăm Hoa”.
Hai tờ báo Trăm Hoa đều “Sớm nở tối tàn”, và nhà thơ Nguyễn Bính phải ngậm ngùi rời Hà Nội về Nam Định, nơi ông sinh ra, sống lay lắt mười năm, và ngày 9-2-1957, tức 30 tết Bính Ngọ ông qua đời khi vừa tròn 49 tuổi .

Kể từ ngày ấy, ngoài vài bài thơ đã dân gian hóa như “Lỡ bước sang ngang” , “Chân quê”, “Cô hàng xóm”..., tác phẩm của Nguyễn Bính hầu như chìm vào quên lãng. Tên tuổi tờ báo Trăm Hoa và tên tuổi nhà thơ ít người nhắc tới.
Đến giữa thập kỷ 80 thế kỷ trước, sau khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói cho văn nghệ sỹ” nhiều tác phẩm của Nguyễn Bính mới được xuất bản, đồng thời với những bài viết ca ngợi ông. Tuy nhiên các bài viết rất dè dặt khi nói về số phận của tờ báo Trăm Hoa và cái chết bi thương của nhà thơ Nguyễn Bính.

Những người rất thân ông, từng là nạn nhân trong vụ Nhân văn-Giai phẩm như Trần Lê Văn, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hoài Việt thì e ngại. Đọc “Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều” thấy nhà văn lão thành Tô Hoài nói lấp lửng, úp mở vài điều. Còn Chu Văn, thì tả chân dung Nguyễn Bính khá chi li và tỏ ra quý mến và ưu ái ông : “ Nguyễn Bính về Nam Hà, tuổi gần năm mươi, gầy , đen, tóc cắt ngắn gần như trọc. Anh ăn mặc thật giản dị: Một cái áo sơ mi màu nâu, một quần ka ki bạc màu, và đôi dép cao su. Toàn bộ hình thức ấy không gợi một vẻ gì một nhà thơ lớn trước đây - sau này người ta gọi là “thi nhân tiền chiến”. Anh cười đôi mắt nâu, sắc sảo, ánh hơi lạnh, và nụ cười khô, hàm răng ám khói thuốc lào” (nguồn Tuyển tập Nguyễn Bính , NXB Văn học,1986, trang 191)
Năm 2010 nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân có một bài viết khá công phu về tuần báo Trăm Hoa, qua đó giúp mọi người hiểu được phần nào nguyên nhân “sớm nở tối tàn” của báo Trăm Hoa và chuyện Nguyễn Bính phải ngậm ngùi rời Hà Nội về Nam Định, chết cô đơn giữa quê hương mình, nhưng trong bài đó, ông không nói về quãng đời phiêu lưu trước đó cùa nhà thơ.
Nhân dịp Quốc Khánh năm nay, tôi ra Phú Quốc, tình cờ thấy một tảng đá trong khu vườn Resort trên bờ biển khắc bài thơ (theo kiểu thư pháp) “Cánh buồm nâu” của Nguyễn Bính:
“Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...”
Người chủ Resort nói ông khắc bài thơ của Nguyễn Bính lên đá vì Nguyễn Bính đã từng đến Phú Quốc với nhà thơ Đông Hố trước cách mạng tháng Tám 1945. Không biết chi tiết đó có đúng không, nhưng quả thật đứng bên tảng đá thơ thơ ấy, nhìn biển hoàng hôn, một người chằng phải là nhà thơ như tôi cũng cảm thấy nao lòng. Tôi có cảm giác cánh buồm nâu kia như hình dáng nhà thơ Nguyễn Bính thấp thoáng trên biển hoàng hôn về nơi vô định, như số phận long đong của ông. Từ cảm xúc đó tôi ngồi trước máy vi tính viết về ông,như một kẻ ngoại đạo “múa rừu qua mắt thợ” là các nhà thơ .
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh ngày 13-2-1918, tức 3 tháng Giêng năm Mậu Ngọ, cầm tinh con ngựa, là con cụ Nguyễn Đạo Bình,một nhà nho ở thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Người cầm tinh con Ngựa, mạng Thiên Thượng Hỏa lại sinh vào tháng Dần, đầu mùa xuân, là người tài ba xuất chúng, tính cương trực, tự cao, thích phiêu lưu, công việc hay đổ vỡ vì nóng nảy, tình duyên trắc trở và số phận đắng cay! Có lẽ cái “lá số tử vi” ấy một phần nào đúng khi đối chiếu với cuộc đời cùa Nguyễn Bính.
Mẹ ông, bà Bủi Thị Miện (vợ ông Nguyễn Đạo Bình) sinh được ba người con là Nguyễn Mạnh Phác, Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính. Nguyễn Bính chưa được ba tháng tuổi thỉ bà Miện bị rắn độc cắn và mất khi mới 24 tuổi. Bà cả Giần chị gái bà Miện, phải bế cháu đi bú nhờ khắp làng :
“Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ!”
Sau này Nguyễn Bính đã viết hai câu thơ đó khi nghĩ về thân phận mồ côi của mình.
Ông Nguyễn Đạo Bình lấy vợ khác, ba anh em Nguyễn Bính được cậu ruột là Bùi Trình Khiêm mang về nuôi. Cụ Bùi Trình Khiêm vốn dòng tộc khoa bảng, bản tính nhân hậu, độ lượng và rất nghiêm cẩn gìn giữ nền nếp gia phong. Cụ có người con trai là nhà văn Bùi Hạnh Cẩn nên cũng hướng các cháu đi theo con đường văn nghiệp. Nguyễn Mạnh Phác học hết thành trung , đi dạy học, sau theo nghiệp văn, với bút danh Trúc Đường, Nguyễn Ngọc Thụ cũng có thời viết báo. Còn Nguyễn Bính là thần đồng thơ từ lúc còn nhỏ.
Năm 13 tuổi Nguyễn Bính đã đoạt giài nhất trong cuộc thi hát trống quân ở hội làng. Bài hát có đoạn:
Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người?
Chưa chồng mấy ả,em thời biết không
Đố ai đi khắp tây đông
Làm sao kiềm nổi tấm chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say
Như giăng mới mọc như cây mới trồng…
Nguyễn Mạnh Phác lên Hà Đông dạy học tư, đưa Nguyễn Bính theo, kèm cặp em , đặc biệt về văn học Pháp qua những tác phẩm của Victor Hugo, G.Mopasxang, Louis Aragon, Joachim du Belley,Jacques Brel... Nguyễn Bính từ đó gắn bó với anh trai cả về văn chương và cuộc sống. “Lỡ bước sang ngang” chính là bài thơ Nguyễn Bính viết về mối tình của anh trai với người Nguyễn Bính đã gọi là chị dâu, nhưng không thành, một mối tình đẹp như mơ đầy ngang trái:
“Hôm nay xác pháo đầy đường
Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng
Chuyến này chị bước sang ngang
Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây”
Nguyễn Bính trưởng thành sớm và thơ ông càng vượt lên trước tuổi. Năm 1932-1933, mới mười bốn, mười lăm tuổi, Nguyễn Bính đã theo bạn lên tận vùng Đồng Hỷ, Thái Nguyên, si tình như một người trưởng thành:
“Da trời ai nhuộm mà lam
Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai”
Hay:
“Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường thì xa
Mà cái thoi ngày như sắp tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?”
Năm 1937, mười chín tuổi , Nguyễn Bính đoạt giải khuyến khích thơ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, ba năm sau , bước vào tuổi hai hai, thơ ông nổi như cồn từ Bắc chí Nam.
Cũng như nhiều văn nghệ sỹ khác thời ấy, Nguyễn Bính muốn vào đàng trong tìm hồn thơ ở sông Hương, núi Ngự cố đô Huế. Nguyễn Mạnh Phác chiều lòng em, bán chiếc máy chụp ảnh là thứ rất quý giá bấy giờ,và về quê bán luôn những tảng đá xanh lát thềm nhà lấy tiền làm lộ phí cho Nguyễn Bính.
Từ Huế , Nguyễn Bính gửi thơ cho Nguyễn Mạnh Phác in báo, cũng là gửi tâm tư mình cho anh chị:
“Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió
Xuân này em chị vẫn tha hương
Vẫn ăn cái tết ngoài thiên hạ
Son sắt say hoài rượu bốn phương”
......
“Thời chưa gặp đỏ, nằm xuông mãi
Xuông cả ân tình rượu cũng xuông
Trước mặt bút nghiên , sầu tịch mịch
Quanh mình chăn chiếu rộn tang thương”
Năm 1943, Nguyễn Bính đi biệt vào miền Tây Nam Bộ , kết bạn vong niên với nhà thơ Đông Hồ và Kiên Giang.
Cuộc khởi tháng 8- 1945 thành công,rồi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Đông Hổ, Kiên Giang, Nguyễn Bính hòa vào dòng thác cách mạng do Hồ Chủ tịch đứng đầu.
Bấy giờ ở Sài Gòn chính phủ “Nam kỳ tự trị” của thủ tường Nguyễn Văn Thịnh treo giải cho người nào đưa được nhà thơ Nguyễn Bính dinh tê, sẽ thưởng 1000 đồng bạc Đông Dương. Nếu Nguyễn Bính tự vào thành cũng được thưởng món tiền đó, ngoài ra còn được bảo đảm cuộc sống sung túc. Một ngàn đồng Đông Dương lúc đó mua được xe hơi, nhả lẩu , bằng cả một cơ nghiệp. Có người viết thư khuyên Nguyễn Bính nên bỏ Việt Minh theo chính phủ Nam kỳ tự trị, sống sung sướng và tự do sáng tác. Tổ chức cách mạnh đâm nghi Nguyễn Bính “rẽ bước sang ngang”. Ông đã trả lời thẳng thắn bằng hai câu thơ :
“Mình không bỏ Sở sang Tề
Mình không là kẻ lỗi thề thì thôi!”
Thái độ dứt khoát ấy còn thể hiện bằng việc Nguyễn Bính gia nhập Vệ quốc đoàn. Tướng Trần Văn Trà và Nguyễn Văn Vịnh, những người rất thích thơ Nguyễn Bính, đã nói với Bảo Định Giang: “ Đối đãi đàng hoàng,chăm sóc chu đáo tác giả Lỡ bước sang ngang”. Cả bí thư khu ủy Lê Duẩn cũng quý mến Nguyễn Bính. Ông đã mai mối cho Nguyễn Bính lấy Nguyễn Hồng Châu, một cán bộ phụ nữ miền Nam xinh đẹp, và hai người đã sinh được người con gái đặt tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu.
Nguyễn Bính quấn khăn rằn, khoác súng trường, đeo nóp cùng những người lính chinh chiến từ rừng U Minh đất mũi miền Tây, đến Đồng Tháp Mười miền Đông . Ông chung võng, chung chăm, chung mảnh khăn rằn cùng người lính. Mổ hôi , nước mắt và máu của quân dân Nam Bộ hòa vào thơ ông , vừa đằm thắm nghĩa tình, vừa hào sảng , đẫm sắc thái phương Nam. Ông theo chân các chiến sỹ Tiểu đoàn cơ động 307, tham gia trận Mộc Hóa, La Bang và bài thơ “Tiểu đoàn 307”, ông sáng tác năm 1949, đăng trên báo Tổ Quốc , Khu 8, được nhạc sỹ Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng sống mãi cùng năm tháng:

“Ai đã từng đi qua sông Cửu Long giang
Cửu Long giang sóng trào nước soáy
Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn
Tiếng Tiểu đoản ba trăm lẻ bảy
Buổi xuất quân tiểu đoàn năm ấy
Cả tiểu đoàn thề dưới sao vàng
Người chiến sỹ tiếc gì máu rơi
Buổi xuất quân tiểu đoàn năm ấy
Nguyện một lòng giữ vững non sông...”
Năm 1954, Nguyễn Bình tập kết ra Bắc theo hiệp định Genève.Ông cũng như cán bộ chiến sỹ miền Nam tập kết đinh ninh rằng hai năm sẽ có hiệp thương thống nhất, nhưng rồi niềm tin ấy tắt ngấm. Cảnh “ngày Bắc , đêm Nam” day dứt, khắc khoải, rất sâu đậm trong bài thơ “ Gửi vợ miền Nam” của Nguyễn Bính:
“Thư một bức ngàn lời tâm huyết
Đêm canh dài thức viết cho em
Bồi hồi máu ứ trong tim
Chảy theo ngòi bút hiện lên thư này”
.....
“Ai chia cắt kẻ Nam người Bắc
Mảnh trăng tròn ai cắt làm đôi?
Ai làm máu đổ lệ rơi
Ai đang lấp ngõ, ai xui phá cầu?”
Nỗi khắc khoải dần nguôi ngoai,và Nguyễn Bính bị cuốn vào công cuộc xây dựng miền Bắc. Cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ bấy giờ, Nguyễn Bính đặt niềm tin vào chế độ mới, tiếng thơ của ông có vẻ gượng gạo giữa một “dàn tụng ca” nhuần nhuyễn của Tố Hữu, Huy Cân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên...
“Từng lớp người vĩ đại
Cuồn cuộn đi trong một biển cờ
Đi giữa lòng ngưỡng mộ
Đi giữa tiếng hoan hô
Những bước chân chiến thắng
Rầm rập vang rền nẻo cố đô
Người Hà Nội vỗ tay trào nước mắt
Ôi! Tám năm đằng đẵng mong chờ”
Và:
“Đường dài nghĩa nặng tình sâu
Ăn cơm Trung Quốc đi tàu Liên Xô”
Có lẽ Nguyễn Bính sẽ được ưu ái chả kém gì các nhà văn miền Nam tập kết như Nguyễn Văn Bổng, Bảo Định Giang, Đoàn Giỏi nếu ông cứ khai thác cái mạch thơ ấy, và nhất là đừng đụng chạm đến Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh . Nhưng với tính cách tự do phóng túng và kiêu kỳ khinh bạc của mình , Nguyễn Bính không chịu cúi luồn. Ông bỏ cơ quan nhà nước là Nhà xuất bản Văn Nghệ , ra làm báo tư nhân, để được viết, được đăng những gì mình muốn.
Tờ Trăm Hoa mới của Nguyễn Bính đã đánh thẳng vào cái thói cửa quyền, bè phái, sùng bái cá nhân, nịnh bợ trong giới văn nghệ, làm cho đời sống văn học bị độc tôn hóa , phiến diện hóa, ém nhẹm thông tin hóa, mà tiêu biểu là việc trao “Giải thưởng văn học 1954- 1955”. Giải thưởng văn học đó bị Nguyễn Bính cho là sai lầm nghiêm trọng, là một nỗi nhục, và ông đề nghị xét lại toàn bộ giải thưởng , cụ thể : Đưa tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu từ giải nhất xuống giải nhì , bỏ giải nhì tập thơ Ngôi Sao của Xuân Diệu đi, loại tập ca dao của Nguyễn Hiêm, tập Thơ chiến sỹ, tập bút ký “Nam bộ mến yêu”, kịch bản “ Việt ơi”, truyện ngắn” Cái lu” ra khỏi giải , đưa tập thơ “Chú Hai Neo” và tập thơ của Tú Mỡ từ giải nhì xuống giải khuyến khích, xét lại truyện “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc có nên để giải nhất hay đưa xuống giải nhì và đưa vào giải những tác phẩm có giá trị của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
Có lẽ chưa có bài viết nào cụ thể về tập thơ “Ngôi sao” của Xuân Diệu, bằng bài viết Nguyễn Bính . Thời bấy giờ, với cái dáng sừng sững như cây cổ thụ giữa rừng của Xuân Diện , mà Nguyễn Bính dám nói bốp chát như dao chém đá thì quả thật đáng phục. Ông Viết : “ Bản thảo tập thơ Ngôi Sao đã đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ xem. Toàn thể anh em văn nghệ công tác ở nhà xuất bản đều thấy là dở quá. (Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Bính...)không đồng ý cho in. Quyển đó cứ bỏ lay bỏ lắt 4-5 tháng. Nhưng cấp trên cứ dục in. Túng thế anh em đành lựa một số bài không đến nỗi tồi lắm đưa sang nhà in Quốc gia (lúc ấy còn coi cả việc phát hành sách báo)thì bên ấy cũng không chịu in. Vì lẽ “Thơ Xuân Diệu không có độc giả”. Xuân Diệu lại vận động mãi với cấp trên , sau bất đắc dĩ nhà in Quốc gia nể quá mới in 1.500 quyển. Khi in ra , tập Ngôi sao đã bị dư luận chỉ trích rất nhiều. Điều đó thiết tưởng thường vụ Hội Phải biết rõ hơn ai hết. Xin nói thêm rằng hồi cho in tập Ngôi sao, là hồi nhà xuất bản Văn nghệ cùng đóng chung một căn nhà với thường vụ Hội (51 Trần Hưng Đạo) , thường vụ Hội mặc dù có bưng tai bịt mắt đến đâu chăng nữa chắc cũng phải nghe dư luận ở những anh em cùng chung một nhà ở, cùng chung một bàn ăn, đối với tập Ngôi Sao. Vậy mà đến lúc chấm giải vẫn cứ để cho nó được giải. Mà lại giải nhì. Như thế thì hiền như bụt cũng phải thắc măc”
Nguyễn Bính vạch ra lý do tập thơ Ngôi Sao của Xuân Diệu được giải nhì vì: “ Ông Xuân Diệu trong Ban giám khảo đưa tác phẩm mình dự thi, tự chấm giải cho mình. Ông Huy Cận trong Ban giám khảo với Xuân Diệu là một. Ông Hoài Thanh trong Ban giám khảo lại là vụ trưởng vụ nghệ thuật là cấp dưới của ông thứ trưởng Huy Cận”
Nguyễn Bính phẫn nộ: “ Anh em không thể ngờ Ban giám khảo lại có thể khinh thường văn nghệ, khinh thường anh em và quần chúng đến mức ấy”
Chao ôi thế mà những bài thơ trong tập Ngôi Sao của Xuân Diệu xuất hiện nhan nhản trong sách giáo khoa thì có giết người không!
Về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu đoạt giải nhất, Nguyễn Bính táo tợn viết bằng giọng châm biếm rất sâu sắc: “ Khi bắt đầu đặt giải thưởng Văn học toàn quốc 1954-1955, anh em văn nghệ sỹ gặp nhau thường hay nói đùa một câu : Giải thưởng này cái gì thì không biết, chứ tập thơ Việt Bắc thì chém chết cũng được giải nhất rồi. Tất nhiên chúng ta đều hiểu rằng câu nói đó không phải là một câu tán dương. Anh em nhớ mãi cái cuộc tranh luận về quyển thơ Việt Bắc, chưa ngã ngũ ra sao, thì các ông lãnh đạo Hội đã vội vàng đưa ra mấy bài “bịt lỗ châu mai”lại. Anh em không thể nào quên cái câu ông Hoài Thanh phát biểu : “Địch nó không mong gì hơn là ta chê thơ Tố Hữu”. Ông Hoài Thanh đã mang cả địch ra mà bảo vệ cho thơ Tố Hữu . Cái lối nịnh trên nạt dưới ấy tất nhiên ông Hoài Thanh phải đem sử dụng vào việc chấm giải... Sở dĩ anh em biết trước thế nào tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu cũng đoạt giải nhất bởi anh em không còn lạ gì cái tệ sùng bái cá nhân của một số cá nhân lãnh đạo Hội Văn nghệ”
Cái tội Nguyễn Bính cả gan xúc phạm đến Tố Hữu, Hoài Thanh và anh em nhà Huy Cận, Xuân Diệu đã là tội tày đình. Nhưng người ta chưa đụng tới Nguyễn Bính,thậm chí còn muốn sử dụng ông làm một thứ vũ khí sắc bén để đánh nhóm Nhân Văn- Giai Phẩm.
Còn nhớ, khi tờ Trăm Hoa cũ của Nguyễn Mạnh Phác và Nguyễn Bính chỉ ra được 31 số rồi phải đình bản vì : “ Phải mua giấy giá cao hơn so với giá cung cấp dành cho các báo nhà nước và đoàn thể, các cơ sở phát hành lớn của hệ thống “hiệu sách nhân dân” không bán các báo tư nhân, ngoài ra còn một trở ngại đáng kể là cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương thường gây trở ngại cho phóng viên và người phát hành các báo tư nhân” nên lỗ vốn, hết tiền. Thì ngay lúc đó lại người giúp tiền cho Nguyễn Bính ra tờ Trăm Hoa mới. Người đó là ai?
Trong “Cát bụi chân ai”, Tô Hoải đã trả lời câu hỏi đó : “ Cấp trên đã có sáng kiến lấy giấy và tiền nhà của xuất bản Văn Nghệ dúp Trăm Hoa, và giao nhiêm vụ cho Tô Hoài thuyết phụ tờ báo tư nhân nhưng có tiếng nói chống những luận điệu ngang ngược của báo Nhân Văn giai phẩm”. Qủa là một đòn hiểm của các nhà lãnh đạo!
Kết quả theo nhận định của Tô Hoài : “ Tờ Trăm Hoa có một vẻ khác. Không về bè với Nhân văn giai phẩm, nhưng chẳng đi với ai. Cấp trên nhận xét từng số, từng bài, cho là chưa đủ hơi sức hỗ trợ cấn thiết”.
Tô Hoài đem nhận xét ấy bàn lại với Nguyễn Bính. Nguyễn Bính bảo Tô Hoài : “ Trăm Hoa thế mới là báo của Nguyễn Bính chứ. Nếu không thì mày làm quách cho xong”.
Cấp trên cùa Tô Hoài nhận ra đã đầu tư nhầm chỗ. Nguyễn Bính không ra đòn thẳng tay đánh Nhân Văn-Giai Phẩm, ngược còn bênh những văn nghệ sỹ bị nạn như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Quang Dũng, Hoàng Cầm , Thụy An...
Trên tờ Trăm Hoa số 4, ông đăng bài ký tên Lưu Thủy, có đoạn : “ Biết bao nhiêu bài thơ, chưa nói đến văn, dở òm và nhạt phèo của Xuân Diện, của Nguyễn Đình Thi, của Huy Cận ...vẫn được in một cách vô tội vạ. Trong khi một bông hoa của chị Thụy An bị vùi dập. Vì cái tinh thần bè phái đương nghự trị trong đầu một số ông phụ trách báo , sách văn nghệ và văn hóa đại chúng, và trên hết là cái tinh thần bè phái ở ngay trong cơ quan lãnh đạo Hội. Tất cả rắc rối ( hạn chế tài năng của cá nhân, kìm hãm tiến triển của phong trào, thiếu đoàn kết, gây phản ứng) do đó mà ra cả”
Về chính trị, Nguyễn Bính muốn : “ Đem những lời trung thực cùa ta để xây dựng chế đội ngày thêm tươi đẹp, chúng ta sẽ không bị câm ,và nhất định không bao giờ để phải bị câm!” Ông viết trên Trăm Hoa số 5 : “ Phải nói rằng một trong những nguyên nhân mắc phải sai lầm là mũi nhọn chuyên chính đã chĩa vào ta và bạn. Máu và nước mắt đã chảy dài trong cuộc chiến tranh cách mạng. Máu và nước mắt của một số người lại chảy trong cải cách ruộng đất. Nỗi đau khổ của một số đồng bào nông dân , của một số đảng viên bị xử trí oan không phải là không chính đáng”
Tưởng có thể biến Nguyễn Bính thành một lính xung kích, nào ngờ Nguyễn Bính ngang ngạnh như thế. Cấp trên của Tô Hoài quyết định ra đòn với Nguyễn Bính. Cái tội phỉ báng Tố Hữu, Xuân Diệu được cộng vào. Người chấm dứt sáng kiến tài trợ tiền , giấy cho Trăm Hoa và đày Nguyễn Bính về Nam Hà.
Một buổi tối,Nguyễn Bính cùng anh là Trúc Đường đặt một mâm rượu ở nhà hàng Lục Quốc , mời Tô Hoài tới dự. Nguyễn Bính nâng ly rượi lên, mắt ầng ậng nước, nói với Tô Hoài : “Hôm nay ăn cỗ đám ma Trăm Hoa!” ( Theo Cát bụi chân ai)
Nguyễn Bính về Ty văn hóa Nam Hà, nơi nhà văn đồng hương Chu Văn, làm Trường ty.
Năm 1986, khi viết lời bạt cho Tuyển tập Nguyễn Bính , Chu Văn ca ngợi nhà thơ đồng hương như một bậc thiên tài, và ông như cố nhân của Nguyễn Bính. Nhưng trong “ Chiều chiều” của Tô Hoài, thì Nguyễn Bính về Ty văn hóa Nam Hà trước sau chỉ là một nhân viên ngoài biên chế”. Trưởng ty Chu văn được giao đặc trách “ chăm sóc” Nguyễn Bính thì : “ Những ai đã công tác cùng Nguyễn Bính ở Ty văn hóa Nam Định có thể biết Chu Văn đã quần Nguyễn Bính như thế nào”.(nguồn Chiều chiều, trang 228)
Ông Chu Văn cư xử thế nảo chả cần phải nói hết ra, nhưng về cái chết của nhà thơ Nguyễn Bính, ông bảo có điềm báo trước. Ông kể : “ Cuối năm 1965 , nhằm kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, người mà Nguyễn Bính vốn coi như “ Tổ sư”của mình trong lĩnh vực làm thơ, báo Xuân Bính Ngọ ra số đặc biệt với nhiều bài thơ về Nguyễn Du. Hôm duyệt bài bào Tết, Nguyễn Bính cười thật tươi, tay cầm một xấp giấy mỏng, khoe : “ Chỉ trong một đêm , tôi đã viết được một bài tập Kiều, vịnh cụ Tiên Điền”. Nguyễn Bính không cho ai xem mà chờ đến lúc đông đủ anh em mới trịnh trọng giở những trang giấy được viết thật công phu, chữ đẹp như xếp, rồi hắng giọng ngân nga: “Kính tặng cụ Nguyễn Du và Truyện Kiều”:
Cào thơm lần giở trước đèn
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Mấy lời ký chú đinh ninh
Rằng tài nên trọng mà tình nên thương
Khen rằng giá đáng Trịnh Đường
Thì treo giải nhất , chi nhường cho ai
Gẫm câu người ấy, báu này
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Nặng vì chút nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Thương vui bởi tại lòng này
Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Tưởng người nên lại thấy người về đây...
Cả hội đồng duyệt bài số báo Tết hôm ấy , cùng lặng đi. Một bài tập Kiều thật hay. Nhưng nghe ra ... đây tuy đề tặng cụ Tiên Điền mà cứ như tâm sự cùa Nguyễn Bính , tổng kết cái cuộc đời thơ tài hoa long đong lận đận của mình”
Thực ra Nguyễn Bính chỉ là một nhân viên ngoài biến chế làm gì được nằm trong hội đồng duyệt báo Tết mà cười với chả tươi. Khi ông Chu Văn và những người lãnh đạo duyệt báo , thì Nguyễn Bính đang bệnh nặng, nằm co ro một mình trong căn phòng trống gió lùa hun hút. Ông cố gắng đạp xe về quê Đại Hoàng ăn tết với vợ con nhưng không nổi, phải rẽ vào nhà một người bạn ở Lý nhân, và chết ở đó.
Nhà văn Vũ Bão kể về cái chết đau lòng của nhà thơ Nguyễn Bính như sau: “ Khi làm báo Hà Nam, tôi và Nguyễn Bính có một người bạn chung là Đỗ Văn Hứa, người thôn Mạc Hạ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Anh này làm nghề bốc thuốc đông y nhưng cũng viết báo, làm thơ lấy bút hiệu là Tân Thanh. Đặc biệt anh rất yêu thơ Nguyễn Bính nên mỗi lần về Ty văn hóa Hà Nam họp , Tân Thanh lại khẩn khoản mời Nguyễn Bính về nhà mình chơi. Được cái cô Sang-vợ Tân Thanh-là người rất mến khách, mỗi lần chúng tôi về nhà, cô tiếp đón niềm nở.
Mùng 4 Tết, tôi mới được nghỉ, đạp xe đi thăm đây đó. Mười giờ sáng tôi tới nhà Tân Thanh, ở Mạc Hạ. Vừa nhìn thấy tôi dắt xe vào trong sân, cô Sang đã nói ngay: “ Bác Vũ ơi, bác Bính mất rồi! Tôi đứng sững lại: “Ai nói với cô?” Cô Sang nói tiếp: “Tuần trước , bác ấy đạp xe về nhà em. Trời trở gió, vừa vào tới nhà, bác ấy đã bảo nhà em đưa bác ấy đi bệnh viện. Thời may, bệnh viện huyện lại sơ tán ngay ở xã em. Bác ấy bị thổ ra máu. Nằm ở bệnh viện huyện ba ngày, sức khỏe hơi đỡ, lại về nhà em lấy xe đạp tính về Đại Hoàng ăn tết với vợ con. Hôm ấy đã là 29 Tết rồi. Thấy bác còn mệt, chúng em sợ bác không đủ sức về Đại Hoàng nên cố giữ bác lại ăn tết cùng chúng em. Sáng 30, nhà em sang chỗ hàng xóm chia thịt lợn mang về cái đùi và một ít lòng, tiết canh để hai anh em ăn cơm. Bác Bính bảo nhà em cứ ở nhà ăn với bác bát cơm cái đã. Nể bác nhà em ngồi nán lại ăn cơm. Bác Bính có thói quen ăn xong là đi rửa tay. Bác vắt khăn lên vai, lò dò bước xuống cầu ao. Bỗng chúng em nghe tiếng bác gọi “ Tân Thanh”. Nhà em chạy vội ra sân, thấy bác Bính đang gục xuống gốc mít, cạnh hố vôi. Nhà em xốc bác lên, tựa người bác vào ngực mình. Miệng bác đầy máu, bác thổ ra huyết. Nhà em chạy đi gọi anh Huê và anh Đáp, nhờ họ cáng bác lên bệnh viện. Y sỹ khám cho bác ấy xong mới cho nhà em biết bác ấy mất rồi. Nhà em ra Bưu điện gọi điện bào tin cho bác Trúc Đường và Ty văn hoa”
Đó là 30 Tết Bính Ngọ, nhằm ngày 9-2-1967, Nguyễn Bính vừa tròn 49 tuổi.
Nguyễn Bính làm thơ từ lúc thiếu thời, và trải hơn ba mươi năm theo nghiệp thơ. Ông sống hết mình cho thi ca, và thơ ông là âm thanh chau chuốt nhất được chắt lọc từ mảnh đất màu mỡ thấm đẫm chất dân ca vừa giản dị vừa đằm thắm lại vô cùng cao sang của làng quê Việt Nam. Ông yêu tự do như một chàng lãng tử, tâm hồn luôn bị ám ảnh vì lỡ bước sang ngang, số phận đen bạc như hai tờ báo Trăm Hoa sớm nở tối tàn mà nhà thơ Xuân Sách đã vẽ thành chân dung ông: “Hai lần lỡ bước sang ngang. Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi. Trăm hoa thân rã cánh rời. Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ!”.
Ôi, “Trăm hoa thân rã cánh ròi” – thăng trầm, biến trải, cám cảnh! Nhớ tới Nguyễn Bính năm xưa với ước vọng làm báo mà đành chịu thân phận èo uột của tờ Trăm Hoa (khó mà đua nở) với “hai lần lỡ bước sang ngang”. Lại nghĩ, làm báo thời nay sướng thật; nhà nước bao cấp cho cả nghìn tờ báo, đài phát thanh, truyền hình bằng nguồn “kinh phí khủng”, sống khỏe. Nếu bị lỗ ư? - Có ngay bù lỗ! Khó khăn gì ư? - Có Đảng, nhà nước lo! Viết gì ư? - Có chỉ đạo sát sao hàng tuần, hàng ngày, cả nội dung từng ván đề, vụ việc… 
Chỉ hiềm một nỗi, với công nghệ tinh xảo, hiện đại của thời @, bùng nổ thông tin toàn cầu, thế giới phẳng, nhưng các trang mạng xã hội vẫn không được quyền thoải mái hòa nhập cộng đồng, chịu cảnh phập phù đi tìm con đường “tự do ngôn luận”, quyền truy cập, trao đổi thông tin. Xem ra, nay không chỉ Trăm Hoa, mà nhờ sóng trời (mạng Internet) đã khai thông tầm giao lưu cho cả hàng Chục Triệu Hoa blog đang nở, thế mà không hiểu vì những lý do gì, người ta vẫn coi đó là điều lo ngại, coi như ‘thế lực thù địch’...Đã là thời đại nào mà người ta lại cảnh giác và sợ Internet đến thế? Họ còn, tìm mọi cách ‘xịt thuốc diệt cỏ’ vào những vườn hoa mạng xã hội đầy sắc hương mà chẳng càn đếm xỉa đến sự phát triển khoa học công nghệ cao, chẳng cần biết đến dân chủ, nhân quyền (!?). Chẳng lẽ thân phận mạng xã hội nay cũng là “lỡ bước sang ngang”? Dịp lế Quốc Khánh, lại nhớ câu trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo chế độ thực dân Pháp: “Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân…”. Có gì đau nhói trong lòng!
2-9-2013

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tất cả vì khát vọng Việt!

3 câu hỏi của ông Vương Trí Nhàn giúp giới trẻ tránh "vết xe gian dối"

Thứ năm 06/06/2013 07:52
(GDVN) – Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng để không dẫm vào "vết xe gian dối",  thế hệ người Việt trẻ nên chấp nhận sự thật, chấp nhận mình làm lại từ con số không. Thay vì vui mừng với tấm bằng đẹp nhờ gian dối các bạn trẻ nên làm lại bằng cách học thật, dám nhìn vào thực chất vấn đề, đặt ra câu hỏi cho riêng mình: Mình đã làm được gì? Mình đang làm gì? Và sẽ làm gì cho tương lai của chính mình…?
Phản hồi bài viết “Rất nhiều người Việt tham lam, vô cảm, hèn nhát…” của GS-NGND Nguyễn Lân Dũng, nhà nghiên cứu - phê bình văn học Vương Trí Nhàn cho rằng: “Không phải số ít người Việt như thế mà ngược lại nhiều là đằng khác, nó là đại đa số điều đó thể hiện trình độ sống của người Việt còn thấp lắm…”.

Căn nguyên từ Tham và Gian

- Ông từng nói người Việt chẳng có tính nào tốt, GS-NGND Nguyễn Lân Dũng chỉ ra 5 thói xấu, PGS.TS Trịnh Hòa Bình cũng nói đến tính sính ngoại hám danh của người Việt…Vậy theo ông “tử huyệt” trong căn tính người Việt là ở đâu?


NNC Vương Trí Nhàn: Tôi nghĩ rằng tất cả tính xấu người Việt, ở đây tôi muốn dùng người Việt vì theo tôi “số ít” người Việt như GS Nguyễn Lân Dũng có nói có lẽ là chưa đủ. Không phải là “số ít người Việt” đâu mà là rất nhiều, đại đa số là khác. Nhưng suy cho cùng cái xấu đó cũng bắt nguồn từ lòng tham và sự dối trá.

Nhà nghiên cứu, phê bình Văn học Vương Trí Nhàn

Người Việt càng giàu thì càng tham càng xấu hổ hơn khi người Việt chỉ tham những thứ tầm thường nhỏ mọn. Có những anh giàu “nứt đố đổ vách” nhưng vẫn tham con gà, quả trứng với anh em, xóm làng. Cái tham này tôi nghĩ không phải chỉ do cơ chế thị trường bây giờ mà nó là ung nhọt lâu rồi trước đây cứ nói đến cái tham của người Việt là hết thảy mọi người “nhảy cẫng” lên chối. Bây giờ thì từ sư tham, thầy tham, dân tham, quan tham…Ai cũng vơ vét cho mình.
Từ tham nên người Việt dối trá, muốn đạt được mục đích muốn thỏa mãn lòng tham thì người ta phải dối trá, lừa gạt nhau. Hai thói xấu đó nó có logic biện giải cho nhau trở thành thói xấu người Việt từ bao lâu nay. Để giải thích cho việc làm sai, giải thích cho thói xấu của mình người Việt thường quanh co bịa ra lý do để chống chế vì thế càng khiến sai lầm, thói xấu đó nhiễm sâu hơn vào đời sống người Việt.

- Nói như ông thì rõ ràng người Việt biết mình tham, biết mình dối trá nhưng sao không sửa?


NNC Vương Trí Nhàn: Đúng! Tôi nghĩ không cần tôi, GS Nguyễn Lân Dũng hay bất cứ ai nói ra nhưng người Việt thừa biết căn bệnh của mình là gì? Nhưng sao không sửa thì lại là câu chuyện đáng để nói. Tôi chỉ so sánh như cái anh bị bệnh gan, dạ dày biết chết nhưng vẫn cứ uống rượu theo kiểu biết chết nhưng vẫn lao vào. Chuyện tham lam và dối trá người Việt cũng như thế, mà như GS Nguyễn Lân Dũng cũng nói nó làm mất đi mối quan hệ xã hội đồng thời mất cả uy tín quốc tế, mất đi tình anh em. Hỏi rằng mối người Việt tham lam có biết điều này không, tôi là nghĩ biết nhưng họ vẫn làm vì cái suy nghĩ cái nhìn của người Việt ngắn chỉ phản ứng tức thì, biết trước mắt, hiện tại mà thôi.

Hơn nữa như tôi nói ở trên người Việt thường biện ra những lý do để giải thích cho cái sai của mình. Người ta đưa ra lý do nghèo để đi ăn trộm, đói để đi ăn cắp…hay tại vì thế này, tại thế kia nên tôi như thế… Mà ngay cả trong cách lý giải cũng thể hiện cái nhìn ngắn thiếu suy nghĩ bỏ qua luân thường đạo lý phép tắc xã hội.

- Nhiều nguyên nhân được đưa ra để lý giải cho cái tham và dối trá của người Việt trong đó nhấn mạnh vai trò của giáo dục. ông nghĩ sao về điều này?

NNC Vương Trí Nhàn: Tôi nghĩ học là cái ý thức cao của con người mà để giỏi không phải là ham học, hứng thú học như người ra hay nói mà quan trọng là biết học Giáo dục ta trước đến nay cứ mải theo cải cách, nâng cao chương trình học, đổi mới phương pháp…sách nhiều, trường lớp khang trang nhưng điều quan trọng là dạy cho con người làm sao để biết học thì lại thiếu.

Biết học ở đây là biết học có cả hai nghĩa là cách học và học cái gì, trước tiên phải dạy cho người ta cách học, học như thế nào để có kết quả tốt, để tiếp thu tốt. Nhưng theo tôi trước điều đó là phải giải bài toán học cái gì? Có câu “tiên học lễ - hậu học văn” hiểu đơn giản nghĩa là trước tiên phải học lễ nghĩa sau đó với học văn hóa. Nhưng lễ nghĩa học ở đâu? Đó là gia đình phải từ gia đình, tôi cho rằng gần như 100% vợ chồng trẻ bây giờ không có cho mình khái niệm thế nào là gia đình, vai trò của thành viên trong gia đình…Vì thế người ta làm sao biết dạy con thế nào.

Vì vậy tôi nghĩ giáo dục ở đây không chỉ là môi trường giáo dục văn hóa ở trường lớp mà nền tảng là phải từ các gia đình. 

Trình độ sống thấp

- Nói như vậy ông cho rằng người Việt xấu hoàn toàn là do giáo dục?

NNC Vương Trí Nhàn: Không hẳn như thế sâu xa cốt lõi vấn đề này tôi nghĩ rằng trình độ sống người Việt còn rất thấp. Tác động của  cơ chế thị trường, khi đồng tiền vật chất trở thành tiêu chuẩn để đánh giá con người cũng một phần tác động làm tính cách người Việt trở nên xấu hơn. Cũng chínhg trình độ sống thấp đó khiến cho sự tham lam, gian dối của người Việt trở nên hài hước chua cay.

- Ông có nói đến trình độ sống của người Việt thấp nhưng cụ thể là thấp ở đâu?

NNC Vương Trí Nhàn: Nói đến trình độ sống của người Việt thấp tôi muốn nói đến cách ứng xử, phản ứng hiện tượng xã hội của người Việt từ trước đến nay có cái gì đó nông nổi, không suy xét kỹ càng cứ lu loa cho to chuyện lúc đó sau lại thôi. Trình độ sống thấp còn thể hiện ngay trong việc cắt nghĩa những giá trị cuộc sống đơn giản như thế nào là một gia đình? Dạy con thế nào?...Tôi cược rằng bây giờ hầu hết ông bố bà mẹ trẻ không biết dạy con và dạy như thế nào, dạy gì cho con? Họ chỉ chăm chăm đi làm kiếm tiền rồi sau đó sắm sửa cái này, cái kia cho con.

Hay như chuyện một gia đình điều gì là quan trọng nhất? Nhiều người cũng không hiểu, cái ích kỷ của mình kiểu: “Ông ăn chả bà ăn nem”. Tôi thấy gia đình trước đây dù người vợ, người chồng có sai có lầm đường lạc lối nhưng người chồng người vợ kia vấn sẵn sàng tha thứ. Họ nín nhịn để trong ấm ngoài êm vì con để chúng có mái ấm gia đình.

Cũng chính trình độ sống thấp nên người Việt mất đi dây thần kinh xấu hổ, trong bài báo tôi đọc thấy GS Nguyễn Lân Dũng nói đến vấn nạn tiêu cực trong lực lượng cảnh sát giao thông bây giờ. Nó là câu chuyện nói đi nói lại nhiều lần nhưng vì trình độ sống thấp vì không còn dây thần kinh xấu hố, không còn sự sĩ diện liêm sỉ nên người ta cư xử như vậy.

- Vậy làm sao để chữa “căn bệnh” nan y này, thưa ông?

NNC Vương Trí Nhàn: Đã là trình độ sống thì không dễ để thay đổi và cần nhiều yếu tố theo sự phát triển chung của đất nước. Để chữa “căn bệnh” không dễ và trước hết xuất phát từ gia đình, cái xã hội thu nhỏ đầu tiên. Nếu đứa trẻ sinh ra mà thấy bố mẹ chúng sẵn sầng tham lam, dối trá thì liệu chúng sẽ đi về đâu? Tôi nghĩ rằng giờ gần 100% bố mẹ khi thấy con quay cóp bài trên lớp, gian dối thi cử cũng chỉ cười nói: “Chúng mày quy cóp thế nào cho nó khéo”. Như thế vô hình chung chúng ta đã đồng tình cho sự gian dối.

Vì vậy như tôi từng nói hiện giờ tôi chưa có phương thuốc nào đặc trị căn bệnh này, tất cả chỉ làm “căn bệnh” này thuyên giảm.

- Có thể thực tế đúng như ông nói, vậy theo ông trước thực trạng gian dối có hệ thống như vậy thế hệ trẻ cần làm gì để không dẫm vào “vết xe” đó?
NNC Vương Trí Nhàn: Tôi nghĩ nên chấp nhận sự thật, chấp nhận mình làm lại từ con số không như chuyện quay cóp trong thi cử, học giả bằng thật chẳng hạn... Thay vì vui mừng với tấm bằng đẹp nhờ gian dối các bạn trẻ nên làm lại bằng cách học thật dám nhìn vào thực chất vấn đề đặt ra câu hỏi cho riêng mình, đặt ra câu hỏi mình đã làm được gì? Mình đang làm gì? Và sẽ làm gì cho tương lai của chính mình…? Hơn hết theo tôi các bạn trẻ bây giờ nên cố gắng sống thật không ảo tưởng mơ mộng, nên tự lập đi bằng đôi chân của mình.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện văn nghệ HN nghe ở Mockba

Nguyên Ngọc kể:- Buổi gặp anh em, ông Linh còn nói nhiều câu cay đắng lắm. Ví dụ bảo: "Tôi cũng là người bị nạn, tôi hiểu anh em". Sau này loại câu như thế người ta phải cắt đi.
- Nhưng mà chưa chắc làm thế đã tốt đâu. Cởi trói cho văn nghệ lúc này, mà những điều kiện khác (kinh tế, xã hội) chưa có, thì cũng không được việc gì. Bọn xấu bị đánh động nó cụm lại phản công cho mà xem. Ông Tố Hữu đã mỉa mai Trần Độ, à, các anh bây giờ được cởi trói rồi phải không!

- Nguyễn Đình Thi nói gì ở hội nghị? Thi bảo, tôi tha thiết đề nghị các anh đừng phát động quần chúng. Phát động quần chúng thì những người không có tài năng sẽ nổi lên, diệt hết người có tài.
… Cái ông Thi này căn bản rất ích kỷ. Ông ta có yêu ai bao giờ đâu. Một tay bẻ hết mấy cành phù dung. Ông ta diệt tạp chí chuyên về văn học nước ngoài rồi, lại còn sẵn sàng diệt trường Nguyễn Du nữa ấy chứ. Bây giờ chung quanh toàn những Kim Lân, Thợ Rèn thì còn được việc gì.
- Đọc báo chí Hà Nội đủ thấy chưa đâu vào đâu cả. Mà cấp trên thì đã ghét lắm rồi. Ông Nguyễn Đức Tâm rêu rao trên tờ Lao động: “Đây, báo đăng bài của tên Lê Dụng(?) một tên về hưu (trước là thứ trưởng Bộ Công An) đặt vấn đề công tác tổ chức…” Rồi cả Bộ chính trị chửi bới, chỉ trừ có ông Linh là không nói gì, sau lại đỡ hộ. Trong TW, ông Linh cô độc lắm. Hôm gặp văn nghệ sĩ, mấy anh em nhà mình cứ một giọng xin TW bảo chúng tôi, bảo chúng tôi. Thế là ông Linh đỏ mặt lên "Hãy tự cởi trói mình trước khi trời cứu". Tức nói đến Trung ương là nói đến chỗ rất đau của ông.
Với bài ông Linh, coi như Đại hội Nhà văn đã xong. Giờ chỉ còn minh hoạ. Và làm công tác tổ chức.

Nhàn: Các anh chuẩn bị đón họ phản công.
Nguyên Ngọc: Đúng. Khải nó bảo bây giờ Bộ Chính trị ông nào cũng dính với một vụ rồi, thì còn làm sao mà giẫy ra được nữa.

Tôi (VTN) hay nghĩ cái được nhất của những cuộc họp này là nói rõ rằng văn nghệ của ta rất nghèo.
Lạ thật là cái võ của các ông trên. Một mặt, các ông ấy chê bai mình cấm đoán mình. Mặt khác, ông ấy lại bảo ta có một nền văn nghệ xuất sắc. Thế thì còn biết đằng nào mà lần. Trói xong lại bảo đố mày bay lên – hồi chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã mấy lần nói với tôi cái câu ấy, lần nào nói xong cũng cười khà khà sung sướng.

Nguyên Ngọc kể tiếp:
- Chính ông Trần Độ là do ông Linh đưa trở lại. Vì ông Linh với ông ấy quen nhau từ hồi ở trong rừng. Bây giờ ông ấy vẫn bảo tự do về kinh tế thì có tôi(Nguyễn Văn Linh), tự do về văn hoá thì có anh (Trần Độ).
Ông Độ nghĩ ra được nhiều việc cụ thể lắm. Ví dụ, ông ta đề nghị sẽ có nghị quyết của Ban bí thư về các vụ án văn nghệ trước đây.
Ông Khải bây giờ đã trả sao, trả mũ, chuyển sang sinh hoạt ở Hội nhà văn. Ông ấy vẫn đận đà không muốn ra Hà Nội. Nguyên Ngọc bảo ông phải ra, tôi không làm hộ đâu.

Nguyên Ngọc trở về báo Văn nghệ như thế nào?
Một lần nói chuyện, Nguyễn Minh Châu có ý giá trao tờ báo cho Nguyên Ngọc thì hay nhất.
May đâu, gặp dịp Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu lên gặp Trần Độ. Nhân Trần Độ bảo: “Các anh phải củng cố tờ báo Văn nghệ cho tốt" ông Nguyễn Đình Thi buột mồm "Hay là anh Ngọc trở lại báo.”
Ông Độ khôn lắm, không nói gì. Lúc tiễn ông Thi và Chính Hữu ra cửa, ông ấy mới bảo các anh nhớ bàn ý kiến về báo Văn nghệ, như ý anh Thi vừa nói.
Nguyễn Đình Thi biết hố rồi, về, tính lại. Triệu tập các ông trong ban thư ký có mặt ở Hà Nội. Thống nhất đồng ý để Ng Ngọc về. Rồi gọi vào cho Chế Lan Viên và Anh Đức, chờ ý kiến cuối cùng.

Về sau, họp thường vụ, Anh Đức mặt tím bầm (ai đó bảo: mặt như cô hồn), đứng lên nói:
- Tôi biết thừa bụng các anh rồi. Chính các anh cũng không muốn anh Ngọc về, nhưng các anh lại đẩy việc quyết định cho chúng tôi để đằng nào cũng được việc, mà tôi với anh Chế Lan Viên lại mang tiếng ác. Nhưng tôi với anh Chế Lan Viên bàn nhau rồi, chúng tôi đồng ý, cho các anh biết mặt. 
Đấy, Anh Đức là cái loại trắng trợn đến thế kia chứ, Nguyên Ngọc nói thêm. Anh em nó vẫn bảo Anh Đức ít chất Nam bộ hơn ai hết.

Còn ông Chế Lan Viên, cũng lạ lắm. Khi tôi về báo Văn nghệ, vẫn là Nguyên Ngọc kể, tôi đã viết thư cho nhiều người, mời viết cho báo. Trong đó có Hà Xuân Trường (ông Trường trả lời nói là bận, không viết được) và có Chế Lan Viên. Nhưng bọn thằng Duy đại diện Văn Nghệ ở Sài Gòn nó không thích Chế Lan Viên, nên nó cứ kệ đấy. Ông Chế Lan Viên lên Sài Gòn tìm thư thì nhận trong thùng thư, chứ chúng nó không chuyển.
Ông Chế trả lời: “Nhận được thư Nguyên Ngọc, mình với Thường mừng lắm, giá thư thất lạc có phải sinh chuyện không". 
Rồi ông ta góp ý kiến với báo nhiều điều rất cụ thể. 
Hôm Nguyên Ngọc vào Sài Gòn, cùng với Nguyễn Duy, Ý Nhi đến chỗ Chế Lan Viên chơi. Chế Lan Viên cảm động ra mặt.
Chế Lan Viên bây giờ luôn luôn nói:
- Khen Trung Quốc không ai bằng tôi mà chửi Trung Quốc cũng không ai bằng. 
--Tôi theo Đảng, Đảng sai tôi sai, Đảng đúng tôi đúng!
Tôi nghĩ, vẫn lời Nguyên Ngọc nói, thế thì ai cần anh nữa.
Nói chung, Nguyên Ngọc nhận xét Chế Lan Viên giỏi biến báo lắm, mà cả ông Trần Độ cũng nhận xét vậy.
Gặp Trần Độ ở Sài Gòn, Chế Lan Viên nhận ngay tôi là người giáo dở. Tôi ủng hộ Đào Vũ về báo Văn nghệ, nhưng tôi không trao quyền cho hắn làm tổng biên tập, mà chỉ làm quyền thôi, thế là giáo dở chứ gì. Tôi với Nguyên Ngọc giận nhau, nay tôi lại ủng hộ anh ấy về thay.

- Thế theo anh, Chế Lan Viên là người thế nào?
- Chính ông ta là người rất nhát, nên ông ta phải đánh mình tàn tệ thế, để một là khỏi mang tiếng liên quan, hai là chính ông ta cũng không có đằng nào mà rút nữa.
- Thế còn Nguyễn Khải?
- Nguyễn Khải lại là chuyện khác. Chuyện năm 1979, mình chả nghĩ làm gì, chứ vợ mình nó giận lắm. Một lần, Tâm nó gặp ông Khải ở đường, nó nói mát: "Anh Khải lâu không thấy sang nhà", Khải nó là người thông minh, nó biết. "Tôi là thằng phản bội, còn dám vác mặt đi đâu nữa". "Thế anh đã đọc Xốt nhi cốp chưa?". Khải chưa đọc, nhưng cũng đoán ra đấy là cuốn sách viết về thằng phản bội, nói loanh quanh rồi chuồn. 

Nói chung Khải là người quá nhạy, cứ nghe cánh Nguyễn Đình Thi doạ cho mấy câu, thế là lại dao động, Nguyên Ngọc lại phải lên dây cót thêm v.v.. 
Tôi nghĩ, ông Khải không hết mình trong mọi chuyện, một phần vì bỏ việc tổ chức còn sáng tác, chứ Nguyên Ngọc ngoài việc ấy ra, chả có việc gì khác!

30-11 
Gặp Hồ Ngọc bên sân khấu.
Hồ Ngọc kể hôm gặp ông Linh, anh em mình nói nhiều chỗ hố lắm. Ông Tô Hoài, ông Huy Cận thì lẩm cẩm rồi. Có buổi, tôi ngồi gần chỗ Trần Độ, nghe Huy Cận đến tỉa tót: “Anh Trần Độ, anh đừng quên tôi đấy nhớ". Ôi, nhà thơ Lửa thiêng gì mà khốn nạn thế !
Sau này bọn điện ảnh và các ngành nó bảo bọn văn học nó nói như bố ấy, còn chúng mình nói như trẻ con. 
Có một việc là trong giờ nghỉ, ông Trần Độ có hội ý với ông Linh. Xong, ông Trần Độ nói chúng tôi vừa thống nhất là sẽ cho chiếu phim Hà Nội dưới mắt ai
Thế là về sau ông Hải Ninh nghệ sĩ nhân dân cũng lên than thở đề nghị xét lại vụ Bãi biển đời người của ông ta. Anh em nó trêu: Bãi biển đầy ruồi
Rồi bà Xuân Thanh lên khóc lóc nói rằng cháu không được lên lương, cháu không được đi học v.v.
Chả ra làm sao cả.
Cũng có một chuyện vui nữa. Dương Thu Hương lên phát biểu, nói khá rõ về vai trò người trí thức. 
Nhưng đặc biệt nhất là đoạn cuối, Hương nó nêu có những người hôm qua vừa bị đánh thì nhăn nhó, kêu khóc, mà lúc được dùng lại thì sung sương rên lên, nói rằng mình như hạt bụi.
Hạt bụi gì, cuốn theo chiều gió à?
Kể ra, như thế là nói Nguyễn Đình Thi sát sạt rồi. 
Ông Thi có khôn hồn thì im đi, vì thật ra, trong hội nghị cũng chỉ một phần ba người ta biết cái câu hạt bụi ông nói ở đại hội nhà văn lần trước. Thế cho nên, Nguyễn Khải ngồi cạnh Nguyễn Đình Thi đã phải giật giật Nguyễn Đình Thi mấy lần, ngăn ông ta lại.
Nhưng Nguyễn Đình Thi cứ lên. Nói là cấp trên đừng phát động quần chúng, rồi nói là chúng ta cũng có thành tựu của chúng ta chứ, những Con trâu, Vùng mỏ hồi nào.
Rõ là ấm đầu. 
Đến đoạn cuối, Nguyễn Đình Thi lại quay về chuyện Dương Thu Hương vừa nêu. Tôi có nói trí thức là hạt bụi. Đấy là tôi muốn chống lại tôn giáo. Tôn giáo bảo con người chỉ là hạt bụi. Nhưng chúng ta là hạt bụi có tư tưởng. Anh em cười ồ cả lên, đến con người cũng chả có tư tưởng, nữa là hạt bụi.
Sau chuyện đó, uy tín của ông Thi càng giảm sút.

Còn như tôi, Hồ Ngọc, nói thế nào? Tôi chuẩn bị kỹ lắm. Tôi dẫn Lê - nin, tôi dẫn Mác đầy đủ. Khi không có tự do, thì con người ta trở nên ti tiện -- Mác nói vậy, và chỉ tôi mới lôi ra được thôi.
Tôi thấy có những anh em mình nói còn trật lắm. Anh Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng văn nghệ rất khó nắm bắt. Như thế là rơi vào bất khả tri rồi. Hoặc Lưu Quang Vũ nói rằng các ông tuyên huấn không nghe được gì cả, nói thế cũng là quá. 
Tôi nghĩ phải tìm được một giải pháp vừa phải.Chuyện tôi cho là quan trọng nhất - chúng ta phải biết quý tài năng. Tôi bảo biết quý tài năng là biểu hiện của nhân dân văn hoá, đất nước văn minh. Không biết quý tài năng thì thôi, chịu. Và tôi đọc ra mấy câu thơ anh em nó sáng tác "Xưa kia đất nước rã rời-- cho nên nghệ sĩ coi trời bằng vung - Ngày nay đất nước anh hùng - cho nên nghệ sĩ coi vung bằng trời “ 
Anh em nó bảo tôi bạo.
Nguyễn Kiên ra cười nhoẻn với tôi: "Không phải tôi coi vung bằng trời, mà cái góc vung đã bằng trời". Nói được như thế là anh em quý rồi.
Sau buổi phát biểu ở đấy, tôi thấy anh Nguyễn Khải, anh Nguyên Ngọc cảm tình với tôi hơn. Tôi cũng thấy cánh mình phải chạy đi chạy lại với nhau, không thể đứng rời ra được. Ông Trần Độ, ông Hạnh cũng coi tôi là một người có thể tin cẩn được, vẫn gọi tôi lên luôn! Tôi bảo các ông đừng can thiệp quá sâu vào mọi chuyện như ông Hà Xuân Trường. Kệ cho anh em nó làm là tự nhiên được.

Quyển sách mới của Dương Thu Hương không phải hay, nó viết nhiều chỗ cẩu thả, phô, nhưng nó có tâm huyết của nó. Còn chửi thì ghê lắm. Đã có người đọc trệch đi Chuyện tình kể trước lúc rạng mông cơ mà. Tôi góp ý kiến với Dương Thu Hương đủ thứ. Hôm nọ, ngồi có cả Nguyễn Khải, tôi mới bảo này, lần sau, cô đừng đăng những bài thơ như bài tuyên ngôn trên Văn nghệ vừa rồi nữa nhé. Cũ lắm. Nguyễn Khải bảo tôi cũng nghĩ, nhưng không dám nói.
Hôm gặp ông Linh, giới sân khấu cũng nhảm. Mẹ Thành chúa cơ hội thì lúc nào cũng mời mọc “cái này để mời anh Linh đi xem ạ!” Giờ nghỉ, thấy ông Linh ra, Hồ Ngọc phải tránh đi, nhưng cả bọn Lưu Quang Vũ, Hoàng Quân Tạo cùng xô đến... Vũ dám làm tất cả các việc mà Vũ vẫn chế giễu. Trong vở Chết cho điều chưa có cũng lại có “những việc cần làm ngay”, có “đồng chí NVL”.
Tôi nghĩ đến Vũ những ngày chống Mỹ. Tưởng là khác rồi, nhưng đâu có khác!

Ông Vũ Tú Nam kể Nguyễn Phan Hách bảo sướng quá, bây giờ cởi ra gỡ ra rồi, tha hồ viết.
Nguyễn Kiên: Viết khó hơn bao giờ hết chứ. Xưa muối hiếm kiếm được một hạt cũng quý. Nay cả làng người ta có muối rồi. Có biết tra không, hay có nồi canh, lại làm hỏng.

2/12
Nguyễn Quân kể:
- Hôm gặp ông Linh, tôi bảo các anh không đốt sách tôi, không xé tranh tôi, thế là được rồi. Còn nếu các anh làm vậy, tôi chỉ trách nhà tôi vô phúc. Và làm với nhiều người, thì cả nước vô phúc.
- Đất nước gì mà tri thức gặp vua còn kêu đói, kêu không có tất, thì ra cái thá gì nữa. Ông Nguyễn Đình Thi dẫn đủ thứ Hy La ra, bảo rằng người ta có thể tin vào cái sai, nhưng nếu tin thì vẫn có thể thành công trong văn nghệ - Solokhov tin vào Stalin, vẫn cóSông đông êm đềm. Thế thì còn nói sao được nữa! Khả năng tiếp cận chân lý của anh ở đâu.
Ông Mạnh với mấy ông bảo khi bị khinh bỉ, thì con người ta ti tiện đi. Nhưng có đúng thế không? Sao người trí thức lại để mình bị ti tiện đi được.
Sở dĩ nước ta không ra gì, vì trí thức nước ta không tạo được bi kịch lớn. Chứ cứ như ở Nga này, lúc nào gần nửa trí thức nó cũng ngồi tù, thì làm sao nó không lớn được.
Một người như Trần Dần biết điều đó đấy. Gặp tôi về việc đứa con, ông ấy chỉ bảo thôi đừng bới mọi chuyện ra làm gì, có gì đáng bới. Thế là biết đấy.

À, lại nói chuyện gặp ông Linh, ông Tào Mạt cũng mang những ý rất cũ ra rao giảng. Tôi phải bảo bây giờ không phải thời văn nghệ sĩ dâng Sách bình Ngô, cũng không phải thời làm hề. Anh hãy quan niệm văn nghệ như một nghề, đấy mới là điều cần thiết.
Bố Tào Mạt cứ dạy cả nước làm vua, thì còn ra cái lý cố gì nữa!

Nói chung, tôi hay có lối trả lời khiến các lão rất ngại. Như ông Thanh lại có lần đến bảo: Bây giờ mình sắp về hưu, hôm nào mình đến cậu bảo mình vài vấn đề cơ bản của nghệ thuật, có gì cần, làm cố vấn cho các anh. Tôi mới bảo, sao lại thế được? Mười năm nay em giảng cho anh, anh không hiểu thì một hai buổi hiểu sao nổi. Mà tuổi của anh thì không học được rồi, giá anh cứ thi vào khoa tại chức trường em, chắc em cũng đánh trượt anh thôi.
Lại có nhiều ông phê phán tôi phá hoại nền mỹ thuật nước nhà.
Tôi mới bảo ngay nền mỹ thuật nước nhà không yếu đến mức một mình tôi phá được đâu. Còn như sau tôi, người ta không thể vẽ như anh Cẩn trước đây, đấy lại là chuyện khác.


7/12 
Quân lại nói về lần gặp ông Linh:
- Mọi người thường nói là mong trên thông cảm. Không thể có chuyện như thế, chúng ta không nên đặt ra câu hỏi cũ, rồi tìm cả câu trả lời mới. Vấn đề bây giờ, là đặt ra những câu hỏi mới. Ví dụ nên có luật làm sao để các thành uỷ, tỉnh uỷ không can thiệp vào công việc của các nhà hát hay đoàn kịch. Chứ còn có người duyệt, thì tức là có lúc thông cảm lúc không thông cảm,rồi có bao giờ ra sao.
- Tôi còn đề nghị thêm một điểm. Là cấm người viết phê bình nói nhân danh Đảng. Muốn gì thì muốn, phải nhân danh cá nhân. Sai đúng bàn sau.
- Chính ông Trần Độ cũng phải công nhận là ở nước ta, người biết cứ đi hỏi người không biết. Hội đồng nghệ thuật thông qua rồi, lại còn đi hỏi Bộ trưởng. Trần Độ vốn ghét Văn Phác nên bảo vậy.
Cũng như bác ấy, bác biết sao được về mỹ thuật bằng cháu, mà cháu vẫn phải hỏi bác —Ng Quân nói lại Trần Độ.
- Cái tội của nước mình, là dạy cho dân triết học, mà bắt trí thức học lễ, trong khi, suy cho cùng, chỉ trí thức mới cần triết học, còn dân chỉ cần học lễ - lễ theo nghĩa rộng, nghĩa là phép cư xử.

Trà: Quân có cái thánh thiện của nó. Nó hiểu được âm nhạc, tôn giáo.
Nhàn: Tôi thấy ông Quân có cái vô tư của người bên ngoài nhìn vào, không có những cái rác, cái bọt bẩn mà do sống quá lâu trong giới, mình cũng bị nhiễm.

27/12
Một người bạn cũ, kể chuyện Hà Nội - Sài Gòn.
          -  Sau khi  Phan Ngọc cho in  Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều , Cao Xuân Hạo bảo “Đọc xong quyển này, thấy người tài nhất là ông Phan Ngọc, thứ hai là Đảng ta, thứ ba mới đến Nguyễn Du.”
- Ông Hạnh phó ban hiện nay, cũng rầu lắm. Hôm họp ở Ban văn hoá văn nghệ thấy mặc cái quần có miếng vá, trông khá khốn khổ. Lại còn cãi nhau tay đôi với tay Hoài Lam nữa ( HL giáo sư mỹ học, ông Hạnh xưa cùng học với hắn). Mình phải bảo anh đừng làm thế mà chết. Ông Hạnh phải “tháo chốt ngay”.

Ở Sài Gòn, loại như ông Trần Bạch Đằng, cũng rất muốn chân TTKHội những người viết văn thành phố. Trên bàn, rồi vẫn chọn ông Sáng (ông Anh Đức tự nguyện nhường vì nhắm vào trung ương). Trần Bạch Đằng ngồi nhà Anh Đức, từ 7g sáng, tới 2 giờ chiều, chỉ đay đi đay lại một câu: Anh là nghệ sĩ còn tôi là chính khách, tôi phải có chức vụ.
Ông Đằng cực đoan đến mức ông Nguyễn Văn Linh, ông Võ Văn Kiệt cũng phải sợ, không dám dùng.

Quanh cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, nhiều người bảo tất nhiên Sử định buôn to. Nhưng loại như Tố Hữu thì không, lão không ơn huệ ai đâu. Thậm chí lão còn muốn nói là nhờ tôi mà anh trở nên nổi tiếng nữa, vậy anh phải cám ơn tôi mới đúng.
Chứ cám ơn anh thì tôi cũng là tầm thường như mọi người hay sao ?

Nước mình, ai người ta cũng bảo kỳ vừa rồi, đau nhất ông Tố Hữu. Đoàn Giỏi tới thăm về, kể lúc nghe tin, Tố Hữu lạnh cả sống lưng. Ngay Lê Đức Thọ cũng bất ngờ, vì việc đại hội không tín nhiệm Tố Hữu.
Phan Hồng Giang và Từ Sơn đến nhà TH chơi. Nghe đồn Phan Hồng Giang có nói với Tố Hữu một câu:” Chỉ tiếc là nay không có chú, tức là Trung ương mất đi những người trí thức có suy nghĩ...” Thế là Tố Hữu bưng mặt khóc (?!)
Hoài Thanh xưa nay vẫn bảo, văn nghệ nước ta, được Tố Hữu phụ trách còn là khá!

Những chuyện khác.
Ông Lê Đình Kỵ hồi trước khá đứng đắn. Nghe nói khi thơ Trường Chinh ra, có người bảo Lê Đình Kỵ phê bình đi, Kỵ bảo có phải thơ đâu mà phê bình. 
Sau có người mách rằng câu ấy đã đến tai Đặng Xuân Kỳ, con Trường Chinh. Thế là Lê Đình Kỵ sợ lắm, phải viết bài, phát trên đài, in báo. Trước đó, nhờ Bảo Định Giang đọc hộ. Bảo Định Giang chỉ bảo anh trích sai nhiều quá.
- Ôi, quan trường là chuyện ghê gớm không ai lường nổi. Ông Trần Độ đại hội lần trước có chân Uỷ viên trung ương, mà không bố trí công tác đã buồn lắm, toàn đi chơi với bọn Trần Quốc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến. Nghe nói (có anh kể) có lần Trần Độ phải đến khóc với Trường Chinh cơ mà. Mỗi lần đại hội, lo đến đái ra máu chứ. Vì có thể công lao từ trước đến nay mất hết.
... Chính trị nó lạ lắm. Ông Nguyễn Văn Linh có lần hô Lê Duẩn muôn năm, lại có lần bảo ý kiến của anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) là thế này, thế này. Khen hết lời ! Ông Nguyễn Văn Linh chỉ ghét ông Tố Hữu. Nghe nói vụ Cù Lao Tràm, ông Tố Hữu nhận định đã có một bàn tay bẩn dúng vào (tức NVL). Thế là Nguyễn Văn Linh càng cáu, về quyết trị bọn thằng Nguyễn Mạnh Tuấn thêm.
- Hiện nay, bọn CA văn hoá ở Hà Nội không thích gì loại truyện ngắn Tướng về hưu đâu. Đến thảo luận ở ban văn hoá văn nghệ cũng rất căng. (Loại như Phan Cự Đệ trước đây, đều là cộng tác viên của cục 78 cả đấy chứ. Đi xem phim, cứ giơ cái thẻ cộng tác với cục 78 ra, là vào hết!)

- Ông Phạm Văn Đồng bây giờ còn hay nói là mình kinh tởm các nước phương Tây, bởi văn minh của nó phi nhân tính lắm. Tức y như cũ.
Loại như ông Đồng, ông nào cũng có nhận quà biếu vidio, casset. Con cái bây giờ cũng phải buôn, vì hồi trước, chả có gì. Còn ông Nguyễn Khải, ông Chế Lan Viên thì nói gì nữa. Đi họp CA, cũng phải đi.
Đến bây giờ, mà trong buổi họp làm Bách khoa từ điển, ông Đồng còn bảo những khó khăn hiện nay rồi sẽ qua đi, vài năm nữa chúng ta sẽ đạt tới bước tiến mới, nhìn lại hôm nay sẽ khác. 
Lâu nay, tôi quý ông Đồng lắm. Mình cứ lấy ông Đồng đối lập với ông Trường Chinh. Nhưng sự thật, ông Đồng có quý gì ai đâu. Toàn nói chuyện trừu tượng, chung chung. Đến lúc mình lỡ có viết gì, lại mắng mình. Nghe bảo năm 1974, ông ấy nói Nguyễn Thành Long ghê lắm.

-- Ông ấy chả cứu ai cả.
-- Đúng rồi, đến cả Trần Việt Phương, ông ấy cũng không cứu.
-- Nghĩa là ông ấy gọi các văn nghệ sĩ đến chơi, như người xưa gọi cô đầu đến hát. Xong thì thôi, không còn dây dưa gì.

Trần Đăng Khoa có lần kể với Trà một chuyện nhỏ, giờ Trà kể lại với tôi.
Lần ấy Khoa dẫn một đoàn thiếu nhi đến nhà Tố Hữu chơi.
-- Bác ơi, nhà của bác đây đấy à, thích quá nhỉ!
-- Không, đây là nhà của nhân dân, các cháu ạ!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGUYỄN TRÃI VÀ HỒ CHÍ MINH HAY LÀ LUẬN VỀ VĨ NHÂN

 Ngô Tự Lập 

Khoa Quốc tế - ĐHQGHN

Có một sự tương đồng về bản chất giữa Vĩ nhân với cuốn Sách vĩ đại. Cuốn sách vĩ đại là một cuốn sách hay, nhưng một cuốn sách hay, thậm chí rất hay, chưa chắc đã là một cuốn sách vĩ đại. Cũng vậy, vĩ nhân phải là một người xuất sắc, nhưng một người xuất sắc, thậm chí rất xuất sắc, chưa chắc đã phải là vĩ nhân.
Trong văn học Việt Nam, tác phẩm xứng đáng nhất để được gọi là vĩ đại là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Có thể nói, “Truyện Kiều” là kinh thánh văn chương của dân tộc Việt Nam. Phạm Quỳnh nói rất đúng, rằng: "‘Truyện Kiều’ còn thì tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn thì nước Việt còn". “Truyện Kiều” vĩ đại vì sao?
“Truyện Kiều” vĩ đại không phải vì nó là tác phẩm đại chúng, mặc dù có lẽ không một người Việt nào không biết về nó. Nhưng theo những gì tôi thấy, và chắc các bạn cũng đồng ý với tôi, có không nhiều người đọc hết “Truyện Kiều”, lại càng ít người thực sự có nhu cầu đọc “Truyện Kiều” để thưởng thức. Trên thực tế, lời khẳng định “Truyện Kiều là tác phẩm được mọi người Việt Nam yêu thích” chỉ sáo ngữ. Ngày nay, thanh niên biết đến “Truyện Kiều” chủ yếu vì nó được giảng dạy trong trường phổ thông, còn trong quá khứ có lẽ những người nông dân mù chữ yêu thơ ca học thuộc lòng từng đoạn dài chủ yếu vì âm điệu du dương hơn là thực sự hiểu nội dung của nó. “Truyện Kiều”, với vô số điển tích, là một tác phẩm khó hiểu ngay cả với các những người có học. Tuy nhiên, bằng nhiều con đường, nó trở thành một cái gì đó giống như đồ thờ. Cha tôi, khi còn sống, trong một chuyến về phép thăm nhà, nói với con trai là tôi, khi đó mới mười một tuổi, rằng “Ai chưa thuộc 500 câu Kiều thì chưa phải là người Việt Nam”. Để chứng tỏ với bố rằng mình là người Việt Nam hơn thế, tôi đã học thuộc lòng cả cuốn sách, mặt dù khi đó, xin thú thực, cũng chẳng hiểu nó hay ở chỗ nào.
 “Truyện Kiều” vĩ đại cũng không chỉ vì nó là một kiệt tác, mặc dù không có gì phải nghi ngờ về giá trị văn học của tác phẩm này. Tôi nói vậy không phải vì đòi hỏi tất cả các câu trong “Truyện Kiều” đều phải là tuyệt mỹ. Đó là điều không tưởng. Một tác phẩm thơ dài, nói như Edgar Allan Poe, thực chất là một tổ hợp những bài thơ ngắn. Ở khoảng giữa những bài thơ ngắn ấy là rất nhiều những câu nối, câu dẫn, câu độn. Và chính những câu dẫn, câu nối, câu độn ấy góp phần làm những “bài thơ ngắn” kia thêm lung linh. Tôi không đòi hỏi tất cả các câu trong “Truyện Kiều” đều phải là tuyệt mỹ. Ý tôi muốn nói là trong văn chương Việt Nam cũng có những kiệt tác khác, như “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm và Đặng Trần Côn. Trong "Chinh phụ ngâm", những câu như
Áo chàng đỏ tựa dáng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”

                           hay

Trống trường thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây”

là những câu thơ tuyệt mỹ không hề thua kém bất kỳ câu thơ nào trong “Truyện Kiều”. Thêm nữa, nếu “Truyện Kiều” vay mượn cốt truyện từ tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả Trung Quốc, thì “Chinh phụ ngâm” là tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Nhưng kiệt tác “Chinh phụ ngâm” đã không được chọn.
 “Truyện Kiều” cũng không phải là một kiệt tác đầu tiên của văn học Việt Nam bằng tiếng Việt. Kiệt tác đầu tiên của văn học Việt Nam bằng tiếng Việt là “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, cha đẻ của văn học Việt Nam bằng tiếng Việt, người mà không chỉ tài năng, vinh quang mà cả bi kịch cũng vô song. “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi cho đến nay vẫn còn mới mẻ, vẫn còn khiến ta thán phục. Có thể nói, không có “Quốc âm thi tập” thì không có “Truyện Kiều”. Thế nhưng “Truyện Kiều” của Nguyễn Du mới là tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Việt Nam. Vì sao? Vì nó được lịch sử và cộng đồng lựa chọn để trở thành biểu tượng văn hóa. Người ta không chỉ đọc nó, người ta còn dùng nó để học, để bói toán. Tóm lại, từ một sản phẩm xuất sắc của cá nhân Nguyễn Du, “Truyện Kiều” trở thành sản phẩm lịch sử của một cộng đồng.
Cũng vậy, vĩ nhân là sản phẩm lịch sử của một cộng đồng. Cá nhân xuất sắc là người có một sự nghiệp xuất sắc, nhưng cá nhân xuất sắc ấy chỉ trở thành vĩ nhân khi được cộng đồng, trong những bối cảnh lịch sử nhất định, lựa chọn để trở thành huyền thoại. George Washington là một ví dụ. Ngày nay Washington được hầu hết dân chúng Hoa Kỳ sùng kính. Nhưng không phải bao giờ cũng thế. Nghiên cứu lịch sử nước Mỹ, ta thấy rằng vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ là một người xuất sắc, nhưng không phải là xuất sắc nhất trong số các người Cha Lập Quốc (Founding Fathers) của nước Mỹ. Một số tài liệu cho thấy tuy giữ cương vị tư lệnh của quân đội, ông là một người khá nhợt nhạt về tính cách cũng như tài năng quân sự. Nhưng có lẽ trong lúc những nhân vật xuất sắc nhất không thống nhất được với nhau - và do đó không giành được ủng hộ của số đông - Washington đã trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Vinh dự ấy không thuộc về Thomas Paine, người đã xây dựng nền tảng lý luận cho cuộc Cách mạng Mỹ, hay Thomas Jefferson, người viết ra bản “Tuyên ngôn độc lập” nổi tiếng. Khi còn là Tổng thống, Washington bị dân chúng chỉ trích khá nhiều vì quản lý kém, vì đàn áp nông dân, và thậm chí cả vì tham nhũng. Uy tín của ông khi tại chức sa sút đến nỗi khi ông về vườn, một số báo chí đương thời coi đó là thành công lớn của dân chúng trong việc làm lành mạnh hoá đời sống chính trị Hoa Kỳ. Washington cũng không phải là nhà giải phóng theo đúng nghĩa, bởi lẽ ông cũng là một chủ nô. Khi chết năm 1799, ông là chủ của hơn ba trăm nô lệ. Thế nhưng chỉ ba chục năm sau khi chết, Washington đã trở thành một vị thánh. Vô số những quyền sách, tạp chí đua nhau viết về tài trí tuyệt vời và đạo đức cao cả của ông. Trong quá trình thần thánh hóa Washington, công đầu thuộc về Mason Locke Weems (1756 – 1825), hay Parson Weems, một vị mục sư kiêm chủ nhà in, tác giả của cuốn sách The Life of Washington (Cuộc đời Washington). Trong cuốn sách đó, Parson Weems bịa ra những mẩu chuyện mang tính ngụ ngôn nhằm ca ngợi tài năng và đạo đức của vị anh hùng dân tộc Hoa Kỳ. Washington đã trở thành vĩ nhân không chỉ vì sự nghiệp xuất sắc của ông. Washington trở thành vĩ nhân còn vì nước Mỹ, vốn không có quá khứ, cần phải có vĩ nhân và huyền thoại của riêng mình.  
Trong lịch sử Việt Nam, hai người xứng đáng nhất để được gọi là Vĩ nhân, theo tôi, là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Cuộc đời hai con người này có những nét tương đồng kỳ lạ. Cả hai đều là những người xuất chúng, kết tinh được tinh thần thời đại mình, đóng vai trò trung tâm trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và sau đó lại là linh hồn của những  biến đổi văn hóa-xã hội mang tính bước ngoặt của lịch sử đất nước. Cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều đồng thời đóng rất nhiều vai, vai nào cũng ở trình độ rất cao: nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà tư tưởng và thậm chí là nhạc sĩ. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Nguyễn Trãi từng được vua Lê giao cùng với Lương Đăng “làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc và múa”[1]. Quan niệm về âm nhạc của Nguyễn Trãi gắn liền với quan điểm nhân văn của ông về thuật trị nước. Ông viết: “Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ răng trong khoảnh thanh luật khó được hài hòa. Xin bệ hạ yêu nuôi nhân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cội gốc của nhạc vậy”. Hồ Chí Minh là người đầu tiên dịch bài hát L'Internationale (Quốc tế ca) ra tiếng Việt. Theo các tác giả Đào Trọng Từ, Huy Trân, Tú Ngọc, Hồ Chí Minh còn sáng tác nhiều bài hát dựa trên các làn điệu dân ca như «Bài ca tự vệ», «Ca binh lính», «Bài ca du kích »[2]. Tờ “Việt Nam độc lập”, số 117, hướng dẫn cách hát bài hát “Ca đội tự vệ” của Hồ Chí Minh, sáng tác năm 1942, như sau: “Chia người làm từng tổ, 4 câu trên tổ A hát trước, hát giọng cao (nếu có phụ nữ là tổ A) tổ B hát giọng thấp theo sau. Những chữ BÉN, SẮC, ĐÔNG, BỀN phải hát dài như BÉ-ÉN, SẮ-ẮC, ĐÔ-ÔNG, BỀ-ỀN. Hai câu sau cùng mỗi đoạn thì cả tổ đều hát với nhau, chữ CHẶT và chữ NÊN phải rất mạnh”[3]. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh cũng chính là tác giả hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của Việt Nam (Bài thơ “Nam Quốc sơn hà” mà trước đây nhiều người tin là của Lý Thường Kiệt gần đây được nhiều học giả chứng minh là khuyết danh và đã được Lê Hoàn sử dụng trước đó. “Nam Quốc sơn hà” là một bài thơ với tuyên ngôn đanh thép, nhưng dù sao cũng chưa phải là một bản tuyên ngôn độc lập đúng nghĩa).
Nhưng điểm tương đồng quan trọng hơn, nếu không nói là quan trọng nhất, điểm tương đồng khiến họ trở thành đối tượng của sự yêu ghét cuồng nhiệt, đồng thời khiến họ thực sự trở thành vĩ nhân, là những huyền thoại bao phủ cuộc đời và sự nghiệp của họ. Trong vô số những huyền thoại ấy, đặc biệt thú vị là huyền thoại về việc Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sử dụng sức mạnh của truyền thông nhằm mục đích xây dựng uy tín và thu phục nhân tâm.
Tương truyền, trong thời kỳ trứng nước của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi cho quân dùng mỡ viết lên lá rừng dòng chữ "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần". Lũ côn trùng, khi ăn mỡ, đã vô tình trở thành những chiếc máy in tự nhiên, biến hàng ngàn chiếc lá thành những tờ truyền đơn. Tôi được thầy giáo kể cho nghe câu chuyện này khi mới lên chín mười tuổi.  Đó là khỏang thời gian khốc liệt cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chúng tôi ngồi dưới hầm, hình dung nét mặt thành kính của người dân khi vớt từ dưới sông lên những chiếc lá mà họ tin rằng mang lời phán truyền của Trời.
Hồ Chí Minh cũng sử dụng kế ấy, nhưng theo cách của thời đại ông, tôi tin như vậy. Tôi muốn nói cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên, xuất bản lần đầu tiên năm 1948, vào buổi trứng nước của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong cuốn sách, dựa trên lời kể của các nhân chứng có lẽ là hư cấu, Trần Dân Tiên phác họa nên chân dung một nhà lãnh tụ cách mạng với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, người sẽ trở thành chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trần Dân Tiên là ai? Nhiều người cho rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh, nhiều người khác không đồng ý như vậy. Phần lớn những người cho rằng Trần Dân Tiên và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau là những người hâm mộ Hồ Chí Minh. Ngược lại, phần lớn những người khẳng định Trần Dân Tiến và Hồ Chí Minh là một là những người căm ghét Hồ Chí Minh. Những người căm ghét Hồ Chí Minh khẳng định rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh, bởi họ cho rằng việc tự viết một cuốn sách để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Những người hâm mộ Hồ Chí Minh khẳng định rằng Trần Dân Tiên không phải là Hồ Chí Minh cũng chính vì lý do tương tự: họ cũng cho rằng việc tự viết một cuốn sách để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Tôi là một trong không nhiều người hâm mộ Hồ Chí Minh nhưng lại tin rằng Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Hơn thế nữa, chính vì hâm mộ Hồ Chí Minh mà tôi tin như vậy.
Tại sao tôi lại tin rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh?
Trước hết, nếu có một tác giả là Trần Dân Tiên và ông ta còn sống, thật khó tin rằng ông ta lại không đứng ra nhận bản quyền một tác phẩm nổi tiếng đến như vậy.
Nhưng nếu vì một lý do gì đó ông Trần Dân Tiên chọn cái quyết định khó tin ấy, hoặc nếu ông ta đã chết, thật khó tin là không một ai trong số những người đã cung cấp cho ông ta tư liệu về Hồ Chủ Tịch lại đồng loạt im lặng, giống hệt như tác giả cuốn sách.
Cuối cùng, giả sử cả Trần Dân Tiên lẫn các nhân chứng đều im lặng một cách khó tin như vậy, thật khó tin là không ai biết gì về một người đã gặp bao nhiêu người, đến bao nhiêu vùng đất, để thu thập bao nhiêu tài liệu, đủ cho cuốn sách.
Nhưng lý do chính để tôi tin rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh là nội dung và phong cách của cuốn sách. “Những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” quá hay. Nó giản dị nhưng linh hoạt, cuốn hút. Nó là sự kết hợp hoàn hảo giữa những trải nghiệm cá nhân với tính phổ quát, tính dân tộc với tính quốc tế, tính văn chương và tính tuyên truyền. « Những mẩu chuyện” mang đầy tính biểu tượng, giống như những chuyện ngụ ngôn nhưng lại mang những thông điệp chính trị rất cụ thể. Tóm lại, nó phải là tác phẩm của một vĩ nhân. Ai có thể viết ra nó, nếu không phải là Hồ Chủ Tịch?
Những điều tôi vừa viết trên đây về cuốn “Những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” thật ra cũng có thể nói về một cuốn sách khác mà tôi rất muốn so sánh, đó là cuốn “Vừa đi đường vừa kể chuyện” của T. Lan. Bản thảo cuốn sách này đang được Bảo tàng Hồ Chí Minh xây dựng hồ sơ để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thế giới. Hai cuốn sách “Những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” giống nhau một cách kỳ lạ, không chỉ về đề tài, ngôn ngữ, phong cách, mà cả về bút pháp và thậm chí là về dung lượng. Nhưng trái với Trần Dân Tiên, T. Lan được công bố chính thức là một bút danh của Hồ Chủ Tịch.     
Ở trên tôi viết rằng cả những người hâm mộ lẫn những người căm ghét Hồ Chí Minh đều cho rằng việc tự viết một cuốn sách để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Nhưng điều đó chỉ đúng với những người tầm thường. Với những người tầm thường, tức là tất cả chúng ta, chỉ trừ các vĩ nhân, tự nói hay tự viết để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Nói vậy cũng có nghĩa là nói tất cả chúng ta đều đáng phê phán. Bởi vì trên thực tế, ngoài việc nhờ bạn bè, cánh hẩu, học trò, cấp dưới…ca ngợi mình – điều thường được coi là cao thượng hơn là tự ca ngợi – tự ca ngợi vẫn là cách chúng ta thường sử dụng. Chẳng hạn, chúng ta vẫn nói, “Tôi rất ghét thói giả dối”, “Em làm tất cả những thứ này là vì anh”, hay “Tôi không phải là người tham quyền cố vị…”
Nhưng những gì đúng với người thường không phải bao giờ cũng đúng với các vĩ nhân. Chúng ta không thể đo vĩ nhân bằng thước đo của những kẻ tầm thường. Học giả Arab, Mustafa al-Manfaluti, từng viết: “Sự vĩ đại đứng cao hơn nghệ thuật và tri thức, cao hơn pháp luật và quyền lực, cao hơn tước hiệu và của cải, bởi vì các nhà khoa học, các nghệ sĩ và những người danh tiếng thì có nhiều, còn những cá nhân vĩ đại thì rất ít gặp. Sự vĩ đại - đó là sức mạnh bẩm sinh của tinh thần mà không của cải nào mua được. Người đạt đến sự vĩ đại có một niềm tin chắc rằng mình khác biệt với những người trần khác về cả trái tim, trí tuệ, khuynh hướng tư tưởng và phương thức tư duy, rằng mình được cắt theo một thước đo khác những người khác và không nằm vừa trong khuôn khổ của các phe nhóm, giai cấp nào cả”[4].
Đúng vậy, không thể coi “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” là cuốn sách của một kẻ háo danh. Hồ Chí Minh quá nổi tiếng, sự nghiệp của ông quá sáng chói, ông không cần có thêm một cuốn sách để trở thành nổi tiếng. Và giả sử Hồ Chí Minh cần một cuốn sách như thế, chỉ cần ông đánh tiếng, chắc chắn sẽ có rất nhiều nhà văn tài giỏi và nổi tiếng sẵn sàng viết nó ra, không chỉ vì ngưỡng mộ, mà có thể còn vì vụ lợi. Nhưng Hồ Chí Minh đã quyết định tự viết ra cuốn sách. Tôi đoán, thời gian cấp bách là một yếu tố khiến Hồ Chủ Tịch phải quyết định như vậy. Hãy nhớ rằng cuốn sách được xuất bản năm 1948. Đó là thời điểm vô cùng khó khăn đối với Hồ Chí Minh. Cuộc cách mạng của ông đang đứng trước những nguy cơ to lớn. Đội quân phần lớn gồm những chàng trai chân đất của ông đang phải đối mặt đội quân viễn chinh thiện chiến của cường quốc Pháp, được hỗ trợ bởi cường quốc số một thế giới là Hoa Kỳ. Xin nhớ rằng cho đến lúc đó chính phủ của Hồ Chí Minh vẫn chưa được Liên Xô công nhận, còn cách mạng Trung Quốc thì đến 1949 mới thành công. Tình thế của cuộc kháng chiến chống Pháp lúc đó rất giống tình thế của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn khi Nguyễn Trãi mới dâng “Bình Ngô sách”. Và cũng như Nguyễn Trãi và Lê Lợi, Hồ Chí Minh buộc phải thu phục nhân tâm. Để thu phục nhân tâm, phải có một hình tượng trung tâm lý tưởng có thể thu phục nhân tâm. Ai có thể làm việc đó trong điều kiện nước sôi lửa bỏng như vậy? Tôi nghĩ là không có ai cả ngoài Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã phải tự viết lấy cuốn sách. Tôi tin rằng khi đó Hồ Chí Minh có nghĩ đến những tờ truyền đơn lá của Nguyễn Trãi.
Hồ Chí Minh có nghĩ rằng một ngày nào đó người ta sẽ bàn tán về tác giả của cuốn sách hay không? Tôi nghĩ rằng có. Với trí tuệ siêu việt, với kiến văn uyên thâm Đông Tây kim cổ, với sự từng trải và lịch lãm của mình, Hồ Chí Minh không thể không biết rằng vấn đề bản quyền của cuốn sách sẽ được bàn đến vào một ngày nào đó. Nhưng Hồ Chí Minh có cách bàn riêng của mình. Ông bàn với sự vĩnh cửu. Tôi hình dung nụ cười giễu cợt của ông. Có thể đó là một trò đùa của Hồ Chí Minh trong thời điểm vận mệnh quốc gia đang ngàn cân treo sợi tóc. Trò đùa chỉ có thể có ở một vĩ nhân.  
Có vô số huyền thoại đã và đang được thêu dệt xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Nhưng Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh còn một sự giống nhau khác, đó là sự yêu ghét tột cùng mà người ta dành cho họ. Sự yêu ghét tột cùng ấy là bằng chứng và cũng là đồng tác giả của sự vĩ đại.
Một lần nữa tôi lại muốn trích dẫn Mustafa al-Manfaluti. Ông viết: “Sự vĩ đại giống như chân lý, cả kẻ thù lẫn bạn bè đều phục nó. Người sáng tạo cũng như kẻ phá hoại đều phải chịu đựng sức nặng của nó. Ở đâu anh thấy một đoàn bạn bè, ở đấy anh thấy một đám kẻ thù. Chỗ nào anh thấy những kẻ thù chống đối nhau thì nên biết rằng: chỗ đó sự vĩ đại đang lên ngôi báu lớn lao của mình, vượt cao hơn tất cả”.

NTL (03-03-2010)

 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bác ĐT. nhanh nhảu hơn mình, nên tốt nhất đọc bài của bác í:


THƯA THỦ TƯỚNG, CON CHÁU MÌNH VẪN PHẢI MANG NGÔ KHOAI ĐẾN LỚP!..

Đào Tuấn - Thưa Thủ tướng, con cháu mình vẫn phải mang mì, mang ngô, mang khoai đến lớp, rồi phải lợp chòi nấu ăn, là bởi những chính sách tốt đẹp, còn đang phải chờ để ngành giáo dục xử lý xong...

Mấy hôm trước, sau khi báo chí đồng loạt tung hê câu chuyện hài “cấm giáo viên mặc váy lên lớp”, Bộ Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), trong một phản ứng nhanh nhạy tuyệt vời, đã chính thức bác bỏ.

Cục trưởng Nhà giáo và Quản lý cán bộ Hoàng Đức Minh cho biết: Ngay khi nhận được thông tin từ báo chí, Bộ đã làm việc ngay với Sở GD&ĐT Quảng Bình và Hiệu trưởng nhà trường để làm rõ. Hiện nay dự thảo đó đã được bác bỏ và nhà trường không triển khai quy định này nữa do nhận được sự phản đối của nhiều giáo viên đặc biệt là giáo viên nữ.

Bản tin đầu tiên về chuyện “cái quần không đáy” được đăng tải vào sáng ngày 27/8 và chỉ 48 tiếng sau đó, Bộ GD&ĐT yêu cầu chấm dứt.

Đáng ghi vào sách kỷ lục về tốc độ phản ứng.

Đáng để ca ngợi thái độ trách nhiệm.

Một hình mẫu về sự quan tâm của ngành đến đời sống thầy cô, ngay từ chuyện nhỏ như “cái đáy quần”.

Có thể, ngay sau kỳ nghỉ lễ, câu chuyện tịch thu, cắt dép của những đứa trò nghèo ở Hậu Giang, vừa được tung lên báo, cũng sẽ được chấn chỉnh.

Suy cho cùng, như thế là trách nhiệm, bởi cái váy, đôi dép ẩn chứa sau đó tâm tư, nỗi bức xúc và cả cuộc sống của không ít giáo viên, học sinh mà nhiều trường hợp ở Hậu Giang đang xác thực tình trạng các bậc phụ huynh, sau khi con cái bị cắt dép, phải vay tiền để mua “giày ba trắng” cho con, cho đúng quy định.

Nhưng có một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Bộ GD&ĐT phản ứng nhanh, quyết liệt và hiệu quả đến thế?..

Hồi đầu năm, Thủ tướng đặt câu hỏi trong một Hội nghị: “Bây giờ mình không thiếu gạo, mình cũng viện trợ nơi này nơi khác, vậy tại sao để con cháu mình trong cảnh cháu mang mì, cháu mang ngô, cháu mang khoai đến lớp rồi phải lợp chòi nấu ăn?”.

Trung tuần tháng 6, Thủ tướng có quyết định hỗ trợ học sinh các trường Dân tộc bán trú và học sinh các vùng đặc biệt khó khăn mức 15kg gạo/tháng.

Nguồn có: Từ kho Dự trữ Quốc gia. Thời điểm quy định rõ: Từ 1/9/2013.

Mai là 1/9, 4 ngày sau, học sinh cả nước sẽ bắt đầu năm học mới.

Còn gạo thì… “bao giờ cho đến tháng 12”.

“Tháng 12” là câu chuyện muôn thủa, mà các thầy cô giáo vùng cao vẫn kể lại về sự ì ạch trong chuyện thực thi chính sách, để đến khi gạo, tiền đến được tới trường học vùng cao thì may mắn nhất cũng phải đến tháng 12, để sau đó, nhà trường phải để cho các vị phụ huynh truy thu, và “rất điển hình” sau đó, trở thành một... bữa nhậu.

Nhà báo Trần Đăng Tuấn, người khởi xướng chương trình “Cơm có thịt” cho học sinh vùng cao vừa trở về sau chuyến khảo sát tại Hà Giang, viết trên Tuổi trẻ những nỗi băn khoăn của các thầy cô: “Nếu mua thực phẩm, chịu nợ rồi khi có tiền cấp về sẽ trả nợ là chuyện xưa nay thầy cô vẫn làm. Nhưng nếu mua gạo cho học sinh ăn trước rồi lại có gạo cấp về thì làm sao bán gạo để lấy tiền đủ trả nợ?”.

Các Hiệu trưởng than thở lúc nào cũng ở thế khó: Không làm theo như chế độ đã có thì khổ học sinh, mà làm theo thì khó cho họ.

Từ lâu rồi, các thầy cô vùng cao vẫn nói đùa họ là những “con nợ” lớn với những khoản “nợ xấu”, cũng chỉ vì “miếng cơm” chính sách cho học trò.

Và xem:

Hội nghị tập huấn về chất lượng đào tạo trung học vùng khó khăn tổ chức tại… bãi biển Ninh Thuận.

Hội nghị tập huấn giáo dục cho con em dân tộc đặc biệt ít người tổ chức ở… bãi biển Cửa Lò (Nghệ An).

Hội nghị tập huấn nâng cao trình độ tiếng Việt cho trẻ em dân tộc ít người tổ chức tại… Hà Nội…

Giá như, những Hội nghị đó một lần được tổ chức trên núi thì biết đâu, cũng nhanh nhạy như chuyện cái váy cấm, chuyện miếng cơm cũng được quan tâm đúng vào thời điểm Thủ tướng yêu cầu.

Thưa Thủ tướng, con cháu mình vẫn phải mang mì, mang ngô, mang khoai đến lớp, rồi phải lợp chòi nấu ăn, là bởi những chính sách tốt đẹp còn đang phải chờ, để ngành Giáo dục xử lý xong chuyện những cái váy.

Trở lại câu hỏi “vì sao” trước phản ứng nhanh, quyết liệt và hiệu quả, có lẽ nào, vì đó là chuyện cái váy, được quan tâm bởi những quan chức chỉ toàn đi họp ở các bãi biển?..
-------------------------------------------------
* Nhan đề bài viết do MTH đặt lại, không phải nguyên bản của tác giả
*Hình ảnh minh họa của Người Lang Bạt FB.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ước mơ của xóm nhiếp sĩ:



Phần nhận xét hiển thị trên trang