Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới



Có thể nói, tiên đoán của M.Bakhtin về sức sống mãnh liệt của tiểu thuyết đã được chứng thực bằng sự phát triển mạnh mẽ của tiểu thuyết Việt Nam trong hai mươi năm qua (1986-2006). Sự lo ngại về “số phận của tiểu thuyết” đã không còn. Thay vào đó, tiểu thuyết thực sự đã trở thành nhân vật chính trên sân khấu văn học hiện đại. Với ưu thế của mình, một mặt, tiểu thuyết thâm nhập mạnh mẽ vào các thể loại, mặt khác, du nhập vào nó các thể loại khác để tạo nên cấu trúc nghệ thuật đa tầng. Một trong những thay đổi đáng kể nhất trong nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Việt nam thời kỳ đổi mới là sự đa dạng và linh hoạt về bút pháp nghệ thuật.

1. Bút pháp tả thực mới

Khái niệm tả thực trong văn học đã xuất hiện từ lâu. Thậm chí, có thể coi thuật ngữ mimezic trong Thi học của Aristote cũng gắn liền với ý thức tả thực của văn học. Tuy nhiên phải đến khi chủ nghĩa hiện thực ra đời, tả thực mới trở thành nguyên tắc nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng. Trong quan niệm truyền thống, tả thực được hiểu như là sự thể hiện một cách trung thành hiện thực và hiện thực trong tác phẩm có cấu trúc đồng đẳng với hiện thực vốn có ngoài đời. Quan niệm này có thể nhìn thấy trong tuyên bố của Balzac: “Nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại”. Stendhal cũng coi văn chương như là tấm gương phản ánh cuộc đời. Ở Việt Nam, bút pháp và tinh thần tả thực cũng được các nhà văn hiện thực đặc biệt chú ý. Vũ Trọng Phụng từng bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi coi tiểu thuyết là sự thực ở đời” (Báo Tương lai số 9, ngày 25.3. 1937). Không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của các nhà văn hiện thực khi họ phát huy tối đa sức mạnh bút pháp tả thực đặc sắc và trên thực tế, nhiều nhà văn đã để lại hàng loạt kiệt tác như Tấn trò đời (Balzac), Đỏ và đen (Stendhal), Hội chợ phù hoa(W.Thackeray), Số đỏ, Vỡ đê (Vũ Trọng Phụng)... Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của chủ nghĩa hiện thực, văn học Xô viết đưa ra nguyên tắc tả thực xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc tả thực xã hội chủ nghĩa (gắn “tả thực” với định ngữ “xã hội chủ nghĩa” = tả thực xã hội chủ nghĩa hoặc tả chân xã hội chủ nghĩa) cũng từng được Hải Triều nói đến trong cuộc tranh luận nghệ thuật năm 1936-1939, sau đó được đưa vào Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 và trên thực tế đã trở thành nguyên tắc cơ bản của văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều tiểu thuyết có giá trị nghệ thuật cao, không ít tiểu thuyết thời kỳ này rơi vào công thức, khuôn sáo. Sau 1975, nhất là từ 1986 đến nay, khi văn học tự “cởi trói” để hướng tới sự đa dạng thì bút pháp tả thực mới phát huy tối đa tác dụng. Điều đó gắn liền với nhu cầu “nói thẳng, nói thật” trong quá trình tiến hành đổi mới tư duy. Nhu cầu nói thẳng nói thật trong văn học thời đổi mới cần được hiểu ít nhất trên ba phương diện: thứ nhất, không thi vị hóa đời sống mà nhìn cuộc sống trong tính phức tạp, đa chiều như nó vốn có; thứ hai, không còn những đề tài cấm kị, tất cả đều được hiện lên trong thanh thiên bạch nhật; thứ ba, nhà văn tự do nói lên chính kiến của cá nhân chứ không nhân danh tập thể, cộng đồng để trình bày quan điểm.

Về cơ bản, tả thực trong tiểu thuyết sau 1986 khác với tả thực theo quan niệm truyền thống. Các tiểu thuyết gia hiện đại không muốn dừng lại ở vai trò “thư ký” thời đại hoặc coi văn học là tấm gương thuần túy mà cố gắng soi chiếu hiện thực từ nhiều góc nhìn khác nhau. Nhà văn có thể sử dụng bút pháp tả thực bằng cái nhìn khách quan, có thể tả thực theo cái nhìn giễu nhại... Điều quan trọng là bên cạnh thông tin về sự thật, người đọc phải tìm thấy trong thế giới nghệ thuật của nhà văn lượng thông tin thẩm mĩ phong phú. Đó là chưa nói đến chuyện, sự thật trong văn học tuy thống nhất với sự thật ngoài đời nhưng hai thứ đó không phải là một. Sự đồng nhất giữa hai loại sự thật này, dù chỉ là vô tình, cũng làm phương hại đến sự lung linh, đa nghĩa của nghệ thuật. Bởi thế, chỉ một khi hai yếu tố thông tin sự thật và thông tin thẩm mĩ kết hợp hài hòa thì tác phẩm mới có cơ tồn tại lâu dài. Hàng loạt tiểu thuyết của Lê Lựu (Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội), Nguyễn Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma), Chu Lai (Vòng tròn bội bạc), Dương Hướng (Bến không chồng) với bút pháp tả thực mới đã đem lại cho công chúng nhiều nhận thức mới mẻ về hiện thực.

Khi nói đến bút pháp tả thực mới, cần thấy rằng đây là thủ pháp quan trọng của khuynh hướng tiểu thuyết “nhận thức lại” lịch sử. Khuynh hướng này có phần gần gũi với cảm hứng phản tư trong tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ cải cách với Một nửa đàn ông là đàn bà của Trương Hiền Lượng, Nôn nóng của Giả Bình Ao, Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn, Trường hận ca của Vương An Ức... Các nhà văn Trung Quốc đã nhìn nhận lại hàng loạt vấn đề đau lòng, những bi kịch đầy nước mắt trong thời kỳ cách mạng văn hóa. Tác phẩm của họ được người đọc đón chào nồng nhiệt bởi từng trang viết thấm đầy tinh thần phản tư. Thậm chí, trong quá trình nhận thức lại cách mạng văn hóa, các nhà tiểu thuyết Trung Quốc cho rằng đó là cuộc chấn thương tinh thần lớn nhất thế kỷ XX. Theo đó, dòng “văn học vết thương” ra đời và để lại ấn tượng sâu sắc đối với độc giả. Ở Việt Nam, cảm hứng nhận thức lại quá khứ cũng phần nào thể hiện tinh thần nhận chân lại các giá trị đời sống bằng cái nhìn mới mẻ, thể hiện những suy tư của nhà văn về số phần con người trong sự va đập của các biến cố đời sống và các sự kiện lịch sử. TrongThượng đế thì cười, Nguyễn Khải đã nhìn lại những năm tháng đã qua của nhân vật bằng cái nhìn mang sắc thái giễu nhại. Những tác phẩm viết về cải cách ruộng đất (Dòng sông Mía, Ba người khác...) cũng tái hiện lại nhiều cảnh oái oăm do cái nhìn tả khuynh, ấu trĩ, giáo điều mà một thời chúng ta đã mắc phải. Thậm chí không ít người coi sự giáo điều và tả khuynh mới thực sự là cách mạng! Tình cảnh của nông thôn và số phận của người nông dân cũng được miêu tả một cách chân thực qua Chuyện làng Cuội, Mảnh đất lắm người nhiều ma... Trong những tác phẩm này, cái các ác, xấu có mặt khắp nơi, thả sức hoành hoành và nhiều người hành động như những kẻ cuồng tín. Sự ấu trĩ trong nhận thức, sự hạn hẹp về tầm nhìn của một số cán bộ có chức có quyền đã khiến biết bao gia đình tan nát, bao số phận dang dở. Nhìn chung, các nhà tiểu thuyết đã dựng lại bi kịch của một thời, nhưng thông qua những tấn bi kịch nhiều khi cười ra nước mắt ấy chúng ta sẽ từ giã quá khứ một cách dứt khoát hơn để hướng tới một tương lai tốt đẹp giàu tính nhân bản hơn.

Thực ra, trong những năm tiền đổi mới, bút pháp tả thực chưa được xử lý một cách nhuần nhuyễn và điều đó đã khiến cho tiểu thuyết vẫn còn giàu chất ký sự báo chí mà Đứng trước biển, Cù lao Tràm(Nguyễn Mạnh Tuấn) là một điển hình. Nhưng đến giai đoạn sau, bút pháp tả thực được kết hợp với nhiều thủ pháp nghệ thuật khác và hệ quả, tác phẩm trở nên hấp dẫn hơn. Điều đó có thể nhìn thấy qua sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, Chu Lai, Tô Hoài...

2. Bút pháp phúng dụ, huyền thoại

Đây là bút pháp nghệ thuật được rất nhiều nhà tiểu thuyết thời kỳ đổi mới sử dụng. Sự có mặt của bút pháp huyền thoại vừa cho phép nhà văn nhìn sâu hơn vào thế giới, vừa tạo ra sự lạ hóa để thu hút người đọc. Những Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thiên thần sám hối(Tạ Duy Anh), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái),Người sông Mê (Châu Diên), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)... đã đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc mới mẻ về một hiện thực nghiệt ngã và phức tạp qua những huyền thoại giàu chất tưởng tượng. Các nhà văn đã tìm đến các môtip huyền thoại như một phương tiện nghệ thuật hữu hiệu để truyền đến người đọc những cách tiếp cận hiện thực một cách sinh động. Theo đó, người đọc không nhìn về thế giới theo chiều tuyến tính mà nhận ra sự đa dạng chính là bản chất cuộc sống. Trong nhiều tiểu thuyết, bút pháp huyền thoại có khả năng tạo nên những hình tượng mang tính ẩn dụ cao, và đến lượt mình, các hình tượng ẩn dụ ấy tồn hiện như một ký hiệu nghệ thuật đa nghĩa giàu chất tượng trưng. Tất nhiên, khi đi vào tiểu thuyết, các huyền thoại không còn là những huyền thoại mang nghĩa nguyên thủy mà đã được cải biến để mang chứa những hàm lượng nghĩa mới. Chẳng hạn ánh trăng trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương không còn là ánh trăng thơ mộng, trữ tình mà là thứ ánh sáng ma mị, nhiều khi quái lạ. Trong Thiên sứ, Phạm Thị Hoài luôn pha trộn các huyền thoại phương Đông và phương Tây, huyền thoại cũ và huyền thoại mới nhằm tạo ra sự trùng phức hình tượng. Ở Thiên thần sám hốiTạ Duy Anh lại tạo dựng tình huống độc đáo: đứa bé suy ngẫm chuyện đời khi còn nằm trọng bụng mẹ và toàn bộ câu chuyện diễn ra dưới cái nhìn đó. Rõ ràng, việc sử dụng bút pháp huyền thoại đã làm cho người đọc hứng thú vì họ phát hiện sự toàn vẹn và sinh động của cuộc sống thông qua tính sinh động cuả nghệ thuật. Với tư cách là một phương thức nghệ thuật “biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thật”, việc đưa cái huyền ảo vào thế giới thực tại đã lấy cái phi lý để nhận thức cái hữu lý, lấy lôgic của nghệ thuật và trí tưởng tượng để nhìn thấy logic cuộc sống một cách hiệu quả.

3. Bút pháp trào lộng, giễu nhại

Sự xuất hiện của bút pháp trào lộng ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại, theo chúng tôi, xuất phát từ ba căn nguyên cơ bản: thứ nhất, có ý nghĩa cân bằng sinh thái văn học sau một thời gian dài văn học ta quá nghiêm trang; thứ hai, là một nhu cầu giải tỏa áp lực của đời sống hiện đại; thứ ba, quan trọng hơn, thể hiện tinh thần dân chủ hóa trong văn học. Không nên hiểu đơn giản trào lộng và giễu nhại chỉ nhằm tới một mục đích giải thiêng mà cần hiểu sâu hơn, đó là hình thức tiếp cận các giá trị đời sống một cách dân chủ, đa nguyên, phi quy phạm. Có thể nói Thời xa vắng (Lê Lựu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Cõi người rung chuông tận thế và Mười lẻ một đêm(Hồ Anh Thái), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), T. mất tích(Thuận)... là những tác phẩm sử dụng bút pháp trào lộng, giễu nhại thành công. Trong Thời xa vắng người trần thuật là người đã nếm trải nhiều cay đắng, đi qua nhiều nỗi bi hài và anh ta kể lại hàng loạt câu chuyện về một “thời xa vắng” nhưng chưa hề xa. Cũng phải nói thêm rằng, bản thân cách nói “thời xa vắng” đã hàm chứa trong đó tư tưởng khá sâu sắc của Lê Lựu.

Trong số các nhà văn đương đại, Nguyễn Khải được coi là nhà văn nhạy cảm. Ngay từ sau 1975, Nguyễn Khải đã có Gặp gỡ cuối năm, Cha và con và... Ông sớm nhận ra phải nhanh chóng từ giã thời lãng mạn, đơn giản, dễ dãi để viết những tác phẩm mang quan điểm cá nhân. Tuy nhiên, khi Thượng đế thì cười xuất hiện, người đọc vẫn bất ngờ khi nhận thấy một Nguyễn Khải mới mẻ với chất giọng giễu nhại sắc sảo. Màu sắc “tự trào” hiện ra qua cách xưng hô “lão Khải”, “anh Khải”, “thằng Khải”, “hắn” cùng với những chi tiết giàu chất hài hước, hóm hỉnh. Cái cười của Nguyễn khải vừa bao dung vừa nâng tầm nhận thức về một thời giản đơn và ấu trĩ, đầy ngộ nhận. Những điều vụn vặt lại tưởng lớn lao, những thứ đơn giản lại cố phức tạp và cho rằng thế mới là quan trọng! Người sông Mêcủa Châu Diên cũng sử dụng thủ pháp nhại: nhại nhịp điệu sống quẩn quanh (qua cách tổ chức ngữ điệu, nhịp điệu; nhại các loại giọng, giọng quyền uy bên cạnh giọng dân dã, giọng nghiêm túc và giọng bông phèng...). Hồ Anh Thái cũng là nhà văn có ý thức sử dụng bút pháp giễu nhại thành công và phong cách trần thuật này ám cả vào giọng điệu của nhà văn...

4. Bút pháp tượng trưng

Bút pháp tượng trưng được các nhà văn sử nhằm làm gia tăng chất lượng, ý nghĩa của văn chương đồng thời tăng thêm sức mê hoặc của tác phẩm. Trong tiểu thuyết, màu sắc tượng trưng thường hiện ra qua những chi tiết khác lạ so với logic thông thường. Chẳng hạn nhân vật Mai Trừng trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái. Mai Trừng hiện ra như một thiên sứ có sức mạnh siêu nhiên, trừng phạt cái ác. Nhưng lạ là ở chỗ, kẻ ác nhìn thấy cô đã sợ, nhưng những người yêu thương Mai Trừng cũng không thể gần cô. Nhân vật này đã góp phần đắc lực trong việc bộc lộ chủ đề tác phẩm: đề cao sức mạnh của cái thiện trong cuộc chiến chống lại cái ác và chủ trương hóa giải hận thù. Trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, hình ảnh Từ Vinh dù đã chết vẫn đứng trên sông chỉ tay vào nhà Diên Thành Hầu cũng là chi tiết giàu chất tượng trưng. Bút pháp tượng trưng không chỉ thể hiện qua các chi tiết giàu tính nghệ thuật mà nó còn thể hiện trong việc tổ chức cấu trúc tác phẩm và xây dựng hình tượng. Để thể hiện cái nhìn mới về lịch sử, Võ Thị Hảo đã để cho các nhân vật trải qua nhiều kiếp, miêu tả tiếng vọng của những oan hồn bị giết, thậm chí xoáy sâu vào những chi tiết mà các sử gia đã bỏ qua hoặc không thật chú ý (trường hợp Ỷ Lan giết cung nữ). Nguyễn Xuân Khánh cũng xây dựng hình tượng Sử Văn Hoa như một nhân vật có quan điểm, có tiếng nói riêng không lệ thuộc vào quyền uy, không khuất phục sức mạnh của những kẻ quyền thế. Rõ ràng, Nguyễn Xuân Khánh và Võ Thị Hảo có ý thức lý giải lịch sử theo cách riêng và quan điểm của nhà văn không nhất thiết lúc nào cũng trùng khít với lịch sử đã được ghi chép trong các bộ chính sử.

Bút pháp tượng trưng đặc biệt hiệu quả vì nó có khả năng tạo nên tính đa nghĩa của tác phẩm. Vì có khả năng tái tạo các siêu mẫu, cấp cho các siêu mẫu những bình diện nghĩa mới nên bút pháp tượng trưng làm cho hình tượng trở nên “nhòe” nghĩa. Người đọc phải có năng lực giải mã các hình tượng đẫm chất tượng trưng thì mới hiểu được chiều sâu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Hiện tượng này không chỉ diễn ra với tiểu thuyết mà còn diễn ra trong truyện ngắn. Các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp như Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Con gái thủy thần... đều mê hoặc người đọc bởi tác giả sử dụng bút pháp tượng trưng hết sức hiệu quả. Ngoài việc gia tăng chiều sâu và độ lấp lánh của hình tượng, bút pháp tượng trưng cũng có khả tăng cường sức mạnh ám chỉ trong tiểu thuyết, góp phần mở rộng biên độ của các lớp nghĩa trong cấu trúc tác phẩm.

Tóm lại, sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật đã giúp cho tiểu thuyết vượt qua lối phản ánh hiện thực thông thường để tái hiện cuộc sống trong tính chân thực, sinh động và toàn vẹn. Đó cũng chính là yếu tố hết sức quan trọng tạo nên khoái cảm văn bản cho người đọc khi họ tiếp xúc với thể loại này.

Theo vanhoanghethuat.org.vn

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một cách nhìn khác:




Vài ý nghĩ sau khi đọc “Dị hương” của Sương Nguyệt Minh

Đặng Văn Sinh

(Tập truyện ngắn được Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2010)

VCV giới thiệu bài anh Đặng Văn Sinh như một cách nhìn về Dị hương của Sương Nguyệt Minh,
Các bạn có thể đọc thêm:


Đúng như nhà văn Trần mạnh Hảo đã phát hiện, Giải thưởng của Hội Nhà văn trao cho Sương Nguyệt Minh năm 2010 chủ yếu tập trung vào “Dị hương”, còn những truyện khác đều thuộc loại làng nhàng, giống như hằng hà sa truyện và đã được các nhà xuất bản cũng như mấy trăm tờ báo (kể cả báo văn chương) lề phải theo định hướng XHCN liên tục “xuất xưởng” trong nhiều năm qua. Đó là những truyện ngắn câu khách nặng mùi…tình dục nhưng thiếu tư tưởng được xào xáo sống sượng, sau đó thông qua công nghệ “lăng xê” của các nhà phê bình “cò mồi”(liệu có kèm theo điều kiện?), không ít cây bút lạ hoắc kiếm được tấm vé vào cửa HNV.

Với quy trình sản xuất truyện ngắn như vậy (xin tạm để tiểu thuyết sang một bên, tác giả không dám lạm bàn, vì chỉ cần qua lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn trong đợt trao Giải thưởng cuộc thi năm 2010, thì sẽ biết được tiểu thuyết VN đang đứng ở trình độ nào), tất yếu dẫn đến hệ lụy là hàng loạt tác phẩm na ná giống nhau cứ như là chúng được đúc ra từ một khuôn. Đây là quan hệ nhân quả mang tính quy luật không thể đảo ngược và sẽ còn kéo dài nhiều thập niên nữa theo kiểu “không tiền khoáng hậu”, mặc cho bác Chủ tịch đương nhiệm, người có thâm niên chăn dắt đám văn nhân gần như suốt đời, đã phải hạ bút “điền vào chỗ trống” trong “Báo cáo…” của 4 nhiệm kỳ Đại hội liên tục là “chưa có tác phẩm ngang tầm thời đại”. Ấy vậy, nhưng nếu xét về mặt số lượng, thì  đội ngũ các “nhà”, từ cổ chí kim chưa bao giờ lại hùng hậu như bây giờ. Đấy mới chỉ là nói đến các “nhà” chính danh. Còn một đội ngũ “phó danh” cũng hùng hậu không kém, tính sơ sơ cũng phải hàng vạn của 64 tỉnh thành, (tất cả đều tọa hưởng vào tiền thuế của dân) mà phẩm chất tự tin (hay là thói kiêu ngạo nghệ sĩ dỏm) thì …”dưới vòm trời này, đếch thằng nào bằng ông!”

Trong bối cảnh trên, vớ được “Dị hương”, Hội đồng Giải thưởng tưởng như vớ được vàng ròng. Ai ngờ, đó lại là vàng giả, thậm chí vàng nhái, vàng đểu. Bởi “Dị hương” thực chất chỉ là một đoản thiên nặng mùi tình dục câu khách rẻ tiền, đánh lừa độc giả vốn đã quá ngán ngẩm với thứ văn chương “quốc doanh” được dán nhãn “định hướng”, “đổi mới” giả cầy. Đọc “Dị hương”, người bàng quan nhất với nền văn học “ lề phải” cũng lập tức liên tưởng ngay đến “Kiếm sắc” của Nguyễn Huy Thiệp mà so sánh cái tầm của hai cây bút cùng những vấn đề mà người viết đặt ra. “Kiếm sắc” là truyện ngắn mang tầm tư tưởng lớn. Tư tưởng ấy xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại, thậm chí còn dự phóng được cả tương lai, là thứ mà cho đến bây giờ, nghĩa là hơn hai mươi năm sau khi tác phẩm ra đời, chúng ta mới ngộ ra được phần nào. “Kiếm sắc” trước hết là liều thuốc giải thiêng thần tượng (chưa nói đến thủ pháp tinh diệu lấy quá khứ giải thích hiện tại), sau nữa là minh định những giá trị lịch sử mà bấy lâu nay người ta vẫn ngộ nhận, “trả lại cho Ceasar những gì của Ceasar”. Dưới ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật Gia Long hiện lên như một bậc anh hùng cái thế, nhưng lại rất “Người”với những biểu hiện cụ thể qua những chi tiết đắt giá như đánh rơi kiếm khi nhìn thấy người đẹp Ngô Thị Vinh Hoa, nóng lòng muốn trả thù Nguyễn Huệ nhưng cũng biết nghe lời Đặng Phú Lân nhẫn nhịn đợi thời cơ. Tuy nhiên, cái cao cả hơn hết ở bậc vĩ nhân này là biết được mình đang mang gánh nặng lịch sử trên vai, biết tầm quan trọng của việc mở mang bờ cõi cùng với sự nghiệp quyết tâm tiêu diệt nhà Tây Sơn, thống nhất lãnh thổ.
Gia Long trong “Kiếm sắc” là nhà độc tài nhưng không hề là bạo chúa. Ông là hậu duệ đảm lược làm vẻ vang cho mười ba dòng Chúa Nguyễn vốn có nguy cơ tuyệt diệt bởi bàn tay tàn ác của Quang Trung Nguyễn Huệ. Viết về Gia Long, Nguyễn Huy Thiệp không bôi nhọ chính sử mà chỉ phản biện ngụy sử, một loại sử chép lấy được bất chấp hiện thực khách quan của những  kẻ nắm sức mạnh trong tay, thao túng ngọn bút…

Với “Dị hương” thì khác. Từ cốt truyện đến ngôn ngữ diễn đạt cũng như các chi tiết, tình tiết đều “nhái” một cách trắng trợn “Kiếm sắc”. Có điều, Sương Nguyệt Minh chỉ mô phỏng được phần xác của “Kiếm sắc”, tức là  cái vỏ của câu chuyện, còn phần hồn của nó tuyệt nhiên không hề mảy may có một phân lượng nào. Nói cách khác, “Dị hương” không có tư tưởng mà đơn giản chỉ là chuyện tình dục nhầy nhụa của lũ trai gái mất dạy thời hiện đại được gán cho Nguyễn Ánh, biến ông thành kẻ cuồng dâm, hạ thấp phẩm giá của bậc anh hùng, phỉ báng công chúa Lê Ngọc Bình không chỉ của dòng họ Nguyễn Phúc và họ Lê mà của cả dân tộc Việt.

Cách xử lý bố cục của Nguyễn Huy Thiệp khá bài bản. Cả hai nhân vật Ngô Thị Vinh Hoa và Đặng Phú Lân đều hư cấu nhưng động thái hư cấu ấy lại nằm trong mạch tư duy nghệ thuật thống nhất, phục vụ triệt để cho ý đồ tư tưởng tác phẩm. Đó là khẳng định vai trò quan trọng  của Gia Long đối với lịch sử cận đại Việt Nam. Đặng Phú Lân là kẻ sĩ Bắc Hà, đồng thời là viên văn thần cơ mưu, thuộc hàng tâm phúc của Nguyễn Ánh, cho dù sau này bị Ánh bức tử bằng chính thanh gươm báu của mình. Hãy nghe Lân nói với Gia Long: "Thế là chúa công vẫn quen dùng người thường, ở bậc cao nhân còn gì còn chuyện vô đạo, hữu đạo ? Tâm ở sự thành, đâu phải ở lòng ? Chúng không chịu hiểu là lỗi ở chúng”. Ngô Thị Vinh Hoa là vưu vật của Tạo hóa có vẻ như được thác sinh xuống cõi trần để sánh đôi với người anh hùng Gia Long. Ngón  đàn tuyệt diệu và những ca từ Ngô Thị Vinh Hoa hát làm Gia Long say nàng mê mệt chứng tỏ nhà vua là bậc trượng phu, có linh giác của phẩm chất đế vương, khác hẳn một Gia Lọng hiếu sát, bệnh hoạn của Sương Nguyệt Minh.

Ngoài giá trị tư tưởng, “Kiếm sắc” còn có lối viết nửa hư nửa thực. Ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp lúc ấy tựa hồ như có giác quan thứ sáu “định hướng” làm cho thiên truyện của ông bồng bềnh giữa cõi ma quỷ và cõi người khiến độc giả phán đoán mỗi “nhà” một kiểu, chẳng ai giống ai, thật là một chiêu thức tuyệt luân.

Ngược lại, “Dị hương” là truyện ngắn “bẹt”, chẳng những trăm phần trăm vắng bóng tư tưởng mà còn cố tình bóp méo lịch sử, biến Gia Long thành một bạo chúa, hôn quân, nhân cách vô liêm sỉ. Công chúa Lê Ngọc Bình, trong Phả hệ còn chép, bà đã có với Gia long bốn người con, hai hoàng tử và hai công chúa. Tuy từng là hoàng hậu của Quang Toản nhưng Ngọc Bình vẫn được Gia Long phong làm Đức Phi và yêu chiều như một ái thê, vậy mà Sương Nguyệt Minh dám xuyên tạc bằng cái đoạn  Nhà vua làm tình vô cùng bạo liệt đến mức nàng công chúa út vua Lê Hiển Tông đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh. Hỡi những hậu duệ của Đức Gia Long, các vị nghĩ gì về hành động bôi nhọ này?. Cũng xin nói thêm, chi tiết Lê Ngọc Bình có mùi hương của Sương Nguyệt Minh đâu phải sáng tạo, thực chất là “mượn tạm” từ nhân vật Hương phi trong kịch truyền hình “Hoàn Châu cách cách” của mấy anh Ba Tầu. Trong khi đó, nếu đọc thêm “Phẩm tiết” ta sẽ thấy chi tiết mùi thơm tiết ra từ… của Vinh Hoa (nhân vật xuất hiện trong cả hai truyện ngắn) tuy có vẻ hơi tục nhưng lại  là độc nhất vô nhị, hoàn toàn mang phong cách Made in Nguyen Huy Thiep!

So với Đặng Phú Lân, cũng là nhân vật hư cấu, thì Trần Huy Sán chỉ là gã lưu manh, chuyên dắt gái cho đám đại gia cũng lưu manh không kém của thế kỷ hai mươi mốt. Để tên cò mồi này bên cạnh Đức Gia Long, một lần nữa người đọc lại thấy Sương Nguyệt Minh chịu ảnh hưởng rất nặng nề của loại kịch truyền hình dài tập nhảm nhí của các đồng chí “nước lạ” nhằm  bôi bác tiền nhân, biến chính sử thành trò đùa rẻ tiền mua vui cho đám dân đen ở tầm “văn hóa lùn”. Nhân vật Hòa Thân bên cạnh vua Càn Long xem ra có khác gì Trần Huy Sán?

Ngôn ngữ “Kiếm sắc” là thứ ngôn ngữ lạnh như ánh kiếm báu gia truyền lóe lên khi chém đầu Đặng Phú Lân. Đó là loại ngôn ngữ rất kiệm lời, ý tại ngôn ngoại, cho dù đấy là văn chứ không phải là thơ. Có thể nói, trong mỗi câu văn “Kiếm sắc” đều hàm chứa một tư tưởng nào đó, thậm chí đọc đi đọc lại rồi mới hiểu tác giả định nói gì. Trái lại, “Dị hương” cũng bắt chước câu văn ngắn, dùng dấu chấm đột ngột, nhưng người đọc vẫn nhận ra toàn truyện là những câu văn hụt hơi, rời rạc như một thứ xác ướp không hồn. Chẳng những thế, vốn từ vựng và cách viết câu của “Dị hương” dường như còn thiếu một trình độ cơ bản, nói nôm na là tác giả “chưa sạch nước cản”. Xin dẫn chứng: “Không còn là mỹ nhân thanh mai trúc mã. Thành ngữ “thanh mai trúc mã” là dùng để chỉ đôi trai tài gái sắc rất xứng đáng với nhau ( vẻ đẹp cây mai – vẻ đẹp của cây trúc). Ở đây tác giả chỉ dùng riêng cho Lê Ngọc Bình, chứng tỏ người viết không hiểu gì về cách so sánh này nhưng lại viết liều, dụng ý khoe chữ. “Trần Huy Sán phán rằng”. Lại một câu văn không ổn, bởi  chỉ có các bậc đế vương hoặc kẻ bề trên mới được “phán”, còn Trần Huy Xán là bề tôi đang đứng trước vua mà lại “phán” thì rõ ràng Sương Nguyệt Minh rất mù mờ về chữ “lễ”cũng như tôn ti trật tự trong triều đình phong kiến ngày xưa. Đó là chưa kể những đơn vị đo lường thế kỷ mười tám, mười chín là tấc, thước, trượng (thốn, xích, trượng, ) phải được đặt đúng vào văn cảnh chứ không thể dùng tùy tiện, đại loại như :” đường kính vài mét”. Xin thưa, thời ấy, hệ thống tiêu chuẩn đo lường phương Tây chưa được du nhập vào nước ta.

Đành rằng văn học là có sự kế thừa nhưng tuyệt nhiên người đọc chân chính không chấp nhận loại văn chương nhái ở tầm thấp như “Dị hương”. Thật không hiểu, “con mắt xanh” của các “nhà” trong Hội đồng văn xuôi cất ở đâu mà đề cử một tập truyện nặng mùi sex như thế vào Giải thưởng văn chương cao quý của nền văn học Việt “đậm đà bản sắc” và “ đỉnh cao thời đại”năm 2010?./.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Truyện được giải:


Dị Hương

Sương Nguyệt Minh

Nằm đườn đưỡn tựa hồ cái xác vô hồn. Dị hương sang trọng quý phái thanh tao biến mất. Yểu điệu dịu dàng chỉ còn trong hình cũ bóng xưa. Không còn là mỹ nhân thanh mai trúc mã thuở nào. Chẳng còn ngọc ngà sắc nước hương trời ngày trước. Cứ mỗi lần ân ái xong là Đức phi tam cung Ngọc Bình như con cá ươn nằm trên thớt. Hết sạch hứng thú, lòng lạnh nguội, Nguyễn Ánh chỉ muốn đạp Đức phi ra khỏi long sàng. Đã đôi lần Ánh tức giận và chán chường, muốn gọi thái giám đem nàng đang khỏa thân héo rũ giam vào lãnh cung. Cái gì đã làm cho nàng tàn tạ, ươn lạnh?

Cung tần qua đêm với Ánh, dù ngực hẳn đầy vết hồng đỏ của bàn tay thô ráp cầm kiếm, hai đùi nhiều vết răng bầm tím, sáng ra vẫn nhuận sắc, nuối tiếc trong niềm hân hoan, mắt sáng long lanh, mặt mày rạng rỡ. Mỹ nữ trong vòng tay vần vò của Ánh, dù khi chính ngọ hay lúc chiều tà, ái ân xong vẫn cười tình tứ, mắt ướt rượt, thịt da căng mẩy, no nê, thỏa mãn. Còn Đức phi tam cung, Ánh chiều chuộng nâng niu, vuốt ve, mơn trớn, đam mê cuồng nhiệt. Vậy mà nàng vẫn ở ngoài trái tim tráng niên sung mãn của Ánh. Điều gì khiến lòng nàng băng giá, thờ ơ? Ánh không cắt nghĩa được. Còn một điều kỳ lạ, cứ mỗi lần Ánh ra khỏi long sàng mặc quần áo thì thân thể Đức phi lại nhuận sắc hồng hào, tươi mởn. Dị hương lại vấn vít quyến rũ không dứt… Cũng là điều Ánh không hiểu nổi.
          
*
Vó ngựa phi đến bờ sông An Cựu thì dừng đột ngột. Con ngựa tía chân xước sát bởi cành lá quệt gai đâm không chịu cất thêm nửa bước. Nó nghênh nghênh đầu lắng nghe những câu hát của bọn trẻ chăn trâu thả ra khắp triền sông.
Hơn hai mươi năm trường
Nếm mật nằm gai
Chí cao ngút trời xanh
Vó ngựa xéo nát bàn dân thiên dạ
Trước mặt máu chảy đầu rơi
Sau lưng xương trắng đống gò…

Sự lạ? Một vùng hoang vu. Quạ đen bay rợp trời. Xác binh lính chết như ngả rạ. Đồ khí giới quẳng vô tội vạ. Ngựa què nằm bẹp, máu tím bầm đen. Ruồi trâu bay vù vù. Xe mộc bỏ vương vãi. Đồng không mông quạnh. Xơ xác. Tiêu điều. Thật ai oán thê lương nước lửa và ống đồng. Ánh vốn lạnh lùng đến độc nghiệt, cũng không khỏi xót xa, cô đơn và buồn.

…Đường dọc ngang bôn tẩu
Dị hương bay bất chợt
Vương tướng lòng dạ xốn xang
Ngỡ ngàng say người đẹp châu sa
Đôi chân đạp đổ thành phá lũy
Bồi hồi không qua ải mỹ nhân.
“Gái đâu có gái lạ đời
Con vua lại lấy hai chồng làm vua”

Những câu hát xa gần man mác, hoang liêu vẫn cứ rót vào tai người máu lạnh.
Sinh thời Ánh trọng võ hơn văn. Đất nước tao loạn, ru rú thù tạc những vần thơ cũ mèn nhạt nhẽo thử có ích gì? Chẳng ai lấy được thiên hạ từ những bài thơ kẽo kẹt, à ơi. Bất quá, mua vui được chốc lát qua miệng con hát con đào. Lưỡi gươm chém vào trời xanh mới đáng mặt anh hùng. Ánh rất ghét bọn hủ nho làm thơ. Chúng thường xúm vào tâng bốc, ngợi ca Ánh như một bậc kỳ tài trong thiên hạ chí lớn ngùn ngụt. Cứ như chỉ có Ánh mới đáng mặt lấy thiên hạ từ tay anh em Nguyễn Huệ. Nghe mãi cũng chán. Thực ra, bọn hủ thơ chỉ rặt một lũ ăn bám. Chẳng ích tóp gì. Huống hồ mấy câu hát vặt của trẻ con...
Nhưng sao bọn trẻ chăn trâu cắt tóc để chỏm lại hát: “Gái đâu có gái lạ đời. Con vua lại lấy hai chồng làm vua”?
Có điềm gì tốt hay lành như lời sấm truyền đang rơi xuống bầu trời Phú Xuân?

*
Dưới trướng của Ánh có một nhân vật rất kỳ dị tên là Trần Huy Sán. Sán vốn là bộ hạ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Huệ thấy Chỉnh hẹp hòi, đố kỵ, gian hùng lòng dạ hai nơi nên giết đi. Sán bơ vơ ở Thăng Long một thời gian rồi bỏ vào Nam theo Nguyễn Ánh. Sán người lùn tịt. Chân tay ngắn tủn. Cổ bé, dài ngẵng, chằng chịt những mạch máu như đường gân xanh. Nhưng, đầu to như cái chõ xôi. Tóc búi tó củ hành to như vốc tay. Thật dị biệt. Trí lực hơn người. Tính tình khảng khái. Gàn dở hết chỗ nói. Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Y có cái yếm thắm nhỏ và hai cái dải đứt rời nhau, lúc nào cũng mang theo bỏ trong túi áo. Lúc ngủ thì đắp cái yếm lên mặt. Nhòm rất tức cười. Có một điều kỳ lạ, yếm thắm có mùi hương rất dị biệt. Mỗi lần lấy yếm ra khỏi túi áo là hương bay dìu dịu thoang thoảng xa gần quyến rũ. Bí ẩn hương thơm kỳ lạ ấy từ đâu thoảng đến, chỉ mình y biết. Y có tài văn thơ, hiểu nho y lý số. Những ý nghĩ dù u tối hay ranh mãnh, sáng sủa trong đầu Ánh đều không qua mắt Sán. Ánh tin dùng lắm, luôn cho đi theo cùng trời cuối đất. Kho tàng tri thức Nho học của Sán đã giúp Nguyễn Ánh được cái danh thâm sâu, khỏi tiếng võ biền mà cánh sĩ phu Bắc Hà cao ngạo thường mỉm cười coi rẻ.

*
Thấy minh chủ mặt hằn những điều âu lo, ngẫm ngợi, băn khoăn, Trần Huy Sán liền phán rằng:
“Hạ thần nghĩ, cứ theo những câu hát kia thì âu cũng là điềm trời thả xuống nhân gian. Phen này chúa vương lấy được Phú Xuân, thống nhất bờ cõi là chuyện đại sự dễ như thò tay vào lồng bắt chim sẻ. Nhưng, chúa vương cũng sẽ bắt đầu sống vật vã thật với chính lòng mình, đó cũng là sự lớn của đời người”.

Giương cặp mắt nhìn u ám đầy nghi ngờ, Ánh bảo:
“Ngươi nói ta không hiểu. Ta đồ rằng riêng ý tưởng này cao siêu quá, ngươi lại nói những điều viển vông như đám nho sĩ Bắc Hà rồi. Rõ nực cười”.
Sán lại tâu:
“Thưa chúa vương. Ý chí phục tộc của vương quyết liệt cháy ngùn ngụt như ngọn lửa trong lò bát quái. Người đứng trên thiên hạ nên không thèm để ý đến các điều nhỏ nhặt trong cõi nhân gian và chính mình. Song thần nghĩ, thực ra chúa vương tự hiểu được mình rồng mới là điều khó nhất, hiểu lòng thiên hạ chỉ mới là cái khó thứ hai thôi”.
“Sao ngươi có lắm điều tâm sự thế? Lòng dạ đang ngổn ngang rồi. Có phải ngươi đã nhìn thấy trước mọi việc sẽ xảy ra với ta?”.
“Chính phải. Quang Toản là tên bất tài, bạc nhược. Chúa vương sẽ lấy được tất cả những gì thuộc về Toản kể từ cõi bờ thiên hạ, cung tần mỹ nữ đến con chó con lợn. Chung quy cũng bởi đại anh hùng Nguyễn Huệ vắn số”.
Nghe Sán nói, mặt Ánh tối sầm lại, rút phắt gươm ra, quát: “Ngụy Huệ thiên tài thực, nhưng chỉ là tên giặc cỏ”.
Sán vươn cổ cò dài ngẵng nổi chằng chịt những đường gân xanh rợn chờ một ánh chớp. Ánh chùn tay, tra gươm vào bao. Sán im lặng, không nói gì, lui ra. Sán vừa đi vừa nghĩ: Mai mốt chúa thượng sẽ hân hoan, mình thì khốn nạn, bẽ bàng không kể xiết.“Sự đâu có sự lạ đời/ Con vua lại lấy hai chồng làm vua”. Miệng Sán cứ lảm nhảm mãi, như thằng tâm thần.

*
Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân dễ như trở bàn tay. Được một ngày hân hoan mừng vui, hôm sau buồn hẳn. Ánh đeo gươm đi ra đi vào rồi ngồi ủ dột nhìn sông Hương xanh rợn phẳng lì như ngưng chảy. Mấy con đò vắng khách neo vào bờ, có lẽ chủ sợ hãi loạn binh đao bỏ của chạy lấy người. Nguyễn Văn Thành đang đốc quân truy quét, bắt bớ gia thất, quan lại Tây Sơn lẩn trốn và chuẩn bị cho ngày ra Bắc đánh Thăng Long. Y thấy minh chủ lặng trầm liền hỏi:
“Phú Xuân đã vào tay chúa công. Ba quân nhảy nhót reo ca. Sao Chúa vương có điều gì không vui?”.
Ánh thở dài, bảo:
“Giờ ta mới thấy Sán nói đúng. Ngụy Huệ là bậc đại anh hùng thiên hạ thực. Huệ chết bất đắc kỳ tử, ta mới lấy Phú Xuân dễ dàng như đi vào chỗ không người. Vậy phỏng có vẻ vang kiêu hãnh gì với bậc Chúa vương đại nguyên súy như ta? Tiếc y không còn sống để ta thi thố đường gươm vó ngựa”.
Trần Huy Sán lúc đó đang ngồi thảo bài chiếu yên dân, liền ngừng bút, bẩm:
“Thưa Chúa vương, đất nước mệt mỏi, binh đao loạn lạc đồng không xương trắng đã quá lâu. Chả lẽ, chúa công lại muốn Nguyễn Huệ sống lại để thi thố tài năng trên xương máu dân đen con đỏ?”.
“Ta biết… ta biết… rồi binh đao cũng đến hồi kết. Ngụy Huệ hoặc ta chết sớm thì cuộc chiến tranh mới mau chấm dứt. Nay mai ra Bắc, bắt ngụy Toản cũng chỉ dễ như bắt cua bỏ giỏ. Chả lẽ nước Namnày chỉ còn mỗi mình ta là bậc đại anh hùng? Bờ cõi sẽ thuộc về ta, hạt lúa củ khoai trong thiên hạ, đến cung tần mỹ nữ nhà Tây Sơn cũng thuộc về ta nốt”.

Sán nghĩ thầm trong bụng: Thiên hạ này chỉ có hai kẻ cao ngạo, Sán là một, có dễ Ánh là người thứ hai. Trước sau rồi mình cũng chết dưới lưỡi gươm của Ánh. Lòng dạ Sán ngao ngán, nhớ lại câu hát, lòng vừa phục Ánh lại vừa thầm ghen với Ánh.

*
Phú Xuân yên ổn, Ánh muốn lòng tĩnh lại, tìm về những ký ức mù xa thiếu thời êm đềm và đẫm nước mắt chạy loạn Tây Sơn. Ánh bảo Trần Huy Sán kêu quân lấy thuyền rồng của Quang Toản bỏ lại, ngược dòng Hương Giang.

Nước sông xanh ngắt. Mây trôi dưới dòng. Bao la một vùng non sông cẩm tú. Ánh đứng ở đầu mũi thuyền. Tay nắm đốc gươm báu đeo hông. Đôi mắt hướng lên phía thượng ngàn. Vẫn buồn. Cô độc.
Thuyền ngược dòng đến đoạn ngang Hương Uyển Sơn, Ánh nhìn núi non giống như con sư tử đang nằm thò đầu xuống sông uống nước, liền hỏi một viên quan già. Y kính cẩn tâu rằng:
“Chúa vương bôn tẩu thiên hạ hơn hai mươi năm quên mất rồi ư? Xưa núi này có tên Hương Uyển Sơn, sau đặt lại là Ngọc Trản Sơn, dân gian gọi nôm là núi Chén Ngọc; bởi trên đỉnh núi có chỗ đất trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như bờ giếng. Hễ mưa xuống thì nước đọng lại trông như cái chén đựng nước trong. Ngày xưa người Chàm thờ nữ thần Ponagar ở Hương Uyển Sơn. Sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà với danh xưng Thánh Mẫu Thiên Yana…”

Ánh bảo:
“Ta phải lìa xa Phú Xuân chạy nạn binh đao từ thuở thiếu thời. Những nơi linh thiêng như thế chưa kịp đến. Thật tiếc lắm thay”.
Viên quan già khép nép tâu tiếp:
“Thưa Chúa vương! Nữ thần Ponagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian. Bà tạo ra trái đất và các loại gỗ, kỳ nam, lúa gạo,… và làm cho chúng tỏa hương. Ngọc Trản Sơn lúc nào cũng có mùi hương thơm lạ lan tỏa vấn vít”.
Ánh nghe thấy có vẻ lạ lẫm và thần bí lắm, bèn vẫy quân chèo thuyền cập bến. Phía Tây mặt trời đã gác núi. Hoàng hôn đỏ bầm như máu. Sông Hương xanh trong cũng quặn mình ngả màu đỏ hồng lai láng. Ánh đeo gươm bước ra khỏi thuyền.

Bỗng nhiên lòng dạ Ánh xao xuyến bởi mùi hương lạ ở đâu đó thoảng bay lãng đãng. Đúng như viên qua già tấu, mỗi bậc đá xanh lên núi lại ngửi được mùi hương đậm hơn. Bước thêm vài chục bậc nữa thì gặp người con gái mặc áo thôn nữ. Thị có vẻ ở nơi thâm cung nhàn nhã no đủ, chẳng giống thôn quê đói rách. Tóc đen óng ả buộc sau gáy thả dài chấm gót. Cổ trắng. Tay cũng trắng. Thị đứng án trước mặt Ánh gần như cản đường. To gan lớn mật nhỉ! Mặt mũi sáng sủa, nhưng lem nhem vết nhọ than. Ánh hỏi:
“Người có biết hương thơm lạ lùng từ đâu bay tới?”.
Thị lo sợ. Mặt lộ vẻ hốt hoảng:
“Dạ. Hoa cỏ… núi Hương Uyển”.
“Thì đã rõ! Ta bôn tẩu khắp Đàng Trong, có loại cây cỏ nào ta chẳng biết. Nhưng, còn một hương thơm lạ lùng nữa không phải từ thảo mộc”.
Thị lại càng ấp úng:
“Thưa! Từ thân thể… tiện thiếp… tỏa ra ạ”.
Ánh tức giận, thoáng nghĩ: Con hầu người ở chẳng phải. Cành vàng lá ngọc càng không. Áo xô gai. Chân đất. Như đám đàn bà con gái lần đầu đi làm thợ sơn tràng. Lại dám khi quân ư? Ánh đưa một đường gươm. Chớp lóe sáng lên phạt ngang cổ thôn nữ. Máu đỏ phun lên như mạch nước ngầm hở miệng. Lọn tóc dài tung lên trời bay liệng hình con rồng rồi quấn vào cành cây.
Ánh bước chục bậc đá xanh nữa lại một thị nữ xinh xắn, ưa nhìn, án giữa đường dốc lên. Thêm một con rồng tóc bay lên trời xanh. Ánh lên đến đỉnh Ngọc Trản Sơn thì cũng kịp vung gươm phạt bay năm đầu thị nữ.
“Ta muốn biết hương thơm dị biệt ở đâu bay đến?”.
“Hoa cỏ đất trời Ngọc Trản Sơn chỗ nào cũng có, thưa tráng sĩ”.
“Bàn chân ta xéo nát thiên hạ. Có loại cỏ cây nào ta không biết. Có một thứ hương thơm quý phái nữa không phải từ thảo mộc”.
“Dạ… thưa. Từ thân thể tiện thiếp”.
Ánh lại vung gươm nhưng nửa chừng thì hạ xuống. Ánh bỗng chùn tay không dám chém người người đẹp thứ sáu.
*
Trong điện thờ Thánh Mẫu Thiên Yana, lòng dạ Ánh vẫn bồn chồn. Ánh bước ra ngoài. Lai láng ánh trăng non vàng. Mùi hương lạ cứ vấn vương đâu đó. Tiếng nước xối chảy tong tóc lúc xa lúc gần. Ánh bảo quan quân đứng chờ. Dường như “ma đưa lối quỷ đưa đường”, không, có thể là nữ thần Ponagar dẫn dụ Ánh đi đến bên giếng nước.
Không thể tin được! Một cô gái đẹp như nữ thần Ponagar khỏa trần đang tắm ở thềm giếng. Một tì nữ quăng gầu múc nước. Thân thể ngọc ngà. Những đường cong mẩy nuột nà tưới đẫm trăng non. Ánh bèn lẩn vào bên lùm cây, kéo cành lá, mặt đần ra mê đắm nhìn mỹ nhân tắm. (Sau này Trần Huy Sán viết Phú Xuân thực lục đổ ấn cho Ánh nhòm trộm. Bởi khi nhìn thấy con gái đẹp tắm thì hoàng đế quyền nghiêng thiên hạ hay thằng ăn mày rách rưới cũng giống nhau thôi. Y còn bình rằng: Thật ra, Ánh dòng vương giả hoàng thân quốc thích, nhưng bôn tẩu 25 năm trong thiên hạ gian nan, vất vả, nhiều phen ngủ bờ ruộng chui bụi cây, rập rạ, khốn cùng, tuyệt vọng... Bấy giờ, bỗng dưng bắt gặp con gái đẹp khỏa thân tắm giữa đất trời cây cỏ thì như lạc vào cõi vừa trần tục vừa thanh cao, không nhòm trộm mới là giống nửa đàn ông nửa đàn bà. Điều này không biết thực hư thế nào).
Mùi hương lạ lúc ngào ngạt lúc vấn vương thoảng bay. Ánh nhận ra mùi hương da thịt con gái đang hứng tình nồng nàn trộn lẫn mùi bạch lan đài các và cỏ thi dân dã quý hiếm. Ánh ngẩn ngơ bởi dị hương và vẻ đẹp con gái khỏa thân giữa cây cỏ thiên nhiên. Bất ngờ, tay Ánh vô tình làm gẫy cành cây nhỏ. Con tì nữ ngang ngạnh hắt gầu nước về phía tiếng động và lớn tiếng quát. Quần áo người hùng vừa lấy kinh thành Phú Xuân ướt lướt thướt. Ánh bèn phải bước ra.
Trăng đầu tháng chênh chếch. Bóng Ánh đổ dài kéo thành vệt đến giếng nước. Mỹ nhân vội khép hai đùi, một tay che hai trái tuyết lê căng mẩy, một tay che đám lông mu đen mượt. Thực ra, mỹ nhân không cần phải hốt hoảng che đậy vì chỏm đầu của Ánh đã đổ bóng đen lên ngực nàng.
“Tự nhiên... Nàng cứ tự nhiên như thể ta chưa từng nhìn thấy”.
Mỹ nhân có vẻ trấn tĩnh lại song vẫn lóng ngóng, chân gạt đổ ào lu nước. Cái lu gốm đất nung lăn lông lốc. Ánh lưỡng lự, nửa muốn bước vòng qua thành giếng tiến lại gần, nửa muốn đứng im nhìn mỹ nhân trong bóng trăng mờ ảo. Cuối cùng thì Ánh quay gót trong sự ngập ngừng nuối tiếc.
“Tráng sĩ đã tha mạng cho tiện thiếp, thì hoàng hậu chắc chắn sẽ bình an. Xin hoàng hậu đừng sợ”.
“Hoàng hậu!” Sao lại là hoàng hậu? Thảng thốt trong lòng, Ánh quay lưng, bước lại. Mùi hương dị biệt lại ào vào mặt Ánh. Con tỳ nữ đứng án ngữ che gần hết thân người đẹp. Ánh dùng sống gươm khều xiêm y đang treo vắt vẻo trên cành cây bứa hất mạnh. Xiêm y bay vèo qua giếng nước. Tì nữ giơ hai tay đón được.
“Mặc xống áo vào cho mỹ nhân”.
Ánh nói xong rồi ngồi vắt lên thành giếng xây bằng đá xanh. Bao gươm xệ một bên hông. Bóng Ánh đổ xuống hòa lẫn mặt nước tối om. Lòng dạ ngẩn ngơ, miệng Ánh cứ lẩm bẩm: “Mỹ nhân… Hoàng hậu… Mỹ nhân…”.
Người đẹp đã trấn tĩnh lại bước đến gần, buông gót nhẹ nhàng, êm ái, giọng nói thanh và tự tin, phong thái ung dung:
“Này tướng Gia Định. Ngươi hãy về nói với Nguyễn Vương rằng ta đã chờ cái thời khắc này từ lâu rồi”.
Ánh sửng sốt. Bao nhiêu cái đầu lăn lóc dưới đôi chân bôn tẩu của Ánh. Nàng đã không hề sợ lưỡi gươm sáng lạnh. Ánh thầm khen và kêu quân hầu đưa mỹ nhân xuống thuyền, rồi đứng dậy đi trước.
Còn một người nữa lòng dạ đầy ngổn ngang bước chân nặng chình chịch đi theo sau là Trần Huy Sán. Y đã chợt nhận ra người xưa. Vẫn vẻ đẹp trẻ trung ấy, nhưng đã pha màu đậm đà. Y cũng nhận mặt bọn tì nữ ăn mặc theo lối nhà quê trốn sự truy tìm của quân nhà Nguyễn. Y bồi hồi nhớ lại thời còn ở kinh kỳ Thăng Long…
*
Mỹ nhân là cô bé lên mười hai tuổi đã phổng phao, sáng rỡ, tóc dài đổ óng mượt chấm gót. Y mê mẩn nàng đến nỗi mỗi khi gặp là cứ lẽo đẽo bước sau lưng. Lại làm không biết bao nhiêu thơ lấy cảm hứng từ nàng. Một lần có trận lốc khủng khiếp. Vòi rồng cuốn cả kho tiền đồng, quần áo vua quan, xiêm y cung tần mỹ nữ trong cung bốc lên trời rồi ào ạt ném tóe loe, vương vãi ra ngoài thành. Lúc đó, y đang ngẩn ngơ đi lẽo đẽo sau người đẹp cũng bị chìm trong lốc giông. Lòng tham mỗi người một vẻ. Đám thảo dân, binh lính đi tuần tranh nhau nhặt tiền đồng, trang phục vua quan, xống áo cái ướt cái khô… đến bươu đầu mẻ trán trong mù bụi. Chỉ riêng y lại chạy đuổi theo cái yếm thắm chao liệng như cánh diều hồng trên không trung. Chân y ngắn tũn chạy liến thoắng đến mức đám tì nữ cười ngặt nghẽo, quên cả cơn mưa tiền, mũ mão, xiêm áo. Cuối cùng y cũng nhẩy cẫng lên tay nắm “cái diều hồng”. Lập tức lòng dạ Sán mê mẩn bởi mùi hương kỳ lạ thoang thoảng từ cái yếm. Bọn tì nữ theo hầu nhận ra yếm thắm của mỹ nhân.
“Trả lại yếm cho công chúa út đi”.
Sán không chịu, còn ấp cái yếm thắm lên mặt. Bọn tì nữ quát:
“Đồ vô lễ. Ngươi muốn chết à?”.
Sán cứ khư khư giữ chặt vật báu trong tay. Rồi vươn cổ như cổ cò gân xanh nổi chằng chịt ra đợi chém.
Công chúa nhỏ hồn nhiên nhìn cái đầu to đùng cắm vào cổ dài ngẵng kì dị thích thú quá, bảo:
“Yếm nhặt được là yếm vô hồn. Ngươi cầm giữ phỏng có ích gì?”.
Sán lưỡng lự đôi chút, dứt phắt hai cái dải yếm rồi mới trả. Công chúa nhỏ không giận. Lúc đó, tự dưng nàng cảm động, trong lòng trào lên một niềm yêu quý không cắt nghĩa được. Cả đám quan quân và thảo dân tranh nhau hôi của vòi rồng cuốn không ra thể thống gì. Chỉ mỗi mình y bỏ qua tiền của, theo đuổi cái yếm thắm. Cũng là một con người dị thường.
“Yếm không dải còn làm gì được nữa. Thôi, ta tặng ngươi”.
Y bất ngờ quá, đứng trân trối.
“Tiếc rằng ngươi không dũng mãnh anh hùng như Nguyễn Huệ; kỳ tài, nhẫn nhịn nuôi chí đoạt lại thiên hạ như Nguyễn Ánh để ta chọn làm chồng. Ánh còn bôn tẩu nơi chân trời góc bể. Huệ đã lấy Ngọc Hân chị ta, lại cũng đã chết sớm rồi. Thật hoài phí lắm thay”.
Công chúa than thở rồi vẫy đám tì nữ bước đi. Những bóng hồng xa mờ mà Sán vẫn đứng nghệt mặt nhìn theo. Tay nắm dải, tay nắm yếm chặt cứng…
*
Đèn lồng và nến sáng rực. Mặt nước sông Hương lung linh ánh trăng non lẫn ánh đèn. Ánh khoác trang phục màu vàng uy nghi, ngù vai, vương hiệu lóng lánh trên ngực áo. Bấy giờ, mỹ nhân mới nhận ra Nguyễn Vương, lòng đầy cả thẹn, e lệ và mừng vui. Thực ra, nàng nhận ra cái thân hình ngắn tũn kỳ dị và cái mặt bần thần của Trần Huy Sán trước, muốn hỏi thăm vài câu về Thăng Long mà chưa tiện.
Giọng vương giả, quyền uy, Ánh hỏi:
“Có phải nàng là công chúa Ngọc Bình?”.
Khoan thai, ung dung tự tại, mỹ nhân đường hoàng thưa:
“Chính phải. Thần thiếp còn là Chính cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn Cảnh Thịnh Hoàng đế Nguyễn Quang Toản, thưa Nguyễn Vương!”.
Ánh cau mày, tức giận, quát to đến nỗi bao gươm đeo bên hông gõ xuống ghế rồng cạch cạch. Không gian tràn ngập mùi binh khí lạnh lẽo rợn đến ghê người:
“Tây Sơn chẳng qua là một lũ giặc cỏ, chẳng có tên nào là đế vương trong mắt ta. Ta không muốn nghe nàng nhắc đến tên Toản đớn hèn, bất tài”.
Mỹ nhân bỗng thở dài. Các huyệt, và những lỗ chân lông đóng chặt cứng. Mùi dị hương biến mất. Nỗi buồn tê tái lộ rõ vẻ thất vọng trên gương mặt quí phái:
“Thời nhỏ, thần thiếp nghe đồn chỉ có Nguyễn Vương mới sánh được bậc đại anh hùng trong thiên hạ Nguyễn Huệ. Thần thiếp đã lâu vốn lòng kính phục, yêu dấu. Té ra Nguyễn Phúc Ánh cũng hẹp hòi nhỏ nhen chưa bằng Quang Toản chồng ta vậy”.

Nói rồi mỹ nhân lao đầu vào sập rồng tự sát. Ánh nhanh tay túm được vạt xiêm. Mỹ nhân mất thế, loạng choạng đổ nhào. Ánh đỡ được mỹ nhân, ôm choàng vào lòng. Thân thể Ngọc Bình mềm oặt trong tay Ánh. Lụa xiêm mềm mại mát rượi. Hơi thở mỹ nhân nóng hổi vấn vít mùi hương. Máu bốc hỏa lên đầu Ánh dịu hẳn. Tay phải Ánh vẫn nắm chặt mảnh xiêm y vừa bị xé toạc.
“Sao nàng lại liều thân như thế. Nàng đã ở bên ta đâu mà biết được đâu là vương giả đâu là tiểu nhân, đâu là vàng thau?”.

Mỹ nhân vẫn nhắm hờ mắt, như chết lịm. Nỗi buồn lặng thầm hằn trên gương mặt khả ái làm vẻ đẹp của nàng càng thêm mặn mà. Lòng Nguyễn Vương quặn thắt, suýt nữa thì làm vỡ ngọc quý:
“Sao mỹ nhân nói rằng, mỹ nhân chờ đợi thời khắc gặp Ánh này đã lâu?”.
Ngọc Bình chợt nhớ ra điều gì đó. Nàng như từ xa xăm trở lại trần gian:
“Nguyễn Vương thừa biết thần thiếp chờ đợi điều gì rồi còn hỏi”.

Nói rồi, Ngọc Bình nép sát đầu vào ngực Ánh. Lòng dạ Ánh nôn nao, cồn cào như sóng biển Tây Nam. Bọn Lê Văn Duyệt, theo hầu lúc đó bối rối nửa muốn đi nửa ngồi lại. Trần Huy Sán rầu lòng quá, lại thêm chút bẽ bàng, thò tay lấy yếm thắm trong túi áo ra lúc nào chẳng biết. Mùi binh khí khét lẹt lạnh lẽo nhạt dần, mùi dị hương thoảng đưa. Ánh chợt nhìn thấy Sán cứ bần thần mân mê yếm thắm. Ánh lộn tiết, cho rằng Sán chơi trò ma thuật phù thủy, bèn quát lính lôi ra chém. Y lại vươn cổ ra.
Ngọc Bình ngăn Ánh lại, kể vắn câu chuyện vòi rồng hút kho tiền ở kinh kỳ Thăng Long, rồi tâu:
“Thưa Nguyễn Vương! Thần thiếp cũng không ngờ Sán giữ cái yếm từ dạo ấy. Thần thiếp thật cảm động”.
Ánh bảo:
“Hóa ra, dị hương lãng đãng tỏa ra từ cái yếm thắm của nàng chứ không phải từ cơ thể thằng khốn này”.
Đoạn Ánh quay ra bảo Sán:
“Vậy là, người hạnh phúc trước cả ta rồi”.
Sán nhét cái yếm thắm vào túi rồi rũ tay áo, cung kính tâu:
“Dạo còn ở kinh kỳ Thăng Long, hai đấng kỳ tài mà công chúa khao khát được thành thân hoặc là Nguyễn Huệ hoặc Nguyễn Ánh, chứ không phải hạ thần”.
Bấy giờ Lê Văn Duyệt mới lên tiếng:
“Chúa thượng bình sinh khắp thiên hạ, binh đao nước lửa từng qua, lụa là châu báu, gái đẹp không thiếu. Hà cớ gì phải hạ mình trước con đàn bà vợ ngụy Quang Toản? Bọn thần lấy làm đau lòng và bẽ bàng lắm lắm”.
Ánh cười gằn, bảo:
“Bọn các ngươi không nghe câu thơ cổ: "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng". Nàng còn hơn cả danh tướng. Ta được nàng như được nửa cuộc đời”.
Cả bọn thấy Ánh cười gằn lạnh như ánh chớp đường gươm thì không ai bảo ai, đều lui ra.
*
Đêm ấy, Ánh hạ lệnh neo thuyền rồng giữa sông Hương, bày trò hát múa. Nửa chừng cuộc vui, Ánh đã xao xuyến, thổn thức nhìn Ngọc Bình âu yếm lắm. Ánh cảm thấy có lỗi với nàng, than thở, ra chiều thương xót bọn cung nữ đã bị mình chém ngang cổ. Mỹ nhân nhìn Ánh, trìu mến cười hiền hậu, thưa:
“Ơn trời! Vương đã không phạt đầu đứa cung nữ nào của thiếp. Của đáng tội, chúng mất mái tóc dài cũng tiếc, nhưng được toàn thân. Chúa công không thấy chúng đang xúm quanh thiếp đấy sao”.
Ánh kinh ngạc lắm, chẳng hiểu mình đã làm gì với đám cung nữ. Dọc đường cầm gươm lên Ngọc Trản Sơn cứ hư thực tựa hồ như trong mơ vậy. Nhìn đám cung nữ xinh đẹp của Ngọc Bình, tóc đứa nào cũng bị phạt thả lòa xòe chấm vai, trông rất ngộ. Ánh cứ luôn miệng lẩm bẩm:
“Chả lẽ… chả lẽ… gươm của ta chưa vấy máu cung nữ”.

Ánh uống rượu đến tận khuya rồi vào khoang đã kê long sàng ngủ với Ngọc Bình. Ánh cầm gươm đưa những đường tuyệt kỹ như múa, nhẹ hơn gió thoảng. Loáng một cái cắt nát xiêm y, lụa bay tung lên rồi rơi xuống tơi tả. Như bị bóc trần, mỹ nhân khỏa thân hoàn toàn, mà mũi gươm không hề chạm đến da thịt ngọc ngà. Thuyền rồng lắc lư, dềnh lên dập xuống. Sông Hương nổi sóng. Tiếng rên rỉ trong niềm khoái lạc tột cùng của Ánh tựa hồ tiếng binh khí chạm vào nhau lan ra mặt sông làm váng đầu quan quân. Cá chép ở thượng nguồn xuôi về. Con đực bám đuôi con cái, quẫy ùm ũm giao phối không đợi mùa động dục. Cả khúc sông Hương nổi đầy màng nhầy trong suốt lấm tấm trứng cá, nồng nàn mùi đực cái. Từ lính, quan đến cung tần không ai ngủ nổi. Lại có một người ngũ đoản, cổ dài, đầu to đứng còm cõi ở mũi thuyền. Một lúc sau, cũng không chịu được tiếng rên lạnh lẽo của Nguyễn Ánh, y rút gươm khỏa lia lịa xuống dòng sông. Cá chép động dục bị các đường gươm cắt đôi nổi trắng, máu loang đỏ bầm. Kỳ lạ thay, chỉ những con cá đực bị chết tức tưởi mà chẳng biết lý do gì.
Trên long sàng, Nguyễn Ánh cảm thấy dễ chịu, thỏa mãn và kinh ngạc phát hiện ra điều bí mật:
“Ta không thể tin được nàng vẫn còn trinh trắng”.
Hai mắt sáng rỡ, lấp lánh. Nụ cười tươi tắn đầy thõa mãn, Ngọc Bình úp mặt vào vồng ngực vâm váp của Ánh, thưa:
“Thần thiếp đội ơn nhuần mưa móc của người. Sáu năm thần thiếp làm vợ Quang Toản, chưa một ngày được làm đàn bà đúng nghĩa. Phải như vương năng lượng đế vương thừa thãi, tính dục đàn ông dồi dào. Thần thiếp lấy làm sung sướng mãn nguyện lắm”.
Ánh bảo:
“Ta thấy làm lạ. Hóa ra, ngụy Toản là thằng vua liệt dương! Thật phí đời mỹ nhân cành vàng lá ngọc”.
“Toản lấy thần thiếp chỉ để ngắm nhìn, để ngửi mùi hương. Thần thiếp như cây trầm hương bị phong bao trong lầu son. Không! Như cây khô héo trên cánh đồng mùa hạn”.
“Ta thương nàng giường chiếu với một thằng trẻ ranh èo uột, trí đoản. Hắn đâu xứng với nàng”.
Hai người lại chìm vào biển ái ân nóng bỏng. Đang lúc Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực, Ngọc Bình rợn người, sững lại. Hai chân dài khép chặt. Người lạnh giá như đồng. Ánh thấy lạ hỏi:
“Sao nàng rùng mình, co rút người thế?”.
“Bỗng dưng, thần thiếp ngửi thấy mùi máu tanh tưởi, mùi cháy khét của binh khí chạm nhau lẩn quất ở long sàng này”.
Ánh nghênh mũi hít ngửi.
“Làm gì có! Làm gì có!”.
“Xin vương cất kín thanh gươm đang treo lủng lẳng kia đi. Thần thiếp sợ hãi lắm”.
Nửa đêm về sáng, Ngọc Bình mệt quá, mềm oặt, nằm không động đậy, như con cá chuối chết. Ánh nhìn thân thể ngọc ngà đang có chiều trắng bệch, xót xa, bảo:
“Có phải ta quá ham vui làm nàng mệt mỏi?”.
“Không! Tự nhiên thần thiếp thấy mình trống rỗng. Lúc đầu ân ái đam mê cuồng nhiệt bao nhiêu thì sau đó lãnh cảm bấy nhiêu”.
Ánh thở dài. Lại nghĩ: Ngọc Bình nhìn long sàng, thuyền rồng mà nhớ nhung Quang Toản trong lúc ái ân. Đang khi tranh tối tranh sáng, Ánh kêu quân hầu mang võng tía lên sườn núi tìm cây giăng mắc. Ánh bế Ngọc Bình đi lên theo. Sương đêm lành lạnh bay mỏng nhẹ như màn buông. Gió sông vẫn thổi không dứt quằn quặn. Gai người.

Đại giám quân Lê Văn Duyệt thức khuya, mệt phờ phạc ra sức can ngăn:
“Chúa công hãy giữ mình rồng. Trước đây bôn tẩu gặp đâu ngủ đấy, cùng đường chạy giặc cỏ thì không nói làm gì. Nay đã có kinh kỳ Phú Xuân vàng son lộng lẫy, chúa vương nên về long sàng mà ngủ. Sao người cứ phải vui thú dập dạ trên cỏ cây như lối bọn thợ sơn tràng hạ dân”.
Ánh đang ẵm mỹ nhân, tức giận quá một tay quắp nàng một tay chỉ vào mặt Duyệt:
“Sao đế vương khổ thế!? Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư? Chả lẽ cái việc ngủ với đàn bà con gái mà còn phải hoãn cơn động cỡn lại chờ về nơi lầu son gác tía? Ta là chúa vương tối cao, ta thích sang trọng sẽ được sang trọng, ta muốn dân dã, lấm láp là được lấm láp. Ta không bằng một thợ cày sao? Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học”.
Mắng xong, Ánh bế phắt mỹ nhân đi như chạy. Bọn Lê Văn Duyệt không dám kêu can nữa. Còn vài canh về sáng, Ánh ngả mỹ nhân ra võng. Mỹ nhân chân dài quắp chặt hông lưng Ánh như hai con trăn. Hai tay vít chặt lưng vai Ánh, mặc cho võng bùng nhùng, dập dềnh. Rồi võng lắc hơn bị bão gió. Lá xanh rụng tơi tả. Hai đầu dây võng thay nhau giật cục thân cây. Có lúc hai ngọn vít vào nhau rồi bật trở ra. Chim chóc đang ngủ ban đêm bị đánh thức bay toán loạn. Voi, gấu, hổ, lợn lòi ở khu rừng bên cạnh vểnh tai nghe và nhăn mũi hít ngửi, động rồ chạy đi tìm đồng loại khác giống. Cả một vùng non ngàn rộn rã bước chân thú và tiếng kêu van vỉ gọi bạn tình, ầm ĩ như động rừng…
Sáng ra, Ánh thức dậy, ngái ngủ và mệt bã. Các khớp xương lục cục, mỏi rã rời. Ngọc Bình nhợt nhạt, mất hồn, thất sắc. Dị hương không còn, chỉ có mùi cỏ cây ải mục ngai ngái xông lên. Ánh ngạc nhiên thấy dây võng đứt mà vẫn đưa chao trên mặt đất. Té ra, nối hai đầu võng với thân cây là hai con trăn. Trăn đực, trăn cái đều ngóc đầu nhìn Ánh thân thiện, hiền từ và nhẩn nha vặn mình đưa võng nhè nhẹ. Ánh phát kinh nghĩ đến chuyện ma quỷ liền nhảy xuống đất, tháo thân lên thuyền giục quan quân giong buồm về Phú Xuân.
*
Trơ trọi một mình nằm trên long sàng. Ánh kinh hoàng ngỡ mình vừa trải qua cơn mê, bèn gọi Lê Văn Duyệt lại hỏi. Duyệt xác nhận câu chuyện ma quỷ ấy là có thật và khuyên Nguyễn Vương hãy vì đại sự quốc gia mà quên nàng Ngọc Bình. Ánh cũng thấy chút bẽ bàng của bậc quân vương, gật đầu chấp thuận.

Nguyễn Văn Thành chuẩn bị chiến thuyền, binh bộ trong cả tuần trăng cho cuộc tiến quân ra Bắc thì cũng ngần ấy ngày Ánh sống trong ủ ê, héo rũ. Có hôm bỏ bữa quên ăn. Người gầy đi mấy phần. Ánh không thể quên được nàng Ngọc Bình. Lúc nào cũng cảm thấy mùi hương lạ thoang thoảng xa gần. Không chịu nổi nỗi nhớ dày vò, Ánh lại kêu quân lính giong thuyền ngược sông Hương. Ánh leo lên Ngọc Trản Sơn. Núi vắng teo. Điện thờ thánh mẫu Thiên Yana quạnh hiu, không hương khói. Ánh nhìn quanh chỉ thấy những lọn tóc đen dài như con rồng quấn trên cành cây. Ánh cảm thấy cô độc, trống rỗng vô cùng.

Về Phú Xuân, Ánh ốm liệt giường. Lúc nào cũng chìm trong mộng mị ân ái với nàng Ngọc Bình ở Ngọc Trản Sơn. Ánh ân hận, cứ nghĩ mình bỏ rơi nàng lại Ngọc Trản Sơn. Ngày phát lệnh tiến quân ra Bắc đến gần mà bệnh tình của Ánh không nguôi. Việc đại sự quốc gia có nguy cơ hỏng. Bọn Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành biết minh chủ ốm tương tư liền kêu nhau phủ phục tận long sàng thưa:
“Ngụy Toản vẫn còn. Giang sơn chưa về một mối. Chúa vương suốt ngày thương nhớ một con đàn bà đến ốm o, mòn mỏi thì thần dân biết trông cậy vào ai?”.
Ánh bảo:
“Người xưa nói: Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”.
Lê Văn Duyệt lại phủ phục:
“Thưa chúa vương! Công chúa Ngọc Bình xinh đẹp sắc nước hương trời thật, nhưng lại là hoàng hậu nhà Tây Sơn, vợ kẻ thù hận”.

Ánh cả giận, mắng:
“Ta đoạt lại thiên hạ từ giặc cỏ Tây Sơn, thì cành cây ngọn cỏ cũng thuộc về ta, huống chi là vợ Quang Toản. Vả lại, các ngươi là anh hùng thời loạn chỉ biết hùng hục đánh nhau chém giết, có biết yêu thương bao giờ mà hiểu được lòng ta. Các ngươi là hạng đàn ông võ biền chỉ nghĩ đến chuyện đực cái trần tục, đâu có biết cái thứ mùi hương kỳ lạ thanh tao tỏa ra từ ngọc thể của nàng”.
Nguyễn Văn Thành thì đỏ mặt. Đại giám quân Lê Văn Duyệt vốn là kẻ ái nam ái nữ ngượng ngùng, bẽ bàng quá. Hai đại thần không thể ngấm ngầm giấu mỹ nhân Ngọc Bình mãi, đành phải đưa nàng lại bên Ánh. Ánh cả mừng. Bao nhiêu bệnh tật trong mình bay biến hết. Ánh bảo:
“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Tội các ngươi đáng chém. Ta được nàng là được thêm một “danh tướng”. Ta không muốn được danh tướng mới thì mất danh tướng cũ. Thôi, ta tha”.
Lưỡng lự một lát rồi Ánh túm ngực áo gầm lên:
“Sao các ngươi không hiểu lòng ta nhỉ?”
Bọn Thành, Duyệt ngơ ngác và bất lực, lui ra.
Suốt mấy tuần sau đó. Tiếng cười như binh khí chạm vào nhau đêm nào cũng văng vẳng trong không trung. Đất trời Phú Xuân sáng láng, tưng bừng. Cứ y như mùa xuân về sớm. Cây cối, cầm thú rạo rực mùa động tình.
*
Nhiều năm trôi qua.
Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long, lập Ngọc Bình làm Đức phi tam cung và yêu chiều vô cùng. Ánh sai đúc bồn tắm bằng vàng, thả những cánh hoa lan trắng cho đức phi tắm. Lại sai người lên tận rừng rú miền tây Quảng Nam tìm hương trầm về đặt trong cung của nàng. Và Đức phi tam cung cũng kịp đẻ cho Gia Long hai hoàng tử và hai công chúa.

Nhưng, thật trớ trêu, Ánh càng yêu quý đức phi Ngọc Bình bao nhiêu thì nàng lại càng thờ ơ, lạnh lùng bấy nhiêu. Ánh không hiểu nổi, trong lòng ủ dột vô cùng.
Bỗng dưng, Ánh nhớ đến chuyện xưa từ biệt nàng Tống Thị Lan với thoi vàng chặt đôi. Dạo ấy là mùa thu năm Quý Mão, Ánh bị quân Tây Sơn đuổi chạy dài. Đường cùng phải phiêu dạt ra Phú Quốc, đói khát hiểm nguy, tuyệt vọng tưởng tận số. Trước lúc sang Xiêm La, Ánh lấy thoi vàng ra chặt vát làm đôi, đưa cho Nguyên phi một nửa, rồi bảo:
“Nay ta phải đi Xiêm. Nàng ở lại cung phụng quốc mẫu. Ta bôn tẩu nơi chân trời góc bể chẳng biết ngày nào gặp lại. Đành lấy vàng này làm tin vậy”.
Nguyên phi phục xuống khóc dòng, vâng lời. Bao nhiêu năm nàng tần tảo hầu hạ mẹ chồng và thân hành may dệt trang phục giúp việc quân. Sau này, Ánh thu lại bờ cõi, có sum họp với đức nguyên phi nhưng dần cũng thưa vào ra cung nàng.

Bấy giờ, đang ủ ê với nàng Ngọc Bình, Ánh nghĩ: Mình lạt lẽo với Đức nguyên phi quá. Gắn bó với nhau lúc khốn cùng thì chẳng có mỹ nhân nào bằng nàng. Ánh bèn bảo thái giám đưa đến cung Nguyên phi.
“Nàng còn cầm giữ nửa thoi vàng xưa không?”.
Nguyên phi cung kính dâng:
“Thần thiếp dù nhịn đói, mặc rách, chứ quyết không bội tín”.
Ánh cầm nửa thoi vàng bị nhát kiếm chặt vát ngày xưa, cảm động lắm:
“Nàng còn giữ được vàng xưa là do ân trời đất giúp lúc khó khăn hoạn nạn. Ta không thể quên lãng. Phải để dành vàng này cho con cháu mai sau biết”.
Nói dứt lời, Ánh lấy nửa thoi vàng mình đang giữ, ráp với nửa thoi vàng của Nguyên phi thì vừa chằn chặn. Rồi giao hết cho nàng cất giữ.
Đêm ấy, Ánh ở lại cung Nguyên phi. Cảm giác ái ân vội vàng, thấp thỏm lúc chạy nạn quân Tây Sơn đuổi lại ùa về. Ánh quên hẳn mình đang ở giữa kinh thành Phú Xuân lộng lẫy vàng son.
*
Sau này, Trần Huy Sán bất đắc chí với đời. Y có viết một chương trong Phú xuân thực lục có đoạn rằng:

Thật là trớ trêu ở đời! Nguyễn Huệ Quang Trung chồng Ngọc Hân công chúa; Nguyễn Phúc Ánh Gia Long lại là chồng công chúa Ngọc Bình; hai kẻ cừu địch không đội trời chung bỗng dưng lại trở thành anh em “cột chèo”. Ta đồ rằng: Gia Long lấy Ngọc Bình chẳng phải là yêu chiều cành vàng lá ngọc mà là núp dưới chiêu bài tâm lý chiến bẩn thỉu để đoạt lại đến tận cùng nhà Tây Sơn, kể cả cái dị thường hư ảo. Ánh làm chính trị thâm độc, nghiệt ngã và khôn ngoan hơn Nguyễn Huệ…

Một đoạn khác viết:
Những năm cuối đời, Ngọc Bình sống trong cô đơn và thất vọng. Mỗi lần ở bên Ánh, nàng không chịu đựng được mùi binh khí lạnh lẽo va chạm vào nhau. Ta đồ rằng: 25 năm bôn tẩu, ý chí phục tộc ngút trời cao, Ánh đã bước qua bao nhiêu xác người, xác ngựa; đi qua bao nhiêu mộc, khiên, câu liêm, giáo, mác, gươm, kiếm… nhuốm máu. Mùi tanh của máu người, mùi khét lẹt của binh khí va chạm tụ lại thành mùi chết chóc ngấm vào da thịt Ánh. Vì vậy cứ mỗi lần ân ái xong là dị hương bị hút kiệt. Không! Mùi máu tanh tưởi và mùi khét binh khí đã lấn át trùm lấp, không cho dị hương của nàng tỏa ra.
Người xưa nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Ta đồ rằng: Nguyễn Huệ Quang Trung có sống lại cưới Ngọc Bình công chúa thì khát vọng của nàng cũng chìm trong bi kịch tuyệt vọng y như đoạn đời nàng sống với Nguyễn Ánh Gia Long.

Nghe đồn Đức tam phi đọc được đoạn này thì gật đầu. Nước mắt chảy lã chã hai hàng đỏ như máu.
Một đoạn khác Sán viết:
“Ánh là Tà hương, là âm u, lạnh lẽo, thiên về sức mạnh độc đoán. Ngọc Bình là Dị hương, là mùi thơm vừa trần tục vừa thanh tao, dịu dàng mà quý phái, cuồng dại mà thanh bình…chỉ hợp với Sán này”.
Có kẻ bên cung Nguyên phi ghen ghét Sán, trộm được Phú Xuân thực lục bèn dâng lên Nguyễn Ánh Gia Long. Ánh nghĩ: Té ra dị hương chưa bao giờ thuộc về mình mà lại thuộc về Sán. Có lẽ cái yếm thắm như một trò ma thuật. Y lại còn dám rủa ta là tà hương.

Ánh cho gọi Sán đến, mắng:
“Rút cuộc, ngươi cũng là loại phù thủy chọc gậy vào bánh xe”.
Sán bảo:
“Hạ thần chưa một lần xảo trá, luôn nghĩ và nói đúng sự thật”.
Ánh rút gươm khều lấy cái yếm thắm trong túi Sán, rồi mắng tiếp:
“Không những ngươi ám ta mà còn giở trò ma thuật để hút hồn đàn bà con gái đẹp”.
Sán im lặng trơ lì như đá.
“Lại còn cao ngạo nữa. Coi trời bằng vung. Tội ngươi thực đáng chém đầu”.
Sán vươn cổ cò ra như thách thức.
Một chớp sáng ngoằng như sét đánh giữa trời quang mây tạnh. Lần này, Ánh chém thật. Cái “chõ xôi” lăn lông lốc, rồi dừng lại, mắt Sán hấp háy, miệng nhếch mép cười cợt. Bỗng dưng, mùi dị hương ở đâu đó dào dạt xông lên rồi, mất hẳn. Về sau, có kẻ phán bừa rằng: dị hương ở yếm thắm đã tẩm hết vào người Sán. Khoảnh khắc đầu lìa khỏi cổ, chút dị hương còm ấy rút ra kết vón lại theo hồn vía Sán thăng thiên.
*
Đêm ấy, lòng dạ Ánh bồn chồn không yên.
Trăng hạ tuần đã gác mái điện Cần Chánh, Ánh vẫn không ngủ được. Ánh bảo thái giám đưa mình đến cung Đức tam phi Ngọc Bình.

Mỹ nhân đang tắm trong đêm khuya khoắt. Nàng ngập mình trong bồn vàng ngập nước thả đầy cánh hoa lan bé mỏng manh trắng muốt. Dị hương lãng đãng xa gần, quyến rũ vô cùng. Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, vội vã cuống cuồng. Ánh hấp tấp y như chàng trai mười sáu tuổi lần đầu nhìn thấy thân thể người đẹp trắng nuột nà, nhào vào bồn tắm, làm nước tràn ra quá nửa. Nguyễn Ánh và mỹ nhân quấn lấy nhau như đôi thanh long giao phối đêm mưa bão. Từng chập từng chập nước sóng sánh tràn ra ngoài. Chỉ một lúc dập dềnh, nước dạt ra ngoài bồn tắm gần hết. Bao nhiêu cánh lan trắng nát bấy dính vào bồn tắm, nổi trên mặt nước thơm rập rờn bên da thịt mỹ nhân.
“Thưa Chúa thượng! Người cầm cái chi trong tay, cứ chạm vào da thịt thần thiếp nóng hổi?”.
Ánh đang ôm cổ mỹ nhân, vội bỏ tay ra, quơ quơ trước mặt nàng cái vật màu đỏ sũng nước lập lòe như đốm lửa.
“Cái yếm thắm của nàng. Ta chém đứt cổ cò thằng khốn ấy rồi”.

Trần Huy Sán đã chết!? Đức phi Ngọc Bình cảm thấy như tắc thở bởi mùi máu tanh tưởi và khét lạnh rợn ngợp của binh khí chạm vào nhau. Nàng rùng mình. Gân cơ co rút lại. Người thẳng đơ, cứng ngắc. Rồi thân thể ngọc ngà từ từ lạnh ngắt. Mỹ nhân đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh.

Lúc bọn thái giám vào, thấy Ánh đã khoác hờ tấm hoàng bào, ngồi bệt xuống sàn, thả một tay vào bồn tắm. Mặt ngơ ngác như người mất hồn vía. Hai mắt Đức phi tam cung nhắm hờ như ngủ. Tóc mây xõa lập lờ trong nước. Hai đùi dài khép sát. Thân thể đã mềm mại và trắng hồng trở lại. Thần sắc đã hồi. Văng vẳng đâu đó như có câu ca vọng vào tam cung:

“Gái đâu có gái lạ đời
Con vua lại lấy hai vua làm chồng”.

Cái yếm đỏ vụt bay khỏi tay Ánh lượn những đường ngoằn nghèo như hương khói./.

Tháng 8. 2009
Đưa lên theo yêu cầu của nhà phê bình Đặng Văn Sinh


Phần nhận xét hiển thị trên trang