Từ Aritotle cho đến Ricoeur, dù đứng trên quan điểm thay thế hay tương tác, có thể nói ẩn dụ được nghiên cứu hoàn toàn dựa vào ngôn ngữ. Những khái niệm như chuyển nghĩa, dụ pháp, dụ ngữ, bất thích hợp ngữ nghĩa, đụng độ ngữ nghĩa, đối nghịch ngôn từ, đồng vị/biệt vị, vân vân, đều dính dáng đến chữ và nghĩa. Chỉ chữ và nghĩa. Quan điểm của Ricoeur, dù được mở rộng ra đến hiện thực, thì rốt cuộc cũng không thoát khỏi chữ và nghĩa.
Sự xuất hiện của quan điểm “Ẩn dụ ý niệm” tạo nên một bước chuyển biến quan trọng và khá ngoạn mục trong việc nghiên cứu về ẩn dụ. Lakoff và những người chủ trương quan điểm mới mẻ này bước hẳn ra ngoài những tranh cãi về ngữ nghĩa, về chữ, về câu, về nghĩa đen, nghĩa bóng. Bằng cách sử dụng ý niệm là cái bao trùm lên trên các phát ngôn ẩn dụ và bằng cách dùng phương pháp đồ chiếu, hai ông hầu như đưa ẩn dụ ra khỏi cái vòng kim cô của chữ và nghĩa, vốn là trọng tâm của các tranh cãi về ẩn dụ trước đó. Phải chăng ẩn dụ ý niệm là một khám phá mới, đưa ẩn dụ học đến một bước ngoặt, bài bác một nhận định của Umberto Eco khi ông này mỉa mai cho rằng: “Lịch sử của những thảo luận về ẩn dụ là lịch sử của những chuỗi biến thể dựa trên một ít trùng luận. Hay chỉ có thể là một trùng luận, ấy là: ẩn dụ là một trò mưu mẹo cho phép người ta nói một cách bóng bẩy/một trò nói láo.”?[1]
Lakoff, Johnson và Turner xếp chung tất cả các quan niệm trước đây về ẩn dụ là “quan điểm truyền thống”. Khác với Paul Ricoeur là người luôn luôn đưa ra từng tác giả một và phân tích rất cặn kẽ quan điểm của họ, các ông không hề nêu tên cũng như trích dẫn bất cứ tác giả nào cụ thể mà chỉ phê phán một cách tổng quát. Lakoff và Turner đưa ra sáu điểm căn bản mà các ông cho là sai lầm của quan điểm truyền thống khi bàn về ẩn dụ:[2]
- Quan tâm đến cái được gọi là nghĩa đen.
- Không tìm những nguyên tắc tổng quát, mà chỉ nhắm đến từng diễn đạt ẩn dụ riêng lẻ y như thể chúng là độc nhất.
- Mơ hồ giữa những ẩn dụ quy ước hiện hữu và những ẩn dụ đã từng tồn tại từ lâu được gọi là ẩn dụ “chết”.
- Cho rằng ẩn dụ không có nguồn và đích, mà chỉ có những kết nối hai chiều xuyên lãnh vực.
- Cho rằng ẩn dụ chỉ nằm trong các diễn đạt ngữ học mà không nằm trong ý niệm.
- Cho rằng mọi thứ trong ngôn ngữ và tư tưởng đều là ẩn dụ, không có khía cạnh nào của ngôn ngữ là phi ẩn dụ.
Dù không nêu ra tên ai, những điều phê phán này đưa đến chỗ bài bác gần như toàn bộ tất cả các quan điểm từ Aristotle, Cicero, Quintilian, Dumarsais, Fontanier, Nietzsche cho đến Richards, Black, Le Guern, Greimas và Ricoeur…Một phủ nhận toàn bộ các nghiên cứu ẩn dụ từ trước cho đến năm 1980 (năm ra đời của tác phẩm Metaphor We Live By). Chẳng thế mà người ta cho rằng các ông đã tìm cách định nghĩa lại ẩn dụ. Và các ông cũng không phủ nhận điều này.[3]
Cơ sở duy nhất cho sự bài bác này là: ẩn dụ là ý niệm. Nói một cách khác, do là ý niệm, cho nên ẩn dụ mới là ẩn dụ. Trong chương này, tôi sẽ lần lượt phân tích và làm sáng tỏ một vài khái niệm được Lakoff, Johnson và Turner đề cập đến: ẩn dụ nằm ngay trong ngôn ngữ hàng ngày và ẩn dụ là ý niệm.
Ngôn ngữ hàng ngày
Như đã trình bày trong hai phần trước, ẩn dụ, theo Lakoff và Johnson, có mặt khắp nơi bất kể cái mà chúng ta nghĩ về là cái gì. Nó là một phần trong tư tưởng và ngôn ngữ hàng ngày, không thay thế được. Hai ông dùng chữ “ngôn ngữ hàng ngày” để phân biệt với thứ ngôn ngữ khác lạ của thi ca.
Thế nào là ngôn ngữ hàng ngày? Đó là thứ ngôn ngữ thông thường, không thi ca, không kỳ lạ, không tu từ, ai cũng sử dụng dễ dàng, không cần nỗ lực. Chẳng hạn như: The argument collapsed (luận cứ sụp đổ), to plant an idea in your mind (gieo vào đầu óc một ý tưởng), this is a sick relationship (đây là một quan hệ bệnh hoạn), that’s an outdated idea (đó là một ý tưởng lỗi thời), he ran out of ideas (hắn cạn ý),life is empty for him (đời trống rỗng đối với nó).[4] Theo hai ông, thứ ngôn ngữ như thế vốn sẵn ở đó, nằm rải rác trong nền văn hóa, trong những tư tưởng hàng ngày, từ những người thông thái cho đến ngay cả ở trong những người ít học nhất.
Không có gì phải tranh cãi về tính cách ẩn dụ chứa đựng trong những phát biểu hàng ngày như thế. Vấn đề đặt ra là: cái bình thường, cái dễ hiểu đó và cái khiến chúng trở thành quy ước phát xuất từ đâu?
Như đã có dịp bàn qua trong một bài trước[5], ngôn ngữ là dụng cụ năng động nhất trực tiếp liên quan đến mọi sinh hoạt hàng ngày của con người. Đó là một vật sống, chịu ảnh hưởng của các biến động diễn ra trong hiện thực. Theo thời gian, một số chữ đi vào bóng tối, bị quên lãng và có thể biến mất. Một số chữ khác có thể vẫn còn, nhưng biến nghĩa. Trong lúc đó, nhiều chữ mới được khai sinh, tăng cường thêm số lượng từ vựng để đáp ứng với nhu cầu thông tin và các nhu cầu khác. Có những chữ do con người (nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, nhà báo…) chủ động sáng tạo nhằm diễn tả những khái niệm, sự kiện hay những ý tưởng mới. Nhưng cũng có nhiều chữ tự động khai sinh, đôi khi khai sinh một cách đột ngột, do những biến cố lớn gây chấn động và làm xáo trộn đời sống mọi người. Thực ra, nói “tự động khai sinh” không có nghĩa là chúng không có tác giả, mà vì chúng ta không thể tìm hay biết được người đầu tiên sáng tạo ra và sử dụng chúng.
Văn hóa nói chung và ngôn ngữ nói riêng không phải tự nhiên mà có. Chúng phải có khởi đầu, có phát triển, có suy tàn. Bất cứ một cách dùng ngôn ngữ mới nào cũng phải có người tạo ra trước, sau đó, kinh qua thử thách trong cộng đồng, dần dà mới đi đến ổn định, bình thường. Những cách nói thông thường mà Lakoff và Johnson trích dẫn, ngoài một số ngôn ngữ thường ngày có tính chất phổ thông được sử dụng bởi tất cả mọi người không phân biệt trình độ trong một cộng đồng bản ngữ, còn một số khác, tuy nói là thường ngày, nhưng thực tế, chúng không “thường ngày” chút nào, nghĩa là không dễ dàng tiếp cận ngay đối với tất cả mọi người. Rất nhiều những cách nói thường ngày, nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rằng sở dĩ chúng “thường ngày”, bình thường, dễ hiểu chỉ vì chúng đã được lập đi lập lại vô số lần, trước hết là trong sách vở, trên báo chí và sau đó, đi vào trong giao tiếp hàng ngày và nên trở thành quen thuộc. Vì thực tế, hiểu và sử dụng được những lối phát biểu như thế đòi hỏi phải có một trình độ nhận thức tối thiểu nào đó, chứ không dễ dàng đến ngay lập tức với tất cả mọi người.
Nói như Georges Ludi, có một sự “tiến triển lịch sử” từ ẩn dụ đến từ vựng.[6] Hay nói khác đi, ngôn ngữ có một tiến triển từ không bình thường (mới lạ) đến bình thường. Báo chí, sách vở hàng ngày cung cấp rất nhiều bằng chứng cho hiện tượng này. Năm 2012, trên báo chí Hoa Kỳ bỗng nhiên xuất hiện cụm chữ “fiscal cliff” (vực thẳm tài chánh), nghe lạ hoắc. Tìm hiểu, thì ra đó là một thuật ngữ mang tính cách ẩn dụ được các nhà lập pháp Hoa Kỳ tạo ra để chỉ một tình hình đặc thù của ngân sách Mỹ diễn ra vào cuối năm 2012.[7] Lập đi lập lại riết, bây giờ dường như phần nào cụm từ đã trở nên bình thường và quen thuộc. Đó là một thuật ngữ đặc biệt. Còn biết bao nhiêu cách dùng ẩn dụ khác thường xuyên xuất hiện trong các bản tin hay trong các phóng sự hay bình luận thời sự, nghe xa lạ lúc đầu nhưng rồi nhanh chóng trở thành bình thường nhờ sự lập đi lập lại. Chẳng hạn như: A huge sinkhole swallowed a Florida man” (một hố ngầm lớn đã nuốt một người đàn ông ở Florida), đề cập đến một sự kiện hi hữu xảy ra ở Florida vào tháng 1/2013, trong đó, một người đàn ông đang ngủ trên giường của mình bỗng đất dưới giường sập xuống, kéo theo và giết chết anh ta. Chẳng hạn như: A Sleeper Scandal Awakens for Obama, Post-Election (Một vụ tai tiếng ngủ thức giấc đối với Obama, sau bầu cử) nói về vụ tai tiếng thuế vụ (Internal Revenue Service scandal) vừa bùng phát tháng 5/2013 đối với chính quyền Obama. Vân vân
Xa hơn về trước, loại ngôn ngữ bình thường hàng ngày mà Lakoff và Johnson đề cập cũng đã được trích dẫn nhiều trong tập sách của Pierre Fontanier xuất bản từ đầu thế kỷ thứ 19.[8] Ví dụ như: Il écrit obscurément (nó viết một cách tối tăm)/L’expérience est la maitresse de l’art (kinh nghiệm là bậc thầy của nghệ thuật)/Il m’a recu froidement (nó đón tiếp tôi một cách lạnh lùng)/Moisonner des lauriers (gặt hái danh vọng)… Kèm theo những ví dụ này, Fontanier trích dẫn một số câu thơ chứa đựng cách dùng ẩn dụ liên hệ. Điều đó cho thấy, sáng tạo ngôn ngữ – hay nói riêng trong trường hợp ẩn dụ – trước hết thuộc về những người có tài năng vận dụng ngôn ngữ: nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà chính luận, triết gia, nhà tư tưởng, nhà tu từ…Chúng không tự nhiên, không tình cờ và ngay từ đầu, chúng cũng lạ, cũng mới và đầy tưởng tượng. Chỉ qua giao tiếp, và qua thử thách trong cộng đồng bản ngữ, dần dần thành quen, chúng mới trở thành quy ước, trở thành “ngôn ngữ hàng ngày”.
Tuy nhiên, khi bàn về nguồn gốc của ẩn dụ, Fontanier nhận xét rằng những ngôn ngữ nghèo nàn nhất là những ngôn ngữ bóng bẩy nhất, nghĩa là những ngôn ngữ nhiều ẩn dụ nhất. Những dân tộc kém văn minh, và nhất là những người bán khai, chỉ diễn tả bằng ẩn dụ. Cũng thế, trong sinh hoạt hàng ngày, khi bắt đầu tập nói, những đứa bé thường sử dụng số vốn liếng chữ ít oi mà chúng có được để diễn tả những ý tưởng mới mẻ xảy đến với chúng mà không hề biết những ký hiệu riêng biệt và đặc thù. Điều đó cho thấy cách dùng ẩn dụ thuộc về những người biết ít về ngôn ngữ và lại chẳng biết gì về dụ pháp hay nghĩa bóng hơn là những nhà thông thái. Người ta sở hữu chúng như là ngôn ngữ mẹ đẻ, sử dụng chúng mà không biết học được từ đâu và lúc nào. Do đó, theo Fontanier, ẩn dụ tạo nên phần chính yếu của ngôn ngữ nói. Chúng diễn ra một cách tự nhiên để diễn đạt tình cảm và ý tưởng của mình.[9]
Do đó, Fontanier phân biệt hai loại ẩn dụ:
- Ẩn dụ bình thường (tropes d’usage hay tropes de la langue): thuộc về tất cả mọi người, một thứ “ngôn ngữ tự nó” mà tất cả mọi người đều có thể sử dụng. Ẩn dụ bình thường là loại ẩn dụ căn bản tìm thấy ở trong tất cả các cộng đồng dân cư, từ bán khai cho đến văn minh.
- Ẩn dụ sáng tạo (tropes d’invention) hay ẩn dụ nhà văn (tropes de l’écrivain): trình độ cao hơn, có tính cách sáng tạo. Ẩn dụ sáng tạo chỉ tìm thấy ở những xã hội có nền văn hóa cao, nơi mà tư tưởng và ngôn ngữ phát triển liên tục để đáp ứng với những đòi hỏi của hiện thực hàng ngày. Văn hóa càng cao thì ẩn dụ sáng tạo càng nhiều. Trong số này, có những ẩn dụ hết sức đặc thù, xem như tài sản riêng của tác giả; loại ẩn dụ này không thể sử dụng ở một nơi nào khác, ngoại trừ trong ngữ cảnh mang ẩn dụ đó, thường tìm thấy trong những sáng tác của những nhà thơ, nhà văn có tài năng. Nhưng phần lớn những ẩn dụ loại này, do nhu cầu giao lưu xã hội, do giáo dục và do truyền thông, sau một thời gian sử dụng, thường dễ dàng hòa tan trong cộng đồng bản ngữ và trở thành bình thường, có tính quy ước. Đây là thứ ẩn dụ chứa đựng ngôn ngữ bình thường mà Lakoff và Johnson thường hay trích dẫn. Trong tiếng Việt, biết bao cách nói, cách viết mà người Việt Nam đang sử dụng một cách bình thường hiện nay là do chúng ta thừa hưởng từ vô số ẩn dụ tìm thấy trong thơ, văn, phóng sự, tin tức trên báo chí hay qua lời nhạc do các tác giả sáng tạo ra.
Diễn đạt ngữ học và đồ chiếu ý niệm
Tuy đề cập nhiều đến ngôn ngữ và xem đó là nguồn bằng chứng quan trọng trong việc nghiên cứu, nhưng Lakoff, Johnson và Turner trước sau vẫn đánh giá thấp vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành ẩn dụ. Các ông cho rằng một trong những sai lầm của hầu hết các quan điểm (truyền thống) về ẩn dụ là cho rằng ẩn dụ nằm trong các diễn đạt ngữ học chứ không nằm trong ý niệm. Thực ra, về vai trò của ý niệm trong ngôn ngữ nói chung và trong ẩn dụ nói riêng, điều này không có gì mới lạ. Richards, ngay từ đầu thập niên 1930, đã từng khẳng định: Tư tưởng là ẩn dụ.[10]
Fontanier cũng đã đề cập đến liên hệ giữa ẩn dụ và ý niệm một cách rõ ràng. Ẩn dụ, theo Fontanier, là “trình bày một ý tưởng (tôi nhấn mạnh) dưới ký hiệu của một ý tưởng khác gây ấn tượng mạnh hơn hay được biết nhiều hơn, mà ý tưởng này không hề có một liên hệ nào với ý tưởng đầu tiên ngoài sự liên hệ của một sự thích hợp hay tương tự nào đó”.[11] Chữ chính là “sự liên hệ của chúng với những ý tưởng”. Nhưng ý tưởng là gì? Chữ “ý tưởng” (từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là nhìn thấy), đối với những sự vật do tinh thần nhận ra, có cùng một nghĩa như hình ảnh; và đối với tinh thần nhận ra chúng, có cùng nghĩa như quan điểm hay nhận thức (…) Ý tưởng, tương quan với những sự vật vật lý, là nhận thức mà người ta có được; tương quan với những sự vật trừu tượng (métaphysique) là ý niệm (notion) mà người ta hình thành nên.”[12]
Bàn về ý nghĩa, Fontanier đề cập đến nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa ngữ pháp và nghĩa tinh thần. Nghĩa tinh thần, còn gọi là nghĩa quanh co hay nghĩa bóng, theo ông, là nghĩa mà nghĩa đen làm phát sinh trong tinh thần do tình huống diễn ngôn, do giọng nói hay do liên hệ giữa những ý tưởng được diễn tả ra với những ý tưởng không được diễn tả. Gọi là tinh thần vì tất cả đều thuộc về tinh thần và vì tinh thần tạo nên nó hay tìm thấy nó. Nó không hiện hữu đối với những ai chỉ hiểu sát theo từng chữ, đối với những ai không hề biết rằng chữ (lettre) thì làm mất đi còn tinh thần thì làm sống lại.[13]
Như thế, dẫu cái mà Fontanier gọi là “ý tưởng” hay “nghĩa tinh thần” không hẳn được hiểu một cách bao quát như “ý niệm” trong quan điểm của Lakoff và Johnson, vai trò của ý niệm và vai trò của hình ảnh trong ẩn dụ đã được đề cập đến từ hai thế kỷ trước, ở một trong những tác giả thuộc “quan điểm truyền thống” mà hai ông bài bác. Những người nghiên cứu về ẩn dụ xem đó là điều hiển nhiên, nên họ chỉ nghiên cứu ngôn ngữ. Và khi nghiên cứu ngôn ngữ, tôi cho rằng không ai cho rằng ẩn dụ chỉ nằm trong các diễn đạt ngữ học. Vả lại, chính các ông cũng dùng ngôn ngữ (và dùng rất nhiều diễn đạt ngữ học) để tìm hiểu về ý niệm. Và khi tìm ra ý niệm tổng quát, lại cũng phải dùng đến diễn đạt ngữ học. Nghĩa là, đàng nào cũng phải bước qua ngưỡng cửa ngôn ngữ! Vì, như Lakoff và Johnson thừa nhận, hầu hết bằng chứng (về ý niệm) đều xuất phát từ “ngôn ngữ – từ nghĩa của chữ và câu và từ cách con người tạo nghĩa cho các kinh nghiệm của họ”[14].
Rốt cuộc, vấn đề đặt ra không phải là ẩn dụ có liên quan đến ý niệm hay không mà xem cách vận dụng ý niệm như thế nào. Cái mới lạ trong tư tưởng của Lakoff, Johnson và Turner là tìm ra ý niệm tổng quát nằm đằng sau những diễn đạt ngữ học khác nhau. Hay nói cho rõ ràng hơn, các ông đi tìm những ý niệm tổng quát bằng cách hệ thống hóa những ý niệm đặc thù. Và thay vì loay hoay tìm cách giải thích các ý niệm chứa đựng trong mỗi ẩn dụ (tức là trong mỗi diễn đạt ngữ học), hai ông đã tìm ra nguồn gốc của sự dịch chuyển ý nghĩa trong ẩn dụ, đó là đồ chiếu xuyên lãnh vực.
Để nhận rõ sự khác biệt giữa hai quan điểm ẩn dụ tương tác và ý niệm, ta dùng trở lại một biểu đồ của J. David Sapir để mô tả tính cách ẩn dụ chứa đựng trong một bài hát của Trịnh Công Sơn, bài “Cát bụi”:[15]
Sơ đồ trên chỉ ý nghĩa chứa đựng trong hai câu đầu. Dựa theo từng câu hay đoạn câu trong đó có các yếu tố chính (tenor) và phụ (vehicle), ta sẽ có nhiều ẩn dụ khác nhau: cát bụi (mệt nhoài)/Sự thúc hối của thời gian (tiếng động); tình yêu/đá cuội…
Nhưng dựa theo quan điểm của Lakoff, Johnson và Turner, đó chưa phải là ẩn dụ mà chỉ là những diễn đạt ẩn dụ (tức là diễn đạt ngữ học). Áp dụng cách lý giải của hai ông, lời ca “Cát bụi” chứa đựng một số ẩn dụ ý niệm như sau:
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi
(ẩn dụ: KIẾP NGƯỜI LÀ MỘT CHUYỂN HÓA)
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi
(Ẩn dụ: KIẾP NGƯỜI LÀ CUỘC TUẦN HÒAN)
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày
(Ẩn dụ: THỜI GIAN LÀ MỘT VẬT CO DÃN)
Mặt trời nào soi sáng tim tôi
Để tình yêu xay mòn thành đá cuội
Xin úp mặt bùi ngùi
Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui
(Ẩn dụ: TÌNH YÊU LÀ VÔ VỌNG)
Cụm rừng nào lá xác xơ cây
Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy
Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xóa bỏ không hay…
(Ẩn dụ: CHẾT LÀ TỰ TAN BIẾN)
Các ẩn dụ này có thể thu gọn thành một ẩn dụ ý niệm chung: KIẾP NGƯỜI LÀ CHU KỲ CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT THEO THỜI GIAN.
Như thế, ẩn dụ ý niệm chẳng khác gì là một sự tổng quát hóa (generalization) các diễn đạt ngữ học riêng lẻ. “Vì đồ chiếu là chính yếu và điều này trình bày sự tổng quát hóa là quan tâm hàng đầu của chúng tôi, chúng tôi dùng hạn từ đồ chiếu để chỉ ẩn dụ, hơn là diễn đạt ngữ học.” theo Lakoff. [16]
Do tính cách tổng quát hóa, nên các ông không quan tâm đến vấn đề ngữ nghĩa. Và vì không quan tâm đến ngữ nghĩa nên không bị vướng mắc vào những khái niệm như “va chạm ngữ nghĩa”, “đụng độ ngữ nghĩa” hay “căng thẳng ngữ nghĩa” như đã từng được nhiều tác giả đề cập trước đây[17], không quan tâm đến hàm nghĩa, hiển nghĩa theo cách phân tích của Beardsley và cũng không quan tâm đến câu, chữ, diễn ngôn và hiện thực như trong Ricoeur[18]. Do đó, không có yếu tố nào thay thế cho yếu tố nào. Cũng không có yếu tố nào tương tác với yếu tố nào. Chỉ có tương quan một chiều từ lãnh vực ý niệm nguồn đến lãnh vực ý niệm đích.
Chỉ là ý niệm. Và đồ chiếu ý niệm.
Ý niệm và ý nghĩa
Vậy thì ngôn ngữ, hay nói theo cách Lakoff và Turner thường dùng, chữ, đóng vai trò gì?
Theo hai ông, chữ chỉ có một nhiệm vụ: gợi nên sơ đồ.[19] Chẳng hạn, chữ “người gặt” gợi nên sơ đồ trong việc trồng trọt; chữ “nở hoa” gợi nên sơ đồ về cây cỏ; chữ “du khách” gợi nên sơ đồ liên hệ đến chuyến hành trình; chữ “tro bụi” gợi nên sơ đồ liên hệ đến lửa cháy. Kiến thức của chúng ta về gặt hái, cây cỏ, du hành, lửa cháy vốn đã được “tổ chức có tính cách sơ đồ theo cách mà chúng là những thành tố của thứ tổ chức kiến thức này”. Do đó, khi nhắc đến những chữ đó là gợi lên ngay toàn sơ đồ của cây cỏ, du hành và tro bụi.
Do chữ gợi nên sơ đồ và do ẩn dụ đồ chiều sơ đồ này vào sơ đồ khác, nên chữ thúc đẩy ngay một sự hiểu biết có tính cách ẩn dụ. Ví dụ như lấy chữ “ngọn lửa” trong câu “Cuối cùng, ngọn lửa tắt ngúm” (The flame finally went out). Nó gợi ngay đến sơ đồ về ngọn lửa và ta xem như ngọn lửa ở đâu đó, trong lò sưởi hay bếp lửa, tắt ngúm. Mặt khác, sơ đồ về lửa cũng là lãnh vực nguồn cho hai ẩn dụ: “CUỘC ĐỜI LÀ LỬA” và “TÌNH YÊU LÀ LỬA”, nên nó có thể gợi ra một trong hai ẩn dụ này. Do đó, ta có thể hiểu “lửa tắt” là một ai đó chết hay là mối xúc cảm trong tình yêu biến mất. Đó cũng chính là cách sáng tạo văn chương. Nhà thơ, khi làm thơ, chủ yếu là sử dụng chữ để gợi nên một ẩn dụ ý niệm, mặc dù khi làm thơ nhà thơ hoàn toàn không có mục đích đó.[20]
Thường thì khi nghe một nói có tính cách ẩn dụ hay đọc câu thơ nào đó, ta có cảm giác như ý nghĩa nằm trong các con chữ. Thực ra, theo hai ông, chữ chỉ là những chuỗi âm thanh hay chuỗi ký hiệu “diễn tả những ý niệm nằm bên trong những sơ đồ ý niệm”. Hậu quả là chữ gợi nên “những sơ đồ ý niệm vượt ra ngoài phần sơ đồ mà chữ chỉ định”, nghĩa là, gợi nên trong đầu óc nhiều điều hơn là cái mà nó chỉ định.[21]Vậy thì cái có nghĩa là nội dung ý niệm mà chữ gợi nên. Ẩn dụ cũng thế, nằm trong đầu óc con người, không phải trong những âm thanh phát ra hay những con chữ ghi trên giấy.
Nhưng tại sao có sự lầm lẫn giữa chữ và ý niệm? Lakoff và Turner cho rằng sự lầm lẫn do ở chỗ: “con chữ” là ký hiệu để diễn tả một cách quy ước một ý niệm thuộc “lãnh vực nguồn”, nhưng trong một số tường hợp điển hình nào đó, lại có thể được sử dụng để diễn tả một ý niệm thuộc “lãnh vực đích” liên quan. Mặt khác, trong trường hợp ẩn dụ, chữ “ẩn dụ” tự nó thuộc về hoán dụ “CHỮ THAY THẾ CHO Ý NIỆM MÀ CHÚNG DIỄN TẢ” (Words Stand For The Concepts They Express). Do sự hiện hữu của hoán dụ này trong hệ thống ý niệm của chúng ta, nên chữ “ẩn dụ” vừa quy cho một đồ chiếu ý niệm xuyên lãnh vực (ẩn dụ) vừa quy cho con chữ diễn đạt cái đồ chiếu đó (diễn đạt ngữ học). Nhất là trong trường hợp một “con chữ” nào đó lại diễn đạt không chỉ một mà hai hay nhiều hơn ý niệm thuộc lãnh vực nguồn và bất cứ ý niệm thuộc lãnh vực đích mà nó đồ chiếu vào, thì sự mơ hồ xuất hiện. Thực ra, đây chỉ là một cách diễn tả khác về tương quan giữa chữ và nghĩa cũng như hiện tượng đa nghĩa mà nhiều nhà ngữ học đã từng bàn tới.[22]
Nhưng ta biết rằng, những nhà ngữ học nhận thức không quan tâm đến ngữ nghĩa, nên nhìn vấn đề một cách khác. Lakoff, Johnson và Turner thường nhấn mạnh rằng ẩn dụ không chỉ là vấn đề ngôn ngữ, nhưng còn là vấn đề tư tưởng và lý trí.[23] Trong một tài liệu viết riêng, Lakoff nói rõ hơn: “Những nhà lý thuyết ẩn dụ hiện nay thường dùng hạn từ ẩn dụ để quy cho đồ chiếu ý niệm và hạn từ diễn đạt ẩn dụ để quy cho một diễn đạt ngữ học riêng lẻ nào đó được quy định bởi một đồ chiếu. Chúng tôi thừa nhận các thuật ngữ này vì lý do sau: Ẩn dụ, xét như một hiện tượng, dính líu cả ở những đồ chiếu ý niệm và những diễn đạt ngữ học riêng lẻ”. Nói một cách khác, Lakoff và những người thuộc trường phái của ông thừa nhận ẩn dụ vừa là ý niệm vừa là ngữ nghĩa. Tuy nhiên, theo ông, cần phải “tách chúng riêng ra”.[24] Tại sao? Tách riêng ra là để “có thể lập ra những quy tắc theo đó, những ý niệm lãnh vực nguồn được đồ chiếu vào những ý niệm lãnh vực đích để từ đó, nêu rõ những đặc điểm về cấu trúc của đồ chiếu ẩn dụ”.[25]
“Tách ra” là một phương pháp nghiên cứu. Trong thực tế, nếu chữ là chữ và nghĩa là nghĩa tách bạch nhau hay chữ nào nghĩa đó thì sẽ không có sự mơ hồ và do đó, cũng chẳng có ẩn dụ. Nói một cách khác, nếu ý niệm có thể sử dụng được mà không cần tới ngôn ngữ hoặc nếu ta có thể tách bạch hoàn toàn giữa ý niệm và ngôn ngữ thì chắc chắn là không có hiện tượng ẩn dụ và vấn đề ẩn dụ không cần đặt ra.
Như thế, sự xuất hiện của ẩn dụ nằm trong bản chất của ngôn ngữ và cũng nằm trong bản chất của ý niệm, hay nói cho đúng, nằm trong tương quan khi tỏ khi mờ giữa ý niệm và ngôn ngữ. Sự hiện hữu của yếu tố này đòi hỏi sự hiện hữu của yếu tố kia. Ý niệm là vô hình, là trừu tượng. Nó cần phải xuất hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nào đó, hoặc là màu sắc hoặc là âm thanh hoặc là ký hiệu. Hoán dụ “CHỮ THAY THẾ CHO Ý NIỆM MÀ CHÚNG DIỄN TẢ” đồng thời cũng là ẩn dụ. Ý niệm cần chữ để sản xuất ra ý nghĩa. Nói một cách khác, chữ, thực ra, là sản phẩm của ý niệm. Mà cũng là một hình thức ẩn dụ. Xin nhắc lại một nhận định đã được đề cập trong bài “Chữ nghĩa: chữ và nghĩa”[26]: Trong lúc không thể gọi sự vật (cụ thể hay trừu tượng) bằng chính hiện hữu của bản thân nó, ta đành phải vay mượn một ký hiệu. Chữ, nói cho cùng, là một cách ví von: ví sự vật với một ký hiệu. Phần đông những chữ hay từ vựng là sản phẩm của những ẩn dụ bị quên lãng.
Để làm rõ hơn liên hệ giữa ngôn ngữ và ý nghĩa, ta hãy trở lại với một ẩn dụ ý niệm của Lakoff và Turner” “CHẾT LÀ RA ĐI” (Death Is Departure). Ý niệm đó biểu lộ qua các phát ngôn như sau: Hăn tịch/Hắn yên giấc ngàn thu/Hằn ra đi vĩnh viễn/Hắn trở về với cát bụi/Hắn đã đi rồi/Hắn sa địa ngục/Hắn đã về với nước Chúa/Hắn lên thiên đường/Hắn về chốn tuyền đài/Hắn từ giã cõi trần (từ trần)…Ta nhận thấy ngay: tuy cùng một ý niệm, nhưng mỗi một cách dùng trên đều mang ý nghĩa khác nhau, tùy ngữ cảnh và tùy hoàn cảnh. Cách dùng chữ khác thì ý nghĩa khác, có khi hoàn toàn khác. “Yên giấc ngàn thu” chắc chắn không mang ý nghĩa của “về với nước Chúa”. “Về với cát bụi” không cùng ý nghĩa với “tịch”. Cũng thế, chia buồn với người bạn về cái chết của thân phụ anh ta, không ai viết: “Được tin cha anh về chốn tuyền đài”, hay “Được tin cha anh tịch”, mà phải viết: “Được tin thân phụ anh vừa từ trần”.
Ẩn dụ ý niệm “CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA XÚC ĐỘNG” (Body Is A Container For Emotion) bao gồm hết những diễn tả cảm xúc dính 1íu đến cơn giận. Tuy nhiên, nếu chỉ lưu ý đến ý niệm “CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA XÚC ĐỘNG”, ta sẽ không nhìn ra sự khác biệt tế nhị giữa “nuốt giận”, “nén giận”, “dằn lòng”… Nuốt, nén, dằn được sử dụng tùy theo ngữ cảnh và do đó, tạo nên mức độ ý nghĩa khác nhau. Chưa kể là cơn giận thì khác với giận hờn hay giận dỗi, lại càng khác với giận dữ. Đi xa hơn, với câu thơ như “Tôi nâng niu nỗi giận hờn của nàng” thì quả ý nghĩa của cơn giận lại càng vô cùng khác. Ở đây, cơn giận không còn là một vật chứa, mà trở thành là một …bông hoa.
Trong sáng tác văn chương, ý nghĩa lại càng quan trọng vể cả phương diện sáng tác cũng như về phương diện thưởng thức. Trong lời ca bài “Cát bụi” đề cập ở trên, ý niệm “KIẾP NGƯỜI LÀ CHU KỲ CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT THEO THỜI GIAN” không có gì xa lạ với quan niệm của Tây phương cũng như Đông phương. Trong Kinh Thánh, đó là ý niệm “ashes to ashes, dust to dust” (lời ca rõ ràng là cách quảng diễn ý niệm này trong Kinh Thánh); trong Phật giáo, đó là ý niệm “thành trụ hoại không”. Nhưng chưa có ai có cách diễn đạt đặc thù như Trịnh Công Sơn. Từ các hình ảnh, cho đến cách sử dụng chữ, cấu trúc câu và ý nghĩa từng cụm từ đều rất riêng và tạo nên những cảm xúc mới lạ. Đó là chưa nói đến âm thanh. Đọc lời ca “Cát bụi”, ẩn dụ ý niệm KIẾP NGƯỜI LÀ CHU KỲ CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT THEO THỜI GIAN… hầu như tan loãng trong từng lời và trong từng ý nghĩa. Nói chung, toàn bộ ca từ của Trịnh Công Sơn cũng chỉ thoát thai ra từ một số ý niệm căn bản trong triết học Phật giáo và Lão giáo, vốn không xa lạ gì với người Việt, nhưng cách sử dụng ngôn ngữ đã phát triển những ý niệm đó thành những ý nghĩa vô cùng da dạng, khiến chúng trở nên mới mẻ và tươi mươi hơn bội phần.
Về ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với tư tưởng con người, có lẽ cũng khá hữu ích khi nhắc lại đây một nhận định của John Locke (1632-1704), một người chống đối kịch liệt cách sử dụng ẩn dụ và tất cả hình thức ngôn ngữ bóng bẩy: “Nhưng rồi, sau khi đã lờ đi nguồn gốc và cấu tạo của những ý tưởng của con người chúng ta, tôi bắt đầu xem xét tầm mức và sự chắc chắn của kiến thức, tôi tìm thấy nó bị dính liền với chữ chặt chẽ đến nỗi, trừ phi sức mạnh và tính cách của ý nghĩa hoàn toàn được tôn trọng trước tiên, có thể có quá ít điều được nói một cách rõ ràng và thích hợp liên hệ đến kiến thức, cái dính dáng đến chân lý, vốn đã được hình thành bằng những mệnh đề. Và mặc dầu rốt cuộc kiến thức phải hoàn tất ở sự vật, thì phần lớn nó bị chữ can thiệp vào nhiều đến nỗi tường như chữ hiếm khi tách rời khỏi kiến thức chung của chúng ta. Chúng tự nằm chen vào giữa kiến thức chúng ta và chân lý, sự tối tăm và hỗn loạn của chúng lắm lúc che mờ chúng ta và áp đặt lên sự hiểu biết”.[27]
Nói như Jacques Derrida, chúng ta không thể bước ra khỏi (ngục tù) của ngôn ngữ. Và do đó, không có cách nào thoát ra khỏi sự độc tài của văn bản (tyranny of texts) . Ở điểm này thì sự biện biệt giữa ẩn dụ và ngôn ngữ thông thường, giữa thơ và văn xuôi, giữa nhà thơ và nhà tư tưởng có nguy cơ tan biến.[28] Cũng thế, Baumgarten cho rằng trong khi những điều trừu tượng của triết gia làm xáo trộn ngôn ngữ bình thường vì cần sự khách quan và sự biện biệt ý niệm, thì những dụ ngữ của nhà thơ đưa ta tới chỗ ngược lại, phục hồi cho ngôn ngữ tính trực tiếp của cảm giác và xúc động.[29]
Ý niệm là cái gì tĩnh tại, ổn định; ý nghĩa là cái gì tình cờ, ngẫu nhiên, ở đây và bây giờ. Ý niệm là tư tưởng; ý nghĩa là cách diễn đạt, là cách dùng chữ, là văn phong.
Ý niệm thuộc về nhận thức; ý nghĩa thuộc về cảm xúc. Do đó, ý niệm đưa đến triết lý, ý nghĩa đưa đến nghệ thuật.
Ý niệm không lệ thuộc vào ngữ cảnh, không cần diễn ngôn và do đó, cũng không lệ thuộc vào hiện thực; ý nghĩa lệ thuộc vào ngữ cảnh, vào diễn ngôn và có quan hệ với hiện thực..
Ý niệm thì có hạn[30]; ý nghĩa thì vô hạn.
Có thể dùng một ví von như sau để phân biệt giữa ý niệm và ý nghĩa: ý niệm trong ẩn dụ cũng như thiên văn học đối với các thiên thể: mặt trăng là vệ tinh của quả đất, mặt trời là định tinh mà quả đất xoay chung quanh. Nhưng đối với con người, ý niệm về mặt trăng, mặt trời như những thiên thể quay đều, quay đều trong vũ trụ không làm tan biến đi sự kiện mặt trăng, mặt trời là những hiện hữu mang ý nghĩa: mưa, nắng, mọc, lặn, chiều tà, trăng non, trăng rằm, trăng mờ, nắng thủy tinh, gọi nắng, trăng mờ bên suối…Cũng như ý niệm về cơ thể con người như là một cấu trúc sinh, lý hóa không làm biến mất hình ảnh con người như một hiện sinh: khóc, cười, bâng khuâng, e thẹn, phẫn nộ…, những dấu hiệu chất chứa ý nghĩa nhân sinh.
Chính trong ý nghĩa và ngôn ngữ, ta trở lại với Ricoeur. Như đã trình bày, khác với quan tâm hàng đầu của những nhà ẩn dụ nhận thức là ý niệm, thì quan tâm hàng đầu của Ricoeur là ý nghĩa. Trong các phân tích của Ricoeur, ta thấy thiếu vắng hoàn toàn sự hiện hiện của ý niệm.[31] Mà ý nghĩa thì không tách rời khỏi ngôn ngữ. Tuy nhiên, Ricoeur nhấn mạnh: Chữ không tự động có ý nghĩa. Ý nghĩa của chữ là cách dùng của nó trong câu. Câu vừa mang lại một ý nghĩa vừa mang lại một quy chiếu. Chính chỉ ở mức độ câu, xem như một toàn thể, mà người ta có thể phân biệt cái gì được nói ra (nghĩa) và cái gì được nói về (quy chiếu).[32] Bởi thế, Ricoeur cho rằng ngôn ngữ, trong chuyển động của mình, phải vượt qua hai ngưỡng cửa: ngưỡng cửa của một “lý tưởng tính về ý nghĩa” (idéalité du sens) và sau đó, ngưỡng cửa của quy chiếu. “Qua hai ngưỡng cửa này, nó nắm bắt hiện thực và diễn tả hiện thực đó trên tư tưởng (…) Nói là một hành vi qua đó, ngôn ngữ tự vượt qua khỏi ký hiệu để hướng về cái quy chiếu và hướng về đối vật của mình.”[33]
Như thế, ngôn ngữ trong Ricoeur không phải là những con chữ, cũng không phải chỉ là những diễn đạt ngữ học, như những nhà ngữ học nhận thức thường nhắc đến. Trong lúc chữ (một), theo Lakoff và Turner, có thể ‘gợi” nên sơ đồ ý niệm, thì với Ricoeur, chữ (một) hay cụm chữ (diễn đạt ngữ học hay diễn đạt ẩn dụ), tự chúng cũng chưa tạo thành ý nghĩa vì chưa thành câu, chưa đi vào diễn ngôn, nghĩa là chưa thiết lập tương quan với hiện thực. Ý nghĩa là cái gì sống động vì liên hệ đến “ý định” của người nói, sự tiếp nhận của người nghe, liên hệ đến hiện thực bên ngoài và hiện thực tâm lý, tức là cảm xúc. Cần lưu ý: nghĩa khác ý nghĩa. Nghĩa có tính cố định, quy ước, thường gắn liền với một chữ hay cụm chữ. Ý nghĩa thoát thai từ phát ngôn, nghĩa là từ một cấu trúc chữ, tức là câu, trong quá trình hướng về hiện thực. Ý nghĩa, như thế, gắn liền với trạng thái tâm lý, với thái độ con người. Khi nói “một hành vi có ý nghĩa” hay “một nụ cười ý nghĩa” chẳng hạn là nói đến tương quan giữa con người và sự vật qua trung gian ngôn ngữ.
Hiểu như thế ta sẽ hiểu rõ hơn cách phân tích của Ricoeur và sẽ nhận ra rằng ngôn ngữ không được hiểu một cách đơn giản như trong cái nhìn của các nhà chủ trương “Ân dụ ý niệm”.
Mặt khác, ngôn ngữ trong ẩn dụ ý niệm chỉ được xét trên quan hệ chữ/ ý niệm. Ngược lại, quan hệ trong Ricoeur là câu/diễn ngôn/hiện thực. Tương quan diễn ngôn-hiện thực có thể xuất phát từ một ý niệm nào đó hay được quy cho một ý niệm nào đó, nhưng bản chất của một phát ngôn trong một tình huống đặc thù vẫn là cái thoát ra ngoài sự chi phối của ý niệm. Trong lúc ẩn dụ ý niệm là hậu quả của một quá trình nghiên cứu thì ẩn dụ nói chung là một va chạm sống động giữa ngôn ngữ và hiện thực. Nó có thể không tạo ra ý niệm mới, mà cũng không cần tạo ra ý niệm mới. Nhưng nhất định tạo ra ý nghĩa mới. Chính trong khả năng này mà người ta không ngừng sử dụng ngôn ngữ như là một công cụ đắc lực trong sinh hoạt hàng ngày, nhất là trong lãnh vực văn chương nghệ thuật, để tạo ra và tạo thêm ý nghĩa cho cuộc sống.
Người Việt thường nói: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Chữ thì sẵn đó, không thiếu, tại sao phải “lựa lời”? “Lựa lời” là chọn chữ trong cách diễn đạt để tạo ra một ý nghĩa trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó nhằm đến một ý định đặc thù nào đó. Hãy đọc lại cách “lựa lời” trong một câu hò thôn dã:
Hỡi cô tát nước bên đàng/Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
“Múc ánh trăng vàng” là cách nói ẩn dụ. Ẩn dụ này có thể xuất phát từ một ẩn dụ ý niệm, chẳng hạn như ÁNH SÁNG LÀ MỘT CHẤT CÓ THỂ BỊ LẤY ĐI (Light Is A Substance That Can Be Taken Away)[34]. Nhưng nếu hiểu câu hò trên chỉ bằng ý niệm – và ý niệm này lại chỉ dựa trên diễn đạt ngữ học “múc ánh trăng vàng” – như thế này thì rõ ràng là một cách hiểu cô lập, hoàn toàn bị thoát ra khỏi ý nghĩa hết sức đặc thù của câu hò. Cắt xén đi một phần diễn ngôn và tách diễn ngôn ra khỏi một tình huống đặc thù nào đó để nghiên cứu ẩn dụ sẽ là một điều vô cùng thiếu sót.[35] Để hiểu hết ý nghĩa của nó, phải đặt trong khung cảnh của một đêm trăng, người nói phải là một người nam, người tát nước phải là người nữ, cả hai đều đang độ xuân thì. Đó là một lời tán tỉnh duyên dáng và sự tán tỉnh này chỉ có thể diễn ra trong vùng đồng quê (Việt Nam) vào một thời điểm xa xưa nào đó. Ta không thể tách riêng ra chỉ diễn đạt “múc ánh trăng vàng” để diễn giải, mà phải đặt diễn đạt này trong toàn thể phát ngôn, tức là toàn thể diễn ngôn, một cấu trúc vừa ẩn dụ vừa phi ẩn dụ (cô tát nước bên đường, đổ đi) thì mới hiểu trọn vẹn ý nghĩa của ẩn dụ trong câu hò này.
Đó cũng là cách sáng tác và thưởng thức các sản phẩm văn chương. Diễn giải một tác phẩm văn chương không phải chỉ là loay hoay đi tìm những ẩn dụ quy ước, đại loại như Ý TƯỞNG LÀ ĐỒ ĂN, CUỘC ĐỜI LÀ MỘT THÙNG CHỨA, TÌNH YÊU LÀ CHIẾN TRANH, THỜI GIAN LÀ THẰNG ĂN CẮP, ĐÊM LÀ MỘT TẤM MÀN CHE, HÌNH THỂ LÀ CHUYỂN ĐỘNG, KIỂM SOÁT LÀ Ở TRÊN, BỊ KIỂM SOÁT LÀ BỊ ĐÈ XUỐNG DƯỚI…Chúng là những ý niệm có tính cách nền tảng, cô đọng, thậm chí lạ, rất lạ, nhưng nghe khô khan, thiếu cái sinh động, tươi tắn của chữ nghĩa trong một câu thơ, một đoạn văn. Nói chung, chúng thiếu cái đặc thù, cái riêng vốn là bản chất của nghệ thuật. Mà cái đặc thù, cái riêng thường chứa đựng trong ý nghĩa. Có thể nói: ẩn dụ là một quá trình đi từ ý niệm đến diễn ngôn và hiện thực. Vì người ta không thể ý-niệm-hóa một sự vật nếu sự vật đó không hiện hữu và không có cái dụng cụ “vạn năng”, đó là ngôn ngữ.
Tinh thần —> ngôn ngữ (diễn ngôn) —> hiện thực
…………………………..(ý niệm)…………………..(ý nghĩa)
Ý niệm là sản phẩm của tương quan tinh thần/diễn ngôn và ý nghĩa là sản phẩm của tương quan diễn ngôn – hiện thực.
Để nhìn rõ hơn tương quan và quá trình này, ta hãy đọc vài trích đoạn văn xuôi sau đây:
- “Thân thể anh còn đây, cái bướu đã mất. Anh khước từ sự hiện diện vô ích của nó nên anh đã trở thành một sự không thực. Anh chẳng còn gì ngoài cái thân thể đang dần dần nhiễm độc, ung thối ra cho những sinh vật khác sinh sống. Anh là một sự không thực nằm đây – Sự quái gở bắt đầu bay hơi ẩm mốc. Nhưng từ đó anh biết rằng anh là gì. Anh hơn đám đông vây quanh, bởi anh ý thức được sự có anh, mọi người coi họ có mặt- nhưng là một sự có mặt hư ảo, không thấy mình.” (Dương Nghiễm Mậu)[36]
Đoạn văn là một đan xen của ngôn ngữ ẩn dụ (in chữ nghiêng) vào trong ngôn ngữ phi ẩn dụ, giữa thực và ảo, giữa hư cấu và phi hư cấu, mô tả cảm nhận hiện sinh rất riêng của một người vừa cắt đứt cái bướu quái ác ra khỏi thân thể mình: vừa “mất” vừa “được”, “mất” một miếng thịt và “được” mình. Ngay cái tựa đề đã là một ẩn dụ thú vị: “Niềm đau nhức của khoảng trống”.
- “Ngọc Hân níu lấy vải mền, bao nhiêu quả quyết như tan vụn trước mặt Huệ. Nhưng Ngọc Hân không muốn bị khuất phục, không muốn Huệ cưỡng chiếm mình như cưỡng chiếm dinh thự, trâu bò của Bắc Hà. Nàng nhìn trừng trừng Huệ. Cái nhìn của con thú sắp bị cắt tiết. Cái nhìn của Ngọc Hân có thể làm chùn tay Chỉnh, nhưng với Huệ – uy-vũ-dũng – cái nhìn chỉ làm cho Huệ đang say bỗng sôi gan. Huệ chụp lấy ngực áo cưới của Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dẽ tưởng như giải lụa bạch đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát chúa tóe lửa vun vút cuồng nộ. Rồi không kềm chế được, như Nguyễn Nhạc ngày xưa mất tự chủ trước da thịt mời gọi của Phú Xuân, Huệ đè ngửa lên biểu tượng trinh trắng của Thăng Long. Những bắp cơ Huệ còn nhớp nháp mồ hôi quấn lấy mình Ngọc Hân đang nghiến chặt răng chịu đựng. Huệ vục xuống gáy Ngọc Hân cắn như xé thịt. Dáng đè của Huệ, hai đùi chống xuống giường, mình trần phủ lên người Ngọc Hân y như dáng hổ đang ngoạm hoãng.”(Trần Vũ)[37]
Cũng như trên, trong trích đoạn này, ẩn dụ rải rác trong câu, chữ. Đoạn văn rất hiện thực nhưng đầy hư cấu. Rất hoán dụ nhưng đầy ẩn dụ. Khác với nhân vật “anh” được xây dựng một cách chung chung, ở đây là một nhân vật nổi tiếng, nhưng được ví von một cách hoàn toàn khác: ví một Nguyễn Huệ lịch sử với một Nguyễn Huệ giả; ví một Nguyễn Huệ giai thoại với một Nguyễn Huệ thực. Ví hình tượng anh hùng với một kẻ bạo dâm. Ví một con người bình thường với một hình tượng được sùng kính. Một ẩn dụ kép. Và nghịch, nghịch dụ.
Cả hai truyện ngắn đều sử dụng ẩn dụ như là một cách đặt lại vấn đề nhân sinh trong những hoàn cảnh đặc thù.
Mặt khác, đọc những trích đoạn trên, cảm nhận đầu tiên là cảm nhận về một cái gì đang dịch chuyển, đang vận động: chữ. Ngôn ngữ ở đây không đơn thuần chỉ là những ký hiệu vô hồn mà là những sinh thể. Sau đó là cảm nhận về sự xoắn xuýt, đan bện giữa ý niệm, ngôn ngữ và hiện thực. Cả ý niệm lẫn hiện thực đều như đã thể nhập vào chữ. Chả thế mà Ricoeur cho rằng ẩn dụ chẳng qua là một cuộc “phiêu lưu của chữ”. Một phiêu lưu chữ trong biển (ý) nghĩa.
Sự xoắn xuýt, đan bện đó làm nổi bật tính đặc thù của diễn ngôn. Đó là “tập hợp những câu, qua đó, một ai đó nói một điều gì đó với một người nào đó về một điều gì đó” theo Ricoeur.[38] Chữ ở đây không những chỉ “gợi” nên ý niệm (theo cách lý giải của quan điểm “ẩn dụ ý niệm”) mà còn, qua những ý nghĩa đặc thù của chúng, ảnh hưởng đến sự hình thành ý niệm.
Tóm lại, theo tôi:
Trần Hữu Thục