Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Chuyện vua nước Việt


Ai cũng biết “Đức” là cái vô hình, thế mà có dày, có mỏng. Lại có hậu, có bạc. Thì ra “Đức” không chỉ đơn giản là sự tử tế, ăn hiền ở lành hay xử việc đúng đắn,v.v… Thậm chí không chỉ được tạo nên ở đời này, mà còn được tạo nên từ những đời trước đó. “Đức” là một thứ “của cải” thuộc về “mệnh” vậy.

Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn diệt được nước Ngô, trở về nói với người nhà: “Đức ta tuy hậu, song không thể vì thế mà tiêu xài hoang phí trong một vài đời được.” Nói rồi bèn không nhận quan tước, đem vợ con trốn vào ngũ hồ. Trước khi đi còn đến bảo Văn Chủng: “Tôi tự biết mình đức hậu, song cũng không dám lạm dụng điều đó mà làm quan, sợ thiệt mất đức của con cháu. Vì thế mới phải trốn đi. Một khi tôi đã đi rồi, thì triều đình còn ai tài hơn ông nữa. Đã thế đức của ông lại bạc. Trộm nghĩ điều đó nguy cho ông lắm. Hay là ông trốn đi còn hơn”. Văn Chủng không nghe, rốt cuộc ở lại bị Câu Tiễn giết.

Trương Lương sau khi giúp Hán Cao Tổ lấy được thiên hạ, bảo với Trần Bình: “Trộm nghĩ đức của tôi dày gấp mười lần ông, công của tôi cũng không kém ông. Vậy mà tôi vẫn không dám nhận quan tước của nhà Hán, sợ đức bị hao tổn, con cháu ngày sau phải làm lại từ đầu. Còn ông, tài thì vượt lên trên kẻ khác, song tiếc rằng đức lại mỏng. Thiết tưởng đó là điều vô cùng bất trắc, cho dù có trọn vẹn được đời mình, thì đến đời sau, con cháu cũng chẳng ra gì. Sao ông không bỏ quan mà đi?” Trần Bình không nghe, rốt cuộc đến ngay đời con đã trở về hạng khố rách áo ôm.

Trọng sinh con nhà khá giả, bố làm quan to. Thế mà sống rất giản dị, chan hòa với mọi người, thường giao du rộng rãi, đàn hát rất hay. Mạnh Tử yêu lắm, muốn kết làm bạn. Mạnh mẫu (mẹ Mạnh Tử) thấy vậy can: “Ta xem thằng bé ấy bề ngoài tuy giản dị song ánh mắt tham lam. Tiếng đàn tuy réo rắt mà những âm phụ vào thường hay bị nghẹn tiếng. Người như thế là đức bạc, không đáng kết bạn.” Trọng sinh về sau quả nhiên càng ngày càng trở nên một kẻ tham lam bất tín, kết giao toàn những hạng bèo bọt. Rốt cuộc phá tán hết cơ nghiệp của bố để lại.    

Xem thế thì biết, “Đức” không phải là thứ có thể đem ra để khen, chê. Càng không phải là thứ đem ra để ca ngợi, hay mắng nhau (là đồ thất đức) như xưa nay vẫn nghĩ được. “Đức” tuy vô hình. Song đó là thứ không những có thể cân đong, đo đếm, mà quan trọng là chỉ có thể “tích”, chứ không nên “tiêu”…

Những chuyện trên chưa thấy chép trong Sử kí… Nay xin lạm chép ra đây để thay cho “Lời tựa” trong Luận ngữ Tân thư kì này. Đoạn trích kì này như sau:

Người nước Việt xưng là Mạt Tử, làm nghề mò trai mò hến trên sông. Một hôm đang chổng mông lặn ngụp, chợt bắt gặp một thằng bé ở đâu trôi đến. Thằng bé khoảng 10 tuổi, sắc mặt nhợt nhạt, người lạnh toát, bụng căng đầy nước, mười phần đã chết đến chín rưỡi. Mạt Tử vội vàng vớt lên bờ, nắm hai chân nó dốc ngược lên cho ộc hết nước trong bụng ra rồi xoa bóp, thổi hơi vào mồm nó. Khoảng nửa giờ thì thân thể thằng bé dần dần ấm lại, mũi nó đã bắt đầu thở nhẹ tuy người vẫn còn mềm nhũn. Mạt Tử bèn bỏ giỏ hến lại đấy, vác nó lên vai mang về nhà. Gần đến nhà, bỗng có một ông lão ở đâu đi đến. Ông lão trỏ thằng bé bảo:

“Nom tướng thằng này thuộc hạng người bạc đức, sau này thể nào cũng phải nếm cứt người khác. Cứu nó làm gì cho phí công.”

Mạt Tử nghe nói, lưỡng lự một lát rồi chép miệng vác quay trở lại, định ném trả quách thằng bé xuống sông cho trôi đâu thì trôi. Đến chỗ lúc nãy, Mạt Tử đang chuẩn bị ném thì ông lão kia lại hớt hải chạy đến bảo:

“Khoan đã! Nó tuy phải nếm cứt người khác nhưng làm vua nước Việt thì chính là nó đấy.”

Mạt Tử nghe nói bèn thôi ý định. Lại vác thằng bé quay trở về… Gần đến nhà, ông lão kia lại vội vã chạy tới, xua tay bảo:

“Xin hãy cân nhắc cho kĩ đã! Nó tuy làm vua nước Việt, song bụng dạ hẹp hòi, đầu óc tăm tối. Vừa ưa nịnh, vừa bịp bợm, lại tham quyền cố vị, ác hơn thú dữ, suốt đời chỉ lo bức hại kẻ trung thần…”

Mạt Tử nghe nói tức thì nổi giận, lập tức vác quay trở lại, phen này quyết quẳng thằng bé xuống sông. Tới bờ sông, Mạt Tử đang lấy đà định quẳng thì ông lão kia lại hồng hộc chạy đến, vừa thở vừa nói:

“Khoan đã, khoan đã! Nó tuy ác hơn thú dữ, nhưng sau này diệt nước Ngô, làm nên cái oai danh cho nước Việt thì chính là nó đấy.”

Mạt Tử nghe nói lại bỏ ý định ném thằng bé xuống sông mà vác nó quay về nhà. Người vợ trông thấy hỏi:

“Ở đâu ra cái thằng chết trôi này?”

Mạt Tử bèn kể lại đầu đuôi. Người vợ bảo:

“Nó sau này dẫu có phải nếm cứt, thì hiện giờ cũng vẫn là một ông vua con. Tôi nghe nói nuôi vua khó lắm. Chỗ của nó phải ở bàn thờ chứ không thể bạ đâu đặt đấy được. Đã thế nó lại là cái giống bạc đức, sau này tất không ra gì. Nuôi một kẻ như thế trong nhà nguy như trứng để đầu gậy, không khéo lợi bất cập hại.”

Mạt Tử nghe vợ nói, lại tính ném quách thằng bé xuống sông. Song nghĩ lại thấy không nỡ, bèn chép miệng bảo vợ:

“Thôi thì ta cũng vì cái oai danh của nước Việt sau này mà cứu nó một phen vậy. Nay hãy chịu khó để nó lên bàn thờ, nuôi mấy hôm cho nó hoàn hồn, cứng cáp như trước đã rồi đem bỏ ra giữa chợ, mặc ai nhặt thì nhặt, mình cũng đỡ phải tội.”

Số là Mạt Tử không biết. Thằng bé đó chính là tiểu công tử của nước Việt. Hôm ấy mải chơi đùa trên sông, chẳng may trượt chân té xuống nước. Nước sông đang chảy mạnh lập tức cuốn nó đi. Lúc bọn hầu cận phát hiện ra thì đã trôi đến mấy dặm. Mọi người hốt hoảng mò khắp một đoạn sông song không thấy. Mấy hôm sau, bọn hầu cận được phái đi tìm bắt gặp thằng bé đang lê la đói khát ở giữa chợ, vội vàng đem kiệu tới rước về cung. Thằng bé về sau quả nhiên được truyền ngôi, trở thành vua nước Việt. Bấy giờ đã 21 tuổi, bèn tự phong vương, tỏ ra là một ông vua có chí lớn.

Vua mới lên ngôi, có cây sung cổ thụ bỗng dưng trổ hoa, thơm ngào ngạt ba ngày liền, thiên hạ tấm tắc khen là điềm lạ. Cả nước nổi cơn điên vì sướng. Có điều trong cái mùi thơm ấy, thỉnh thoảng vẫn thấy lẫn vào một thứ mùi gì đó ngửi rất khó chịu. Vài ngày sau rõ dần. Đích thị là mùi thối. Cuối cùng chỉ còn toàn mùi thối, kéo dài mấy tháng chưa hết. Quạ ở đâu ùn ùn bay về, đậu kín các cành. Thiên hạ càng cho là điềm lạ.

Mạt Tử nghe tin vua mới của nước Việt chính là thằng bé mình cứu ngày trước thì hãnh diện lắm, đi đâu cũng khoe. Mọi người bảo sao không nhân đó mà vào cung, xin đức vua ban cho ít ruộng hoặc một phẩm tước nào đó, khỏi phải làm nghề mò trai mò hến nữa…  Mạt Tử lấy làm phải bèn xin vào cung ra mắt vua. Chưa kịp nhắc lại ơn cũ thì Việt Vương đã ngửa mặt cười lớn mấy tiếng rồi vỗ bàn quát:

“Nhà ngươi tưởng cuộc đời này giống chuyện cổ tích lắm hay sao? Nhà ngươi dẫu cứu ta thoát khỏi chết đuối, song đã mấy lần định quẳng ta trở lại xuống sông. May mà mạng ta còn lớn khiến ngươi không làm nổi việc đó. Nay lại còn vác mặt đến đòi ta trả ơn? Ta không thèm tìm ngươi hỏi tội là phúc cho ngươi lắm rồi. Chính ngươi mới là kẻ phải biết ơn ta về điều đó đấy.”

Nói xong quát tả hữu đuổi Mạt Tử ra ngoài. Mạt Tử nhục quá lủi thủi ôm đầu chuồn khỏi cung. Rốt cuộc lại trở về bến sông làm nghề mò trai mò hến như cũ.

Xin không kể tiếp những việc sau đó của vị tân vương ấy, vì mọi chuyện đều đã được chép trong Sử kí. Chỉ biết rằng sự nghiệp của ngài diễn ra đúng như những gì mà ông lão ngày xưa đã nói. Đại khái cũng nếm cứt, cũng diệt nước Ngô, cũng bức hại trung thần… Ở đây chỉ xin kể một chuyện xảy ra vào lúc cuối đời ngài.

Bấy giờ nước Việt vô sự. Kẻ sĩ chân chính người thì bỏ đi ở ẩn, người thì đã trở thành thiên cổ. Trong triều, lũ cơ hội, nịnh thần tha hồ làm mưa làm gió, suốt ngày chỉ nghĩ đến việc ăn cướp của dân cho thật nhiều. Ngoài đời, đám kẻ sĩ vì bản chất tham lam, hèn hạ, nên vốn đã cam tâm làm tôi tớ từ lâu. Bọn họ luôn nghĩ cách làm vui lòng Việt vương để cầu tước vị, bổng lộc. Hăng hái nhất trong đám này là 2 gã quan văn tên Hư Tỉ và Lê Lết. Năm đó nhân sắp đến tiết Nguyên tiêu (rằm tháng giêng), Hư Tỉ bàn với Lê Lết:

“Đại vương ta rất thích nghe âm nhạc. Lâu nay việc nước bề bộn. Đám con cháu, tay chân Ngài nhiều người ăn cắp lộ liễu quá. Thành ra trong dân gian, khối kẻ chửi thầm chửi vụng, làm đại vương ta cũng có chút phiền lòng. Nay nhân dịp tiết Nguyên tiêu, âu là ta tổ chức một đêm nhạc thật hoành tráng ở sân nhà Thái miếu, mời đại vương tới nghe cho Ngài khuây khoả. Chẳng hay ý ông thế nào?”

Lê Lết tuy nghề văn, song vốn có máu con buôn, bèn hưởng ứng:

“Tuyệt đấy. Nhân đó ta chọn lấy 99 điệu nhạc thật hay. Sao cho trên thì khoái tai đại vương, dưới thì vừa bụng dân chúng để dâng lên cho Ngài ngự bút ban thưởng, rồi khắc in bán ra thiên hạ, chắc cũng kiếm được khối tiền.”

Hư Tỉ nghe Lê Lết nói liền vỗ tay khen:

“Diệu kế. Ông thật không hổ là vị quan không ngai của triều đình, là bậc đứng đầu đám văn hoá con buôn của cả nước. Pháp khẩu (giọng lưỡi) của ông xưa nay được thiên hạ tôn là thần thông quảng đại. Vậy xin nhường việc đọc diễn văn khai mạc cho ông. Chúng ta sẽ bắt chước cái chuyện nghe nhạc của vua nước Tấn ngày trước, có cả chim hạc đến vỗ cánh thì công trạng của ta hẳn sẽ càng to lắm…”

Đúng đêm Nguyên tiêu, sân nhà Thái Miếu được trang trí lộng lẫy, khắp nơi kết đèn hoa sáng rực. Tài tử giai nhân khắp kinh thành ăn mặc lòe loẹt kéo tới đông như trảy hội. Các phường nhạc hay nhất nước được tuyển chọn đến để hầu thánh nhĩ (tai vua). Lê Lết đích thân đứng ra đọc diễn văn khai mạc. Đại khái tập trung ca ngợi sự nghiệp vẻ vang của Việt vương. Bài diễn văn có đoạn viết (những chỗ trong ngoặc đều do Lê Lết dẫn tư tưởng Khổng Tử):

“Đại vương ta, khởi sự từ Lễ (“lập ư lễ”), đã làm nên những chiến công vô cùng hiển hách, từ xưa tới nay chưa có bao giờ… Tiếp theo, Ngài chấn hưng văn hoá, vỗ về muôn dân, làm cho nước ta trở thành một nước văn hiến (“hưng ư thi”). Nay chính là lúc mà các thành tựu của Ngài đã đạt đến mĩ mãn (“thành ư nhạc”), cũng là lúc chúng ta thay mặt cả nước tổ chức đêm quốc nhạc này để tỏ lòng đời đời biết ơn…”

Thế rồi hết điệu nhạc này đến điệu nhạc khác được đem ra trình diễn. Cứ mỗi điệu nhạc lại có mười sáu thiếu nữ đẹp như tiên sa, trang phục bay bướm như những cánh hạc ở đâu xuất hiện. Có khi từ hai bên cánh gà, có khi dòng dây thả từ trên trời xuống… Những “nàng” chim hạc này vừa xuất hiện, lập tức sắp thành hai hàng, múa lượn theo điệu nhạc cực kì điêu luyện, kết hợp với ánh đèn mờ ảo làm cho không khí đêm nhạc đượm vẻ Bồng Lai, cung Quảng, khiến người xem vỗ tay không ngớt. Nhiều kẻ phải lắc đầu lè lưỡi. Tất nhiên Việt vương vô cùng hài lòng. Ngài luôn tay ban rượu thưởng cho các quan đứng hầu hai bên, đặc biệt là Hư Tỉ và Lê Lết.

Tiếp đến danh sách 99 điệu nhạc hay do Lê Lết và Hư Tỉ đích thân chủ trì việc chọn lựa được đọc trước công chúng. Đọc xong đem dâng lên Việt vương. Việt vương không chần chừ cầm bút phượng phê ngay mấy lời vàng ngọc. Khán giả và các quan vỗ tay rầm rĩ. Riêng Hư Tỉ và Lê Lết thì vừa mừng thầm trong bụng, vừa không giấu nổi vẻ hãnh diện trên nét mặt.

Ngày hôm sau, Việt vương ra thiết triều, các quan tiến lên dâng biểu chúc mừng. Người nào cũng hết lời ca ngợi những điệu nhạc mà Việt vương nghe tối hôm qua. Rằng những điệu ấy còn hay hơn điệu nhạc mà vua nước Tấn được nghe ngày trước. Ngay cả 16 con chim hạc cũng lộng lẫy chẳng kém gì… Bỗng ở cuối hàng bên tả có một người bước ra, phủ phục xuống đất. Việt vương nhìn xem ai thì ra một vị quan thuộc hàng bét phẩm họ Thân tên Cô. Thân Cô dập đầu tâu:

“Thần càng nghe các quan ca ngợi thì càng lấy làm nguy cho đại vương lắm. Họ chỉ nhắc lại việc vua nước Tấn ngày trước sướng tai vì nghe nhạc, mà giấu nhẹm cái việc vua nước Tấn chết vì nghe nhạc. Nước Tấn chẳng bao lâu sau đó cũng mất, khởi sự cũng từ cái việc nghe nhạc ấy. Nay thần xin liều chết kể lại toàn bộ câu chuyện ấy ra đây. Cúi xin đại vương minh xét…” Tiếp đó, Thân Cô liền kể lại câu chuyện của vua nước Tấn ngày trước (chuyện này về sau có chép trong sách Đông Chu của Phùng Mộng Long tiên sinh. Nhân tiện xin phép trích những chỗ cần thiết ra đây để thay cho lời kể của Thân Cô, tuy cũng có sửa chữa chút đỉnh, mong tiên sinh thứ lỗi – chú thích của người viết). Nội dung câu chuyện như sau:

“Vua nước Tấn là Tấn Bình công thích nghe âm nhạc. Thấy Sư Khoáng – một nhạc sư được coi là bậc “thánh nhạc” đời bấy giờ nói đến điệu “Thanh chuỷ”, đòi nghe. Sư Khoáng nói:

“Không nên. Ông vua có đức mới được nghe điệu ấy. Nay chúa công bạc đức, nếu nghe tất có tai họa.”

Tấn Bình công cứ nằng nặc đòi nghe cho bằng được. Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy. Gảy được một khúc, có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi. Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con. Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời. Tấn Bình công vỗ tay mà khen. Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi.

Tấn Bình công nức nở:

”Âm nhạc mà đến như điệu Thanh chuỷ thì chắc không còn gì hơn nữa!”

Sư Khoáng nói:

“Điệu Thanh chuỷ tuy cũng thuộc hàng “thánh nhạc”. Song còn chưa bằng điệu Thanh dốc.”

Tấn Bình công ngạc nhiên hỏi:

“Trên đời lại còn có điệu hay hơn điệu Thanh chuỷ nữa ư? Sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt?”

Sư Khoáng nói:

“Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy. Ngày xưa vua Hoàng Đế đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc. Các vua sau này càng đời sau càng bạc đức, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau. Nếu bây giờ gảy khúc ấy, ngộ nhỡ các thần lại hiện xuống cả thì làm thế nào?

Tấn Bình công bảo:

“Các thần hiện xuống thì càng vinh dự cho nước Tấn ta chứ sao?”

Sư Khoáng nói:

“Kẻ ngu này không cho là thế. Nội nghe một điệu “Thanh chuỷ” kia cũng đã đủ gây tai vạ cho chúa công rồi. Nay chúa công lại còn đòi nghe điệu “Thanh dốc” nữa thì nguy đến cả nước Tấn chứ chả phải chuyện chơi…”

Tấn Bình công không tin, cứ cố ép mãi. Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ôm đàn mà gảy. Mới gảy được một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên. Gảy khúc nữa, bỗng nổi một cơn dông, ngói trên nóc điện bay tung lên, cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi thì mưa như trút nước… Tấn Bình công sợ hãi, nằm phục vào một nơi. Mãi đến khi mưa gió tạm yên, nội thị mới dám chạy lên vực Tấn Bình công từ trên đài xuống…

Sau hôm ấy, Tấn Bình công quả nhiên lâm bệnh nặng. Vài tháng thì chết. Nước Tấn từ đó càng ngày càng nát, chẳng bao lâu cũng mất…”

Việt vương nghe Thân Cô kể đến đây thì hoảng hốt rụng rời, ngồi chết lặng đi hồi lâu. Sực nhớ lại câu chuyện suýt chết đuối ngày trước, Việt vương biết mình cũng thuộc hạng bạc đức. Nay trót tin lời lũ nịnh hót mà say sưa đi nghe âm nhạc như thế. Không khéo cũng gặp phải tai vạ như Tấn Bình công thì uổng cả công gây dựng sự nghiệp. Càng nghĩ, Việt vương càng lo sợ, đến nỗi tâm thần bấn loạn, luống cuống không biết nên phải làm thế nào bây giờ? Vừa lúc ấy, cuối hàng bên hữu lại có một người khác bước ra. Mọi người nhìn xem thì là một viên quan cũng thuộc hàng bét phẩm tên là Thế Cô. Thế Cô tâu:

“Câu chuyện mà ngài Thân Cô đây vừa kể quả không sai. Thần cũng đã từng được nghe việc ấy. Song trên đời còn có một bậc Thánh nhân là Khổng Tử, hiện đang ở nước Lỗ. Sao đại vương không sai người sang cầu khẩn Ngài, để Ngài chỉ cho cách về mà tạ lỗi các thần. May ra thì tránh được tai vạ.”

Việt vương nghe nói, tức thì mừng rỡ như bắt được của, bao nhiêu lo sợ tạm thời lui qua một bên. Lập tức sai ngay Thế Cô tìm đường đi gấp sang nước Lỗ, đem theo lễ vật đến cầu kiến Khổng Tử.

Thế Cô tới nước Lỗ, tìm đến xin ra mắt Khổng Tử. Gặp lúc Khổng Tử đang đóng cửa san định kinh sách. Ngài dặn các học trò không tiếp bất cứ người nào. Thế Cô thấy vậy giật mình hoảng hốt, nghĩ lo cho vua Việt quá. Sợ chờ lâu sẽ không kịp. Bèn học theo cách của Thân Bao Tư nước Sở ngày trước, cứ đứng ngoài cửa Khổng gào khóc suốt đêm. Quả nhiên Khổng Tử phải sai học trò ra mở cổng cho vào. Thế Cô đem lễ vật trình lên rồi quỳ xuống tâu:

“Đại vương tôi biết mình bạc đức. Song tiết Nguyên tiêu vừa rồi, trót theo lời bọn lưu manh cơ hội, cùng với lũ con buôn xu nịnh mà đi nghe nhạc ở sân nhà Thái miếu. Khi trở về mới sực nhớ lại câu chuyện của Tấn Bình công ngày trước. Từ đó rất lấy làm lo sợ. Vậy nên sai tôi đến đây hỏi Phu Tử xem có cách gì để tạ lỗi các thần?”

Khổng Tử nghe Thế Cô nói xong, quay sang bảo các học trò:

“Các ngươi đã từng nghe nói ở nước Việt bây giờ, có điệu nhạc nào bằng điệu “Thanh dốc” ngày xưa hay không?”

Rồi quay lại phía Thế Cô, Ngài điềm nhiên trả lời:

“Kẻ bạc đức chỉ không nên nghe “thánh nhạc” mà thôi. Nay vua nước Việt tuy cũng thuộc hạng bạc đức, song những thứ nhạc ấy đều do bọn “bạc nhạc” làm ra cả. “Bạc đức” mà nghe “bạc nhạc” thì có gì phải lo ngại. Về bảo vua nước Việt chả cần phải sợ hãi, cứ việc gối cao đầu mà hưởng phú quý.”





Phạm Lưu Vũ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ QUỐC GIA?..


4 người con của ông: Nguyễn Thị Huyền, SV năm cuối ĐH KHXH&NV - ĐH Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Huy, SV Cao đẳng Xây dựng và 2 cậu con trai sinh đôi năm 1995 là Nguyễn Hữu Tiến (vừa là thủ khoa 29,5 điểm Trường ĐH Y Hà Nội, vừa đỗ ĐH Dược với số điểm 27) và Nguyễn Hữu Tiền (đỗ ĐH Bách khoa khối A 26 điểm và ĐH Y Hà Nội với số điểm 25).

Dĩ nhiên, ông Nguyễn Hữu Định cũng có vợ ở "hậu phương vững chãi" là bà Hoàng Thị Thanh, nhưng "người hậu phương" cũng phải lăn lộn "chia lửa" chả khác gì... "tiền tuyến": 1 mình chăm sóc 9 sào ruộng, đi vặt lông vịt thuê từ 12 giờ đêm đến 8 giờ sáng hôm sau, với thù lao 2.500 đồng/con...

Câu chuyện về vợ chồng nghèo đến không còn gì để nghèo này, được báo chí phát hiện thông qua việc cậu Thủ khoa Đại học Y Hà Nội Nguyễn Hữu Tiến cao chưa đến 1m60, nặng chưa đủ 50 kg, nhận được yêu cầu từ BCH Quân sự huyện "có mặt ở nhà để nhận lệnh nhập ngũ".

Và cũng dĩ nhiên, trước khi phát hiện gia cảnh của gia đình, dư luận chia làm 2 phe: Đi học và đi bộ đội. Thế nhưng, khi câu chuyện về người cha của Tiến được phát lộ, những ý kiến "vào bộ đội tu dưỡng, rèn luyện" đa số đều dừng lại (trong đó có mình), nhường cho sự thương cảm, sâu sắc.

Có thể không thương cảm được không, khi người đàn ông này, buổi sáng chỉ uống nước sôi để nguội, nhịn ăn sáng và chi tiêu tằn tiện dưới mức 20.000 VND/ngày (tức là chỉ bằng 2/3 bát phở bình dân - tầm thường, có giá 30.000 VND bán ở vỉa hè Hà Nội?.

Có đau xót không, khi người đàn ông này phải chọn đoạn đường Lê Văn Lương kéo dài mới mở, tít gần Thiên đường Bảo Sơn, lác đác xe cộ đi lại và hãn hữu lắm mới có người bơm vá xe, mà không dám mon men lên đoạn Lê Văn Lương không kéo dài, để hành nghề, bởi sợ bị "đồng nghiệp" đánh đập, Công an - Dân phòng đẩy đuổi, thu giữ, phạt tiền?..

Có chạnh lòng không, khi người đàn ông này, ở gần quê nhà đấy nhưng không dám về thăm 2 con trai, sợ miếng cơm - muôi canh trong mấy bữa của con ở nhà, bị bớt xén do thêm miệng ăn và ngay 2 con gái đang học ở Hà Nội, cũng ít dám đến, phần vì bố cấm, phần vì cũng tủi thân trước phận nghèo bố mẹ, giữa đô thị phồn hoa?..

Tất cả đều dừng lại trước cụm từ: Cùng quẫn nhưng Vĩ đại.

Cũng quẫn quá đấy chứ, khi cuộc sống thô sơ quá thời nguyên thủy, ngay trong lòng "Trái tim của cả nước"...

Vĩ đại quá đấy chứ, khi cùng quẫn đến thế nhưng vẫn nuôi cả bầy con ăn học đàng hoàng, không những thế còn học giỏi, vào hết Đại học, thậm chí là Thủ khoa của Trường Đại học danh tiếng nhất nhì toàn quốc, mà không một lời kêu ca oán thán trách móc, xin xỏ hỗ trợ từ người thân, xóm làng cho đến chính quyền... Tất cả chỉ cắn răng lại nhịn nhục, để nuôi con.

Bởi vì sự "Cùng quẫn nhưng Vĩ đại" đó, mà ngay từ khi những bài viết - hình ảnh về "người cha sống trong ống cống, nuôi 4 con học Đại học" được đăng tải (chủ yếu trên báo mạng và trang cá nhân), đã khơi dậy sự đồng cảm - chia sẻ trong toàn thể cộng đồng: Từ 1 học sinh cấp 2, vẫn mặc nguyên đồng phục, đeo khăn đỏ, tìm đến biếu vài trăm nghìn đồng tiền tiết kiệm cho đến 1 Doanh nhân có tiếng, tặng cả chục triệu đồng, giúp ổn định trước mắt; từ 1 nữ viên chức tằn tiện từng đồng lương, chở con đến tặng tấm Thẻ mua hàng cho đến 1 doanh nghiệp xin được nhận ông bố vào làm bảo vệ với mức lương 3.000.0000 VND tháng, giúp cả phần ở ăn; 1 phóng viên Truyền hình tập sự, xin ủng hộ cả nửa tháng lương cho đến 1 nhà hảo tâm, từ mãi tít miền Nam xa xôi, mong được giúp đỡ 2 tân sinh viên số tiền ăn ở mỗi tháng, cho đến khi ra trường...

Thế nhưng, cũng từ những thực tế đang diễn ra từ phút ở "ống cống" bây giờ, mới thấy rõ hơn bao giờ hết, cái gọi là "sự quan tâm - giúp đỡ" của chính quyền: Không 1 lời động viên, không 1 món quà, không một lời thăm hỏi, ngoại trừ ông Bí thư Đảng ủy xã rút ví cho riêng 2 tân sinh viên 500.000 VND và "vượt quyền", lệnh cho hệ thống loa truyền thanh trong xã phát lời biểu dương gia đình có 4 con vào Đại học, có 1 Thủ khoa Đại học lớn ở Thủ đô...

Người xưa có câu: "Hiền tài là nguyên khí quốc gia".

Người ta cũng thường tự hào: "Thăng Long - Hà Nội là đất học, đất khoa bảng, chiêu hiền đãi sĩ".

Thế nhưng, với tất cả những gì diễn ra quanh câu chuyện "bố ở ống cống, mẹ nhổ lông vịt thuê nuôi 4 con học Đại học", dư luận có quyền đặt dấu hỏi về "hành động" của những người thường hay hô hào trên báo chí, truyền hình và Hội nghị về Khuyến học - Giáo dục.

Đất Ứng Hòa nguyên ở Hà Tây, không xa trung tâm Hà Nội, nên có thể chạy ù tý, về xem ngôi nhà tranh vách, lõm cả nền, để nhìn cậu bé được tạm gọi là thanh niên, chỉ cao hơn đứa trẻ học lớp 7 vài cm, có vác nổi khẩu AK-47, 3 cơ số đạn, 3 quả lựu đạn và quân tư trang, tổng trọng lượng 30 kg, bằng 2/3 trọng lượng cậu bé, khi hành quân dã ngoại?..

Ống cống xi măng ngoài bãi đất hoang, đối diện Khu Đô thị mới Dương Nội, ở cuối đường Lê Văn Lương kéo dài, lại càng gần hơn nữa, để rẽ xe biển xanh biển đỏ mới kính coong qua thăm người cha, đúng thật "người rừng" nơi phố thị, đang sống cuộc sống thời nguyên thủy, nuôi con...

Chuyện khuyến học và trọng dụng người tài, không chỉ dừng lại ở việc hô hào, tổ chức rình rang tặng quà nơi cụ Rùa Văn Miếu, mà rất cần những lời nói - hành động thực, đối với những gia đình thực, hoàn cảnh thực, công dưỡng dục - sinh thành thực...

Nếu quên điều này, chả chính thể nào giữ được người tài, nữa là đòi gọi "nguyên khí Quốc gia"...
--------------------------------------------------------------------------

Chiều ngày 12/8/2013, Nhà báo Lê Bình (Ban Thời sự - Đài Truyền hình Việt Nam) đã đến tận nơi ông Nguyễn Hữu Định sinh hoạt và kiếm sống (vá xe, bơm xe và ở trong ống cống, cuối đường Lê Văn Lương - HN), trao số tiền 10.000.000 VND của Doanh nhân Trần Bắc Hà, giúp ông Định ổn định cuộc sống tạm thời, nuôi 4 con học Đại học (2 con gái đầu học ĐH KHXH&NV - ĐH Quốc gia Hà Nội, Cao đẳng Xây dựng Hà Nội, con trai thứ 3 là Nguyễn Hữu Tiến vừa là thủ khoa 29,5 điểm Trường ĐH Y Hà Nội, vừa đỗ ĐH Dược với số điểm 27; con trai út Nguyễn Hữu Tiền đỗ ĐH Bách khoa (khối A, 26 điểm); thi ĐH Y Hà Nội với số điểm 25 điểm).

Hình: Nhà báo Lê Bình (bên phải), trao quà của Doanh nhân Trần Bắc Hà cho ông Định và 2 con trai Tiến - Tiền.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đăng tiếp truyện của Ngố:


**
Lơ mơ lan man chuyện mới, chuyện cũ,chuyện gần, chuyện xa.. như một tấm lưới đan hỏng, khiến Lân mệt nhoài.
Lại sau một chặng đường xa chở đằng sau lão Đại nặng gần một tạ, luôn căng thẳng đầu óc dọc đường. Anh đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Mà người ta chỉ ý thức được lúc tỉnh thức dậy, chứ có ai biết mình bắt đầu đi vào cõi ngủ khi nào đâu?
Có thể coi khi ấy như một trạng thái lâm sàng, tim vẫn đập, mũi vẫn thở nhưng không nhận thức được xung quanh, nhận thức được bản thân.
Là lúc cõi vô thức sâu thẳm hoạt động với một số người, dù có muốn cũng không thể kiểm soát được. Có thể đó là những ám ảnh từ kiếp nào đó còn để lại dấu vết hoặc những chấn động tinh thần sâu sắc, nặng nề.
Có khi chỉ là những hình ảnh, âm thanh, câu chuyện ngẫu nhiên không biết nguồn gốc từ đâu? Những mảng “hình tư tưởng” trôi dạt từ một thế giới lạ lẫm chưa hề quen biết.
Lân mơ thấy hàng đoàn voi chiến băng qua sông, nước sông bị voi uống gần cạn. Có chỗ trơ đến tận đáy. Rồi những đoàn người đóng khố, cởi trần, tay cầm giáo, cầm khiên miệng la hét, sùi cả bọt mép. Có mấy viên tướng lông mày dựng ngược, mặt đen chôn chảo, tướng dữ dằn, quất ngựa đuổi theo Lân. Anh càng chạy, ngựa mỗi lúc lại càng theo sát gần. Bỗng Lân vấp phải một gốc cây, khiến anh đau điếng..
Lân bàng hoàng thức giấc..Té ra anh vừa đạp phải cây cọc màn ở góc giường, chân vẫn còn buốt như đạp phải mảnh chai.
Quay sang bên cạnh, Lân không thấy lão Đại đâu?
Lão đi đâu giờ này?
Ánh sáng ngọn đèn ngủ đủ để cho Lân thấy cửa phòng đang để mở. Rõ ràng là trước khi ngủ anh đã cài cẩn thận rồi kia mà?
Có thể lão dậy vào toalet? Nhưng đèn trong ấy tắt, chắc không phải.

Lân xỏ dép đi ra cửa. Thì ra lão Đại đang mặc độc chiếc quần lót đang cặm cụi đi đi lại lại dọc theo hành lang. Nom rất vất vả bởi cái bụng ngoại cỡ chình ình của lão. Với người già cử chỉ này thật không bình thường.
Tuy quen biết lão Đại đã lâu, anh chưa thấy như vậy bao giờ. Chờ cho lão lại gần, Lân mới hỏi.
Lão bảo từ sau khi bị tai biến mạch máu não, thêm bệnh tiểu đường lão thường ít ngủ. Đêm nào lão cũng chỉ ngủ được vài tiếng. Lúc mới nằm là  ngủ được ngay, nhưng giấc ngủ không  sâu.
Mỗi lần như thế, lão lại phải đi bộ cho đến lúc mệt nhoài, để sau đấy ngủ thêm giấc tiếp theo. Một mình trong đêm đi lại như thế, lão bảo cảm thấy rất buồn vì chẳng thể rủ được ai đi cùng cho có bạn. Ngoài lão ra thử hỏi trên đời này có ai lại chịu khó “vận động” vào lúc đêmkhuya như thế ? Nhưng không tập là trằn trọc, không ngủ lại được.
Tự nhiên Lân thấy  tội nghiệp lão. Vì giấc ngủ, vì lo sống, đêm nào cũng phải như thế này quả là quá gian nan!
 Đó là sự cố gắng âm thầm để kéo dài sự sống của người bạn vong niên đến bây giờ anh mới biết.
Lão ngồi xuống giường, lấy khăn bông lau mồ hôi, lại cắm cúi đi tiếp.
Thì ra giàu có, thành “đại gia” rồi, con người ta vẫn chưa hết khổ!  Lần đầu Lân hiểu được “Đại gia” cũng có nỗi thống khổ riêng của mình!
Sống đâu phải là chỉ rong chơi như người ta nói, khi tuổi trẻ không còn? Không phải vô tình mà người ta gọi cõi này là cõi trần ai!
 Từ lúc thức dậy Lân không sao nhắm mắt ngủ được nữa. Trong khi đó, lão sau một hồi đi đi lại lại chừng nửa tiếng lại nằm. lại gáy pho pho.
Lân hối hận là đã vội vàng nhận lời lão đi chuyến này. Trong lúc anh còn cả đống công việc đang chờ ở nhà.
Sáng sớm, chưa đến sáu giờ lão đã gọi Lân, giục đi ngay. Lão bảo để xe ở nhà, hai anh em sẽ đi “xế hộp” cho nó an toàn. Lân nghĩ nhà lão hơn chục con xe bốn chỗ ngồi, cái nào cũng bóng loáng, bạc tỷ cả. Đi xe lúc nào với lão chả khó khăn gì. Nhà nước mà cho dùng máy bay riêng chưa biết chừng nhà lão đã mua rồi, xe  đẹp chả là cái cục gạch gì!
Nguồn lâm sản, khoáng sản của cả một tỉnh từ lâu nhà lão đã có phần.
Kẻ ghen ăn ghét ở nói: “Đại gia ở tỉnh mình, hầu hết là bọn lưu manh cấu kết với quan chức” đều là sự bịa đặt! Nói mà không biết nghĩ. Đúng là bọn nông cạn, chưa hết cái mùi tiểu nông “sản xuất nhỏ”..
Sao chúng chả câu kết mà hưởng nguồn lợi, trở thành “đại gia” hết cả đi?
Nếu không có tài năng, liệu nguồn lợi ấy có chảy vào nhà mình không? Cũng đầy những tay cai thầu máu mặt, đầy vị có chức có quyền mà vẫn ngồi mà thèm, mà rỏ rãi mà nhìn đấy thôi.
May mắn chỉ là một phần. Cái chính vẫn phải “nhờ hồng phúc tổ tiên”. Bản thân phải biết tùy cơ ứng biến, khôn khéo và linh hoạt. Có lần nói về nguồn gốc đại gia của mình, lão tâm sự với Lân như thế.  Lão bảo “Giàu có số”.Không thể cố mà giàu. Lân thấy cũng phải.
Lão chỉ tự hào là đã định hướng “tốt” cho các con nên mới có ngày hôm nay. Chứ không chịu nhận là khéo quan hệ làm ăn kiểu xã hội đen. Nếu lão không nghỉ hưu sớm, chớp lấy thời cơ, đàn con lão bây giờ chắc không hơn con người khác.
Biết chúng nó học tầm thường, lão đã phải chuyển hướng, sắp xếp đường đi nước bước cho từng thằng. Bây giờ kể cả anh học giỏi, học hay, bằng cấp đầy mình cũng chả hơn gì con lão về mặt kinh tế. Có anh còn phải xin đám, vật nài mãi mới được các con lão nhận cho vào làm. Đâu phải chuyện đơn giản?

Nếu biết đèo nhau đi đường xa như vừa rồi, chắc Lân đã thoái thác. Chả ai dại gì chở một ông già từng bị tai biến ngồi sau xe, đi cả trăm cây số. Lỡ có bề gì thì sao?
Mãi sau anh mới biết lão chọn cách đi xe máy là có dụng ý riêng, hoàn toàn không phải vì hà tiện, hay sợ ảnh hưởng đến công việc của mấy thằng “tổng giám đốc” con lão.
Nếu chúng đưa đi, tất nhiên, tới đâu chúng cũng phải kè kè bên cạnh, ý định ghé qua “ngã ba sung sướng” làm sao thực hiện được? Khác nào có người dẫn giải, canh chừng?


( Còn nữa.. )
Phần nhận xét hiển thị trên trang

GIÁ TRỊ CỦA TƯ DUY SỬ HỌC


Trần Trọng Dương

Sử học là một trong những phân môn của khoa học xã hội và nhân văn đem lại những LỢI ÍCH VỀ TƯ DUY, nhưng trong nhiều thập kỷ qua môn sử học không được đưa vào trong nhà trường, thay vào đó là một biến tướng sai lạc của nó: môn lịch sử.


Sử học là gì? Có thể nói một cách ngắn gọn, sử học là khoa học về lịch sử, hay cao hơn là khoa học về nhận thức lịch sử. Lịch sử là toàn bộ những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, nhưng không ai dám chắc chắn và khẳng định rằng mình có thể nhận thức được đúng đắn toàn bộ về nó. Cái lịch sử mà chúng ta biết đến chỉ là những kết quả sau những chuỗi dài của hoạt động nhận thức, trong đó không tránh khỏi có sự chủ quan, phiến diện, nếu không muốn nói có khi là sai lầm. Sai lầm trong nhận thức lịch sử được tạo nên bởi nhiều nguyên nhân. Có thể là sai lầm khi ta chỉ có một số dữ liệu giả tạo, hoặc trầm trọng hơn, là sai lầm về mặt phương pháp luận và mục đích luận. Sai lầm về phương pháp luận là sai lầm về mặt tư duy, còn sai lầm do mục đích luận là sai lầm về đạo đức khoa học. Để tránh sai lầm trong nhận thức lịch sử, người làm sử học tuyệt đối không được mang trong mình một một đích nào khác ngoài mục đích thuần túy duy nhất là NHẬN THỨC LỊCH SỬ. Khi biện hộ rằng vì có lợi cho mục đích dân sinh, có lợi cho mục đích chính trị mà ta phải chứng minh một dữ kiện lịch sử nào đó, thì việc chứng minh ấy đã tiềm ẩn sẵn nguy cơ bị thiên lệch, không đúng với thực tế. 


Sử học là một khoa học xử lý các nguồn sử liệu để đưa ra nhận thức trung thực về lịch sử, nằm ngoài những định kiến tô hồng hay bôi xấu, nằm ngoài những mục đích có trước, và nằm ngoài những nhiệm vụ chính trị. Người làm sử học phải là người thao tác tư duy trên cơ sở giám định và giải độc sử liệu. Vì thế, lịch sử - với tư cách là cái được tái hiện bởi nhà sử học - không phải là một cái gì bất biến, cố định, vĩnh hằng, mà chỉ là những sử thực tương đối. Ở thời điểm nhất định, với những tư liệu nhất định, chúng ta chỉ có thể nhận thức lịch sử ở mức độ nhất định. Nhưng nếu như có những phát hiện mới về sử liệu, và những sử liệu ấy được xử lý bằng phương pháp mới, góc nhìn mới, thì chúng ta sẽ có nhận thức mới. 


Nhận thức là một quá trình tiệm cận đến lịch sử. Và sử học thực chất là một trò chơi trí tuệ để tăng trưởng tư duy về lịch sử (cái đã qua) và quan trọng hơn cả là để tăng trưởng sự tự tư duy về cuộc sống hiện tại với tư cách mỗi cá nhân là tác nhân hay nạn nhân của lịch sử. Như thế lịch sử như là một trang sách để ngỏ, mà nhà sử học là người tái dựng nó từ những gì còn sót lại. Cho nên, một triết gia phương Tây đã từng thốt lên rằng: sử học là cuộc chơi của những người đang sống đối với những người đã chết!


Khác với các môn khoa học tự nhiên như toán học, sinh học,…, thì sử học với tư cách là bộ môn khoa học về lịch sử đã không được đưa vào trong nhà trường trong nhiều thập kỷ qua, thay vào đó là môn lịch sử. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là bởi chúng ta đã không coi lịch sử như là sản phẩm của quá trình tư duy, nhận thức về lịch sử. Những kiến thức lịch sử trong nhà trường được giảng dạy với tư cách nó là những chân lý tuyệt đối, những sự thực bất di bất dịch, bất khả xâm phạm. Và “môn lịch sử” không hề chỉ dẫn cho học sinh biết phải làm như thế nào để tự nhận thức về lịch sử, cũng như nhận thức về cuộc sống hiện tại, mà nó biến học sinh thành những cỗ máy học thuộc lòng với những sự kiện cụ thể, những mốc thời gian của lịch sử chính trị được hoạch định và được cố định bởi các nhà giáo dục.


Mặt khác, các sách giáo khoa được giảng dạy trong hệ thống nhà trường hiện nay chủ yếu là viết về lịch sử chính trị- kinh tế. Điều này đã dẫn đến nhiều bất cập. Nó khiến cho học sinh hiểu phiến diện về mục đích và đối tượng của sử học, đồng nhất lịch sử với lịch sử chính trị, lịch sử chiến tranh. Các kiến thức được nêu trong sách giáo khoa được giảng dạy và được mặc nhận như là những chân lý, những sự thực bất di bất dịch, không thể sửa đổi. Từ đó dẫn đến hệ quả quan trọng thứ ba, là cách giảng dạy lịch sử một chiều, khô khan, áp đặt. Nó biến lịch sử trở thành một môn học thuộc lòng các sự kiện lịch sử, khiến tư duy của học sinh bị xơ cứng, và quan trọng nhất là không có nhận thức bản thân và tư duy của bản thân, cũng như quan điểm của bản thân các em về lịch sử.


Trước tình hình trên, cần biên soạn lại hệ thống sách giáo khoa lịch sử theo một phương thức mới, để giúp học sinh cũng như xã hội hiểu thêm về khoa học lịch sử và quan trọng nhất là tư duy lịch sử. Trong đó, mỗi một bài học phải trình bày đủ cơ cấu lịch sử- văn hóa. Trong đó, chính trị (triều đại, thể chế, kinh thế, thành phần xã hội,…) chỉ là một nửa, chiếm dưới 50% dung lượng bài giảng. Còn lại trên 50% là lịch sử văn hóa (về cách lĩnh vực sâu hơn như: lịch sử ngôn ngữ- văn học, lịch sử nghệ thuật, lịch sử tôn giáo, lịch sử khoa học, lịch sử văn minh vật chất…). Sách phải đảm bảo tính đa dạng lịch sử và tính đa dạng văn hóa theo tiêu chí tộc người. Lịch sử không chỉ là lịch sử của người Việt, mà còn là lịch sử của 53 dân tộc anh em khác. Các nhận định và tri thức lịch sử đều phải dựa trên sử liệu gốc. Các tri thức về lịch sử văn hóa luôn phải đặt HIỆN VẬT KHẢO CỔ lên hàng đầu. Quan trọng nhất, lịch sử cần được trình bày như là những tri thức còn bỏ ngỏ, chưa được giải mã, cần được tìm hiểu, để kích thích tư duy phán đoán, và óc suy luận của học sinh. 


Tất cả những thay đổi trên sẽ góp phần đưa môn sử học vào nhà trường, biến sử học trở thành một môn học sống động, rèn luyện về sự độc lập trong tư duy. Bởi tư duy độc lập sẽ là xung lực để tạo nên sự phát triển xã hội!

Một ví dụ về nhận thức sử học dưới tác động của mục đích chính trị là nhận thức về phong trào Tây Sơn. Với chủ ý muốn đề cao nhân dân, sức mạnh của nhân dân, chúng ta đã chứng minh rằng quân Tây Sơn với những chiến công lẫy lừng của họ là một biểu hiện sống động cho cuộc chiến tranh nhân dân, và đại diện tiêu biểu của phong trào đó là người “anh hùng áo vải cờ đào”- Quang Trung Nguyễn Huệ. Ngay hình ảnh “áo vải cờ đào” cũng đã được sử dụng như một thủ pháp ở đây? Đoạn trên vốn được trích từ bài “Ai tư vãn” tương truyền của công chúa Lê Ngọc Hân dùng để khóc chồng: “mà nay áo vải cờ đào, giúp dân dựng nước xiết bao công trình”. Những lời ai điếu theo kiểu “cái quan định luận” như vậy hẳn không phải là không có cơ sở, nhưng các chữ “áo vải” đã được đời sau đặt thành phương trình “áo vải = nông dân” thì cần phải xem xét lại khi so sánh với những sử liệu hữu quan. Mặt khác, việc Quang Trung ra Bắc với mục đích “phò Lê diệt Trịnh” cũng cần giải mã rằng đây là một thao tác chính trị. Chúng ta sẽ hiểu điều này hơn khi đọc nhiều văn bản địa phương tại miền Bắc, với danh từ “Tây tặc” để miêu tả tình trạng phá chùa, lấy chuông đồng đúc súng.
Chúng ta có xu hướng không chấp nhận những góc nhìn khác về Nguyễn Huệ, được phản ánh qua nhiều tư liệu, trong đó điển hình như “Tây Sơn hành” mới được phát hiện, là bài thơ của tiến sĩ Trần Danh Án1. Mặc dù đối với giới nghiên cứu lịch sử, và nghiên cứu văn học thì đây hẳn là một tư liệu vô cùng đặc sắc, nó gợi mở những câu hỏi mới, những góc nhìn mới về một giai đoạn quan trọng của lịch sử Việt Nam, nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào dám đề cập về bài thơ này trên các tạp chí khoa học.
Mặt khác, chúng ta đã an nhiên bỏ qua những mâu thuẫn nội bộ trong anh em nhà Tây Sơn từ việc chia chiến lợi phẩm, cũng như ân oán cá nhân được ghi chép trong sử sách như đoạn trích dưới đây: “Nhạc đã đắc chí, ngày càng dâm ô, bạo ngược, giết Nguyễn Thung, lại thông dâm với vợ Huệ, người đều chê là xấu. Việc đi xâm lấn miền Bắc, của báu ở phủ chúa Trịnh, về cả tay Huệ, Nhạc đòi không cho. Huệ muốn lấy cả đất Quảng Nam, Nhạc cũng không cho, mới thành ra cừu thù hiềm khích nhau. Huệ bèn truyền hịch kể tội ác của Nhạc, đến nỗi bảo Nhạc là giống sài lang chó lợn”2. Chúng ta chưa biết những ghi chép trên (nhất là việc Nguyễn Nhạc thông dâm với em dâu) có phải là sự thực, hay đó là sự bôi bác, thêu dệt của sử quan triều Nguyễn sau này. Nhưng nếu như có được một sử liệu khách quan khác thì hẳn là những ghi chép trên không phải là không có cơ sở3.

_________________

[1] Bài thơ được chép trong ba văn bản Tản Ông di cảo (散翁遺稿 ký hiệu A.2157), Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432), kho sách Viện NC Hán Nôm. Có thể tìm kiếm một số bản dịch trên mạng.

[2] Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Liệt Truyện tập II (Ngô Hữu Tạo, Ðỗ Mộng Khương dịch) (1997) Nxb Thuận Hoá. Huế. tr. 531-532.

[3] Hoàng Xuân Hãn, “Thống Nhất Thời Xưa”, trong La Sơn Yên Hồ- Hoàng Xuân Hãn tập II (1998). Nxb. Giáo dục. Hà Nội. tr. 1375.


Nguồn: Tia Sáng


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện kỳ bí về linh hồn "sống lại"


- Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) đang tồn tại câu chuyện khá ly kỳ. Một cháu bé cứ nằng nặc nhận mình là đứa trẻ đã chết cách đây hơn mười năm và đòi về ở với bố mẹ người đã chết. Sau khi đưa ra nhiều “bằng chứng” chứng tỏ mình là người đã chết, cháu bé đã được nhận về nuôi như một sự sống lại của linh hồn đã chết trước đó.
 
Bài 1:  Linh hồn sống lại
Anh Tân và chị Thuận đều là cán bộ công tác tại thị trấn Vụ Bản. Anh chị kết hôn năm 1987, đến năm 1992 chị Thuận sinh cháu trai đặt tên là Nguyễn Phú Quyết Tiến, Tiến khoẻ mạnh bụ bẫm và lớn lên trong sự vui mừng khôn tả. Tai họa ấp đến trong một lần ra sông chơi, Tiến chẳng may chết đuối, khi ấy cháu 5 tuồi. Lúc này chị Thuận cũng không thể sinh thêm con vì lý do sức khỏe.
 
Có kiếp luân hồi?
Con mất, vợ chồng anh Tân suy sụp. Anh nghỉ việc, ra làm tự do. Vợ chồng anh tưởng như sẽ phải sống với nhau trong sự côi cút không con, thì một ngày đầu năm 2006, bỗng có một cháu bé tự khẳng định cháu chính là cháu Tiến, người đã bị chết đuối năm 1997!
Nhấp chén nước, thả những vòng khói thuốc lá chậm rãi, anh Tân đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện ly kỳ này. Khi Tiến mất, cháu đang là học sinh trường mầm non Hoa Hồng ở thị trấn Vụ Bản. Cô giáo dạy cháu Tiến là cô Đông và chính cô Đông là người đã phát hiện ra cháu Tiến đã “lộn về nguyên bản” ở cháu Bình con anh Hoan, chị Dự, người trong bản. Cháu Bình sinh ngày 06/10/ 2002.
Cháu Bình
Lần đầu tiên cô Đông thấy cháu Bình có những biểu hiện rất lạ, cô hỏi chuyện, cháu bảo cháu không muốn học ở đây, cháu muốn được học ở trường của cháu. Cô Đông hỏi lại, thế trường cháu ở đâu? "Trường Hoa Hồng ở ngoài thị trấn", cháu Bình trả lời.
Cháu Bình
Lần đầu tiên cô Đông thấy cháu Bình có những biểu hiện rất lạ, cô hỏi chuyện, cháu bảo cháu không muốn học ở đây, cháu muốn được học ở trường của cháu. Cô Đông hỏi lại, thế trường cháu ở đâu? "Trường Hoa Hồng ở ngoài thị trấn", cháu Bình trả lời.
Sao lại là trường Hoa Hồng, làm sao cháu biết trường đó, cô Đông thắc mắc. “Nhà cháu ở ngoài đó, nhà cháu gần nhà ông Lai”. Nghe Bình nói đến đây, cô Đông sởn hết cả tóc gáy. Cạnh nhà ông Lai là nhà anh Tân, và lẽ nào…
Thời gian tiếp theo, cô Đông âm thầm tìm hiểu và biết thêm. Một lần chị Dự mẹ cháu Bình đánh cháu vì cháu nghịch bẩn hết áo quần. Rơm rớm nước mắt, thằng bé bảo: “Mẹ đừng đánh con, bẩn áo quần thì mẹ đưa con về nhà con để con lấy”.
Chỉ nghĩ trẻ con nói nên chị Dự không để ý gì. Những lần khác chị Dự có đánh Bình lại bảo “con đã chết một lần rồi, mẹ đừng đánh con lại chết lần nữa đấy”. Sau mỗi lần bị mắng là cháu lại đòi được về nhà.
Một lần cháu Bình đòi chị đưa về nhà, điên tiết chị Dự bảo "thích thì ngồi lên xe tao chở đi". Bình ngồi sau xe bảo mẹ chở ra thị trấn, từ chợ thị trấn Bình bảo mẹ chở đến cuối sân vận động và rẽ vào phố Hữu Nghị. Đến số nhà 25, chính là nhà anh Tân, Bình xuống xe nói với mẹ “nhà con đây”.
Tuy nhiên nhà đóng cửa, chị Dự lại chở Bình về. Một lần nữa, chị Dự đi chợ thị trấn và cho Bình đi cùng. Khi đến chợ, Bình lại nằng nặc đòi mẹ “đưa về nhà con”, hai mẹ con lại đến trước nhà anh Tân. Sau khi thấy cửa đóng then cài, mẹ con lại ra về.
Mặc dù Bình nói vậy nhưng chưa bao giờ bao giờ chị Dự để ý gì vì nghĩ Bình chỉ là một đứa trẻ mới 4 tuổi. Câu chuyện thực sự “nóng” từ ngày cô Đông phát hiện ra những biểu hiện lạ ở Bình cùng với lời chị Dự kể. Từ đó, cô Đông mới hoài nghi thực sự.
Chị Dư (ngoài cùng bên trái) cùng cháu BÌnh và vợ chồng anh Tân
Cô Đông đem chuyện kể lại với những giáo viên trong trường, trong đó có cô Phương. Là người quen biết với chị Thuận, nên cô Phương đã lập tức kể lại câu chuyện ly kỳ này cho chị Thuận nghe: “Cô vào trong bản Cọi xem sao, nghe nói thằng Tiến nó “lộn” về vào cháu Bình đang học ở trường trong đó”.
Chị Dư (ngoài cùng bên trái) cùng cháu BÌnh và vợ chồng anh Tân
Cô Đông đem chuyện kể lại với những giáo viên trong trường, trong đó có cô Phương. Là người quen biết với chị Thuận, nên cô Phương đã lập tức kể lại câu chuyện ly kỳ này cho chị Thuận nghe: “Cô vào trong bản Cọi xem sao, nghe nói thằng Tiến nó “lộn” về vào cháu Bình đang học ở trường trong đó”.
Cũng chẳng dám tin và đem chuyện kể lại với chồng, anh Tân lập tức giục vợ phải vào xem sao. Trước đây, khi cháu Tiến mới mất có một bà xem bói người Mường nói với anh rằng: “Anh đừng buồn, cháu Tiến linh thiêng lắm rồi sẽ quay về với anh thôi”. Lần khác anh đi xem bói tận Hoà Bình, ông thầy cũng nói điều tương tự.
Là người không mê tín nên lúc đó anh chỉ nghĩ rằng người ta động viên mình. Thế nhưng lúc nghe vợ kể lại câu chuyện Tiến "lộn" về trong bản Cọi, anh Tân cũng bán tín bán nghi và phân vân liệu lời thầy bói năm xưa có chăng lại là sự thật? Anh đã quyết định phải một lần đi tìm hiểu xem sao.
Hành trình tìm lại con
Một ngày sau, anh Tân đã cùng với chị Thuận tìm đến bản Cọi, tìm đến nhà vợ chồng Hoan - Dự. Vốn chưa biết nhau, nhưng khi đến nhà, anh Tân cứ làm như đã quen biết gia đình từ lâu lắm. Không nhận ra ai nhưng chị Dự, anh Hoan cũng không dám hỏi vì nhỡ đâu người quen lâu rồi mình không nhận ra nếu hỏi lại…vô duyên.
Sau mấy câu hỏi thăm anh Tân bắt đầu hỏi đến cháu bé: Thằng bé Bình đâu nhỉ bác ngắm tý xem lớn đến đâu rồi? Chị Dự cho biết cháu đang đi chơi cùng chúng bạn, một lát sau chị Dự cũng gọi cháu về để anh Tân gặp mặt. Về đến nhà thằng bé cứ lấm lét nấp sau cảnh cửa.
Cháu Bình tình cảm với anh Tân, chị Thuận
Anh Tân buông lời: Có nhớ bác không, bác mua nhiều bi cho cháu đây này. “Biết rồi, lúc nãy thấy hai người đi đầu làng, biết rồi”. Nghe thằng bé nói vậy anh Tân phát hoảng. Sao nó lại biết mình vào đây cơ chứ.
Cháu Bình tình cảm với anh Tân, chị Thuận
Anh Tân buông lời: Có nhớ bác không, bác mua nhiều bi cho cháu đây này. “Biết rồi, lúc nãy thấy hai người đi đầu làng, biết rồi”. Nghe thằng bé nói vậy anh Tân phát hoảng. Sao nó lại biết mình vào đây cơ chứ.
Sau vài câu chuyện hai bên trở nên thân tình, anh Tân ngỏ ý muốn đưa cháu Bình về nhà chơi, anh Hoan chị Dự đồng ý. Riêng thằng bé nghe nói được đi là leo tót lên xe và chiều hôm đó anh Tân đưa cháu Bình về nhà mình.
Trên đường về, để thử thằng bé, anh Tân dừng xe trước một ngôi nhà cao tầng bảo cháu, nhà bác đấy cháu vào đi. Lập tức Bình bảo, đây không phải, nhà ở dưới kia cơ. Đi qua rất nhiều đường trong thị trấn, anh Tân không đi theo đường chính vì muốn thử thằng bé. Ngạc nhiên là Bình cứ chỉ rành rọt và cho đến ngôi nhà anh Tân thì mới thôi.
Vừa mở cửa nhà, Bình lập tức xuống xe và chạy tót vào trong và mở tủ bới đồ đạc. Chị Dự đi cùng đã định ngăn lại vì sợ vợ chồng anh Tân đánh giá con mình thiếu giáo dục, nhưng anh Tân đã ngăn lại. Mặc cho cháu Bình tìm kiếm.
Anh Tân hỏi: “Cháu đang tìm gì?” - “Tìm cái máy bay và cần cẩu”. Nghe Bình nói, anh Tân giật mình vì đây là hai món đồ chơi anh đã mua cho cháu Tiến trước đây. Đến lúc cháu qua đời anh mới mang vứt đi. “Bác cất đi rồi, để lúc nào bác tìm lại cho cháu”, anh nói với cháu Bình.
Sau bữa cơm, anh Tân bảo cháu ra xe để chở hai mẹ con về, nhưng thằng bé bảo, nhà ở đây, không về đâu. Nói rồi Bình chạy vào nhà leo lên giường:
- Đây là giường con, chỗ con nằm ở đây.
- Thế cháu hay nằm thế nào?
- Con nằm thế này này (nói rồi Bình nằm sấp xuống giường).
Nhìn cái dáng Bình nằm y như Tiến năm xưa, vợ chồng anh Tân lặng người, chị Thuận chỉ còn biết úp mặt vào lưng chồng khóc sụt sùi, bởi thằng bé có những cử chỉ giống con mình năm xưa quá.
Trước sự tha thiết của thằng bé đêm hôm đó chị Dự đã miễn cưỡng cho con ở lại với gia đình anh Tân. Biết chuyện thằng bé, đêm hôm đó hàng xóm láng giềng kéo đến chật kín nhà. Ai cũng thử Bình bằng những câu hỏi để xem nó kể lại chuyện ngày xưa có chính xác không...
  • Kiên Trung
Phần nhận xét hiển thị trên trang