Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

THANH TÙNG đầu hàng giai cấp để được làm thơ tình


Nhà gỗ nhỏ, rượu vang, trưa hầm hập khói thuốc, khóc đó cười đó, ngẫu nhiên như khi Chu Bá Thông nghe nhắc đến món nợ Vương phi nước Đại Lý. Ngõ vắng, trúc xanh như thơ, tóc trắng, gió im ắng trước hiên nhà. Thanh Tùng, dẫu trong lúc nhọc nhằn nhất, dẫu trong khi nguy khốn nhất, vẫn lừng lững một hình hài lãng mạn thanh thản đi. Nhất là khi thi sĩ bảo, “Tớ ở tuổi này rồi, không dám nói dối điều gì, cũng không sợ nói thật điều gì”. Thanh Tùng đã sống hết mình, yêu hết mình và không bao giờ giả dối. Thêm nữa là, “Tớ chưa viết hồi ký đâu, vì tớ còn võ. Tớ còn phải thượng đài, cậu cứ giục tớ viết hồi ký từ mấy năm nay, hóa ra tớ không còn võ à. Hết võ thì mới viết hồi ký chứ”.






HẦU CHUYỆN THI SĨ THANH TÙNG

 @ Thưa nhà thơ Thanh Tùng, văn đàn lại thêm phen nổi sóng gió. Đôi khi tôi nghĩ như ông lại hay, cứ im lặng viết, cứ an nhiên vui. Sớm thì nhìn ngõ trúc, chiều lại ngắm phố phường, khuya chong đèn đọc sách.
Thanh Tùng: Tính tôi nó vậy rồi, tụ tập để ầm ĩ không quen. Như tôi vẫn tự nhận, cả đời tôi chỉ biết yêu và viết thơ tình. Tôi cũng được người ta yêu lại nhiều chứ, tôi mà khoe với anh những người yêu tôi thì anh không tưởng tượng được đâu.
@ Theo chỗ tôi được biết, ông làm thơ từ rất sớm?
Thanh Tùng: 7 tuổi tôi tập tành làm thơ, vài năm sau thì có thơ in trên báo Tia Sáng ở thời điểm ấy, tôi còn nhớ mấy câu cuối, bài Ngày Khai Trường, “Thôi thế còn đâu nữa mẹ ơi / Những ngày bên mẹ đã qua rồi / Trên đường học tập mình con bước / Xa mẹ lòng con lạnh quá thôi”. Ông cụ thân sinh tôi cũng làm thơ, tiếc là không tạo được tiếng vang. Sau đó, tôi không nghĩ gì đến thơ ca nữa, tôi đi “đầu hàng giai cấp”.
@ Đầu hàng giai cấp ạ?
Thanh Tùng: Đầu hàng giai cấp chứ còn gì nữa, thời đấy anh không hình dung được đâu. Nhà tôi gốc tư sản, không thuộc về giai cấp cần lao nên mình phải lao động một cách tự nguyện. Tôi tham gia lực lượng thanh niên xung phong.
Hồi đấy, tôi góp phần thi công con đường 12B Hòa Bình. Tôi được phân công làm Trung đội phó. Sau đó, tôi được cử đi học trường Thể dục Thể thao, rồi về làm công nhân nhà máy đóng tàu.

@ Toàn những chuyện không liên quan gì đến thơ. Thế nhưng, thi sĩ lại trở thành nhà thơ chuyên nghiệp?
Thanh Tùng: Tôi không phải là nhà thơ chuyên nghiệp đâu, chưa bao giờ tôi là nhà thơ chuyên nghiệp cả. Như thế này, muốn chuyên nghiệp phải có điều kiện phục vụ cho sự chuyên nghiệp chứ. Thời tôi thì có gì để hình thành nên sự chuyên nghiệp, không bút, không giấy, không bàn viết. Tôi đọc thấy rằng, chỉ có hai lớp người không cần đến sự chuyên nghiệp mà vẫn được ghi nhận về tài năng, đó là nhà thơ và nhà toán học.  Họ chỉ cần một cây bút và một quyển sổ cộng với tài năng, chuyên cần. Còn lại, đều phải chuyên nghiệp cả. Ví dụ như muốn thành nhà hóa học mà không có cái bình cổ cong thì trở thành nhà hóa học bằng cách nào. Cái bình cổ cong không phải là hình thức đâu, mà nó chính là phương tiện bắt buộc trong phòng thí nghiệm, không có nó thì làm được gì. Ngày ấy, tôi viết bất cứ ở đâu khi có tứ thơ. Tôi viết trên giấy bao xi – măng, trên vỏ bao thuốc lá, trên tấm tôn. Có viết thì dùng viết, không có viết thì lấy gạch viết. Viết khi nghỉ giải lao, viết lúc bom rơi súng nổ.
@ Chủ đạo là thơ tình?
Thanh Tùng: Chứ không thơ tình thì tôi viết gì đây.

@ Thời của thi sĩ mà viết toàn thơ tình thì có khi cũng gặp rắc rối?
Thanh Tùng: Không sao đâu, tính tôi thế nào thì mọi người biết cả, tôi có mưu cầu gì đâu. Tôi chỉ thích và muốn viết thơ tình, vậy thôi. Theo quan sát của tôi, ở nước mình chỉ có đúng hai nhà thơ thật lòng hiến dâng đời mình cho thơ tình là Xuân Diệu và Nguyễn Bính, tôi cũng hiến đời tôi cho thơ tình.  Cả khi tôi viết về những ngày khói lửa, tôi vẫn thấy tình yêu trong đấy. Như khi tôi viết bài Đỉnh Núi, có đoạn “Đỉnh núi bây giờ ta đặt pháo / Anh với em lên đào chiến hào / Đêm đêm cỏ mật bừng ngây ngất / Anh ở gần em hay gần sao / Gió bấc lồng điên dại/ Vò cánh chim nát nầu / Nai lạc trong khe sâu / Mặt trời đi trốn mãi / Có phải thương anh nên em muốn thành tấm áo/ Thành lá ngàn ngăn sương buốt mênh mông/Giặc Mỹ đâu đây lẩn khuất cuồng ngông / Chúng thù từng nồi cơm đang chín, chúng thù từng mầm xanh cỏ cây / Ôi, dáng đứng trên đỉnh cao của muôn nghìn căm phẫn / Xả lửa hờn thiêu dạt những đường bay”.
Thơ chiến đấu của tôi vẫn đầy cái tình, “Mai này giặc hết / Anh với em lên lấp chiến hào / Ngạt ngào hương cỏ mật / Anh với em ngồi lẩn vào sao”, đi đâu rồi cũng về thơ tình.
@ Ngay  bài thơ lừng danh Thời Hoa Đỏ cũng là thơ tình, thưa thi sĩ Thanh Tùng. Theo chỗ tôi đã thấy, Thời Hoa Đỏ không đơn thuần là một bài thơ hay, nó đã thành một biểu trưng của cả một thời bi hùng đầy lãng mạn. Đây là một điều rất đặc biệt trong thi ca Việt Nam.
Thanh Tùng: Anh nói đúng, đó là một thứ thơ tình thật sự, hoàn toàn là thơ của tình yêu. Chứ không phải giả vờ là tình yêu, là chỉ ghé vào tình yêu.

@ Và một trường hợp đặc biệt như Thời Hoa Đỏ thì bao giờ cũng có thân phận riêng. Đặc biệt là trong giai đoạn mà tất cả cho tiền tuyến, nhắc đến tình yêu có khi cũng bị đánh đồng với sự ủy mị. Rất dễ gây nên một tai  họa cho người viết và cả người duyệt in.
Thanh Tùng: Đúng thật, biên tập viên báo Văn Nghệ Quân Đội sau cho in bài Thời Hoa Đỏ đã gặp nhiều rắc rối. Văn Nghệ Quân Đội ngày đó kinh lắm, được in một bài thơ trên đấy là tạo tiếng vang ngay.
Anh cũng biết là ngày trước các biên tập viên văn nghệ thường hay lang thang các tỉnh thành để tìm tác phẩm hay mang về in. Anh biên tập viên Văn Nghệ Quân Đội tìm đến nhà tôi khi này đang ở Hải Phòng, anh lục trong đống bản thảo tôi viết trên bao xi măng thấy được bài Thời Hoa Đỏ. Anh đọc xong, nghĩ mông lung lắm. Lúc lâu bảo, “Thôi, tôi về Hà Nội đây, Thanh Tùng ạ”. Tôi tiễn anh ra đến ga tàu, lên đến tàu rồi anh lại đi xuống, nói “Thôi, hủy chuyến này đi. Tôi cần nói chuyện với Thanh Tùng”. Sau đó, anh chép vào sổ tay bài Thời Hoa Đỏ và đưa in. Báo ra, tạo nên một làn sóng dữ dội, làn sóng ấy vượt khỏi Hà Nội tràn về Hải Phòng. Có người quen bảo tôi, “Thanh Tùng ơi, lên Hà Nội đón hào quang Thời Hoa Đỏ đi!”. Tôi ra đường, gặp nhà thơ Xuân Quỳnh, gặp nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Hai cô đều bảo, “Anh Thanh Tùng ơi, sao mà anh tử tế với phụ nữ đến vậy”.
Lâu lắm rồi, tôi đi dự Đại hội Nhà văn, có nhà văn còn xin gặp riêng tôi để nhờ tôi chép hộ 4 câu trong bài Thời Hoa Đỏ để “Nhà cháu rất thích những câu ấy trong thơ của bác”. Đó là những câu, “Trong câu thơ của em anh không có mặt / Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết / Anh đâu buồn mà chỉ tiếc / Em không đi hết những ngày đắm say”. Sau này, báo Văn Nghệ Quân Đội kỷ niệm 40 năm có mời tôi đến dự. Trên băng – rôn kỷ niệm hôm ấy ghi là “Thời Hoa Đỏ”.

@ Thưa nhà thơ Thanh Tùng, nếu tôi nhớ không nhầm thì thi sĩ Xuân Diệu từng đánh giá về ông như sau, “Thanh Tùng, có dáng dấp của một thi sĩ”.
Thanh Tùng: Đúng là nhà thơ Xuân Diệu có nhận xét vậy. Hồi đó, chỉ có những bậc đại thụ như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh mới được gọi là nhà thơ. Tôi thế này mà được bảo có dáng dấp của một thi sĩ là điều kinh lắm đấy. Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét về tôi như vậy vào năm 1982, chính nhà thơ Xuân Diệu và nhà thơ Chế Lan Viên giới thiệu tôi vào Hội.
@ Vào Hội Nhà văn thời điểm ấy vinh dự lắm?
Thanh Tùng: Chứ còn gì nữa.

@ Thưa thi sĩ Thanh Tùng, tôi là lớp hậu bối. Không liên quan đến thi đàn, danh vọng lại càng không. Thế nhưng, theo cảm quan của tôi thì không cứ vào Hội Nhà văn sẽ trở nên nổi tiếng và tác phẩm sẽ có giá trị theo. Cũng như, không cứ ra khỏi Hội Nhà văn là lập tức tên tuổi sẽ đạt được một đẳng cấp khác. Bởi lẽ, người nghệ sĩ sáng tác hoàn toàn không phụ thuộc vào Hội hay không? Cũng như nhà thơ Thanh Tùng vậy, Thanh Tùng biết đến là nhờ thơ chứ đâu phải Thanh Tùng được biết đến vì từng là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam hay đã không còn là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nữa. Quan điềm của nhà thơ về vấn đề này như thế nào?
Thanh Tùng: Nhà văn hay nhà thơ là do tác phẩm quyết định, là do độc giả xác tín chứ không phải là do Hội này hay Hội kia muốn quyết là được. Phải nói ý này, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam hiện tại là nhà thơ Hữu Thỉnh, ông ấy là nhà thơ đích thực ấy, có tài ấy chứ không phải chỉ là người sống lâu lên lão làng đâu. Tôi nghĩ, vào Hội Nhà văn Việt Nam cũng có những cái hay riêng, mình có thêm điều kiện để giao lưu với văn nghệ sĩ trong nước và quốc tế. Nhưng đó không phải là một huy hiệu được mạ vàng hay đơn giản hơn chỉ là một cái bục kê để tên tuổi văn nghệ sĩ trở nên vang danh hơn.
@ Đơn giản nhất chỉ là, thấy còn thích thì vui, không còn thích thì thôi chứ ầm ào thì trông nó hơi kỳ kỳ, phải không thưa nhà thơ?. Mà trong những người ầm ào đấy, tôi biết là đã có những vị ăn lộc của Hội Nhà văn dầy lắm, nhiều lắm. Ăn đầy lộc giờ lại phản ứng này kia kia nọ thì thật buồn cười.
Thanh Tùng: Tôi cũng biết nhiều chuyện hơn cả anh chứ. Nhưng tôi nghĩ rằng, đã là văn nghệ sĩ chỉ nên lấy sáng tác làm trọng.
@ Xin cảm ơn nhà thơ Thanh Tùng vì cuộc trao đổi này. Kính chúc ông nhiều sức khỏe.
                                                                                                NGÔ KINH LUÂN
                                                                                                            (Thực hiện)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trao đổi giữa nhà văn Nguyên Ngọc và ông Thomas J. Vallely:


Giáo dục - Giá trị vĩnh cửu của hoà bình 

Họ là hai người khác nhau về chủng tộc, ở hai quốc gia cách xa nhau về địa lý và khác biệt về lịch sử hình thành. Những năm tháng chiến tranh, có lúc họ là kẻ thù một mất một còn của nhau trên mảnh đất nhỏ ven sông Thu Bồn (Quảng Nam). Sau khi cởi bỏ bộ đồ lính trận, trở về cuộc sống thường nhật trong thời bình, họ lại gặp nhau ở Việt Nam như một cơ duyên. Vậy mà cũng đã trên hai mươi năm. Điểm tương đồng gắn kết họ lại với nhau: một niềm tin bất diệt vào sức mạnh giáo dục đối với sự trường tồn của mỗi quốc gia. Đó là giá trị vĩnh cửu của hoà bình.



Nguyên Ngọc và Thomas Vallely. Ảnh Vũ Thành Tự Anh


Cuộc trò chuyện của chúng tôi với hai - kẻ - cựu - thù - hai - người - bạn - hai  -  nhà - văn - hoá ở cách nhau hơn nửa vòng trái đất luôn đau đáu về nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục mang trong mình nó nhiều khuyết tật…
Được biết hai ông vốn là cựu thù tại chiến trường bãi dâu sông Thu Bồn - Quảng Nam  trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng may mắn, cả hai còn nguyên vẹn trở về. Ký ức chiến tranh ấy có ám ảnh các ông trong cuộc sống hoà bình hôm nay?
Nguyên Ngọc: Có hôm tôi kể với Thomas Vallely hồi cuối năm 1969 - 1970, khi Mỹ đánh phá cực kỳ ác liệt trên vùng nông thôn Quảng Đà (tên của vùng Bắc Quảng Nam hồi bấy giờ), cố cày trắng, quét sạch hết các cơ sở cách mạng, để đánh bật và tiêu diệt chủ lực Việt Cộng, thì chúng tôi, đứng đầu bấy giờ là anh Bí thư Quảng Đà, đối phó bằng cách quyết trụ lại trong các bãi bói ven sông Thu Bồn thuộc vùng Gò Nổi, Điện Bàn. Bí thư tỉnh quyết trụ ở nơi ác liệt nhất thì không bí thư huyện, từ đó cũng không bí thư xã nào, rồi không cơ sở cách mạng nào ở từng thôn xóm bỏ đất của mình mà chạy. Vô cùng gian nan, trầm luân nữa, từng ngày, nhưng cuối cùng cứ như vậy mà giữ được đất, từng tấc, được dân, từng người, giữ được phong trào… Miệt bói ấy ngày trước là những bãi dâu (tiếng Quảng Nam gọi là “biền dâu”) xanh mướt và mênh mông, cơ sở của nghề lụa nổi tiếng xứ Quảng. Khi dâu đã bị quét sạch, thì tự nhiên mọc lên một loại cây gọi là cây bói, giống như lau sậy, hoang dã hơn, cũng mênh mông, mịt mùng hơn. Chúng tôi đào hầm bí mật trụ lại trong bói. Ngày nào Mỹ cũng bắn vào đấy, cả đêm nữa, có hôm còn tưới xăng đốt, chúng tôi cháy sém cả tóc, chậm chân một chút chết thiêu ngay… Thomas bảo, đúng năm ấy ông là thủy quân lục chiến ở Quảng Đà, chính ông đã bắn vào các bãi bói đó. Tôi bảo, cũng may ông bắn xoàng… Và chúng tôi cùng cười.




Vậy đó, chiến tranh sau gần nửa thế kỷ. Hôm ấy, hai chúng tôi ngồi ở một quán nhỏ ven sông Hoài - Hội An.  Bên ngoài lắc rắc mưa xuân. Rất yên tĩnh… Chị gọi chúng tôi là “cựu thù”. Đúng thôi. Nhưng bây giờ, quả thật rất khó hình dung. Trong cuốn sách rất hay “Nếu đi hết biển” của mình, đạo diễn Trần Văn Thủy có dẫn lời một nhà văn cựu chiến binh Mỹ, Wayne Karlin, nói rằng chiến tranh đắp lên khuôn mặt của người ở bên kia chiến tuyến một chiếc mặt nạ, chiếc mặt nạ hì hợm của kẻ thù. Để cho ta khinh bỉ, căm thù và tiêu diệt. Nhiệm vụ của văn học hôm nay là gỡ chiếc mặt nạ ấy ra, trả lại khuôn mặt người cho con người, để ta nhận ra khuôn mặt nguời của nhau. Chúng tôi thường không gọi ông là Thomas Vallely, cũng ít khi gọi Thomas, chỉ quen gọi Tommy. Nhìn mà xem, Tommy, cũng lạ, nhiều lúc ngồi với ông, tôi không có cảm giác đang nói chuyện với một người Mỹ. Mà với một ông già Việt phúc hậu, thậm chí có gì đó…  hơi quê mùa, thật thà và quê mùa…
Vậy đó, giá trị của hòa bình. Trả lại những gì giản dị nhất của đời thường. Thật buồn và đau đớn, phải đổ biết bao nhiêu máu xương để có lại được điều giản dị này…
Có lẽ nhân đây cũng xin nói luôn: Tôi muốn gọi ngày 30/4 giản dị thế này: Ngày Hòa bình. Không gì vĩ đại hơn đâu. 
Thomas Vallely: Tôi phục vụ 13 tháng tại Việt Nam trong khoảng thời gian giữa 1969 và 1970. Như đã tâm sự với người bạn già Nguyên Ngọc của tôi trong một bữa ăn trưa gần đây bên bờ sông Hoài ở Hội An, tôi - một thanh niên 19 tuổi - bước vào cuộc chiến mà hầu như không hiểu tí nào về hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản hay các giả định chiến lược có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. (Tôi chỉ học được chút ít về chủ nghĩa cộng sản khi tôi vào đại học - tức là sau khi tôi từ Việt Nam trở về). Giống như nhiểu thanh niên trai trẻ thế hệ mình, tôi lớn lên với sự quyến rũ của dư âm Thế chiến II, cuộc chiến mà người Mỹ từ trước đến giờ luôn xem là “Cuộc chiến chính nghĩa” được tiến hành vì mục đích cao cả. Nhưng khi là một người lính thủy quân lục chiến đặt chân tới Quảng Nam, tôi thấy ngay rằng vai trò của Mỹ ở Việt Nam khác hoàn toàn. 
Khi tới Việt Nam lần đầu, tôi đã không biết gì về đất nước này và tôi cũng đã không học được nhiều trong thời gian tôi ở đó. Trên thực tế, có thể nói là tôi đã học được hai điều. Thứ nhất, tôi  hiểu rằng Hoa Kỳ không thể thắng trong cuộc chiến này. Chiến thắng là điều không thể khi mà hỏa lực Mỹ giết hại quá nhiều dân thường vô tội. (Bạn không cần phải là một chuyên gia chống chiến tranh du kích nổi tiếng như John Paul Vann (*) để nhận ra điều đó). Thứ hai, tôi đã rất vui khi sống sót trở về.   
Phải rất lâu sau tôi mới bắt đầu học hỏi về Việt Nam. Tôi đã có rất nhiều người thầy tuyệt vời.  Một trong những người tuyệt vời nhất là Nguyên Ngọc. Tôi học được rất nhiều điều từ Nguyên Ngọc, nhưng có một bài học nổi bật hẳn lên vì nó liên quan đến Việt Nam ngày nay. Nguyên Ngọc cho rằng khi chiến tranh kết thúc năm 1975, rất nhiều người Việt Nam nhầm tưởng là đấu tranh đã kết thúc. Trên thực tế, những thách thức lớn nhất vẫn đang chờ ở phía trước. 
 Nghe nói hai ông đang cùng phản biện cho một phim tài liệu lịch sử về chiến tranh Việt Nam? Sự thật lịch sử quan trọng nào của cuộc chiến tranh này sau 40 năm được công bố?
Nguyên Ngọc: Theo chỗ tôi được biết Tommy là cố vấn của bộ phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đã quay trong mấy năm qua. Ông đến Hội An tìm tôi, là bạn cũ, trong chiến tranh và trong hòa bình, rủ tôi sang xem một số phần bộ phim đang ở dạng bản nháp đó, và có ý kiến.
Tôi nghĩ chắc không có “sự thật lịch sử quan trọng” (và mới) nào đáng để tò mò, được công bố đâu. Nếu có thì cũng là đôi cách cắt nghĩa khác nhau nào đó về một số sự kiện trong chiến tranh, cũng là những sự kiện đã được nói đến rồi. Có lẽ điều quan trọng nhất qua bộ phim này là nhìn lại cái cuộc bi thảm ấy (còn gì bi thảm hơn chiến tranh?) như thế nào. Hiểu về nó ra sao? Và để làm gì? … Những năm qua, ngày tôi càng nghĩ rằng chắc không thể tách một cuộc chiến tranh ra khỏi hậu chiến của nó. Có hôm tôi hỏi Tommy: có phải ngày ấy ông sang Việt Nam, cầm súng và đánh nhau, vì ông được người ta nói rằng phải ngăn cộng sản ở bên ấy lại, để lan ra cả Đông Nam Á thì hậu quả khôn lường… Tommy bảo không hề. Ông là người dân Mỹ, được gọi đi làm nghĩa vụ công dân, ông đi, thế thôi… Ở cái quán nhỏ bên sông Hoài, chúng tôi đã nói với nhau về những điều như thế. Suốt hơn 30 năm sau chiến tranh, Tommy trở lại Việt Nam, đã làm bao nhiêu việc vì Việt Nam, từ những điều to lớn góp phần cho thay đổi và phát triển của đất nước này, đến những việc có ích cụ thể, thiết thực… Vì sao? Tôi nghĩ, từ hậu chiến nhìn lại, chắc nhiều người Mỹ hiểu ra rằng chỉ đơn giản ra đi vì “nghĩa vụ công dân” như họ đã đơn giản ra đi, lại có thể tàn phá cả một đất nước tận ở đâu đâu. Nay họ muốn góp phần làm lại …
 Còn chúng ta, hậu chiến cho ta nghĩ gì? Nếu vì một hậu chiến như thế này hôm nay, thì có đáng cho những hy sinh khủng khiếp như đã qua? Ta cũng phải từ hậu chiến mà nhìn lại chiến tranh. Thôi, phải nói thôi, cho tôi nói thật: chúng ta đang sống chẳng xứng chút nào với những gì vì nó mà những năm tháng da82n đđẵng ấy ta đã cắn răng lại mà sống và chiến đấu. Ta vẫn thường nói chiến tranh chưa thôi đào bới lương tâm nước Mỹ. Cũng phải để cho nó còn đào bới lương tâm chúng ta nữa chứ. Theo nghĩa đó, đừng quên chiến tranh. Đừng phản bội chiến tranh. Sống và làm ăn sao đây hôm nay, để đừng tiếc một cuộc chiến tranh đã quá khủng khiếp. 


Thomas Vallely: Cũng chỉ mới gần đây, khi tham gia với tư cách là cố vấn cho một dự án phim tài liệu ở Mỹ, tôi mới bắt đầu đào sâu hơn nữa vào lịch sử cuộc chiến mà tôi và ông Nguyên Ngọc đã đối đầu. Tôi hy vọng rằng, hai năm nữa khi bộ phim được phát hành, nó sẽ giúp khán giả hiểu rõ hơn về cuộc chiến này. Ở Hoa Kỳ có những bất đồng tai hại ngay cả về những sự kiện cơ bản. Ngay cả khi chúng tôi có nhiều khả năng tiếp cận tư liệu lịch sử hơn so với phía Việt Nam thì để những tư liệu này nói lên sự thật ở phía Hoa Kỳ cũng không đơn giản. Ở Việt Nam, thách thức này thậm chí còn lớn hơn bởi vì rất nhiều tài liệu lưu trữ cho đến nay vẫn rất khó tiếp cận. Một trong các lý do tại sao tôi quyết định tham gia thực hiện bộ phim này là vì các nhà làm phim thực tâm muốn xem xét cuộc chiến từ quan điểm của tất cả các bên chứ không chỉ từ phía Hoa Kỳ. Chúng tôi rất biết ơn sự hỗ trợ từ chính phủ Việt Nam cho phép đoàn làm phim đến Việt Nam và trò chuyện với nhiều người đã từng tham gia cuộc chiến. Mong rằng nhiều người Việt Nam sẽ xem phim. Họ có thể đánh giá bộ phim về chủ đề phức tạp như thế thành công ra sao. 
 Nguyên Ngọc: Nói thật nhé, điều tôi quan tâm, và cảm thấy hạnh phúc: Tommy và tôi bây giờ, chúng tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường, giản dị, có thể  nói với nhau về nhưng ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên này và bên kia.
Nhà báo Mỹ gốc Ý  quá cố Oriana Fallaci  từng  viết cuốn sách rất hay trong thời điểm  chiến tranh Việt Nam ở giai đoạn khốc liệt nhất, trước và sau Mậu Thân 1968. Từ Việt Nam, bà nhận ra rằng: “Cuộc sống, cuộc chiến tranh và rồi chẳng có gì” - NXB TP. HCM - năm 1991. Trong bài  thơ “Đá ơi”, tuyển tập Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn - 2010,  người chiến sĩ năm xưa ấy cũng thốt lên lên tiếng thở dài: “Nghĩ cho cùng / trong mọi cuộc chiến tranh. Bên nào thắng thì nhân dân đều bại” . Với hai ông, chiến tranh là gì? Cuộc sống là gì, và hoà bình có phải là điều mà con người luôn chiến đấu để gìn giữ?
Nguyên Ngọc: Tôi có đọc cuốn sách của Oriana Fallaci, đã rất lâu, một cuốn sách thật hay. Sách viết bằng tiếng Ý. Trong bản dịch tiếng Pháp của Jacqueline Remilet - NXB Robert Laffont - Paris, nó có tên là La vie, la guerre, et puis rien, Cuộc sống, cuộc chiến tranh, và rồi không còn gì nữa hết. Cuốn sách ấy bắt đầu bằng một câu hỏi : Qu’est-ce que la vie ? Cuộc sống là gì ? Cũng có nghĩa : Con người là gì? Trong chiến tranh, con người không từ bất cứ điều gì để tiêu diệt con người ở phía bên kia. Và, bằng một biện chứng éo le mà kinh hoàng, cũng đồng thời tự diệt đi con người ở trong chính mình. …et puis rien, và rồi không còn gì nữa hết! Tôi nghĩ Tommy, bạn tôi, làm nhiều việc cho Việt Nam, kiên trì, tận tụy, cũng chính là để tự làm lại mình, con người của mình, trong mình, sau chiến tranh. Chúng ta cũng vậy, phải vậy. Cho nên, tôi nghĩ, đẹp thay, mà cũng là tất yếu chăng, ông ấy và tôi, chúng tôi lại gặp nhau trong giáo dục. Nhất thiết phải là trong giáo dục, bằng giáo dục. Không có cách nào khác. Chỉ có thể làm lại con người bằng giáo dục. Năm ngoái, Thomas Vallely được trao giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh vì cống hiến cho giáo dục Việt Nam. Trong diễn từ nhận giải thưởng tháng 3/2014, Tommy khẳng định chỉ có thể cứu đất nước này bằng giáo dục! Nghĩa là từ làm lại con người. Tôi nghĩ chắc ở nước mình, thậm chí có thể cho đến tận hôm nay, Phan Châu Trinh là người thật sự thống thiết hiểu rằng cần phải làm lại con người để mà xây dựng lại đất nước này, và chỉ có thể bằng giáo dục.
Có phải giáo dục trong ý nghĩa ấy đã kết hai ông lại cùng nhau trên con đường gian truân của giáo dục Việt Nam? Nhìn nhận của hai ông một cách thẳng thắn về thực trạng giáo dục Việt Nam? Và nó còn có cơ may nào cho một nền giáo dục vốn đứt quảng và có quá nhiều bất cập hiện nay?
 Nguyên Ngọc: Đã mấy chục năm nay rồi, ở Việt Nam chúng ta bàn cãi miên man về giáo dục, cải cách đi rồi cải cách lại, đổi mới rồi đổi mới căn bản và toàn diện… Nói đủ thứ chuyện, và đều hay ho, cũng không sai. Nhưng rồi đâu lại vào đó. Về cơ bản, chưa nhích lên được gì. Tôi cũng có một ngôi trường nhỏ, gần mười năm nay tôi loay hoay với nó. Đến nay thì có lẽ tôi đã hiểu: nếu tôi, chúng tôi, dù đã có đủ thứ lý thuyết thâm thúy, đủ thứ chương trình tiên tiến, hiện đại…, nhưng nếu chúng tôi không tạo được một môi trường thật sự tự do cho những người học thật sự tự do, thì chắc chắn chúng tôi sẽ thất bại. Như giáo dục của chúng ta bây giờ.
 Chị muốn tôi nói chỉ vài chữ về thực trạng giáo dục của chúng ta ư? Chúng ta không có một nền giáo dục tự do. Và đó là nguy cơ cho dân tộc. Chúng ta cần một nền giáo dục tự do.
 Với tôi, đến hơn 40 tuổi tôi mới thật sự hiểu cần nhất, quý nhất cho con người là tự do. Lần sau, nếu còn có lần đó, tôi sẽ cố gắng hiểu ra sớm hơn.
Thomas Vallely: Nguyên Ngọc và tôi thoạt đầu trở thành bạn bè không phải vì chúng tôi có cùng một quá khứ là cựu chiến binh mà vì niềm tin của chúng tôi vào vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục đối với tương lai của Việt Nam. Tôi đã vinh dự nhận giải thưởng Phan Châu Trinh năm ngoái. Tôi hiểu rằng Phan Châu Trinh có một niềm tin sắt đá rằng giáo dục là chìa khóa để chuyển hóa Việt Nam thành một xã hội tiên tiến. Rõ ràng là Nguyên Ngọc đang tiếp nối sự nghiệp của Phan Châu Trinh, cả hai đều thông qua giáo dục đại học và thông qua các nỗ lực của mình để gìn giữ và tôn vinh di sản văn hóa phong phú của Việt Nam. 
Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc rằng tự do là yếu tố nền tảng của một nền giáo dục có chất lượng. Nhưng nó không phải là yếu tố quan trọng duy nhất. Giáo dục phải truyền cảm hứng cho học viên, thôi thúc họ tự suy nghĩ cho bản thân mình và cho họ khả năng theo đuổi học tập suốt đời. Thi sĩ William Butler Yeats từng phát biểu một câu nổi tiếng rằng “giáo dục không phải là rót cho đầy tri thức mà là thổi bùng ngọn lửa”. Hẳn nhiên, giáo dục cũng phải chuẩn bị cho học viên đóng góp một cách có ý nghĩa cho xã hội của họ. Hiện tại, tôi đang tham gia vào nỗ lực thành lập trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), một trường đại học độc lập, không vì lợi nhuận. Tôi hy vọng rằng cho dù FUV đi theo hướng đổi mới công nghệ để cung cấp cơ hội học tập được thiết kế nhằm chuẩn bị cho sinh viên đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế tri thức thế kỷ 21, FUV vẫn sẽ thể hiện tinh thần của Phan Châu Trinh. 
Thomas J. Vallely trở lại Việt nam khá sớm, từ những năm 80 của thế kỷ trước, ông từng hướng dẫn các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam nghiên cứu thực địa sự phát triển của một số nước Đông Nam Á với kỳ vọng Việt Nam sẽ “phát triển theo hướng rồng bay”. Mục tiêu này của ông có đạt được?
Thomas Vallely: Trọng tâm công việc của tôi ở Việt Nam trong 30 năm qua là làm thế nào để Việt Nam vượt qua được những thách thức này và khai thác hết tiềm năng to lớn của mình. Một cách công bằng, tôi rất tôn trọng những thành quả của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, Việt Nam có thể và còn phải làm nhiều hơn thế nữa. 
Cách đây vài năm, một số đồng nghiệp của tôi ở Trường Fulbright dịch cuốn sách Tại sao các quốc gia thất bại (**) trong đó tìm hiểu lý do vì sao một số ít quốc gia có thể trở thành nước phát triển cao trong khi đa số các nước khác lại thất bại. Các tác giả của cuốn sách này kết luận rằng chất lượng thể chế ở mỗi nước là yếu tố quyết định. Bởi vì thể chế phản ánh hệ thống chính trị của mỗi quốc gia, nên đó là một cách khác để nói rằng chính trị xác định quỹ đạo phát triển của mỗi quốc gia. 
Cuốn Tại sao các quốc gia thất bại lập luận rằng những quốc gia thành công nhất là những quốc gia phát triển thể chế chính trị dung hợp. Ở mức độ khiêm tốn, quá trình này có thể được quan sát thấy tại Việt Nam. Theo tôi, việc củng cố vai trò và uy tín của Quốc hội là một trong những xu hướng đáng khích lệ nhất gần đây ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi không biết bất kỳ ai ở Việt Nam tin rằng tiến triển hiện nay đủ nhanh và đúng hướng để tiến tới các thể chế chính trị thực sự dung hợp.
Trong khi dường như có sự đồng thuận rộng rãi bề ngoài về những ưu tiên chính sách quan trọng như sự cần thiết phải cải cách thể chế, cải cách pháp lý và tái cấu trúc nền kinh tế, tôi không cho rằng những ưu tiên này rốt cuộc đã trở thành một tầm nhìn chung cho tương lai của xã hội Việt Nam.  Xây dựng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là một mục tiêu đáng hoan nghênh, nhưng trên thực tế các khẩu hiệu kiểu như thế thực sự hàm ý gì? Một tầm nhìn chung như vậy chỉ có thể phát khởi thông qua các cuộc tranh luận và thảo luận cởi mở. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã thấy ví dụ về những thảo luận rộng rãi trên cả nước có thể đưa đến tầm nhìn thống nhất hơn. Chúng ta đã thấy điều đó ở thảo luận về đổi mới hiến pháp năm 2013. Chúng ta đã chứng kiến điều đó qua sự thể hiện tình cảm đặc biệt tiếc thương đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Đến nay, những thảo luận này vẫn được tiếp tục hàng ngày trên internet. Đáng tiếc là những cuộc thảo luận này lại diễn ra chủ yếu ở bên ngoài thể chế công. Quốc hội có thể tạo ra một diễn đàn Việt Nam cần để kiến tạo một tầm nhìn quốc gia thuyết phục hơn. 





Tôi cho rằng những yếu kém kinh tế là mối đe dọa lớn nhất đối với Việt Nam. Trong số những người tôi quen, không thấy ai tin rằng Việt Nam đang phát triển hết tiềm năng vốn có. Nếu không trở lại mức tăng trưởng kinh tế nhanh và toàn diện hơn thì nhiệm vụ quản trị quốc gia sẽ trở nên ngày càng khó khăn. Việt Nam thường được khen ngợi về tính “ổn định chính trị”, nhưng nguồn gốc của sự ổn định này là gì? Tôi cho rằng nó bắt nguồn từ cảm giác lạc quan về tương lai. Kể từ lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam năm 1985, những người Việt Nam tôi quen biết phần lớn đều tự tin vào tương lai của họ cũng như tương lai của đất nước. Họ nhiệt thành tin rằng cuộc sống của con cháu họ sẽ tốt đẹp hơn họ. Liệu người Việt Nam năm 2015 có còn tin tưởng vào tương lai? Tôi không chắc. 
Chúng ta đều biết rằng khi các nước phát triển, việc duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh để nâng cao mức sống cho đại bộ phận người dân sẽ càng ngày càng khó khăn hơn. Một nền kinh tế phát triển chia sẻ trên bình diện rộng không chỉ tạo ra sự thịnh vượng mà còn mang lại nhiều lợi ích vô hình khác cho xã hội. Một nhà kinh tế ở trường Đại học Harvard viết cuốn sách nhan đề “Hệ quả đạo đức của tăng trưởng kinh tế” trong đó lập luận rằng các xã hội được hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế thường khoan dung hơn với sự đa dạng, nhiệt thành với dân chủ hơn và tạo ra nhiều cơ hội thăng tiến xã hội hơn. Ngược lại, kinh tế đình trệ thường dẫn tới xáo trộn xã hội, suy giảm sự khoan dung và bất ổn dân sự. Bởi vậy, có rất nhiều lý do tại sao Việt Nam cần phát triển kinh tế tốt hơn. 
Nhà văn Nguyên Ngọc từng chọn cho
 mình 3 địa điểm trên đất nước khốn khổ của ông để yêu mến với niềm tự hào và ray rứt khôn nguôi: Tây Nguyên, Hội An và Hà Nội. Còn Thomas,  nơi nào ở Việt Nam mà ông có thể có chút cảm tình? Vì sao như vậy?
Nguyên Ngọc: Hồi kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tôi có nói: «Hà Nội đẹp đến nỗi nó bị phá thế mà vẫn còn đẹp!». Thế nhưng, sự xuống cấp của Hà Nội không chỉ có ý nghĩa tự nó. Nó tiêu biểu cho sự xuống cấp văn hóa của đất nước này. Thanh lịch nghìn năm bị thay thế bằng hai thứ trộn lẫn: vừa nhếch nhác quê kệch vừa hợm hĩnh diêm dúa lố bịch, nghĩ cho cùng cũng chỉ là một. Nơi là khuôn mặt từng yêu kiều của đất nước nay đang trưng ra một diện mạo xấu và không ít lần làm trò cười cho thiên hạ: giật hoa đào, giành suất ăn khuyến mãi, leo tường vào tắm miễn phí, chặt cây xanh hay như chuyện xây tháp truyền hình cao nhất thế giới gần đây, v.v...
Những người yêu Hà Nội đều đau! Tôi nghĩ: cả nước cần xúm lại mà cứu Hà Nội, vì cả nước. Còn Tây Nguyên, mấy năm trước đây tôi đã từng báo động : những giới hạn quan trọng đến mức sinh tử ở đây đã bị vượt qua: phá sạch rừng, đảo lộn dữ dội cơ cấu dân cư, hủy hoại tất cả các dòng sông lớn, hút cạn nước ngầm, phá vỡ các làng…, để cuối cùng phá nát văn hóa. Ở nơi vốn là một vùng văn hóa vào loại độc đáo và đặc sắc nhất nước, nay chỉ còn văn hóa Tây Nguyên dỏm. Hầu như không còn có thể quay trở lại, và đang thật sự không có đường ra… Vậy mà, chẳng hạn, người ta vẫn tiếp tục nói dối về chương trình bô-xít tai họa, nghĩa là cuộc tàn phá suốt 40 năm chưa hề chịu dừng lại.
Nhiều lần tôi tự hỏi : Vì sao ? Chỉ có thể là tham lam, ngu dốt, và kiêu ngạo, coi thường mọi thứ. Hỏi xem : Có ai đến Tây Nguyên để học? Học sự hiền minh bất tận của rừng, và của những dân tộc từng biết cách sống với rừng, nghĩa là với tự nhiên, hàng nhiều ngàn năm nay. Một bài học có thể cho cả nhân loại và nền văn minh đang lúng túng của mình ngày nay. Chúng ta đừng ngạo mạn, xấc xược đối với các dân tộc Tây Nguyên và với văn hóa. Hình như đang có một dòng lũ vô văn hóa đang muốn cuộn phăng cả đời sống chúng ta. Điều này thật đáng sợ. May thay, còn có một Hội An. Hội An nhỏ thôi, nhưng trong văn hóa không có khái niệm nhỏ hay lớn.
Tôi cũng không muốn nói thêm nhiều về Hội An. Chỉ xin có một nhận xét: Hội An luôn thấy mình có vấn đề, luôn lo lắng, đặc biệt về văn hóa. Bởi vì ở đây người ta hiểu một chân lý khắc nghiệt: cái đẹp luôn mong manh, từ một người con gái đẹp cho đến một văn hóa đẹp. Nó luôn bị thách thức từng ngày, và trong từng con người. Phải thận trọng từng chút, trân trọng từ cái nhỏ nhất. Đến Hội An có thể nhận ra một trong những điều lạ này, ở từng công việc, từng con người: vừa nhẹ nhàng, thong dong, thoải mái, vừa cẩn trọng, tinh tế trong từng chút nhỏ; có lẽ vì vậy mà ở đây cái bình dân với cái tinh hoa có thể hài hòa thật hay…
 Còn một chỗ để ta không hoàn toàn bi quan.




Thomas Vallely: Địa điểm yêu thích của tôi ở Việt Nam không phải là một thành phố hay tỉnh lị nào mà là một ngôi nhà. Chính xác hơn, đó là ngôi nhà và phòng tranh của người bạn thân của tôi, họa sĩ Phạm Lực, một hậu duệ trực tiếp của Nguyễn Du. Bất cứ khi nào tôi tới thăm Phạm Lực, trò chuyện về tranh của ông, tôi đều được học hỏi thêm về Việt Nam, cả về quá khứ và hiện tại. Tranh của Phạm Lực thấm đượm di sản văn hóa phong phú của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là tiếng nói vang vọng về cuộc sống trong những thời kỳ sáng tác của ông. Ví dụ, một chủ đề quen thuộc trong tranh Phạm Lực những năm chiến tranh là những mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu. Ngày nay, một trong số những bức tranh của ông đề cập đến vấn đề môi trường suy thoái, sự câu kết độc hại của tiền bạc, quyền lực và lòng tham. Sáng tác của ông vừa mang tính cách đặc trưng Việt Nam nhưng đồng thời cũng rất có tính phổ quát.
 Tôi luôn rời nhà Phạm Lực với cảm giác được tiếp thêm sức lực. Và đó là một lý do vì sao tôi không hoàn toàn đồng ý với nhiều bạn bè Việt Nam cùng hay trên lứa khi họ cho rằng văn hóa nghệ thuật của Việt Nam ngày nay thiếu sức sống hay không đáng được trân trọng như trong quá khứ. Trên thực tế, với tôi, văn hóa Việt Nam ngày nay sôi động chưa từng thấy. Điều này mới đây lại được khẳng định khi tôi tham dự lễ trao giải thưởng Phan Châu Trinh 2015, trong đó  vinh danh một số nghệ sĩ tài năng. Lễ trao giải có sự tham dự của nhiều cá nhân ưu tú, đại diện cho rất nhiều giai tầng của xã hội Việt Nam. Tôi rời buổi lễ với cảm giác lạc quan về tương lai của Việt Nam.
Xin cảm ơn Thomas Vallely và nhà văn Nguyên Ngọc đã dành thời gian quý báu để cùng trao đổi một câu chuyện dài trong thời bình về Việt Nam một cách thẳng thắn và đầy trách nhiệm.Chúng tôi cũng không quên cảm ơn TS Vũ Thành Tự Anh, người giúp chúng tôi tiếp cận với ông Thomas Vallely để thực hiện cuộc phỏng vấn này.

Minh Nguyễn thực hiện (nguồn Bizlive)

______________


 (*) Năm 1988, NXB Vintage Books - A Division of Random House - New York xuất bản cuốn: “A Bright Shining Lie - John Paul Vann and America in Vietnam” của Neil Sheehan,  phóng viên của hãng thông tấn UPI và báo New York Times. Ông là người chứng kiến cuộc chiến tranh Việt Nam từ giữa năm 1962 - 1972. Từ đó, Neil Sheehan phát hiện ra John Paul Vann - một chuyên gia chống chiến tranh du kích - một con người  mà thông qua cuộc đời - người ta có thể viết về sự dính líu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. John Paul Van đã chết ở Việt Nam năm 1972 trong lúc vẫn tin rằng nước Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến. John Paul Vann là biểu tượng, là nhân vật của cuốn sách đoạt giải thưởng Pulitzer và giải thưởng sách quốc gia của Mỹ năm 1988.
Bản dịch của NXB TP. HCM năm 1990 và tái bản lần thứ hai vào năm 1995, mang tên: “Sự lừa dối hào nhoáng - John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam” do nhóm dịch giả ở Sài Gòn và nhà báo quá cố Lê Minh Đức hiệu đính.
 (**) “Vì sao các quốc gia thất bại” của Daron Acemoglu và James A. Robinson, Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Chi với sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan.
Hiệu đính: TS. Vũ Thành Tự Anh - NXB Trẻ - Năm 2013.  



--------

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nghĩ trước mộ Trần Đông Phong trên đất Nhật


                                             Lê Thị Thanh Tâm

Trước ngày tôi đến Nhật (với tư cách là người nghiên cứu thời gian ngắn), thầy tôi đã căn dặn: Khi đếnTokyo, em nhớ thăm mộ cụ Trần Đông Phong nhé. Tôi nhớ lời và có xin thầy bản đồ hướng dẫn đường đến nghĩa trang có mộ cụ ở Toshima.
Mùa thu đầu tiên ở nước Nhật, đất dậy sóng của phong trào Đông Du cách đây hơn trăm năm, tôi vẫn còn thơ thẩn với bao dự định. Tôi vẫn cứ loay hoay mãi với sách vở, nghĩ suy và sự hòa nhập không dễ dàng với một đất nước Đông á duy nhất từ lâu đã thành cường quốc, tôi chưa thể nghĩ đến việc đi thăm cụ Phong như lời thầy dặn.
Rồi cơ duyên cũng đến. Một hôm, một đồng nghiệp lớn tuổi người Hà Nội (đã làm việc ở Nhật gần 20 năm) tâm sự: vừa rồi con trai bị ốm mãi không khỏi, chắc phải đi xin cụ Phong thôi. Dù đã được thầy nhắc nhở phải cố đi thăm cho được mộ chí sĩ Trần Đông Phong, nhưng tôi cũng không hình dung hết được sự tôn kính và niềm tin đến vậy của những người Việt xa xứ đối với cụ. Nghe câu chuyện các sinh viên Việt Nam kể cho nhau, tôi càng ngạc nhiên hơn. Họ nói: Sinh viên ở đây xin cụ gì cũng được, xin gì cụ cũng cho. Nghe cứ như một truyện truyền kỳ nào đó.
Ngày chúng tôi đến thăm mộ cụ là một buổi sáng nắng ấm, sau những ngày mưa bão dữ dội. Từ ga chính Shinjuki, sau khi bắt tuyến Amanote chạy vòng trung tâm Tokyo, chúng tôi chuyển sang tàu điện nhỏ xíu khá cũ chạy leng keng trên mặt đường phố quận Toshima, gọi là tàu điện tuyến Toden Arakawa. Người đồng nghiệp Hà Nội bâng khuâng bảo: giống tàu điện xưa ở Hà Nội đấy. Không chỉ tàu điện nhỏ, quận Toshima sao cũng buồn vắng như cái không khí có trong mấy tấm ảnh cũ cũ về ba mươi sáu phố phường đất kinh kì.
Đến nghĩa trang Zoshigaya Reien, chúng tôi theo phong tục người Nhật, định mua ngay được hương, hoa và xách một xô nước bằng gỗ có chiếc gáo nhỏ tròn rất xinh, cùng với một cây chổi thanh thanh để quét dọn mộ. Nhưng hôm ấy lại là ngày nghỉ. Chúng tôi đứng ngơ ngẩn. Không ai bán hoa, bán hương, không xô nước, không chổi. Sao thế nhỉ? Đồng nghiệp tôi nói: Biết làm thế nào. Hay là khấn không thôi nhỉ. Vào khấn thôi. Nghĩ thế, tôi thấy thương cụ quá. Con cháu đi thăm mà không có gì để phúng viếng. ít phút sau, bỗng dưng có người phụ nữ Nhật lớn tuổi mở cửa, cười rất tươi. Bà nói hôm nay ngày lễ nghỉ, nhưng nếu mọi người muốn vào viếng thì bà tặng hương, không cần mua. Hoa thì có thể mua cửa hàng bên cạnh (khi ấy cửa hàng bên cạnh cũng tự nhiên hé mở), chỉ còn mấy bó thôi. Xô nước và chổi bà cũng cho mượn. Mừng quá.
Người dẫn đường của chúng tôi không hiểu sao lại nhầm đường. Mãi gần một tiếng mà vẫn không tìm được mộ. Mấy con quạ đen cứ bay nhao nhác. Tôi lỡ thắp hương nên cứ cầm trên tay mãi, vừa cầm hương vừa đi tìm mộ cụ. Thi thoảng hương cứ lóe cháy phừng phừng rất lạ. Đặc điểm thế nào cô? Mộ cụ cũ, không giống mộ người Nhật lắm, trông rất đơn giản; Đường vào có cây thông nhỏ thấp nghiêng nghiêng. Trời, chỗ nào cũng có thể có cây thông nghiêng nghiêng.
Tôi nhớ đến câu chuyện của thầy tôi kể. Khi xưa thầy đến thăm mộ cụ Phong, đi cũng khá đông người, tìm cả ngày không ra mộ. Đến khoảng 6 giờ chiều, tuyệt vọng, tất cả kéo nhau ra về. Nhưng cứ đi ra hướng cổng thì lại lạc vào trong, cứ đi ra lại là đi vào, trời đã tối dần, rồi thầy bảo, tự nhiên như có ma lực, trong bóng chiều sắp tối, tất cả lại đi vào trong nghĩa trang theo một sự hướng dẫn nào đó vô hình, và hơn mươi phút sau đã tìm thấy mộ. Mọi người xúc động quá, trước mắt là bia mộ ghi rõ dòng chữ Hán: Đồng bào chí sĩ Trần Đông Phong chi mộ. Khấn vái xong, thầy về nhà mà đắp chăn, người cứ ớn lạnh từng cơn. Sao cụ lại thiêng đến thế.
Đến lượt chúng tôi, lát sau cũng tìm được mộ. Mà tìm được là vì vô tình có một bà cụ người Nhật sống lâu ở nghĩa trang chỉ cho. Mộ nằm trên dãy 1-4A-14. Tôi có cảm giác rất lạ khi đứng trước mộ cụ. Tôi nhìn rõ hai bó hoa ai đó viếng còn mới thơm cắm ngay ngắn cùng với hai bó hương đã tàn. Vậy là vừa có sinh viên hay người Việt Namđến viếng. Mọi người đã nói với tôi, mộ cụ lúc nào cũng có hương hoa, lúc nào cũng được dọn sạch cỏ. Trong tôi trào lên một nỗi niềm không sao tả được. Nơi này, từ tên quận, tên đường, tên nghĩa trang, tên khu mộ, đều không có lấy một dòng chữ Việt Nam. Nhưng lại có một “đồng bào chí sĩ” ra đi từ phong trào Đông Du nằm yên đã trăm năm.
Nơi này, một con người đã tuẫn tiết ở tuổi hai mươi với lá thư tuyệt mệnh: “Nhà tôi giàu có, cả tiền với thóc, kể đến hàng vạn, mà gần đây học phí trong trường, chỉ là nhờ Nam Kỳ cấp cho anh em, tôi đã nhiều lần viết thư về nhà, khuyên cha tôi bắt chước làm như ông Trương Tử Phòng, phá sản vì nước, cha tôi không trả lời. Tôi nghĩ tôi là con một nhà giàu, xấu thẹn với anh em quá, nên tôi phải tự vẫn cho cha tôi biết chí tôi, và cũng để tạ tội với anh em”. Những dòng chữ nghĩa khí tiết liệt đã khiến Kỳ ngoại hầu Cường Để kính phục đến mức đích thân người đã xây mộ cho ông ngay trên đất Nhật, và về sau, xương cốt Cường Để một phần cũng nằm trong ngôi mộ của chí sĩ này. 
Chúng tôi cắm hoa, thắp hương cho cụ. Ngôi mộ cực kỳ giản dị, không hề có một nét hoa văn nào. Tường mộ lấm rêu, nhiều phần xi măng mỏng vỡ loang. Cảm giác gặp được người Việt ở nước ngoài bình thường đã khiến tôi cảm động. Nhưng cảm giác tìm được nấm mộ người xưa ở nước ngoài là một kinh nghiệm rất đặc biệt. Nhất là mộ của một chí sĩ đã chết “độc nhất vô nhị” trong lịch sử dân tộc: “Nhà tôi giàu có nhưng đất nước có bị diệt vong cũng không giúp được gì thì tôi còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa...”. Tự sát ở chùa Tohoji nơi xứ người, Trần Đông Phong đã để lại một câu chuyện cảm động kỳ lạ về lòng ái quốc. Một trí thức ưu tú, người làng Di Luân, xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, xuất thân từ một gia đình giàu có bậc nhất ở Nghệ An, đã chết theo cách riêng của mình, mà lập luận dai dẳng đắng cay cho đến lúc chết là: có tiền mà vong quốc thì không thể sống được. Ý nghĩ giản dị này ám ảnh tôi mãi, nó sống trong tâm trí tôi hơn vô số những khẩu hiệu quen thuộc được dán đầy ở các cung đường chính nơi quê nhà. Chao ôi, ý nghĩ giản dị và quí giá đó nếu như được nuôi dưỡng trong tâm hồn người Việt bao lâu nay thật mạnh mẽ và sâu sắc thì hẳn mọi sự làm giàu đều chính đáng, đều hướng đến sự sang trọng đúng nghĩa của nó, cái sang trọng đích thực sẽ đẻ ra một nền văn hóa cao cấp, nền văn hóa của tự do (chứ không phải một cơn khát làm giàu đầy ngạo mạn mà vẫn nô lệ).
Có tiền mà vong quốc thì không thể sống được- quan niệm tử sinh gắn liền với quan niệm giá trị của Trần Đông Phong được đảm bảo tính trung thực bằng cái chết. Những dòng chữ cuối cùng để lại của cụ không phải là lời nói suông, không phải là lời thề sáo rỗng. Cái chết của Trần Đông Phong thực sự bất tử, không phải là sự bất tử tự nó, mà lịch sử và những khúc quanh của thời đại ở xứ sở cội nguồn người Việt đã làm cho cái chết ấy càng sáng lên nhiều giá trị, càng bắt người ta phải đối diện lâu dài và bền bỉ với công cuộc “chấn hưng” hồn vía và văn hóa dân tộc.
Cách đây hơn một thế kỷ, người ta sẵn sàng hy sinh mạng sống vì quyền được thoát khỏi “phận dã man”, đời nô lệ; Người ta sẵn sàng bỏ thân vì không chịu nổi sự nhục nhã của cảnh ngộ đồng tiền đang vô tâm ngự trị trong sự khốn cùng của đồng bào, đất nước. Nỗi thao thức về đồng tiền trong cuộc duy tân và hiện đại hóa dân tộc (tuy không được nói nhiều, bàn nhiều, như là đề tài cấm kỵ vô hình) từ những năm đầu tiên của thế kỷ XX của một chí sĩ Việt Nam vẫn là câu chuyện dài của thế kỷ XXI, thậm chí câu chuyện ấy ngày càng nhiều biến thái, nhiều kịch bản hơn… Hẳn những bậc hào kiệt năm xưa khi xuất dương không tưởng tượng nổi 100 năm sau, cũng ở ngay trên xứ sở “đồng bào”, báo chí đăng nhan nhản cái cụm từ tham nhũng là quốc nạn như một thứ tin tức hằng ngày, đến nỗi dường như nó là điều bình thường không có gì phải nghĩ. Ngày nay, người ta cũng có thể nghĩ đến tự sát, có thể chết vì đồng tiền, nhưng chắc chắn không phải với cái nghĩa khí đáng tôn vinh kia, mà chết vì không thể vơ vét được nhiều hơn nữa…
Lịch sử ghi lại hằng hà những tấm gương nghĩa khí, nhưng cái chết của Trần Đông Phong là trường hợp quá đặc biệt: chết vì hổ thẹn, chết không vì lỗi của mình, mà vì gia đình mình không hy sinh của cải cho đất nước. Điều này vượt ra ngoài phạm vi, ngoài hành vi của một con người cụ thể, vượt ra ngoài cái nghĩa khí thông thường. Câu chuyện về lòng ái quốc hòa quyện trong câu chuyện biết xấu hổ, câu chuyện nhân cách. Mà điều ấy, thời xưa đã hiếm, thời nay còn hiếm gấp bội; xảy ra ở nước người cũng là quí, xảy ra ở nước ta còn quí gấp bội… Tôi càng ngẫm nghĩ càng thấy vẻ đẹp cao thượng này của chí sĩ Trần Đông Phong quả thực là một ẩn số của lịch sử. Trong câu chuyện ấy, sao mà có quá nhiều thứ để hậu thế suy gẫm, cái chết ấy là thứ kỷ luật của tâm hồn, đạo đức của tâm hồn, là tấm gương một liệt sĩ-chí sĩ (chết vì suy nghĩ, vì đẳng cấp nhân cách), là niềm tin của hiện tại đối với… quá khứ, là sản phẩm của tinh hoa giáo dục truyền thống (cá nhân chịu trách nhiệm cho gia đình), là câu hỏi về mục đích và ý nghĩa chân chính của sự làm giàu, …
Từ một chí sĩ, cụ Trần Đông Phong giờ giống như vị thần hoàng trong đình làng Việt Nam ở ngay trên đất Nhật. Người ta mặc nhiên cúng tế, sùng tin. Người đi trước mách người đi sau. Kẻ du học cũng như người lập nghiệp. Người ta tin cụ, đến viếng cụ, xin cụ cho học giỏi, cho sức khỏe, cho danh vọng… Có người đến viếng cụ vì thương cảm, cảm phục, cũng có người đến cụ vì nghe nói cụ rất thiêng, cũng có người đến để biết mộ người Việt ở nghĩa trang Nhật Bản thế nào. Tôi trộm nghĩ biết đâu cái xứ Thần Đạo này vì cảm thương linh hồn xa xứ của cụ, cũng để cho cụ nhập vào cái tâm linh mênh mông của họ, nên giờ đây cụ cũng là “vị thần” cho các lưu học sinh, người Việt Nam đang sống và học tập ở nước Nhật này.
Tôi nhìn mộ cụ, không có ảnh, đúng như mộ người Nhật. Cả trăm năm cụ vẫn nằm đấy, lặng lẽ vô hình phù hộ cho những ai là con dân Việt Nam bước chân đến Nhật, không biết có phải vì hồn linh ấy mãi hướng về cố quốc, hay bởi ánh sáng của phong trào Đông Du năm xưa vẫn còn le lói trong một nấm mồ? Tôi nghe nói dường như qua con đường tâm linh nào đó liên quan tới cụ Koyama Katsuzo – người có công thành lập “Hội Giáo dục Việt Nam của thành phố Gunma” tại Nhật - người ta được biết hồn cụ Phong mong được về lại Việt Nam bởi cụ đã biệt xứ đến trăm năm có lẻ.
Nhưng nếu đưa cụ về Việt Nam thì những người đến Nhật như chúng tôi lại thiếu vắng lắm... Cụ đã chết như một võ sĩ đạo, dưới gốc cây một ngôi chùa, khác nào câu chuyện chỉ có trong kịch Nô, trong tiểu thuyết Nhật, nhưng đối với tâm linh và văn hóa Việt Nam, điều cao quí hơn trong cái chết vì đại nghĩa ấy, theo tôi, là sự nhắc nhở âm thầm sâu sắc về sứ mệnh của trí thức đối với giống nòi. Tôi vẫn mãi băn khoăn: nền giáo dục nào, hệ tư tưởng nào, tầng văn hóa nào đã tạo ra những con người khí phách và cao thượng đến dường ấy…
Tôi đứng nhìn ngôi mộ Trần Đông Phong đơn sơ giữa nước Nhật giàu có. Mộ cụ vẫn như ngày chôn cất năm xưa, nước Nhật vẫn là cường quốc Đông á, Việt Nam vẫn còn đang trên đường “hứa hẹn” hiện đại hóa; du học sinh Việt Nam vẫn nhiều, và ngày càng nhiều hơn thế kỷ trước, nhưng khí khái và hoài bão của Đông Du chí sĩ ngày nào chắc phần lớn chỉ còn trong kỷ niệm, bảo tàng, hội thảo. 100 năm trước đây, biết bao chí sĩ từ đất Việt ra đi đến xứ mặt trời mọc với tâm niệm và sứ mệnh cao cả: cứu nước bằng ánh sáng trí tuệ. Mấy chục năm sau, cho đến bây giờ, vẫn ồ ạt những cuộc du học bằng đủ mọi phương tiện hỗ trợ, và “chắc là”, cũng hướng đến văn minh, hiện đại, xây dựng Tổ quốc cách này cách khác... Những chuyến đi vẫn tiếp diễn, các chí sĩ được thay bằng các lưu học sinh đủ mọi lứa tuổi, nguồn tài chính không quá ngặt nghèo như trước nữa, không “bi kịch” như trước nữa… Mọi thứ bề thế hơn, dễ dàng hơn, nhân danh điều này điều khác nhiều hơn, duy chỉ có niềm khát vọng thoát khỏi “phận dã man” của những tâm hồn vì giống nòi thì vẫn cứ là… khát vọng, thậm chí vẫn cứ là… hoài vọng.
Tôi nghĩ đến hoài bão cháy bỏng của lớp thanh niên trí thức hồi đầu thế kỷ của phong trào Đông Du. Rồi lại nghĩ đến hàng vạn người dân trong nước mong ngóng tìm việc làm ở nước ngoài với giá nhân công rẻ mạt và bao rủi ro khốn đốn… Cảm giác “tủi phận dã man” ngày trước có cái gì thật cao cả, bây giờ cũng vẫn cảm giác “tủi phận” đó, chỉ có điều ít nhiều nó được gắn thêm cái tiếp vĩ ngữ “đói nghèo”, “lạc hậu” nữa.
Viếng thăm nấm mộ một anh hùng Việt Nam ngay trên đất Nhật, biết đâu người ta mới đủ cảm xúc và dư chấn để nghe được một cách rõ ràng hơn tiếng vọng hoài bão người xưa, biết đâu từ khoảnh đất được đánh số lạnh lẽo ở nghĩa trang lại dấy lên chí lớn và những nghĩ suy về dân tộc, và biết đâu, nấm mộ đơn sơ lấm rêu này sẽ là một chứng tích vô giá cho những ai có cơ hội vượt qua biên giới xứ sở để hiểu được, dù là một chút, số phận và vinh dự, cái chết và sự sống, lòng ái quốc và đức hy sinh, tình yêu và dự cảm của những anh hùng lưu biệt một thời.
***
Trở về tìm những gì được nói lên từ trái tim, từ khối óc cụ Trần Đông Phong, tôi thấy đủ cả tâm lí họa phúc đắp đổi, bĩ cực thái lai, hùng tâm tráng chí và khát vọng hưng quốc mãnh liệt chưa từng thấy:
Họa hề phúc sở ỷ
Phúc hề họa sở phục”
Gẫm đạo trời khi bĩ có khi hanh
Mở mắt coi thế giới văn minh
Ai cách mạng, ai cộng hòa, ai dân chủ, ai dân quyền
Những ai ấy cạnh tranh thời đại
Năm canh trót nghĩ đi rồi nghĩ lại
Giọt vắn dài riêng tủi phận dã man
Mấy năm nay đứt ruột với giang san
Vua như thế, quan như thế, mà quan sau cũng như thế
Anh em thảy đồng bào tương hệ
Tính răng đây? sao nỡ ngáy khò khò
Trên đã đành giáo huấn không lo
Dưới ta phải tu sinh cho hợp đạo
Bỏ ý gian tham, bỏ lòng kiêu ngạo
Bỏ riêng, bỏ , bỏ vơ, bỏ váo
Bỏ dại, bỏ khờ, bỏ lường, bỏ láo
Bỏ cho hết thói cũ sạch sành sanh
Trên đã đành năm triệu chẳng lành
Của của mình, nhà nhà mình, nước nước mình
Nỡ để ấy ai dành mà ai dỗ
Có khó mới biết khôn, muốn khôn phải chịu khó
Gánh thảo ngay dành để cho ai
Còn non, còn nước, còn dài
Bài ca trù này có thể chỉ được tìm thấy trong sách khảo cứu về thơ ca Đông Du, nhưng thực ra, nó đã sống với anh linh Trần Đông Phong và con đường thăng trầm hiện đại hóa của nước Việt ta suốt cả thế kỷ nay.
                                                                       
 Fuchu-shi, Tokyo, mùa thu 2010
Lê Thị Thanh Tâm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Công lý


TRƯƠNG HUY SAN (Huy Đức, nhà báo)
Dự thảo Luật Tố tụng hình sự đang được thảo luận tại Quốc hội (tháng 5-2015) đã “tiếp thu” được vài nguyên tắc mà “loài người tiến bộ” đã từng áp dụng từ hàng trăm năm qua. Các đại biểu Quốc hội cũng bắt đầu nhận ra, cho dù nhu cầu chống tội phạm lớn tới đâu cũng không thể chấp nhận oan sai. Tuy nhiên, nếu không nhận thấy nguyên nhân sâu xa của oan sai thì không những không thể thiết kế một nền tư pháp có thể mang lại công lý mà trong vài trò chống tội phạm, nó còn có thể trở thành công cụ của từng băng nhóm.
Dân trí hay quan trí
Không ngạc nhiên khi các tướng công an không ủng hộ quyền im lặng của bị can. Quyền ấy chắc chắn sẽ làm khó hơn cho tiến trình điều tra. Chỉ ngạc nhiên, sao các tướng – những người thực thi – lại được đặt ngồi trong cơ quan lập pháp.
Quyền không khai những điều có thể trở thành bằng chứng chống lại mình khi chưa có luật sư được người Mỹ đưa vào Hiến pháp năm 1789 (Tu chính án thứ Năm). Tướng Trịnh Xuyên cho rằng áp dụng nguyên tắc này sẽ không phù hợp với dân trí nước ta. Nói như thế thật là xúc phạm người dân Việt Nam, không lẽ sau 70 năm xây dựng CNXH, dân trí nước ta lại thua dân trí Mỹ 226 năm về trước.

Nếu Quốc hội đã “học Mỹ” khi đưa “quyền im lặng” vào luật Việt Nam chỉ xin quý vị hiểu lại cho rõ nguyên lý “nhà nước của dân”. Năm 2006, khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đến thăm nơi tưởng niệm Tổng thống Abraham Lincoln, tôi thấy ông đứng rất lâu trước câu nói của Lincoln: “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Những nhà cách mạng Mỹ không chỉ là tác giả của câu nói này mà còn đã thể chế hóa thành công nguyên tắc này.
Khi giành được độc lập, khi đã cầm quyền thay vì quay lưng với nhân dân như nhiều nhà cách mạng khác, ngay trong đời tổng thống thứ Nhất, các nhà lập quốc Mỹ đã đưa vào Hiến pháp 10 tu chính án ngăn chặn Quốc hội ra các đạo luật ngăn cản các quyền tự do quan trọng nhất của người dân.
Các đại biểu đến từ phía Nam – hai luật sư Trương Trọng Nghĩa và Trần Du Lịch – đã tranh luận khá thẳng thắn với các tướng công an. Nhưng rất tiếc chưa thấy hai ông chỉ ra hai nguyên tắc cơ bản để bảo vệ quyền im lặng: Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc một người không thể bị coi là có tội khi chưa có một bản án có hiệu lực của tòa. Vì không coi trọng hai nguyên tắc này mà nhiều người dân chỉ cần bị dân phòng bắt đã bị đối xử như tội phạm.
Camera và nhục hình
Nhiều đại biểu Quốc hội đưa ra sáng kiến dùng camera đặt trong phòng hỏi cung để ngăn chặn điều tra viên sử dụng nhục hình. Camera liệu có tác dụng không khi “phòng hỏi cung” nằm trong tay cơ quan điều tra? Các vị nghĩ rằng các điều tra viên sẽ bật nó lên cho quý vị xem cách họ làm cho những người vô tội ký vào đơn nhận tội?
Có những cuộc tra tấn được điều tra viên trực tiếp tiến hành trong phòng hỏi cung như vụ 7 công dân vô tội bị ép nhận tội giết người ở Sóc Trăng. Nhưng, không phải điều tra viên nào cũng sử dụng nhục hình thô thiển vậy.
Theo tiến sĩ Dương Thanh Biểu, nguyên Phó Viện trưởng VKS TC, ngay cả con người huyền thoại Tạ Đình Đề – người bảo vệ Hồ Chí Minh thời đang còn là “Lý Thụy ở Vân Nam” – trong hai lần bị “công an ta” bắt (1975-1976 và 1985-1988), nếu không nhận tội, không khai đúng ý” của người thẩm vấn cũng bị “chuyển phòng giam khác, bị giao cho đầu gấu”. Tạ Đình Đề kể với ông Biểu: “Khi nghe lệnh chuyển phòng, người tôi bủn rủn… Sang phòng giam mới, bị nhốt với bọn đầu gấu mới (tôi sẽ phải chịu đủ trò) tinh quái và độc ác”(Tạ Đình Đề – NXB Hội Nhà Văn 2014, trang 254).
Kinh nghiệm của ông Tạ Đình Đề không chỉ là câu chuyện của thập niên 1970s, 1980s. Khi gặp Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, bị án Hồ Duy Hải vẫn không dám kêu oan mà chỉ xin giảm án vì Ủy ban Tư pháp gặp xong rồi về còn Hải thì phải quay lại trại giam của công an Long An. Một khi hệ thống trại giam, đặc biệt là các trại tạm giam đang nằm trong tay các cơ quan điều tra thì chuyện ngăn chặn bức cung, nhục hình là vô vọng cho dù có gắn bao nhiêu camera trong phòng hỏi cung.
Độc lập giữa các cơ quan tố tụng
Không có nhà nước nào cơ quan lập pháp lại mang các vụ án ra đánh giá sai đúng trong các phiên toàn thể. Không phải tự nhiên mà tố tụng phải bao gồm nhiều định chế độc lập: điều tra, VKS, TA, luật sư. Quyền giám sát tố tụng nằm ở khả năng “độc lập, chỉ tuân theo pháp luật” của các cơ quan thực thi chứ không phải là ở quyền giám sát chính trị của cơ quan lập pháp.
Điều nguy hiểm nhất hiện nay là các công tố viên và thẩm phán bị cơ quan điều tra viên “lôi vào cuộc”, bị “cộng đồng trách nhiệm” ngay trong những ngày đầu. Các thủ tục tố tụng phải dựa trên chứng cứ chứ không phải là suy đoán của điều tra viên. Nếu kiểm sát viên độc lập và không quá sợ cơ quan điều tra, anh ta sẽ không phê chuẩn tạm giam một công dân nếu chứng cứ mà cơ quan điều tra đưa ra không thuyết phục.
Tòa án cũng có khuynh hướng bị lũng đoạn bởi cơ quan điều tra nên cách an toàn nhất trong công tác xét xử của họ là “án tại hồ sơ” và với những vụ phức tạp thì tòa dưới còn tham vấn tòa trên nhằm tránh án bị “cải, sửa” khi phúc thẩm để không “mất điểm thi đua”.
Không phải tự nhiên mà trong suốt nhiều năm ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang kêu oan, VKS lẫn TATC đều im, dù họ không trực tiếp dùng nhục hình bức cung. Vì cả VKS và TA đã “đồng lõa” với cơ quan điều tra ngay từ đầu, đứng chung xuồng ngay từ đầu, nên minh oan cho ông Chấn thì họ sẽ trở thành tội phạm.
Cũng như ông Chấn, 7 bị cáo ở Sóc Trăng được minh oan là vì kẻ thực sự gây án đã ra tự thú. Những người thực sự oan khuất chưa chắc đã nằm trong số được tòa tuyên vô tội. Không ai có thể biết chắc trong số hàng triệu “vụ án đẹp”, trong số hàng triệu bộ hồ sơ án hoàn hảo, hàng triệu bị can nhận tội kia có bao nhiêu thực sự oan sai. Những kẻ gây án thực sự đang ở trong tù hay vẫn ở ngoài vòng pháp luật.
Quyền lực tuyệt đối
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, thật khó để nhận ra quyền lực cao nhất đang nằm ở đâu. Nhưng rõ ràng không có cơ quan nào có những quyền đáng sợ như Bộ Công an đang nắm.
Trong vụ án Năm Cam và những vụ án tướng Thành sử dụng tay chân ở Tiền Giang, người dân chỉ biết câu chuyện một băng đảng xã hội đen bị đánh tan. Ít ai biết sự lộng quyền của tướng Thành, biết cái cách thức ông ta khống chế TA và VKS không khác gì Năm Cam cả.
Vì tướng Thành đã trở thành “anh hùng của nhân dân”, trở thành “thần tượng của số đông”, nên người ta đã không tống giam ông cho dù những điều tra viên Tiền Giang bắt bớ, chia chác theo lệnh ông đều đã phải vào tù hoặc vào nhà thương điên để tránh vành móng ngựa.
Không tính thứ bậc trong Đảng, TA, VKS không dễ dàng độc lập trước một Bộ có trong tay quá nhiều công cụ. “Quyền lực có khuynh hướng tha hóa, quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”(Lord Acton). Không chỉ trong hệ thống tư pháp, không có nhà nước nào nuôi dưỡng nguy cơ chính trị bằng cách tạo ra một siêu bộ nếu không muốn các chính trị gia trở thành con tin của bộ ấy.
Chưa kể sự khuynh loát của quyền lực, không ai có thể một lúc hoàn thành quá nhiều chức năng. Vậy nhưng, Bộ Công an hiện nay đang nắm trong tay vai trò điều tra, cảnh sát và cả an ninh, tình báo.
Tình báo phải là một cơ quan độc lập và chỉ nhắm vào kẻ thù bên ngoài chứ không phải nhắm cả vào bên trong (Có thể có an ninh nội địa nhưng đến khi có một nhà nước thực sự của dân thì không cần cơ quan an ninh kiểu như hiện nay). Và, ngay trong vai trò cảnh sát thì cũng nên tách ra: Cảnh sát quốc gia và cảnh sát địa phương.
Cảnh sát địa phương phải thuộc thẩm quyền của các địa phương ; quy mô và phương thức hoạt động tùy từng nơi mà tổ chức khác nhau. Không nhất thiết một huyện ngoại thành cũng có cảnh sát như một huyện ở vùng nông thôn. Những thành phố quá an ninh chỉ cần có vài ba trăm cảnh sát cho vui thay vì cũng nhiều tướng tá như nơi đầy trộm cướp.
Cảnh sát giao thông nên là một lực lượng riêng. Nếu cơ quan điều tra không cùng một mẹ với cảnh sát giao thông thì chắc sẽ mạnh tay hơn với nạn mãi lộ mà không sợ ngành tai tiếng.
Cảnh sát quốc gia thiết lập trật tự và sự thống nhất trên toàn quốc ở những vấn đề cảnh sát địa phương không với tới và nắm những lực lượng như cảnh sát cơ động, cảnh sát chống bạo động. Cảnh sát địa phương đảm trách vai trò giữ gìn trật tự và điều tra những án thuộc về trị an như cướp giật, trộm cắp, kể cả những vụ giết người thuần hình sự xảy ra trên địa bàn.
Nên lập cơ quan điều tra quốc gia để điều tra những vụ án có yếu tố băng đảng, những vụ tham nhũng và những vụ liên quan đến trách nhiệm thi hành công vụ.
Tòa ba cấp
Nên thiết lập hệ thống tòa án theo ba cấp xét xử: sơ thẩm, phúc thẩm và tòa phá án. Không tòa nào là cấp trên của tòa nào; các cấp xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Không thể để chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp ủy, “nằm trên tòa án”. Các ứng cử viên thẩm phán phải chủ yếu nằm trong số các luật sư giỏi và uy tín nhất.
Tòa nên xét xử bằng tranh tụng: công tố buộc tội; luật sư bào chữa; hội thẩm nhân dân quyết định có tội hay không; thẩm phán lượng hình nếu hội thẩm nhân dân tuyên có tội. Với thủ tục này, mỗi phiên sơ thẩm chỉ cần một thẩm phán và 5-7 hội thẩm viên. Để đảm bảo khách quan, thẩm phán có thể không cần đọc trước hồ sơ, riêng hội thẩm thì không được đọc trước hồ sơ vụ án.
Vấn đề băn khoăn nhất là luật sư. Tuy nhiên ngay cả với bị cáo không có tiền “chạy” và thuê luật sư giỏi thì tình trạng pháp lý cũng không thể xấu hơn với cách tiến hành tố tụng hiện nay. Chỉ cần yêu cầu mỗi luật sư hàng tháng phải tham gia bào chữa miễn phí một số vụ theo chỉ định của tòa. Chỉ cần cho xã hội dân sự phát triển sẽ có nhiều luật sư tình nguyện bào chữa cho người nghèo và sẽ có nhiều tổ chức hỗ trợ pháp lý cho người nghèo.
Nhà nước cũng có thể dùng một ngân khoản để trả cho luật sư trong trường hợp đặc biệt. Đây là khoản chi cho công lý chứ không phải đơn giản cho bị cáo.
Đừng sợ mất vai trò của Đảng. Một đảng tốt là một đảng đảm bảo có một hệ thống tư pháp có thể cung cấp công lý chứ không phải là một đảng khi muốn thì thọc tay vào vụ án. Các tướng lĩnh cũng không nên cố công bảo vệ đặc quyền cho công an. Quan nhất thời. Hãy nhìn gương tướng Quắc, tướng Trần Văn Thanh. Rất có thể có ngày quý vị trở thành nạn nhân của hệ thống tư pháp mà quý vị đang thiết kế.
29.5.2015
Huy Đức
Phần nhận xét hiển thị trên trang