Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

Khoa học và Tôn giáo


Nguồn gốc loài người (Arian) 
( Bài của NG. Pôn viết )
Thưa các vị!
Trước hết, để tìm hiểu nguồn gốc các đạo phái, tôi xin trình bày về Nguồn Gốc Loài Người Arian chúng ta đang từng ngày từng giờ vật lộn trong cái Bể Khổ  để tìm cho mình một cuộc đời mới tốt đẹp hơn lên. 
Luận thuyết này có thể chống lại tất cả các luận thuyết trước đây của các học giả Phương Tây cho rằng loài người chúng ta xuất phất từ thung lũng Đông Tanzania, Châu Phi khi hai vợ chồng nhà khảo cổ LeLe, người Anh tìm thấy bộ xương hóa thạch cách nay 1,2 triệu năm. 
Từ đó nhân loại hầu như mặc nhiên công nhận đó là sự thật, để rồi họ đưa vào thành giáo trình giảng dạy ở các giảng đường, trường học khắp nơi trên thế giới, rằng Loài Người Arian xuất phát từ Châu Phi. Tôi phản bác!
Qua những năm tháng tu nghiệp tại Tây Tạng, được các Lama của tam phái: Repadlama, Bonpolama và Nimpalama Cổ Mật, những vị chân tu dãn dắt, tôi đã học hỏi được nhiều. Được minh triết, được sờ nắm các hiện vật, kể cả con người còn ẩn sâu trong lòng đất hàng triệu triệu năm mà bình thường chúng ta khó có thể tưởng tượng nổi.
Loài người Arian tiền khởi bắt đầu từ Hymalaya xuống núi sau Đại Hồng Thủy để tản đi sinh sống khắp mọi miền trái đất. Tại sao tôi lại có thể khẳng định được điều đó. vì rằng Trái Đất thân yêu của chúng ta, từ sau sự cố bị một hành tinh song sinh quay trên cùng quỹ đạo nhỏ bằng 1/2 Trái  Đất lao vào đã gây nên một trận Đại Hồng Thủy, Trái Đất bật từ quỹ đạo gần tâm Mặt Trời (Qũy đạo màu hồng) ra quỹ đạo ngày nay (Qũy đạo màu xanh).
Trái đất quay ngược lại chiều cũ (ngược kim đồng hồ) và đảo cực, băng từ hai đầu cực tan chảy, cộng với lượng hơi nước bốc lên từ hành tinh song sinh khi hành tinh này bốc cháy làm cho Trái Đất thành một sa mạc nước mênh mông, nhấn chìm mọi sự sống trước đó. Vì Hymalaya có vị trí cao nhất hành tinh nên không bị ngập lụt. một số người ở đây sống sót, họ sinh con đẻ cái trong đói khổ để chờ ngày xuống núi.
Như vậy nói rằng loài người (Arian) chúng ta xuất phát từ Châu Phi là không xác thực. Bởi trái núi cao nhất châu phi cũng chỉ cao hơn 5000m so với mặt nước biển, trong khi đó Hymalaya cao hơn 8000m. 
Và rằng vì sao loài người chúng ta ngày nay xuất phát từ Châu Phi, một lục địa đầy sức sống mà tại đó không tạo dựng được một nền văn minh hiện đại nào, mà phải chờ người từ Châu Phi vượt biển Hồng Hải đến Châu Á, Châu Âu, mới tạo dựng được nền văn minh ở hai đại lục Á, Âu? Tôi phản bác! 
Người Châu Phi hiện nay chính là người Âu, Á di tản tới mà bị hóa hoang nên mới có một Châu Phi nghèo khổ, lạc hậu như ngày nay. Cho rằng ngọn núi cao nhất Châu Phi nếu không bị ngập hết thì cũng chỉ còn thoi thóp và nếu có người tồn tại thì đó chính là người Picme nhỏ bé mà ngày nay bộ lạc này ở tập đoàn nguyên thủy, cao không quá 1m. 
Vậy vì sao người thế hệ chúng ta Arian lại nhỏ bé hơn cha ông người Átlan (cao hơn 4m. người Lemori cao hơn thế đến 12m-20m). Lời giả thích đơn giản, Đại Hồng Thủy đã hủy diệt mọi sinh vật khiến đời sống của số ít người còn tồn tại trên Hymalaya quá đói nghèo nên mới có thế hệ người Arian bé nhỏ chúng ta.

Lấy tâm dãy Hymalaya làm đường phân chia thì loài người tiền Arian từ Hymalay chỉ có 2 con đường chứ không phải bằng 5 con đường xuống núi như luận thuyết của tiến sỹ Mundasev, viện sỹ hàn lâm Khoa Học Nga - Mỹ đã trình bày trên "Moskva, Khoa Học - Sự Kiện và Luận Chứng". Các chúng tộc về sau có thay đổi về cấu hình đó là sự giao thoa nòi giống mà thôi.
1) Đường xuống Bắc Hymalaya tạo ra nền Văn Minh Săn Bắn (Văn Minh Da Trắng)
Tại sườn phía bắc dãy núi nàythời tiết thuở ấy khá khắc nghiệt, băng giá phủ đầy mặt đất. Cây cối chỉ lên được một mùa rồi nhanh chóng lụi tàn. Số người xuống núi đã gặp phải khó khăn để bảo tồn. Họ đã sống chủ yếu bằng nghề săn bắn. Do đuổi bắt thú rừng và chạy chốn thú rừng đuổi bắt, họ đã phải căng sức mình để tồn tại.

Qúa trình săn bắn phải chạy nhảy nhiều nên thân thể họ dần thích nghi với đời sống săn bắn, chân phải dài ra, mặt nhỏ đi để chống sức cản của không khí. Qúa trình tiêu hao năng lượng gần như kiệt quệ, đói khát dày vò, mật đã phải làm việc và dần biến mắt họ thành màu xanh. Qúa trình lao động bằng săn bắn là chủ yếu đã khiến nền văn minh săn bắn được hình thành.
Để tránh tổn hao năng lượng, cái bẫy thú đầu tiên ra đời và dần dà được cải tiến và khoa học đã có khởi đầu. Như chúng ta đã biết, khoa học đẻ ra khoa học và văn minh đẻ ra văn minh. 
Tại vùng khí hậu băng giá phía bắc Hymalaya. Tia cực tím ít, da người Tây Tạng ban đầu là màu sạm đen do sống trên độ cao hàng vài cây só so với mặt biển. Tia cực tím khá nhiều. Nay xuống núi, nơi tia Tím ít (Yêu đi ) nên da họ dần trắng ra thích nghi với vùng khí hậu băng giá và như vậy bộ tộc Da Trắng và nền Văn Minh Săn Bắn được định hình.
2) Đường xuống phía Nam Hymalaya tạo nền Văn minh Trồng Trọt (Văn minh Da Vàng) 
Người xuống phía nam Hymalaya gặp thời tiết ấm áp, cây cối tốt tươi, muông thú cũng sinh sôi nẩy nở khá nhiều, khiến cho những người đầu tiên hạ sơn nam Hymalaya đã có một đời sống sung túc. Qúa trình sinh sống là quá trình sinh trưởng bầy đoàn. 
Trong khoảng bình nguyên lưỡng hà sông Hằng, sông Ấn, bắt nguồn từ nam Hymalaya chảy về Ấn Độ Dương. Người Tây Tạng sinh sống ở phía nam dãy Hymalaya xuống núi theo hai con sông này, bộ tộc này cư trú theo hai triền sông trên để hình thành bộ tộc Ấn Độ với hơn 1 tỉ người ngày nay.
Bình nguyên lưỡng hà Dương Tử đi xuống phía nam gặp sông  Hoàng Hà. Hai con sông này cũng bắt nguồn từ đông dãy Hymalaya chảy về Biển Thái Bình Dương, một bộ tộc Tạng ở đây xuôi theo dòng nước để hình thành tộc người Hán với hơn một tỉ người nữa.

Ngoài ra theo các dòng chảy từ đông nam Hymalaya của các dòng sông ngắn, dài như sông Hồng, sông Đà và sông Mekon đã hình thành các bộ tộc người Việt, người Khơ Me, người Lào, người Thái, người Miến Điện tồn tại đến ngày nay. Và dần dà con cháu sinh sôi, chia nhánh sẻ bầy họ đã phải băng qua đại dương đi tới các hải đảo khác n
hư Indonesia, Philippine...Úc Châu .v.v.
Do bầy đoàn sinh sôi ngày một đông, cây cỏ tăng trưởng cũng không đủ sống, những con người lượm hái, buộc họ phải bứt có hoa, trái quả để gieo trồng, nền Văn Minh Trồng Trọt định hình.
Qúa trình gieo trồng, cấy hái đã khiến con người nơi đây dần biến dạng để thích nghi. Trước tiên từ màu da sạm đen, nay xuống núi, da những người trồng trọt theo thung lũng các triền sông đã dần nhợt và cuối cùng hình thành người Da Vàng.
Người Da Vàng với nền văn minh Trồng Trọt và thuần hóa thú hoang đã dần thay đổi về hình dạng thân thể. Do cúi hái nhiều nên mặt người Da Vàng dần có cấu trúc to và nặng nề hơn lên và chân cũng ngắn đi và có khuynh hướng vòng cung. Đốt sống lưng của họ cũng tăng trưởng nhiều thêm để dễ cúi hái (So với người Da Trắng, người Da Vàng có đốt sống nhiều hơn từ 1 đến 3 đốt sống, chân họ cũng ngắn hơn người Da Trắng)
Xin các vị lưu ý, bộ gene của loài người là luôn mở chứ không phải khép kín để gi nhận quá trình chuyển đổi và khi đã ghi vào bộ nhớ gene thì ngay đứa trẻ lọt lòng sinh ra đã thừa hưởng cấu trúc ngoại hình từ cha ông chúng.
Như tôi đã lưu ý, người xuống sường nam Hymalaya vì quá sung túc mà thiên nhiên ban cho nên nền văn minh của người Da Vàng bước đầu rực rỡ hơn nhiều so với người thuộc nền văn minh Săn Bắn (Da Trắng). Từ thuở ban đầu người thuộc nền văn minh này không phải lo nhiều đến miếng ăn để sinh tồn như người Da Trắng nên họ bắt đầu tìm hiểu về thế giới xung quanh con người. (Đạo Phái đã manh nha)
Bộ tộc ngày càng phát triển, sự phân chia đẳng cấp bắt đầu, người giàu kẻ nghèo ngày một định hình rõ rệt. Người ta đã quên mất rằng chính họ là cùng chung huyết thống. Chiến tranh giữa các bộ tộc bùng phát vì mảnh đất cư trú và từ đó hình thành sự phân định quốc gia.    

Chiến tranh tàn sát triền miên, đói khát ngày càng trầm trọng, trong khi đó một số người vào hang sâu động kín để chốn chạy, để xem xét lại xã hội vì sao lại có khổ đau và xem lại chính mình. Từ trong tĩnh lặng gần như tuyệt đối lại trong bóng đêm hằng vĩ. 
Từ lượng chuyển sang chất mà Vũ Trụ đã cho họ những quyền năng mà người dưới núi không có được, Khi xuống núi, để có người ủng hộ và giúp đỡ mình, họ đã phải thi thố tài năng ngay từ bộ lạc đầu tiên mà họ gặp được và Đạo Phái đã hình thành.

Theo Kinh Veda, một trong những cuốn kinh cổ nhất mà loài người Arian tìm thấy và nhà tiên tri của thế kỉ 17 bà Blavaskaia người Nga thì đạo phái đầu tiên cũng xuất phát từ Hymalaya mà bà gọi là Phật Bon. Theo bà thì đạo Bon hình thành từ trước khi Thichca Mauni chứng Phật chừng 18. 000 năm qua 120 đời Phật. 
Tuy nhiên đạo Bon chủ yếu cung cấp những người tài giỏi để làm tộc trưởng và dần thành các tướng lĩnh đánh trận bảo vệ bộ tộc và quốc gia. Giai cấp được hình thành từ khi có tộc trưởng tới quốc gia, đời sống ngày một khó khăn và những Đạo Sỹ này trở thành lớp quý tộc để cai trị đồng loại của mình. Hơn 8000 năm sau, người Hindu tiếp quản tư tưởng của Đạo Bon viết trong kinh Vệ Đà, Nhưng Thicsca Mauni nhận ra rằng Kinh ấy đạo ấy (Bon, Hindu) chủ yêu là bênh vực quyền lợi cho giai cấp thống trị, thiếu sự công bằng Xã Hôi và King Thichca Mauni ra đời. Từ đây loài người mới hiểu tận cùng của của lòng Thiện Ác.
Theo vậy thì ngay từ thuở ban đầu, loài người sống trong Lương Thiện và chưa xúât hiện Ác. Nhưng từ khi có phân chia giai cấp thì Thiện, Ác đã hình thành điều này chắc chắn cũng đã ghi vào bộ gene và Thiện Ác cứ thế song song tồn tại. Thichca Mauni biết rõ điều đó và ngài chủ trương tăng cường lòng Thiện để lấn át tính Ác. 
Và chỉ khi Tính Ác bị lấn át thì dần dà bộ gene có thể sẽ trở lại trạng thái ban đầu hoàn toàn hướng Thiện. Bởi Thichca Mauni, ngài hiểu, chỉ khi loài người lòng hướng Thiện được đề cao thì mọi đau khổ mới có thể chấm rứt và chiến tranh sẽ không còn tồn tại, đó còn gọi là cõi Niết Bàn.
Lí luận cho điều này, 500 năm sau chúa Jechucris, ngụ ý bảo rằng do con người đầu tiên ăn Trái Cấm ở vờn Eden nên mới mở mắt biết điều Thiện Ác. Ngót 500 năm sau Thánh Alah cũng dạy hãy làm điều thiện, loài người cùng chung một thủy tổ, phải coi nhau như anh em ruột thịt mà giúp đỡ nhau che chở cho nhau để vượt qua mọi gian khó mà thế giới này thường gặp, nhất là những đau khổ do con người và Vũ Trụ gây nên.

Thưa các vị:

Đạo Phật, ngày nay chia làm tam tông: Nam Tông, Bắc Tông và Lama Tông. Hiểu rõ sự phân nhánh này khiến chúng ta không còn phân biệt Tông Phái mà dẫn đến sự chia rẽ một học thuyết vĩ đại mà Thichca Mauni đã chỉ ra.
1) Nam Tông
Người ta chủ trương thờ một Phật ấy là Phật chủ Thichca Mauni, điều này cũng không có gì khác biệt mà phải bàn cãi. Khi Phật Tổ xuống núi, người cùng các Phật khác đi truyền bá học thuyết của mình, suốt một nẻo đường đi từ Ấn Độ, người qua Pakistan, Apganistan rồi tiến dần về phía Tây, nơi chưa hình thành đạo phái thuộc những người Da Trắng. 
Một cuộc hành trình đầy gian nan khổ ải, đói khát và bệnh tật. Người đã cùng các đệ tử phải vác bát ăn xin nhưng trong những lần khất thực như thế, người lại tranh thủ truyền bá học thuyết của mình và từ đó hình thành phái Nam Tông Khất Thực.
2) Bắc Tông:
Người Trung Quốc, Ấn Độ thì cho rằng, những đệ tử của Thichca Mauni như Ađia, Quán Thế Âm, Phổ Hiền....Địa Tạng đều là những người tu một kiếp thành Phật. Và những Phật ấy đã phải cấm cố đời mình trong động kín và như vậy vật chất để nuôi sống họ chính là cây cỏ từ thiên nhiên và tự tay trồng hái, bởi vậy họ không Khất Thực và những tu sĩ này ngoài tăng gia sản xuất để nuôi chính mình thì ở ngay trong chùa để gõ mõ tụng kinh mở rộng lòng từ bi từ chính lòng họ.
3) Lama giáo Tây Tạng:  
Là sự hòa nhập và nâng cao quá trình tiến hóa giữa Phật giáo và Bonpo giáo cổ đại. Từ khi Thichca Mauni chứng Phật phải mất 1700 năm sau, học thuyết này mới thắng thế ở Tây Tạng, nơi các tu sĩ Phật Bon dần bị tha hóa về đời sống vật chất. Từ sau Padmasham từ Ấn Độ từ bỏ vòng hào quang nơi đất tổ Phật, người một mình một gậy vượt Hymalaya nhập Tạng, đã lần lượt hạ gục những người theo đạo Bon, biến họ thành những tu sĩ thuần Phật. 
Nghĩa là trao cho họ cái tư tưởng cao siêu vì chúng sinh của Thichca Mauni và dần dà sự giao thoa, đan xen, thừa hưởng và nơi đây đã hình thành Lama Phật giáo chính tông. Bằng cách họ ẩn tu trong động kín và từ đó hình thành Lama Tông Mật Tu.
Chính sự mật tu theo con đường của Thichca Mauni là ngọn hải đăng soi sáng cho nghành Khoa Học Vũ Trụ mà tôi tạm gọi là Vũ Trụ Mở. Ý nghĩa của Vũ Trụ Mở là nghiên cứu về thượng tầng kiến trúc của loài người để từ đó bổ xung cho luận thuyết hình thành  Vũ Trụ. Bởi con người và các hành tinh đều do mẹ Vũ Trụ sinh ra.
Thiết nghĩ sẽ không có gì khác biệt với các nhà khoa học Phương Tây, tìm hiểu Vũ Trụ để suy ra loài người. Mà khoa học thì cần một con đường đi ngắn nhất để tới đích.
KẾT LUẬN
Thưa các vị, thật vô cùng hân hạnh được mời nói chuyện về Đạo Phái tại Phật Đường có hàng ngàn năm nay. Khoa học và đạo phái chân chính là tài sản vô cùng quý giá của toàn nhân loại. Phật, Chúa Jechu, Thánh Alah đều là những vĩ nhân, những triết gia khổng lồ, tài sản tinh thần bất diệt của nhân loại. Chúng ta hận hạnh được sống trong những dòng chảy tinh thần vì Chúng Sinh của các vị ấy.
Tuy nhiên, ngay từ buổi sơ khai, những nhà chính trị đã khéo lợi dụng tinh thần vì nhân loại của những nhà hiền triết kể trên mà gây nên nhiều đau thương cho nhân loại. Họ bài xích đạo này phái khác vì bản thân họ, vì Tổ Quốc họ mà thôi. Hiểu rõ điều đó, chúng ta càng gần gũi nhau hơn trong cộng đồng các Tôn Giáo mà chủ thể là Tam Đạo lớn, Phật giáo, Jechucris giáo và Hồi giáo hiện hành.
Ai nói ngược lại không vì Chúng Sinh, hay vì thiểu số chúng sinh trong phạm vi quản hạt của mình thì đều không phải đạo. Ai nói đạo này hơn đạo kia ấy là sự hiểu biết nông cạn về bản chất các học thuyết về Tam Đạo, kể cả người đó có là Giáo Chủ Phật Học Quốc Tế, đương kim giáo chủ của Jechucris ở Roma hay giáo chủ Hồi giáo đương kim cũng không ngoại lệ.
Bởi Phật, Chúa Jechu, Thánh Alah đều là những bậc chân tu, họ hiến dâng cả đời mình vì Nhân Loại. Các vị đều hiểu rõ chân lý „Chúng Sinh Bình Đẳng”. Vậy lẽ nào người Phật giáo lại hơn Jchucris giáo hay Hồi giáo và ngược lại.
Và tại giáo đường này tôi trịnh trọng khẳng định: Loài người (Arian) không phân biệt màu da, sắc tộc, đều do Vũ Trụ sinh ra. Loài người hiện đang tồn tại trên trái đất ngày nay đều từ Hymalay xuống núi. Và nhân loại chỉ chia thành 2 hình thái cấu thành Thân Thể. Người Da Trắng thuở sơ khai sống bằng nghề săn bắn nên chân dài, lưng ngắn, mặt nhỏ. Người Da Vàng sống bằng nghề trồng trọt, cúi hái nên chân ngắn., lưng dài và mặt tròn, to. Đó là quá trình lao động đã khắc phục những nhược điểm của loài người. Còn màu da phụ thuộc vào vùng sinh sống, quyết không có dân tộc thượng đẳng và dân tộc hạ đẳng! 
 Xin dừng lời, xin được tha thứ cho những thiếu sót mà Bát Nhã đã trình bày!
                                                                       Côn Minh, tháng 5/5/2011
Birha
Ảnh của Thường Dân núi Tản
4000 
  • Thường Dân núi Tản
    Cũng có ý kiến cho rằng Tây Tạng nhờ độ cao của nó nên sau đại hồng thủy còn sót lại số người, cũng như đỉnh An ve ret Ở châu Âu có con thuyền Nô e. Tôi nghĩ có thể có nhiều cái nôi sinh tồn khác nhau. Đông nam Á là một trong số đó ( Hiện đã có những phát hiện KH chứng minh ). Ý kiến của bạn tôi không phủ nhận. E trong bối cảnh thời cuộc ngày nay, ông bạn "Bốn tốt" đang muốn dùng thuyết này để chinh phục thế giới và họ luôn cho rằng họ là "Trung nguyên". Dù vậy tôi muốn chuyển bài này của bạn lên trang nhà để thêm nhiều ý kiến bạn bè trao đổi. Trước hết đây coi như thành công của bạn.
    Thân!

Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

Cây " bình an"



Ảnh ST.

Lùm xùm hội nhà văn Việt nam!!!
11:48 22 thg 12 2012Công khai0 Lượt xem0

25 TÂN HỘI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM

Hôm nay là ngày hồi hộp của gàn 600 ứng viên xin vào Hội Nhà văn Việt Nam. Quả là một sức ép lớn lên các hội đồng và BCH. Nhưng cũng có cái hay nhiều thành viên nhân dịp này mà các ứng viên thân thiện thăm nom các anh, các chị.
Theo tin mới nhận chỉ có 25 ứng viên đủ phiếu để trở thanh hội viên Hội Nhà văn VN. Có lẽ nói không ngoa ở nước ta ít có nơi nào còn nhiều quý vị xin gia nhập như Hội ta. Rút kinhh nghiệm năm ngoái đã kết nạp được một số hội viên xuất chúng, năm nay BCH "khép" cửa hẹp hơn.
Kết nạp ít cũng khổ thân các bác cò. Thương lắm thay ! Thôi các bác ơi chờ dịp này năm sau...

DANH SÁCH TÂN HỘI VIÊN
Văn xuôi:

1, Trần Thiện Lục (Phương Yến – Phú Yên)

2, Nguyễn Quang (Hà Giang)

3, Lại Văn Long (TP Hồ Chí Minh)

4, Vũ Minh Nguyệt (Hà Nội)

Biếm họa chân dung giới văn nghệ sĩ
5, Đoàn Ngọc Minh (Cao Bằng)

6, Đào Bá Đoàn (Hà Nội)

7, Nguyễn Thanh Hương (Lâm Đồng)

8, Lương Văn (Hà Nội)

9, Võ Diệu Thanh (An Giang)

10, Thăng Sắc (Hà Nội).



Thơ:

1, Nguyễn Thị Vân Anh (Nghệ An)

2, Đinh Long (Hà Nội)

3, Trịnh Công Lộc (Quảng Ninh)

4, Lương Vĩnh (Hà Nội)

5, Đàm Khánh Phương (Hà Nội)

6, Bùi Công Minh (Đà Nẵng)

7, Văn Trọng Hùng (Bình Định)

8, Lương Tử Đức (Hà Nội)

9, Lê Va (Hòa Bình)

10, Đỗ Doãn Phương (Hà Nội).



Lý luận phê bình:

1, Trần Mạnh Tiến (Hà Nội)

2, Trần Hoài Anh (TP Hồ Chí Minh)

3, Phùng Quý Nhâm (TP Hồ Chí Minh).



Dịch văn học:

1, Vũ Phong Tạo (Hà Nội)

2, Nguyễn Mạnh Thái (định cư tại Ba Lan).


Làm sao dừng lại bây giờ? ( Truyện ngắn của HG )




Chiều chiều, dọc theo con đường bờ sông tráng nhựa người ta thường bắt gặp một ông lão gầy tong teo, dúm dó, mặt nhăn nhúm đến tội nghiệp.
Ông là một trong những người cao tuổi mê hát chèo ở cái thị trấn này. Người lạ chắc không thể đoán được ông bao nhiêu tuổi với cái hình hài bề ngoài đầy mâu thuẫn của ông.
Người quen thì biết ông đã qua tuổi tám mươi, nếu như gia cảnh an lạc thì đầu năm vừa rồi ông đã khao tuổi thượng thọ rồi.
Con người ta sống được đến cái tuổi ấy là có phúc lớn lắm rồi, cớ sao ông lại luôn than trời, kêu mình bất hạnh?
Ở tuổi ấy, mái tóc ông còn đen, lông mày còn rậm, răng hầu như còn gần đủ, nên mới nói hình dạng bề ngoài nhiều mâu thuẫn.
Ngoài mấy thứ ấy ra, “Các cơ quan đoàn thể” của ông rệu rạo lắm rồi. Chân tay gầy khẳng như các lóng mía, chả thấy da thịt đâu. Đôi mắt và cái mũi lại xuống cấp nghiêm trọng, luôn rỉ thứ nước đùng đục rất hôi. Bộ quần áo trên người dễ đến hàng năm không giặt. Nhìn cái dáng hình tiều tuỵ khốn khổ ấy, thấy ông xách cái mũ bảo hiểm đi đường, có lẽ nhiều người nghĩ ông già này là người cô đơn cô quả, không nơi nương tựa, đang lần hồi kiếm bữa qua ngày?
Gặp xe nào ông cũng vẫy, nhưng chẳng ai dám cho đi, sợ mình làm phúc phải tội. Lỡ ông ngã xuống, các con ông không để cho mình được yên. Chúng đâu có phải người thường? Có chức có quyền cả đấy, toàn là bậc tai mắt trong xã hội, đại diện cho “ngũ liên” : Công, nông, binh, thương, trí ..
Ngay như bản thân ông cũng không phải người vô thừa nhận, ông là ông giáo về hưu, mỗi tháng còn có mấy triệu bạc. Hai ông bà song toàn, sống cả đến ngày nay.
Vườn rộng hàng mấy mẫu, toàn đất thượng đẳng điền. Con cái mỗi đứa một dinh cơ vào loại đàng hoàng nhất nhì trong vùng, con trai con gái hầu hết có ngành nghề hưởng lương nhà nước.
Tính tổng cộng ông có tám người con: Ba trai, năm gái. Như vậy kể về hào con, hào của, ông đều được cả, đâu có kém ai trên đời?
Vậy bảo khổ, không hiểu ông khổ cái nỗi gì? Ông còn bảo ông không bằng anh cu Ất, chữa xe đạp, nhà nó nghèo, nhà ở không bằng cái bếp nhà ông là cớ làm sao?
Ai lạ gì anh cu Ất, quanh năm đào ao, bổ củi thuê? Từ ngày làng lên thị trấn, đất có giá, bán được vài thổ, có tiền, tập tọng xoay ra kinh doanh. Nhưng kinh doanh phải có duyên, có số. Không phải ai đi buôn cũng giàu. Anh buôn thức ăn gia súc, thứ hàng mà khối người nhờ buôn bán nó mà giàu lên, nhưng anh thì lụn bại. Sổ sách luộm thuộm, nhớ nhớ quên quên, cho người ta thiếu chịu, có anh chây bửa không chịu trả .. Tính các nguyên nhân thất thoát thì nhiều lắm. Cộng thêm phần, cả đời đói rách, bỗng chốc có tiền, vợ con đòi ăn đòi tiêu, anh cũng chiều cho thoả thích. Thế là lửa cháy hai đầu, buôn đã lỗ, lại tiêu hoang. Tiền bán đất như là nước lã ra sông, tay trắng hoàn tay trắng.

Nhưng anh Ất không buồn, đời anh khổ mãi quen rồi, lại khổ nữa có làm sao đâu?
Chị Dậu ( Chị Dậu có thật hẳn hoi, chứ không phải chị Dậu nhân vật trong
“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đâu nhé ), lại thân con gà, ra sức bới. Mỗi sáng một thúng bún rối, làm hàng bún riêu kiếm được gạo cho cả nhà. Được cái nết yêu chồng, quý con nên trong nhà lúc nào cũng vui vẻ, yên ắng như ngày mồng một tết. Ngày mà người ta chỉ ở nhà, chỉ nói chuyện vui, không to tiếng cãi cọ vì phải kiêng. Chị chiều anh hết mực, nghe đâu có rượu ngô ngon là mua bằng được về cho chồng.
Chả phải lo nghĩ gì, anh cu Ất làm thêm nghề sửa chữa xe đạp để thiên hạ nhìn vào thấy “có nghành, có nghề”, không phải loại đàn ông ăn nhờ vợ.
Thực ra nghề sửa xe đạp bây giờ đâu còn kiếm được như thời trước, dăm cái nan hoa cũng có tiền ngay?
Xe máy Tàu tràn sang rẻ như bèo, xe đạp mới còn chẳng ai ham, cũ quá người ta bán cho hàng lông gà, sắt vụn, ít khi sửa chữa. Lâu lâu mới kiếm được miếng vá, vài ba ngàn đồng.
Thôi thì ít còn hơn không!
Vả lại, anh là người theo chủ nghĩa lạc quan, coi cái khó, cái khổ như bạn hiền, nên vẫn vui đời!
Chả biết nghe ai xui dục, anh cu Ất dạo này lại sính văn chương chữ nghĩa, thơ ca, hò vè đủ cả.
Lâu lâu có anh nhà thơ ở tỉnh về sửa sang cho vài bài, rồi đem về tỉnh in, anh Ất trở thành “nhân sĩ” của thị trấn này.
Anh còn giỏi chơi đàn Măng đô lin nhất thị trấn. Hễ thị trấn có công việc gì là anh đều có tiết mục “văn nghệ chào mừng”!
Ông giáo Thuần bảo đời anh tươi hơn ông là phải. được cả phần xác lẫn phần hồn .
 Không phải như ông ngoài tươi, trong héo, nom bề ngoài thì đỏ mà thực ra chưa chín khi nào, vẫn chát, vẫn chua trong dạ.
Ông với anh cu Ất là chỗ thân tình từ ngày ông hay lui tới chỗ quán anh sửa xe. đã lấy rẻ thì chớ mà lại hết sức ân cần. Nay kể cả lúc không sửa xe nữa vì không đủ sức đi xe đạp, ông vẫn năng qua lại.
Từ ngày anh Ất chuyển sang làm thơ, thì với anh, ông thân lại càng thân. Ông vốn là cộng tác viên nhiều năm nay của một số tờ báo. Từ hồi có phong trào viết về “người tốt việc tốt” ông đã nổi danh rồi.
Sống ở cơ sở, bao nhiêu điều mắt thấy, tai nghe, ông chỉ moniphe một chút là thành những chuyện cảm động, lay chuyển lòng người. Thêm một số bài thơ trên sáu dưới tám, hay thất ngôn tứ tuyệt, ông đã là cây bút có tiếng trong vùng.
Hai người thân nhau là lẽ đương nhiên, như người ta bảo “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Bây giờ nom tiều tuỵ thế, đi đâu trong cái túi ông xách theo cũng có tập bản thảo, một nửa văn xuôi, một nửa thơ ông sáng tác nhiều năm đã qua.

Nhưng chuyện ông bảo ông không bằng anh Ất là cớ làm sao?

Những người sống lâu năm ở cái làng này, khi nó chưa là thị trấn như bây giờ  đều biết ông giáo Thuần đã có một thời “vàng son” rất đáng tự hào. Lúc xung quanh còn nhiều người thiếu đói, mặc dù đông con ông vẫn hết sức đàng hoàng. Ông còn cho rằng ý kiến bảo rằng:“Đông con, tất nghèo khó” là ý kiến không mấy chính xác. Đó là ý kiến bao biện của anh đầu óc làm ăn kém sáng suốt, không biết đường dạy bảo con cái. Thực ra nếu biết sai khiến con cái cũng giúp được khối việc.
Sáu bảy tuổi chúng có thể chăn trâu, thả bò. Mười hai tuổi trở lên đã có thể cùng phụ cha mẹ làm vườn. Đứa bé thì trông nhà, quét sân, chăn con lợn con gà. Lớn việc lớn, bé việc bé, không có đứa nào ăn không, ngồi rồi cả! Ông giáo không chỉ nói mà đã làm như thế . Con ông thuộc loại ngoan ngoãn chịu thương chịu khó, chắt chịu, nhặt nhặnh, khéo léo nhất trong làng.
Ông là hiệu trưởng trường cấp hai trường làng, lương nhà giáo bấy giờ chưa cao như bây giờ nhưng ông luôn tìm ra cách thu nhập phụ.
Không phải bằng cách xén vào quỹ “Những khoản chi khác” của nhà trường như một số ông hiệu trưởng thời nay, cứ khai vống lên các khoản chi mua sắm trang thiết bị của trường. Cũng không phải o ép, bẻ hành, bẻ tỏi các thày cô trong trường để ép người ta cung phụng, lo lót mình. Thời đó có muốn làm những việc đó cũng khó. Ngân sách chi cho các trường eo hẹp, có muốn bớt xén cũng chẳng lấy đâu ra mà bớt xén. Còn các thày các cô, ông phải chiều họ như chiều vong, nói nặng với họ là không xong, rc rối là họ bỏ nghề ngay lập tức vì đồng lương “bèo” quá không đủ tiền mua gạo. Hầu hết các thầy các cô đều phải phát nương trồng ngô, đỗ cải thiện thêm. Thày cô nào nhà có vốn thì mở hàng tạp hoá ngoài chợ, buôn từ cuốn vở đến chai xì dầu, cân cá mắm ..
Ông không làm như họ. Vườn nhà ông rộng, đất lại tốt, ngoài giờ ở trường về, thời giờ còn lại ông dành cả vào đấy.
Cả một vùng chả có mấy người biết trồng rau, chỉ biết sẵn mấy thứ rau rừng, cứ rau bao, rau đay, rau dớn quanh năm. Phần vì bận công việc nương rẫy đồng áng, phần không có kinh nghiệm nên không mấy người làm. Có trồng cũng chỉ đủ nhà ăn, có đâu bán chợ?
Ông giáo là người nhận ra điều ấy, biết đây là lỗ hổng trong cách làm kinh tế của miền đồng rừng. Ông về quê học kinh nghiệm, lấy hạt giống rau về trồng. Quê ông là vùng rau chuyên canh, công cuộc “đưa rau xanh lên núi” nhờ thế đâu có khó khăn gì?
Mùa nào thức đấy. Mùa hè có rau ngót, rau muống, rau rền. Mùa đông có cà chua bắp cải, cà bát. .
Đất ven sông nên việc tưới tắm cũng rất thuận tiện. Rau vườn nhà ông cứ lên ngời ngời . Chỉ qua mấy vụ, hai vợ chồng đã có chút vốn kha khá. Cả nhà hầu như suốt ngày ngoài ruộng rau.
Mấy cô con gái thay nhau sáng chiều ngồi chợ, vì chúng còn đang học không thể ngồi cả ngày.
Ông không dừng lại ở đây.
Làm kinh tế là phải biết lấy ngắn nuôi dài, biết mở rộng sản xuất. Cả khu vườn rộng hàng mẫu, trừ đám trồng rau, trồng màu, ông rào lại, khoanh vùng nuôi gà. Môi trường còn tốt, chưa có dịch bệnh, đàn gà sinh sôi nảy nở, không thể đếm được có bao nhiêu con? Lại thêm phân gà bồi bổ cho đất vốn đã màu mỡ rồi, không tốn tiền mua đạm hay NPK.
Tiến thêm bước nữa, ông mua mấy con bò giống mang về. Đàn bò cũng
“ Không ngừng phát triển” theo tinh thần đi lên của CNXH. Nhà nuôi không xuể vì đàn bò quá đông, không cai quản hết, ông cho làng nuôi chia. Bò cái đẻ cứ hai con ông lấy một ..
Cứ như thế.. Tiền của như nước chảy vào chỗ chũng, ông giàu không nhất thì nhì trong huyện.
Tiếng tăm đồn ra tới tỉnh ngoài, quan hệ vì thế mà ngày càng mở rộng. Quan lớn quan bé cả tỉnh đều thành chỗ thân tình.
Nhưng ông không quá coi trọng cái đó. Danh tiếng là cái đáng quý, đáng trân trọng, nhưng chưa thiết thực, nếu nó chỉ là danh hão.
Quan trọng là biết để cho tiền sinh sôi nảy nở. Ngân hàng chưa có cơ chế cho dân vay tiền rộng rãi thì ông cho vay, thả lãi kiếm lời. Lãi mẹ đẻ lãi con, cộng ra, cộng vào cứ việc sinh sôi nảy nở.
Có tiền, ông có điều kiện cho con ăn học, đứa nào cũng có ngành có nghề. Cái nghề giáo xưa nay mạt nhất, đang được nhà nước quan tâm. Rồi đây sẽ là nghề có tiền mà đỡ vất vả, phơi nắng, phơi sương. Mấy cô con gái ông cho đi học sư phạm bằng hết. Nghề này về lâu về dài có tương lai và nhất là phù hợp với  đàn bà con gái. Qua kinh nghiệm bản thân, ông biết chắc là như thế.
Anh con cả học nghề xong, ông lo cho nó đi lao động nước ngoài. Thời ấy, những người khác muốn được vậy có mơ cũng không được! Với ông chỉ trong tầm tay.
Chưa có gia đình nào nền nếp, trong ấm ngoài êm như gia đình ông. Vợ con ông còn đòi hỏi gì nữa mà không quý trọng, yêu kính ông?

Nhưng sự đời không ai biết trước được ngày mai nó sẽ như thế nào?

****
Đã năm sáu giờ chiều, gần tối rồi mà vẫn nắng như đổ lửa. Ông giáo cố gắng lết đôi chân rã rời của mình cho mau về đến nhà. Hôm nay anh cu Ất về tỉnh nhận giải thưởng về bài dự thi viết về nghành giáo dục nên không có nhà. Nếu không ông đã ghé vào đấy, ngồi chơi một lúc cho lại sức. Nhân thể đọc cho anh ta nghe bài thơ ông vừa viết đêm qua. Ông viết bài thơ chủ yếu để giải tỏa tâm trạng của mình với những nỗi đau nhân tình thế thái, nỗi hận với vợ với con, hận với đời, nếu không viết ra, ông sẽ không chịu được.
Ông cũng chẳng vội gì, về nhà lúc này mất điện, nóng như thiêu như đốt, lại không có người trò chuyện thì vội về để làm gì? Hơn nữa mấy hôm nay ông thấy trong người đuối qúa, có muốn vội cũng không được. Nhưng anh Ất không có nhà, ông không muốn vào nhà khác. Ở thị trấn này, xứ u tì quốc tăm tối nhất nước nam từ ngày gia cảnh ông có chuyện lục đục, người ta đã nhìn ông với con mắt khác.
Xưa thì thấy ông từ xa, đã có người cười cười, nói nói, chạy ra đón tay dắt vào, vì khi ấy ông còn có của, cho vay, cho mượn, giúp dập người này người khác. Nay thì họ bơ ông như củ khoai hà, nhìn nhận ông như kẻ sa đoạ, rượu chè.
Bạc, đúng là “Bạc như dân, bất nhân như lính”. Ý nghĩ chua chát thoáng qua trong đầu, làm miệng ông đắng ngắt.
Nhưng cũng chẳng trách họ được, ông biết thằng con trai ông không muốn ông lui tới bất cứ nhà ai ở thị trấn này, chỉ vì ông hay mang chuyện của nó ra than vãn với họ. Mà người ta không muốn mất lòng nó, nó đang là người giữ gìn an ninh trật tự, có một tý chức, tý quyền ở đây. Chả ai muốn nó mất lòng, để ý soi mói đến mình nếu chứa chấp ông hay ông năng lai vãng. Cái thằng con ông sinh ra, nuôi nấng, gây dựng để cho nó có ngày hôm nay. Trong ba đứa con trai, ông vất vả với nó nhiều nhất, cũng là đứa làm ông đau lòng nhất.
Hồi vợ nó bỏ nó, nó chán đời, mấy lần tự vẫn mà không chết. Lần nặng nhất uống thuốc sâu, phải đi bệnh viện rửa ruột, nếu ông không có tiền, làm gì nó còn sống đến ngày hôm nay?
Người ta bảo uống phải thứ thuốc ma quỷ đó, thần kinh bị ảnh hưởng, chẳng đâu muốn nhận nó vào cơ quan nhà nước.
 Vậy mà ông chạy chọt, lo liệu mãi nó cũng có chút địa vị. Từ ngày có quy định mới, nó vĩnh viễn hưởng lương nhà nước cho đến già thì về hưu. Hơn cả bí thư, chủ tịch do dân bầu, nếu không trúng chắc cũng về vườn.
 Lộc nước như thế, đáng nhẽ nó phải biết ai là người lo cho nó chứ?
Cứ như nó ai người ta vời? Nó tưởng ti toe ba miếng võ “Cứt gà” mà được trọng dụng hay sao? “Nhầm to rồi con ơi! Mày là đứa bất nhân, bất hiếu, rồi đời mày sẽ gặp quả báo thôi con ạ!”
Thằng anh nó, con vợ cầm quyền trong gia đình, đối với ông cũng không hơn gì. Chính nó cũng nhiều lần nói thẳng vào mặt ông :“Ông già rồi mà không đứng đắn, nát rượu, gái gú làm con cái xấu hổ. Bao giờ ông chết tôi chôn, chứ tôi không muốn nhìn thấy ông nữa” .
Ông hận lắm, nó đâu phải người ngoài, không biết chuyện mà kết luận nói với ông những điều như thế ?
Ngày ông với mẹ nó ra toà, nó đâu biết nỗi khổ trong lòng ông? Người ta ở tuổi xưa nay hiếm mà còn phải ra toà ly dị thì có nỗi đau, nỗi nhục nhã nào hơn? Cực chẳng đã ông mới phải làm như vậy. Đâu phải chuyện trai trên dưới dưới gì để chúng mang tai mang tiếng?
Chung quy cũng bởi bà ấy quá đáng quá. Một chuyện hiểu nhầm, có bé xé ra to, lôi kéo cả đàn con lên án ông, coi thường ông, uất ức quá ông mới phải hành xử như vậy.
Ông về dưới Phủ Đoan với bà sau này, tuy không làm đám cưới, nhưng cũng có đăng ký hẳn hoi, cũng có dăm mâm biến báo xóm làng. Đâu phải là chuyện gì mờ ám?
 Chẳng qua lấy chỗ dựa lúc tuổi già, đâu còn “nụ cà hoa mướp” gì mà chúng nghĩ ông là người trăng hoa?
Nhà cửa, đất đai, tài sản ông để lại hết cho cho bà ấy và các con, có mang một tý một mảy nào của nhà đi đâu? Chúng nó chẳng thương thì ông tìm đường lo lấy thân ông vậy?
Nhưng nào chúng để cho ông yên? Chúng vu cho người ta là thấy ông có lương hưu, có của dấu  ngầm, tìm cách quyến rũ lừa đảo ông, để đến nỗi uất quá người ta chịu không nổi. Bà ấy phải vừa khóc vừa gạt nước mắt nói với ông rằng: “ Thôi ông về trên ấy, thỉnh thoảng tôi lên thăm, chứ ông ở đây các anh các chị ấy làm tôi xấu hổ quá, chết mất ông ạ!”
Rồi chúng bày trò đón rước ông về, bỏ ông ở nhà thằng con bất nhân ông vừa nhắc đến.
Khốn khổ, người già đêm thường ít ngủ.
Ông dậy đi ngoài, nó bảo ông phá rối không cho vợ chồng con cái nó ngủ. Bữa ăn không đứa nào mở mồm ra chào mời ông lấy một câu. Ông bỏ tiền mua rượu bố con cùng uống, nó bảo nó “không thèm, cứ uống cho lắm vào rồi nói bừa nói bãi”
Mỗi tháng ông đưa nó cả hai triệu bạc mà nó không bằng lòng. Nó bảo ông già rồi giữ tiền làm gì? Lại mang cho gái hẳn?
Ối con ơi là con! Ăn tiêu như nhà mày mỗi tháng chi cho bố cũng chỉ đến năm trăm là cùng, bố đưa cho cả hai triệu, mày vẫn chưa cho là đủ ư? Hay là có bao nhiêu phải đưa cả cho mày? Tao còn phải phòng khi ốm đau, lúc khách xa, bạn gần, đi đình đi đám nữa chứ? Chả nhẽ đến lúc đó lại ngửa tay ra xin vợ chồng mày?
Vẫn biết “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày” Nhưng đối xử với bố như hiện nay thì con ác, con tệ lắm con ạ!
Răng bố là răng giả, vợ chồng con cái nhà mày cứ mua toàn xương củ chối về gặm với nhau, bố có ăn được miếng nào đâu? Ông bảo cháu bớt một tý nấu cho ông bát cháo, nó vằn mắt :“ Nhà này không có thói nước lọ cơm niêu, ăn ma ăn mọi, có gì cả nhà cùng ăn, đừng có vẽ chuyện”
Vậy thì ông ở với vợ chồng nhà nó sao được?  Ông đành dọn đi chỗ khác. May mà gần nhà ông có cái nhà gianh cũ của vợ chồng một anh nghiện siđa mới chết, còn bỏ không, ông nói khó với bố mẹ anh ta cho ở nhờ.
Vợ anh này từ khi chồng chết, chán đời đi đâu biệt tích.. Tình cảnh như thế, người ta  chẳng khó dễ với ông làm gì.
Ông ở một mình, đúng là nước lọ cơm niêu, hôm nào khoẻ khoẻ thì tự nấu lấy ăn, hôm nào mệt thì đi ăn quán.
Được cái may, quán xá bây giờ mở rộng, muốn cơm có cơm, muốn cháo có cháo, không như ngày nào, có tiền trong túi mà chịu nhịn đói.
Ông không dám mua nhiều, làng xóm bây giờ loạn lắm, đề đóm, cờ bạc nên xểnh cái gì ra là mất cái đấy. Chổi cùn, rế rách con nghiện nó cũng không tha! Thôi thì cứ mua ít một, hết lại mua.
Vì thế ngày nào cũng phải lếch thếch đi chợ.
Cầu trời cho mạnh chân khoẻ tay, chả biết sống chết lúc nào,  đến đâu thì đến!
Ông ngồi dưới tán của cây keo ven đường mà nghĩ lẩn thẩn bấy nhiêu chuyện..  Hai hàng nước mắt tự dưng tràn qua mặt, xuống miệng mặn chát. Chưa bao giờ ông cám cảnh như lúc này.
Người đời thường ao ước sống lâu trăm tuổi. Nhưng sống lâu như thế mà cảnh ngộ như thế này thì sống để làm gì?
Chợt có chiếc xe con đỗ ngay trước mặt. Ông chưa hiểu chuyện gì, đã thấy một người trên xe to béo, phốp pháp, cổ đeo cà vạt đỏ, nhảy xuống. Người đó đi lại phía ông ..
Khách lạ nhìn ông rất lâu, nét mặt anh ta đầy vẻ lưỡng lự, như không tin ở mắt mình. Anh ta đã phải mất mấy tiếng đồng hồ chạy xe vòng vòng hỏi thăm và được người ta chỉ đến chỗ này, chẳng lẽ..?
Ông giáo Thuần cũng ngạc nhiên không kém. Lâu lắm rồi có ai nhìn ông như thế đâu? Với nhiều người, cả đến vợ con ông, đã lâu ông không còn tồn tại trên đời.
Nhưng mà biết đâu được? Sống đến tuổi này, ông biết đời người thật lắm chuyện bất ngờ.
Biết đâu một học trò nào đó của ông ngày trước, bây giờ thành đạt, nhớ đến thầy? Một anh “Va xi li” nào đó thăm thày giáo cũ, như bài văn ông từng giảng cho học trò ngày nào? Hay một nhà từ thiện muốn ra tay giúp đỡ người có hoàn cảnh cơ nhỡ một cách trực tiếp, không muốn qua trung gian vì sợ tiền của mình bỏ ra không đến tay người cần cứu trợ?
 Thoáng qua trong đầu ông bao nhiêu giả thiết. Ông định hỏi, chưa kịp mở miệng, người kia lên tiếng:
- Cháu hỏi không phải, cụ có phải là cụ Thuần không ạ?
- Vâng, chính tôi đây, nhưng ông là ai mà lại hỏi thăm tôi?
Người đó vội ôm chầm lấy ông:
- Chú Thuần ơi ! Cháu là Nhân con bố Thìn đây. Sao chú ra nông nỗi này? Cháu về quê, người ta kể chú thím ở trên này đàng hoàng lắm cơ mà ?
Ông giáo đẩy người khách lạ ra một chút để nhìn rõ mặt, chịu, ông chưa đến nỗi lú lẫn nhưng không thể nhận ra anh ta là ai? Nhưng tên người anh ta vừa nhắc đến ông làm sao quên được?
 Dù đã năm mươi năm trôi qua, ông vẫn nhớ. Người ấy là anh trai ông, dù có lâu hơn thế cũng không thể quên .. Nhưng nghe nói ông ấy chết từ lâu rồi cơ mà? Cái vóc dáng người trước mặt ông, cả giọng nói như có cái gì giống nhau lắm, thôi đúng rồi ..
Hai chú cháu ôm nhau khóc, đứng lặng hồi lâu. Một già một trẻ, người sang trọng, kẻ bần hàn.
Người cháu nhắc lại câu vừa ban nãy đã hỏi:
- Sao chú lại ra thế này hả chú?
Ông giáo cười, nụ cười đẫm nước mắt :
- Chuyện dài lắm cháu ạ! nói một lúc không hết được. Chỉ tại chú vô phúc, vợ hỏng, con hư mới ra nông nỗi .. Thôi bây giờ vào nhà chú cái đã, chú kể cho con nghe sau, ai lại đứng giữa đường, giữa chợ thế này ?
Người cháu đỡ ông lên xe, ông không quên mang theo cái túi xách lem luốc, anh ta đỡ lấy, giở ra xem: miếng đậu phụ trắng nhợt đã vỡ nát, trộn lẫn gói bún đã nguội ngắt từ bao giờ. Anh bảo ông bỏ lại, ông chần chừ tiếc rẻ, một lúc sau mới chịu vất xuống rãnh nước đang chảy ri rỉ ven đường.
Trước khi nổ máy cho xe chạy anh ta bảo :
-  Chú không thể về nhà với bộ dạng thế này được! Bây giờ chú đi với cháu, cháu thuê khách sạn ngoài thành phố, đêm nay chú cháu ta nghỉ ngoài đó. Cháu có mua quần áo biếu chú đây, muốn gì chú cũng phải tắm rửa, thay đồ, mai mới về. Chú là nhà giáo kia mà, ai lại ăn mặc như thế này?
Ông giáo bảo :
- Không cần như thế đâu, “quen sợ dạ, lạ mới sợ áo quần”, ở đây người ta lạ gì chú? Chú cứ mặc như thế này là được rồi. Gặp được cháu là chú mừng rồi!
Anh ta nhất định không nghe, cho xe chạy thẳng ra thành phố. Đi ngang qua nhà mình, ông chỉ cho người cháu thấy ngôi nhà xây của mình, ngôi nhà hai tầng sơn màu vàng nhạt, núp dưới tán cây nom đâu có đến nỗi nào?
 Người cháu có vẻ không hiểu những gì đã xảy ra cho người ruột thịt của mình, anh ta chỉ chau mày, không hỏi, cho xe chạy nhanh hơn .

***

Nhà ông phó chủ tịch, kiêm trưởng ban công an thị trấn hôm nay có việc lớn. Xe lớn xe nhỏ đậu thành bãi dài, người ta phải cử cả đội thanh niên bảo vệ tay đeo băng đỏ để hướng dẫn xe vào nơi canh giữ. Người ra vào tấp nập, loa đài inh ỏi. Các bà các cô mặc áo dài, môi son, tay cầm xắc nhỏ.
Các ông mặc com lê, cà vạt, giày da mới.
Đám thanh niên càng nhiều màu vẻ, đương nhiên cả những cô cậu ăn mặc kỳ quặc, tóc xanh, tóc đỏ mà thường ngày ông phó chủ tịch không ưa.
 Nhưng hôm nay những việc ấy chẳng ai để tâm đến nữa, đang trong ngày vui mà!
Hai dãy nhà bạt lớn dựng trên bãi đất hôm qua còn trồng ngô, đã lên râu vừa được phá bỏ, san đầm phẳng phiu .
Một chiếc Phông lớn được căng ở rạp chính có hàng chữ mạ vàng “ Lễ mừng thượng thọ cụ Đăng Minh Thuần tám mươi tuổi”. Phía bên trái có bức ảnh ông giáo Thuần chụp bán thân ở tuổi năm mươi, Phô tô sốp kiểu mới, chỉ hao hao giống người thật ngoài đời. Nhưng chuyện ấy không sao, “ Nghệ thuật luôn là thứ làm cho con người ta đẹp thêm lên, có khi còn hơn hẳn đời thường”! Khi treo bức ảnh này lên, mọi người tranh cãi bảo là nó không giống mấy, để treo bức khác, anh cu Ất đã bảo thế và giữ nguyên chủ ý của mình.
Ai cũng cho thế là phải, mà cụ Thuần khi ở tuổi năm mươi cũng đẹp lắm chứ, ai chả có lúc già? Tranh cãi làm gì cho mất công?
Tám người con của cụ, không thiếu một người. Anh cả đang là giám đốc công ty tư nhân có một cái tên rất lạ “ Khai thác tiềm năng và phát triển văn hoá Dân tộc”. Công ty anh đang sưu tầm các loại nhạc cụ ở địa phương về làm mẫu, rồi chế tác mới để kinh doanh.
Thời Du lịch được nâng lên thành ngành công nghiệp không khói, những thứ ấy đang được ưa chuộng. Các Video ghi hình hát then, hát lượn, cả ca trù, hát hầu đồng cũng là mặt hàng bán rất chạy. Vì thế mà công ty ngày càng phát triển.
 Hai người em trai đứng kề bên. Ai cũng nét mặt hớn hở, cười nói ân cần bắt tay, đón tiếp khách. Cô gái út là chủ trang trại nuôi đà điểu thay mặt chị em gái đứng ngoài cửa tươi cười hướng dẫn khách vào bàn ngồi. Các cô còn lại người nào việc nấy, vui như ngày hội!
Mà đúng là ngày hội thật, không phải ngày hội làm gì có nhiều hoa tươi, nhiều tiếng cười, nhiều đèn sáng rực rỡ như ngày hôm nay?
Anh Ất được ban tổ chức cử làm MC. Buổi lễ chưa chính thức khai mạc, trong khi chờ đợi anh đang hát một bài nghe rất chi mủi lòng:
“ Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn .. mà chảy ra ..
Là người.. sống ở trên đời .. biết nhớ công cha mẹ,.. mới là người hiền nhân ..
Vì đâu anh nên người tài ba?
Hãy nhớ công sinh thành
Vì Người mà có ta ..a..a”
Tiếp đến là tiết mục chào mừng của các cháu trường mầm non mà cô con gái thứ hai của cụ giáo làm hiệu trưởng. Các cháu mặc đồng phục nom xinh xắn, bó hoa ôm trước ngực, vẻ mặt trong sáng hồn nhiên, ca vang bài “ Cháu yêu bà”. Bài hát tuy không phù hợp lắm vì đây là mừng thọ cụ ông, nhưng mà không sao. Tấm lòng con trẻ, ai lại bắt bẻ bao giờ?
Ông chủ tịch thị trấn hôm nay đích thân thay mặt chính quyền cơ sở, sau lời giới thiệu của anh cu Ất, ông thong thả, bước dõng dạc lên bục có cài sẵn Micơrô, ông dõng dạc tuyên bố khai mạc buổi lễ, hàng tràng vỗ tay vang dội. Người ta để ý thấy cụ giáo Thuần rơm rớm nước mắt khi nghe ông nêu quá trình công tác, cống hiến của cụ trong sự nghiệp “trồng người” của địa phương.
Một cụ đại diện cho người cao tuổi lên nêu lại quá trình giống hệt vị chủ tịch thị trấn một lần nữa, chỉ thêm sau đó cụ đọc tặng một bài thơ có nhan đề là:
“ Niềm vui lúc tuổi già” .
 Bài thơ tương đối dài, đại ý là khi người ta về già, người ta nên để cho đầu óc thanh thản, chả tội gì mà lo, chả tội gì mà buồn, quên tuổi tác, quên oán thù và quên bệnh tật, ủng hộ con cháu nó làm công việc xã hội, đừng phàn nàn gì nữa.
Cuộc đời nó thế, con cháu mình nó thế.. Nghĩ ngợi, thắc mắc cũng chẳng giải quyết được việc gì!
Một vị ở trên tỉnh về, vị này đang có cương vị quan trọng nên nói năng kiệm lời.
Vị cám ơn thày giáo cũ, tri ơn công dạy dỗ của thày nên mình mới có ngày hôm nay!
Lại hàng tràng vỗ tay vang dội!
Đáng lẽ như các buổi lễ khao thọ khác, cụ giáo cứ việc ngồi yên một chỗ để mặc cho người ta tán thưởng, chúc tụng mình.
Nhưng trong hoàn cảnh riêng của mình, cụ cảm thấy không nói, không được. Tay cầm mic của cụ run run, cụ cố trấn tĩnh như ngày nào đứng trên bục giảng:
-Kính thưa các cụ, các ông các bà, các vị quan khách đại diện cho các ban ngành của tỉnh, của huyện, của thị trấn .. Tôi vô cùng xúc động trước những tình cảm tốt đẹp của tất thảy quý vị và bà con lối xóm đã dành cho tôi .. Quá trình tham gia công tác xã hội của tôi cũng đạt được một số thành tích. Ban nãy ông chủ tịch thị trấn và cụ hội trưởng hội người cao tuổi đã nói rồi. Tôi xin không nhắc lại nữa. Tôi muốn nói như một chuyện tâm tình với tất cả mọi người có mặt hôm nay ở đây. Có thể sắp tới đây, tôi sẽ phải xa mọi người mãi mãi.. Tôi có người cháu con anh trai tôi, đang định cư ở nước ngoài. Cháu muốn đưa tôi về trông nom từ đường họ Đặng của tôi ở dưới quê, vì hiện nay không có ai có thể làm tốt việc này hơn tôi được..
Vài người ở dưới xì xào :
- À thì ra thế, chả trách có lễ mừng thọ này.. Chắc là ông cháu bỏ tiền ra khao thọ cho chú đây chứ đám con ông ấy nếu muốn thì đã làm từ lâu rồi.
- Suỵt, bé cái mồm chứ, đèn nhà ai rạng nhà ấy, nói thế đến tai ..
- Thì có ai nói sai gì đâu?
- Thôi để yên xem ông cụ còn nói gì nữa kìa.
Giọng cụ giáo nghe chừng đã mệt :
- Làm người ai cũng có lúc thế này, lúc thế khác. Thường thì người ta “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đạy lại”. Tôi thì lại muốn sòng phẳng, thành thật với chính bản thân mình. Tôi cũng không tốt hẳn như mọi người nghĩ đâu. Cũng có lúc cho vay nặng lãi, rồi thương người vô lối như trường hợp cái bà ở dưới phủ Đoan. Hôm nay bà ấy tôi cũng mời, không hiểu vì sao bà ấy không đến. Con người ta đến già thì dở, tôi cũng không phải thần thánh gì, mà bảo sáng suốt mãi được, nhưng lại hay xen kẽ vào công việc xã hội của con cái, nên các con tôi nó ghét. Nhân tiện đây bố xin lỗi các con, tính bố các con không lạ, quan liêu cửa quyền, lợi dụng chức vụ để cầu lợi cho mình là bố không ưa. Có sai là sai ở cái khác chứ không mắc những cái này ..
Đến đây ông phó chủ tịch không chịu được nữa, ông vội chạy lên bục đỡ cụ giáo xuống: “ Bố mệt rồi, bố xuống nghỉ đi, mọi người đang vui”. Cụ giáo nhìn anh con trai thứ cười nhạt: “ Con không muốn thì bố không nói nữa, bố thôi cũng đành vậy”!
Không biết do bị dừng lời đột ngột, hay do cao tuổi không đủ sức ngồi thêm nữa, cụ nhờ người đưa vào trong nghỉ. Hai môi mím chặt, mắt ươn ướt, cụ Thuần không nói thêm lời nào ..
Ngoài rạp, giọng Ất vẫn nói lanh lảnh :
- Vì tuổi cao, sức yếu đáng lẽ cụ giáo còn tâm sự với chúng ta đôi ba câu chuyện trước lúc cụ về xuôi, nhưng do sức khoẻ cụ đã dừng lời .. Một lần nữa thay mặt ban tổ chức cám ơn những lời chí tình của cụ, kính chúc cụ sống lâu trăm tuổi! Sau đây ban tổ chức xin giới thiệu ..
Ông con cả ghé tai bảo ông phó chủ tịch:
- Chú vào xem bảo bọn nó có gì cho mang lên đi, không lôi thôi nữa!
Một lát sau cỗ được bưng lên. Chưa có đám nào cỗ làm to, sang, trọng như đám này!
Người cháu “Việt Kiều yêu nước” nhìn thấy tất cả, nhưng anh ta ngồi im, không nói gì ..
Tiếng hò dô “trăm phần trăm” vang trời.. Bỗng đâu cô gái út hốt hoảng chạy ra ghé tai anh Việt kiều yêu nước:“ Hỏng rồi, anh vào trong nhà xem thế nào?”. Vị Việt kiều phốp pháp vội chạy vào. Ông giáo mắt trợn ngược, trừng trừng toàn lòng trắng. Khóe mép ông xùi bọt trắng như nước miếng cua buổi trưa nắng. Vị thất sắc bảo đứa em:
- Cô ra cho dừng ngay lại, ông nhà mình nguy rồi!
Cô gái út vội chạy ra. Ngoài rạp ồn ào như chợ vỡ. Đang rượu tưng bừng, ngất ngây con gà tây!
Làm sao dừng lại được bây giờ?
                                  


Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

Tham khảo thủ thuật IT ( Bài của Sông Hàn )


Con già hú như anh đã tiên liệu là đ. thể nào thọ nủi bởi sâu? Bởi quá bạc bẽo với khách hàng, nền tảng yếu và hông một chút thông minh, thêm vầu đó Blogger, WP, rùi FB ra đời liên tiếp chọc những nhát giao chí mạng vào thân già lọm khọm Yahoo.

Nó đéo tèo mới là lạ. 

Bên Yahoo, chi bộ từng có bạn blog thân rất thân giờ thì he he thân ai người ấy lo!!

Vậy hãy cùng anh tận hưởng tiện ích blog trên Gúc (blogger). Nó rất đáng để chi bộ chiêm nghiệm.

Vài nét ban đầu
Gần như bất cứ người cho blog nào khi mới bắt đầu tạo dựng cho mình một trang mạng cá nhân thì đều muốn có một cái giao diện ưng ý một cái tên miền ưng ý. Tên miền free trên blogger luôn luôn có dạng xxx.blogspot.com. Đương nhiên ta khoái chỉ .com, .vn, .info mà thôi.

Thế mới thật đẳng cấp he he!! 

Dưng đéo có bữa trưa nào miễn phí cả. Muốn có tên miền như vầy chi bộ phải bỏ tiền. Ví như muốn .com thì mất 10 Mẽo kim cho một niên hí hí. 

Ngài mới bị con Già hú đuổi khỏi bển, anh vật vã vô chừng chạy rông khác đéo ông chó không chuồng. May có con Năm lét, chiên gia bán thuốc Viagra xin, trung tâm tư vấn tình dục mần tất từ. A đến Z. Anh chỉ có việc biên bài há há!!

Bắt đầu biên bài nào!
Dưới đơi là giao diện biên bài trong blogger, dành cho chi bộ khi lần đầu tiên gặp gỡ anh gúc: 
Các dùng cứ việc bôi đen đoạn cần đậmnghiêngghạch chân rùi click BIU, tương tự thế với chèn liên kết, mầu chữ, hay mầu văn bản. Với tạo tóm tắt bài viết chi bộ thấy đoạn nầu ngắt được để nó ra trang nhất (tức là ra giao diện blog) thì cứ click vào "tạo tóm tắt".

Biên bài xong gắn nhãn ở bên phải bài viết ấy, cái nài nó cũng như thư mục bên Yahoo. Chọn giờ đăng (được xuất bản vào...) nếu muốn.

Cuối cùng click "Cập nhật".

Vậy là xong khó đéo!!

Tìm giao diện (template)
Về giao diện, chi bộ có thể dùng ngay giao diện do blogger cung cấp. Phải nói thực lòng là nó hơi xơ cứng và rất nhọc công để tùy biến. Nó hông tóm tắt bài viết (đúng hơn là có nhưng he he huyền thủ công

Húng lên làm mẹ cái giao diện (template) pro đương nhiên phải trả tiền công thiết kế hí hí. 

Từ anh đến những con bựa hay toàn thể chi bộ đéo thằng nầu muốn trả tiền khoản nài cả. Đèo mẹ phi lý hết sức trong khi chúng ta có thể tìm kiếm được các template free đầy trên mạng. 

Xin giới thiệu với chi bộ một vài trang như vậy: 123, ... Nhiều lắm kể đéo xuể đâu.  Tóm mẹ nó lại trong link nài cho chi bộ tự gúc: 23 trang cung cấp template miễn phí

Bắt đầu quá trình tìm giao diện: Cứ thế mà gúc bừa, thấy cái nào ưng ưng thì download. Đương nhiên có quá nhiều giao diện đẹp, khiến anh cũng như chi bộ tối tăm mặt mũi đéo biết chọn đàng nào he he!! 

Với anh giao diện cho Han Times phải mang mầu sắc magazine, tóm lại là gọn gàng ngăn nắp vuông thành sắc cạnh, tập trung cho nội dung và he he đéo cần live ảnh (quá lãng phí diện tích). Tông mầu anh thích đen, trắng link liên kết phải đỏ.
Đơi là giao diện Han Times mà anh vừa chôm được - Rất ưng ý he he!!
Còn chi bộ thì tùy hí hí!!

Trong quá trình mần giao diện ta thường rất ham tích hợp các tính năng cho trang của mền ví dụ. Phải có Menu dạng trượt, dạng thả (thế mới giống web - mặc dù ta xài log), phải có số người online, bản đồ truy cập. Nhiều tiện ích do thằng gúc cung cấp như: "cồng măng mới", "bài đăng mới", "bài ngẫu nhiên" bỗng nhiên lỗi, ta phải bù vào, rùi "bài liên quan" vươn vươn. Tóm lại là nhiều đéo kể xiết.

Thậm chí ta còn muốn tích hợp FB vầu trang của mềnh để tiện đường chém gió. 

Việc quá tham tích hợp tính năng có thể khiến giao diện trở nên rối, hay tốc độ load chậm. Đó là cái giá phải trả thui. Hãy cứ từ từ trước hết làm cái giao diện cơ bản đã, chạy cho nó ổn ồn rồi tùy trước sâu mà tích hợp.

Nào bắt đầu vọc với blogger. Đầu tiên chi bộ phải tạo một trang blog cho mềnh (Cách tạo blogger như thế nầu tự gúc, anh o bày đâu). Ở đơi chỉ đi thẳng vầu thiết kế he he!!

Tải template 
Trước hết vầu blogger như hình dưới: 

Click tiếp cái tam giác nhỏ nằm giữa biểu tượng trang (hình mấy trang giấy) và" Xem blog". Nó chạy ra một cái bảng dài nhấn chọn "Mẫu". Ra cái hình như thế nài nài: 



Click "Sao lưu/Khôi phục" ra cái hình như thế nài nài: 

Click "Chọn Tệp tin" để tải template lên chỉ cần chọn file đuôi .xml, những cái khác chi bộ đéo cần quan tâm (chú ý trước khi khi tải lên phải giải nén template ra nhế).

Thế là xong, hãy bắt đầu thưởng thức giao diện mới nhế!! Tuy nhiên giao diện mới có thể có menu hoặc o có. Nếu có thì nó cũng ở dạng demo hông thể nào liên kết với các tag trong blog của chi bộ được. Vướn đề là phải tùy biến HTML he he!! 

Phần sau đi nhé!!

Để biên có chừng ấy thôi anh vọc cả tháng giời, dùng blogger cả niên đới, o ít đâu he he!!

Cái quái gì thế này? Ngộ độc thực phẩm chăng?


XIN HẾT SỨC KIỀM CHẾ KHI ĐỌC BÀI NÀY


Bật cười đám đông hò hét rèn "tự tin" giữa đường Hà Nội 

Thứ sáu 14/12/2012 17:34 


Sáng 14/12 tại ngã tư Tôn Thất Tùng và Trường Chinh (Hà Nội) những người tham gia giao thông được phen bất ngờ và không hiểu chuyện gì khi trên đường xuất hiện đám đông bạn trẻ tập trung đông với băng rôn quấn quanh đầu với dòng chữ "sức mạnh chiến binh" và hò hét. 

Bốn góc đèn giao thông tại ngã tư, các thành viên xếp hàng và từng bạn trẻ ra đứng và hét to với khẩu hiệu: "Tôi là người thành công" liên tục, nhiều người đi đường tò mò dừng xem và cho đây là hành động điên rồi.

Tiếp xúc với một thành viên trong nhóm bạn N V T( Sinh viên Đai học Kinh tế Quốc Dân), PV được biết, đây là buổi học thực hành rèn luyện kỹ năng "tự tin" giữa đám đông của một nhóm sinh viên các trường đại học trên thành phố Hà Nội do một trung tâm trên địa bàn tổ chức. Với thực hành bắt buộc mỗi bạn sẽ ra trước ngã tư và hô 100 lần khẩu hiệu "Tôi là người thành công". Bạn T còn cho biết với một ngày học các bạn sẽ phải đóng học phí 250 nghìn cho trung tậm. Khóa học tùy vào thời gian các bạn đăng ký.

Mục tiêu khóa học đặt ra là rèn luyện sự tự tin, dám nghĩ dám làm, trưởng thành hơn. Do vậy đám đông các bạn trẻ phải thực hành cách khác người là thể hiện sự tự tin, hò hét giữa dòng người xe đông đúc.

 
Hét khẩu hiệu to giữa ồn ào và bụi xe.

Các thành viên với băng rôn quanh đầu 
Xếp hàng để chờ tới lượt hô khẩu hiệu.


 Người đi đường tò mò chú ý không hiểu chuyện gì đang xảy ra.






Đơn giản các thành viên chỉ cần hét to và rõ ràng khẩu hiệu"Tôi là người thành công".


49 nhận xét:

  1. Bọn này mới là bọn tụ tập trái phép và gây rối trật tự công cộng . Sao công an không đến bắt để dưa về Lộ Hà nhỉ ?
    Trả lời
  2. Hoa chat thuc pham cua TQ da lam cho nguoi VN khong con binh thuong nua.
    Trả lời
  3. Thay khẩu ngữ hô đi các bạn:Hoàng Sa -Trường Sa là của chúng tôi. Của người Việt Nam.
    Ta sẽ thấy tự tin hơn rất nhiều.Áo vàng, áo xanh, áo xám xi măng vây quanh cũng mặc.
    Trả lời

    Trả lời


    1. học phải đi đôi với hành21:41 Ngày 14 tháng 12 năm 2012
      Ý kiến rất hay. Mấy sinh viên đó đang học chay. Không hiệu quả đâu. Nếu có áo xanh, áo vàng... vây quanh thì hiệu quả sẽ đạt 100%. Khi đó không phải tốn 250 nghìn.
    2. Học theo cách của các cô, các bác khi bị bắt vào trại Lộc Hà (do đi biểu tình). Các bạn sinh viên cứ tìm đến chỗ các anh áo xanh, áo vàng và hát to bài "Anh Là Ai" hoặc hô to khẩu hiệu "Trường Sa - Hoàng Sa của Việt Nam". Khi đó các bạn sẽ có ngay khả năng tự tin mà ít ai sánh bằng. Không phải mất 250 nghìn mỗi ngày (thật kinh khủng đối với khả năng tài chính của sinh viên) cho cái trung tâm kia.