Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

“Cần “giải mật” cuộc chiến biên giới Tây Nam”


Nguyễn Minh ĐàoĐó là tên bài báo Tuổi Trẻ, ghi cuộc trò chuyện Tuổi Trẻ với đạo diển Lê Phong Lan. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc có nhiều điều để nói, nhưng ít được nói so với hai cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, đạo diển Lê Phong Lan nói: “… thiếu sự tổng kết ngay trong nội bộ ta, thiếu những bàn luận công khai…”, như có những “bí mật” nào đó cần “giải mật”?!
Từng chứng kiến những gì diển ra trước, trong và sau cuộc chiến tranh nầy trên biên giới An Giang – quê hương tôi, tôi cũng có những day dứt như đạo diển Lê Phong Lan. Bài viết dựa theo tập hồi ký và những bài viết khác của tôi từ hơn 10 năm trước về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, qua trang viet-studies xin trao đổi với đạo diển Lê Phong Lan và những ai cùng quan tâm. NGUYỄN MINH ĐÀO (cựu chiến binh An Giang).

                                                                                              Đất nước Chùa Tháp – “Ốc đảo hòa bình”, “đất thánh Việt Cộng”
      Lần giở trang sử sau Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954, đất nước Campuchia dưới triều đại Quốc vương Sihanouk theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, trung lập, người dân Campuchia sống trong hòa bình no ấm, trong khi hai nước láng giềng Việt Nam và Lào bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ leo thang ngày càng ác liệt, thế giới gọi Campuchia là “Ốc đảo hòa bình”.
     Là nước trung lập, nhưng Quốc vương Sihanouk hết lòng ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, như chấp nhận các lõm căn cứ lực lượng kháng chiến đứng chân ven biên giới, như cái gai trong mắt người Mỹ và chánh quyền Sài Gòn nhưng họ không làm gì được, gọi đó là “đất thánh Việt Cộng”. Campuchia còn chấp nhận miền Bắc Việt Nam nhập vũ khí từ Trung Quốc vào cảng Sihanoukville, mở đường vận chuyển đến rừng tràm Hà Tiên về miền Tây Nam Bộ…
Ngày 18 tháng 3 năm 1970, nhân ông Hoàng Sihanouk đi nước ngoài, tướng Lon Nol đảo chánh lập chánh phủ thân Mỹ. Khi ấy, tôi công tác ở Văn phòng Tỉnh đội trú đóng Chòm vừng Nhơn Hội trên đất Campuchia sát biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa qua đời mấy tháng, nay đối mặt với tình thế lưỡng đầu thọ địch ai cũng lo buồn, trong khi đồn Nhơn Hội của quân đội Sài Gòn phát loa chĩa về hướng biên giới ra rả ngày đêm: “Hởi cán binh Việt cộng, Bác Hồ của các bạn không còn, Campuchia thay chánh phủ mới không chứa các bạn trên đất họ, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ tấn công các bạn bất cứ lúc nào…”.
Trước ngày xảy ra cuộc đảo chánh ở Campuchia, đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh An Giang 7 người và 1 Phó bí thư Khu ủy Khu 8 cải trang đi công khai từ căn cứ Khu ủy ở Kiến Phong về An Giang trên đất Campuchia, đến đồn Prek Chey đối diện khu phố Long Bình huyện An Phú bị lính Campuchia bắt giữ, Tỉnh ủy cử người đến thương lượng trả một số vàng khá lớn để chuộc nhưng không thành. Không còn cách nào khác, Tỉnh đội tổ chức một phân đội tinh nhuệ tập kích chiếm đồn Prek Chey giải thoát những người bị bắt. Trận tập kích cố gắng hạn chế tối đa thương vong quân đồn trú, không bắt tù binh và lấy bất cứ thứ gì. Tiếp theo cuộc đảo chánh của tướng Lon Nol sau đó, đặt dấu chấm hết thời kỳ Campuchia thân thiện miền Bắc và lực lượng kháng chiến miền Nam Việt Nam.
Vì sự sống còn của ta phải tiến đánh quân Lon Nol. Đồng thời giúp “bạn” xây dựng thực lực
        Để mở rộng địa bàn đứng chân bảo toàn lực lượng, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy, Tỉnh đội buộc phải ra lệnh bộ đội địa phương tỉnh với 2 tiểu đoàn thiếu và các đại đội độc lập, đánh quân Lon Nol sâu trên đất Campuchia, quân ta tiến đến đâu quân Lon Nol đều bỏ chạy, làng mạc, phố phường nguyên vẹn, người dân làm ăn sinh sống bình thường, trong thời gian rất ngắn chiếm giử một vùng rộng lớn hai tỉnh Takeo và  Kandal, thu rất nhiều vũ khí, quân dụng.
Việc ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol là bất khả kháng vì sự sống còn của ta. Để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Campuchia và “hợp pháp hóa” việc ta đưa quân lên nước bạn, Tỉnh ủy chỉ đạo dựng “ngọn cờ Sihanouk”, phát động nhân dân Campuchia đoàn kết cùng nhân dân Việt Nam chống Mỹ và Lon Nol, được nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ. Các cơ quan và bộ đội tỉnh di chuyển trú đóng sâu trên đất Camphuchia, đi đến đâu cũng được người dân chào đón nồng nhiệt như người thân. Sau đó khoảng một tháng, quân Sài Gòn tập trung binh lực mở các cuộc hành quân “Cửu Long 1”, “Cửu Long 2”… đánh phá căn cứ của ta ven biên giới và thọc sâu càn quét trên đất Campuchia, các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội phải phân tán nhỏ ém trong các khu rừng chồi, lau sậy, hay vườn cây ăn trái tránh địch vô cùng vất vã trong nhiều ngày, may mà không bị tổn thất đáng kể về người, nhưng thiệt hại vật chất khá lớn, vũ khí chiến lợi phẫm thu của quân Lon Nol và cả của ta dự trử trước đó cất dấu ở căn cứ hậu cần trên đất Campuchia ven biên giới Vạt Lài, huyện An Phú bị quân Sài Gòn truy tìm phát hiện lấy hết! Trong khi đó các đơn vị bộ đội tỉnh tiến sâu trên đất Campuchia trên một trăm cây số, án ngử quân Lon Nol gần thị xã Takeo và Kandal, quân Sài Gòn không với tới, gần như đứng ngoài vòng chiến sự.
 Chiến tranh mở rộng sang Campuchia, nhưng Mỹ và quân Sài Gòn không cứu được quân Lon Nol. Khi ấy, những người cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ) thực lực chưa có gì, cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” tổ chức bộ máy chánh quyền, đoàn thể và các lực lượng vũ trang. Riêng Tỉnh đội giúp “bạn” xây dựng mỗi tỉnh một tiểu đoàn bộ đội địa phương, huấn luyện và trang bị vủ khí đầy đủ.
Cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” rất nhiệt tình, có hiệu quả mong “bạn” vững mạnh cùng ta đứng chung chiến hào chống Mỹ, vì lợi ích nhân dân hai nước. Lẽ ra “bạn” biết ơn sự giúp đỡ đó đối xử tốt với ta. Nhưng không, “bạn” dần dần lộ rỏ ý đồ chống ta, ngang nhiên nổ súng khiêu khích bộ đội, bắt thủ tiêu cán bộ, chiến sĩ ta đi công tác lẻ tẻ. Ở các cơ quan Tỉnh đội có 4, 5 cán bộ bị chúng bắt giết dã man như các anh Ba Kỳ Nam, Chín Bình Ton, Đình Trung, Bảy Sửu…! Đối với ta thì vậy, trong nội bộ chúng, Khmer Đỏ loại bỏ những cán bộ do ta đào tạo, hai tiểu đoàn tỉnh An Giang xây dựng giúp, vừa làm lể bàn giao xong ta quay đi, chúng tước vủ khí giải tán tức thì.
Thái độ thù địch của Khmer Đỏ đối với ta bất cứ cán bộ, chiến sĩ nào ở An Giang có mặt trên chiến trường Campuchia lúc đó không lạ gì! Nhưng, các báo cáo của Tỉnh ủy, Tỉnh đội gởi Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 8 về những vụ Khmer Đỏ nổ súng khiêu khích bộ đội và giết hại cán bộ ta đều bị nghi ngờ không trung thực, cho rằng nếu có “va chạm” với “bạn”, xem lại có phải lỗi trước hết do cán bộ, chiến sĩ An Giang gây ra, nên “bạn” mới có phãn ứng như vậy!? Cho đến sau ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, Khmer Đỏ bắn pháo, đưa quân đột kích bắn giết đồng bào, cướp phá một số xóm ấp ven biên giới An Giang, Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 8 vẫn chưa xác định Khmer Đỏ là kẻ thù, cho đó là những “xung đột lẻ tẻ”,  “địa phương, cục bộ” và rằng Khmer Đỏ dù có xấu vẫn là “bạn” của ta!!
Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thảm khốc
Để chuẩn bị chiến tranh, Khmer Đỏ phát động binh lính và nhân dân Campuchia gieo rắc tư tưởng hận thù dân tộc với Việt Nam, ra sức xây dựng quân đội, sơ tán dân xa vùng biên giới, đào công sự, chiến hào, xây dựng trận địa pháo, trận địa xuất phát tấn công, tập trung binh lực áp sát biên giới… Mọi động thái đó diễn ra cách biên giới ta không xa nhưng ta không hay biết, cho đến đêm 30 tháng 4 năm 1977, Khmer đỏ mở cuộc tấn công đồng loạt toàn tuyến biên giới An Giang dài gần 100 km, mở màn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thảm khốc…! Các đồn biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân tự vệ vùng biên giới, nhờ sớm nhận diện mạo kẻ thù, đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, anh dũng đánh trả đẩy lùi các mũi tấn công của địch hạn chế tổn thất. Nhưng, không hiểu vì sao Khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 8 và Trung ương không đánh gía đúng bản chất phản động của Khmer Đỏ và kẻ đứng phía sau chúng, chủ quan mất cảnh giác, không có kế hoạch đối phó chiến tranh.
          Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, tôi nghe các vị lãnh đạo nói: Mỹ là tên đế quốc sừng sỏ ta còn đánh bại, từ nay không một tên xâm lược nào dám đụng đến Việt Nam…! Chủ trương sớm “ra quân” hằng vạn cán bộ, chiến sĩ và buông lõng công tác quốc phòng những năm đầu sau giải phóng, chứng minh sự khinh suất của Ban lãnh đạo cấp cao đất nước. Cho đến đêm “định mệnh” 30 tháng 4 năm 1977, khi khói lửa chiến tranh đổ xuống khắp vùng biên giới Tây Nam bị bất ngờ mới nhận mặt kẻ thù, điều quân, khiển tướng tổ chức chống đỡ trong thế bị động, lúng túng! Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang dù quá hiểu rõ bản chất phản động của Khmer Đỏ từ những năm trước 1975, nhưng cũng không làm gì khác hơn là tổ chức phòng thủ thụ động trên tuyến biên giới tỉnh nhà, nên cũng rất bị động, lúng túng…!
Giửa năm 1977, tôi là Phó chủ nhiệm Phòng chánh trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (Tỉnh đội), nhận quyết định chuyển ngành sang Văn phòng tỉnh ủy làm cán bộ nghiên cứu phụ trách theo dõi khối Quân sự - an ninh; đặc biệt, theo dõi chiến sự chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo thang ngày càng ác liệt phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy.
Suốt chặng đường dài 30 năm đánh giặc cứu nước đầy hy sinh gian khổ, đến ngày thắng lợi hoàn toàn 30 tháng 4 năm 1975, quân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng chiến đấu bảo vệ biên giới hai đầu của Tổ quốc, tiếp tục hy sinh xương máu hàng vạn chiến sĩ, đồng bào và biết bao làng mạc, phố phường bị tàn phá…! Đây là cuộc chiến tranh “kỳ quái” giữa ta với người “đồng chí” Campuchia (Khmer Đỏ) và với người “đồng chí” phương Bắc “vĩ đại”.
Những năm 1975 – 1979 quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vốn là “đồng chí”, là “anh em như môi với răng” bổng trở thành kẻ thù của nhau, đến mức Trung Quốc xúi giục Khmer Đỏ gây chiến tranh biên giới Tây Nam chống ta và sau đó chính Trung Quốc đưa quân gây chiến tranh biên giới phía Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”! Hồi đó, nghe Đảng nói: Trung Quốc có “âm mưu bá quyền, bành trướng”, là  “kẻ thù trực tiếp của Việt Nam”, nhưng tôi cũng như không ít người khi ấy không hiểu ngọn nguồn vì sao như vậy. Sau nầy có điều kiện đọc các tài liệu tham khảo; trong đó có hồi ký của cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ viết năm 2003 tôi tin là khách quan, chân thật.
Hồi ký có đoạn:
“…
“Là nhân chứng lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các họat động ngoại giao nầy với tư cách là vụ trưởng vụ Bắc Mỹ - Bộ ngoại giao, trực tiếp tham gia đoàn đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mỹ ở Paris năm 1977, rồi ở Nữu ước năm1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lở mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước, sau bao năm chiến tranh…
 “Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hóa quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực nầy, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979, nếu như Việt Nam sau chiến thắng 1975 có một chiến lược”thêm bạn bớt thù” thực sự cầu thị hơn? Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật”.
 “…
Đây quả là sai lầm có tính chiến lược trong đối ngoại của Đảng sau năm 1975, đưa đất nước rơi vào thãm họa chiến tranh một lần nữa!
 Với trách nhiệm của mình, tôi theo dõi chiến sự qua báo cáo của Tỉnh đội và các huyện – thị biên giới, thỉnh thoảng tháp tùng các vị trong Ban Thường vụ tỉnh ủy, hoặc Tỉnh đội thị sát chiến trường tiếp xúc cán bộ, chiến sĩ nghe anh em báo cáo: Khmer Đỏ là kẻ cuồng tín, vốn là “bạn” và là “học trò” của ta, nên quá hiểu biết thủ đoạn chiến thuật của nhau, quân ta lại bố trí đồn, chốt cố định, bộc lộ lực lượng phòng ngự thụ động, Khmer Đỏ cơ động khi ẩn khi hiện… so đánh nhau với quân Sài Gòn khó khăn, ác liệt hơn nhiều! Cán bộ, chiến sĩ ta ở các đồn biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân tự vệ phải dàn quân chốt chặn ngày đêm trên tuyến biên giới, đối mặt với địch đánh trả hết đợt tấn công nầy đến đợt tấn công khác. Nhiều đồn, chốt bị địch đánh chiếm, ta đánh phản kích chiếm lại năm lần, bảy lượt, giành nhau từng bờ tre, ụ đất… Căng thẳng nhất là mùa nước năm 1978, toàn tuyến biên giới nước ngập mênh mông, quân ta phải đấp công sự nổi, ngày đêm sống và chiến đấu dưới tầm hỏa lực địch! Khó khăn, gian khổ cùng cực, thương vong quân ta tăng lên từng ngày, những cán bộ, chiến sĩ “gạo cội” bộ đội tỉnh sống sót sau cuộc chiến tranh với Mỹ hy sinh rất nhiều, trong đó có những đồng đội thân quen với tôi như Bé Tám, Tư Mưa, Sơn Bịch…! Dù hy sinh, gian khổ đến mấy, cán bộ, chiến sĩ các Lực lượng vũ trang An Giang động viên nhau quyết tâm bám trụ chiến đấu đến cùng, nhất định không rời bỏ trận địa vì trước mặt là kẻ thù, phía sau là đồng bào, là quê hương, đất nước ta không có chổ lùi…!
Khmer Đỏ thảm sát dân xã Ba Chúc và vụ di dời dân Khmer Bảy Núi về tỉnh Hậu Giang (cũ)
          Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thời gian không dài, nhưng tổn thất về người và của quân dân ta ở An Giang vô cùng to lớn, có hai sự kiện đau thương dù thời gian lùi xa, nhưng bất cứ ai chứng kiến nhớ lại không khỏi bồi hồi xúc động:
          Khi chiến tranh bùng phát, mặc dù có chủ trương ven tuyến biên giới sơ tán người già, phụ nử, trẻ con, nhưng khi Khmer Đỏ đánh vỡ tuyến phòng ngự của quân ta tràn vào chiếm Núi Tượng xã Ba Chúc mười ngày trong tháng 4 năm 1978 phần lớn dân vẫn không sơ tán, Khmer Đỏ gây ra vụ thãm sát kinh hoàng giết chết 3.157 người! Nghe những nạn nhân sống sót kể lại và xem các bức ảnh chụp sau khi quân ta đánh Khmer Đỏ rút chạy, xác người chết nằm chất chồng la liệt khắp nơi…! Tội ác giết người man rợ như thời trung cổ của bọn Khmer Đỏ “trời không dung đất không tha”!!
 Sự kiện đau thương nầy tôi nghĩ có phần trách nhiệm của đảng bộ, chánh quyền sở tại thiếu kiên quyết vận động, thuyết phục dân sơ tán. Ngày nay, các nhà viết sử trong tỉnh viết về sự kiện nầy chỉ đổ lỗi đồng bào xã Ba Chúc theo đạo Hiếu Nghĩa, vì“…mê tín nên nghe lời bọn xấu chạy vào chùa Phi Lai đọc kinh cứu mạng không chịu di tản…” (dự thảo Lịch sử tỉnh và huyện Tịnh Biên).
          Về vụ di dân Khmer Bảy Núi, gần cuối năm 1978 khi chiến tranh  đang diễn ra có lệnh Trung ương: An Giang phải di dời khẩn cấp toàn bộ dân Khmer Bảy Núi về định cư ở tỉnh Hậu Giang. Ban Thường vụ tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh triệu tập cuộc họp khẩn gồm các vị lãnh đạo hai huyện Bảy Núi Tri Tôn, Tịnh Biên và các ngành tỉnh liên quan triển khai kế hoạch thi hành. Các vị lãnh đạo tỉnh giải thích: Theo chỉ đạo Trung ương, phải đưa dân Khmer Bảy Núi về các tỉnh phía sau, “để ngăn cắt không cho Khmer đỏ lợi dụng móc nối tổ chức chống ta”. Lý lẻ không thuyết phục, nhưng không ai dám có ý kiến khác!
         Việc di dời 70 ngàn dân Khmer với chặng đường dài hằng trăm cây số, trong khi phương tiện vận tải của ta, chủ yếu đường sông rất hạn hẹp vô cùng khó khăn! Nhưng, khó khăn nhất là giải thích, động viên dùng “con ngáo ộp” Khmer Đỏ hù dọa, thúc ép đồng bào chịu rời bỏ nhà cửa, ruộng đồng ra đi, vì họ nào muốn xa lìa nơi chôn nhao cắt rún, sinh cơ lập nghiệp từ bao đời trên mãnh đất nầy, trong khi hiểm họa Khmer Đỏ lúc  ấy không như cán bộ tuyên truyền. Có mấy lần tôi cùng các vị lãnh đạo Tỉnh ủy vào Bảy Núi kiểm tra, đôn đốc việc di dân, chứng kiến cảnh người dân than khóc, kể lể trước khi ra đi trong lòng vô cùng đau xót, thương cảm đồng bào, nhưng lệnh là phải thi hành không có chọn lựa nào khác!
Thực hiện cuộc di dời dân không nhanh gọn như kế hoạch, kéo dài đến đầu năm 1979, quân ta mở chiến dịch tổng phản công tiến chiếm Phnom Phenh, đưa cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam lên đất Campuchia vẫn chưa xong. Khi ấy ông Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách Dân vận đến An Giang, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ tỉnh ủy, ông Lê Văn Nhung (Tư Việt Thắng), Bí thư tỉnh ủy báo cáo với ông Nguyễn Văn Linh việc di dân Khmer, đề nghị ông cho đình chỉ, vì ta đã đánh chiếm Phnom Phenh, hiểm họa Khmer Đỏ không còn. Ông Nguyễn Văn Linh viết điện mật gởi Bộ Chính trị chuyển đề nghị của Tỉnh ủy. Hôm sau, điện mật của Tổng bí thư Lê Duẩn gởi phúc đáp viết vắn tắt: “Việc nầy (di dân Khmer) do anh Sáu Thọ (Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách chỉ đạo chiến trường Tây Nam) chịu trách nhiệm, phải có ý kiến của anh…”! Thế là việc di dân vẫn phải tiếp tục…!
          Chủ trương di dời dân Khmer Bảy Núi về tỉnh Hậu Giang, xuất phát từ quan điểm không tin người Khmer Bảy Núi, cho rằng nếu không di dời vào sâu nội địa họ sẽ theo Khmer Đỏ chống ta, không phải để “bảo đãm an toàn, tính mạng, tài sản của dân”như các nhà viết sử trong tỉnh viết. Tôi nói chuyện nầy, những người cùng thời với tôi còn sống trong tỉnh không lạ gì.
 Việc đưa 70 ngàn dân Khmer an cư lập nghiệp từ bao đời ở Bảy Núi về vùng đất lạ, khác nào một cuộc “đi đày”, làm tiêu tan tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, đảo lộn cuộc sống người dân, mà các vị lãnh đạo cấp cao đất nước khi ấy ra quyết định bất chấp hậu quả, bất chấp lòng dân và chẳng đếm xỉa ý kiến đảng bộ, chánh quyền địa phương! Khi còn đánh nhau với Khmer Đỏ ở biên giới thì nói sao cũng được, nhưng khi không còn đánh nhau vẫn phải tiếp tục cuộc di dời dân Khmer, thì các nhà viết sử giải thích sao đây?   
Sau khi đưa dân Khmer đi chuyến cuối cùng, khắp vùng Bảy Núi các phum sóc người Khmer nhà cửa, chùa chiền hoang tàn, xơ xác…! Mặc dù  tỉnh Hậu Giang tiếp nhận người Khmer tích cực giúp đỡ tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống, nhưng không thể kham nỗi, phát sinh nhiều vấn đề ngoài tầm khả năng của tỉnh. Vã lại, người Khmer Bảy Núi ở vùng cao đã quen, nay đưa họ về sống ở đồng bằng không thích nghi, vài tháng sau toàn bộ 70 ngàn dân Khmer lục tục dắt díu nhau trở về Bảy Núi! Có ai nhìn thấy cảnh đồng bào tay xách nách mang, gánh gồng tài sản, lùa dắt trâu bò đi bộ hằng trăm cây số trở về phum sóc cũ, mới thấu hiểu cãm thương nổi gian nan, vất vả của đồng bào!! Về đến nơi chôn nhao cắt rún đồng bào trắng tay, không nhà ở, không có gì để ăn, đau ốm không thuốc chữa trị, trẻ em không có trường đi học… đồng bào lâm vào cảnh khốn cùng, chánh quyền phải cứu đói và giải quyết mọi hậu quả. Nhưng trong điều kiện khi ấy ngân sách tỉnh nghèo nàn, dù có cố gắng cũng chẳng thấm vào đâu, đồng bào phải tự xoay sở để sống còn…! Tôi nghe có không ít người chết đói và chết vì bịnh tật do thiếu đói, nhưng không biết bao nhiêu!?
 Kế hoạch di dân Khmer phá sản, ta không thể bắt đồng bào quay trở lại Hậu Giang, Tỉnh ủy báo cáo Trung ương, nhận điện chỉ đạo của Trung ương: Tỉnh phải bố trí lại nơi ở của đồng bào Khmer, tập trung ở từng khu vực sâu trong nội địa, không để ở rải rác các phum sóc cũ, nhất là các phum sóc gần biên giới, để “Khmer Đỏ không thể thâm nhập…”. Lại tiếp tục một chủ trương sai lầm, nhưng tỉnh không thực hiện được và Trung ương cũng lờ đi… !!
Sau cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
 Ngày 7/1/1979 quân ta đánh chiếm Phnom Penh, 3 ngày sau tôi tháp tùng đoàn cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang thăm thị xã Tàkeo. Trên đường đi từ thị trấn Tịnh Biên theo Quốc lộ 2 lên thị xã Tàkeo, hai bên đường làng mạc, phố phường hoang vắng, đó đây xác người còn nằm phơi nắng giửa trời, từng tốp xe bọc thép, xe vận tải chở quân của ta chạy trên đường, hay cụm lại nghỉ ngơi dưới bóng râm. Thị xã Tà keo như một thành phố chết, không điện nước, không chợ búa, không bệnh viện, không trường học, nhà cửa, phố phường xơ xác, tiêu điều…Người dân từ đâu đó lục tục kéo về đi thất thểu trên đường, quần áo rách rưới toàn một màu đen…! Hai lần tôi đặt chân lên Campuchia, không như lần năm 1970 đánh Lon Nol người dân vui mừng chào đón “anh bộ đội Việt Nam” như người thân, lần này tôi cãm nhận trong ánh mắt họ như vừa vui, vừa e dè, ngại ngùng điều gì đó…! Tôi cùng đoàn đi xem nơi ở của Tà Mốc - tên đồ tể Khmer Đỏ và xem toà nhà của cố vấn Trung Quốc giửa hồ nước rộng như nhà thuỷ tạ.
 Theo sự phân công của Trung ương, An Giang chịu trách nhiệm tỉnh Tà keo, tổ chức đoàn chuyên gia chánh trị và đoàn chuyên gia quân sự mang phiên hiệu Đoàn 9905, cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh tiếp tục truy quét tàn quân Khmer Đỏ và giúp bạn xây dựng lực lượng, phát triển kinh tế, xã hội…từ con số không kéo dài suốt 10 năm, tổn thất về người và của không đo đếm được!
Cuộc kháng chiến chống Mỹ chấm dứt, hòa bình được lập lại, những tưởng bước vào thời kỳ xây dựng hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế, người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc… Thế nhưng, niềm tin và hy vọng dần dần tan theo mây khói, do những chánh sách đối nội sai lầm của Đảng, làm chồng chất thêm khó khăn sau chiến tranh, nhân dân nghèo đói, cùng với sai lầm trong đối ngoại, đất nước bị bao vây cấm vận và rơi vào thãm họa chiến tranh một lần nữa với hai người “đồng chí” láng giềng…!
Những sự thật cần biết
Đạo diển Lê Phong Lan mong muốn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam được “giải mật”, nhưng qua những gì tôi biết, tuy chỉ trong phạm vi địa phương cũng đủ nói lên tất cả, tôi thấy không có gì bí mật, có điều người dân không dám nói và Đảng không muốn nói, hay nói không đúng sự thật, thành ra chuyện không bí mật thành bí mật.
       Bộ phim tài liệu của đạo diển Lê Phong Lan phát sóng trên kênh HTV9, với tên “Biên giới Tây Nam – cuộc chiến bắt buộc”. Gọi đây là “cuộc chiến bắt buộc” là chính xác, vì Khmer Đỏ vô cớ xăm phạm biên giới Tây Nam nước ta, buộc ta phải đánh trả tự vệ và tổng phản công đánh chiếm Phom-Phenh, để loại trừ hiểm hoạ Khmer Đỏ cho đất nước. Sau đó, không thể không giúp những người Khmer trong nhóm Hunsen, Heng Samrin…ly khai Khmer Đỏ, họ với hai bàn tay trắng như Khmer Đỏ năm 1970, ta hết lòng hết sức giúp họ từng bước phát triển trưởng thành. Điều quan trọng là giúp họ nhằm xây dựng một thể chế chánh trị thân thiện với ta, để bảo đãm sự bình  yên lâu dài vùng biên cương này của Tổ quốc.
        Nói “cuộc chiến bắt buộc” là đúng, dù Khmer Đỏ thực hiện chánh sách diệt chủng với người dân của chúng, nhưng nếu không động chạm đến biên giới lãnh thổ nước ta, thì liệu ta có đưa quân đánh chúng phải chịu “sa lầy” hao người tốn của trong 10 năm, còn mang tiếng “xâm lược” không? Theo tôi là không! Nên nhớ, thời điểm ấy tình cảnh nước ta “rối như nồi canh hẹ”, giải quyết những vấn đề trong nước và ngoài nước của ta đã hết hơi hết sức, còn đâu lo chuyện “ăn cơm nhà vát tù và hàng tổng”. Làm gì có chuyện tự dưng đưa “bộ đội tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế cao cả trên nước bạn”, “cứu nhân dân Campuchia thoát hoạ diệt chủng Khmer Đỏ”.
Bài phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Campuchia Heng Samrin tại lể kỷ niệm 35 năm ngày chiến thắng chế độ diệt chủng Khmer Đỏ tại Hà Nội ngày 5/1 ông nói: “Chỉ có đất nước Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã tự nguyện đưa con cháu và những người thân yêu của mình đến giúp giải phóng và cứu tính mạng của người dân Campuchia trong lúc vô vàn nguy nan…”. Đại diện cho người dân Campuchia ông phải nói như vậy và nói như vậy là đúng, nếu ta không tiêu diệt Khmer Đỏ thì làm gì có đất nước Campuchia ngày nay, nhưng đó chỉ phản ánh một phần sự thật lịch sử, chưa phải căn nguyên việc ta can thiệp vào Campuchia.
        Đạo diển Lê Phong Lan nói: “…sau cuộc chiến Mậu Thân 1968, khi một phần quân đội của chúng ta bị đánh dạt qua biên giới Campuchia, lập căn cứ bên đó thì nhiều khu tập kết vũ khí, đạn dược của chúng ta bị Khmer Đỏ tấn công, giết người và cướp đi hết”. Sự thật là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ từ sau Đồng khởi năm 1960, cho đến Lon Nol đảo chánh ở Campuchia năm 1970, lực lượng kháng chiến các tỉnh ven biên giới giáp Campuchia, kể cả của Miền (R), khi nào bị quân Mỹ và Sài Gòn càn quét, đánh phá gặp khó khăn thì thường chạy sang trú ẩn ven biên giới trên đất Campuchia trong thời gian nhất định hoặc lâu dài, kể cả xây dựng căn cứ hậu cần ở đó, không phải chỉ đến sau trận Mậu Thân 1968. Và, như   tôi viết ở trên, năm 1970 khi ta buộc phải đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol, cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ) thực lực chưa có gì, chúng không có khả năng và cũng chưa ra mặt chống ta, nên không có chuyện tấn công giết người và cướp vũ khí của ta khi ấy.
Báo Tuổi Trẻ nêu câu hỏi: “… tại sao Khmer Đỏ  lại cố ý kích động sự thù hằn giửa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia?” và đạo diển Lê Phong Lan hỏi: “Đằng sau cuộc chiến nầy là ai?” .
Như tôi viết ở trên, năm 1970 bất đắc dĩ ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol vì sự sống còn của ta và giúp Khmer Đỏ dần dần xây dựng phát triển thực lực “đủ lông đủ cánh”, thì cũng dần dần Khmer Đỏ bộc lộ dã tâm chống Việt Nam, cho đến ngày 30/4/1977 ồ ạt đưa quân tấn công toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Và, kẻ đằng sau Khmer Đỏ chính là Trung Quốc, không có Trung Quốc Khmer Đỏ không dám liều lĩnh gây chiến tranh biên giới chống ta với qui mô chừng ấy, nhưng Trung Quốc nhúng “bàn tay lông lá” của họ vào nắm Khmer Đỏ từ lúc nào và vì sao Trung Quốc xúi giục Khmer Đỏ chống ta và sau đó xua quân gây chiến tranh biên giới phía Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”, cho đến sau khi kết thúc hai cuộc chiến tranh nầy một thời gian khá dài, Trung Quốc còn tiếp tục “bảo trợ” Khmer Đỏ, đấu tranh giử ghế chúng ở Liên hiệp quốc, làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận “Việt Nam xâm lược Campuchia”, phạm vi bài viết nầy tôi chưa nói được.
       Trả lời câu hỏi của báo Tuổi Trẻ, đạo diển Lê Phong Lan nói: “Để lấy lòng dân và tập trung quyền lực thì kích động thù hằn dân tộc và gây chiến là biện pháp đơn giản nhất…”. Ý kiến nầy tôi xin trao đổi làm rỏ thêm:
       Quê hương An Giang của tôi là vùng biên giới giáp Campuchia, thuở nhỏ tôi đã biết người dân hai nước ở hai bên biên giới quan hệ gần gũi như người láng giềng; trong kháng chiến chống Mỹ tôi từng sống cùng đồng chí, đồng đội của tôi ở vùng biên giới trên đất Campuchia, người dân Campuchia rất có cảm tình với chúng tôi, nếu không chúng tôi không thể sống yên ổn ở đó và những năm tháng đánh quân Lon Nol tôi cũng có mặt, chúng tôi rất hiểu tấm lòng người dân Campuchia với Việt Nam, chỉ có một bộ phận nhỏ người Campuchia nhẹ dạ, cực đoan bị thế lực phản động trong nước và nước ngoài, sau nầy là Khmer Đỏ tuyên tuyền lôi kéo theo chúng chống Việt Nam, chứ đa số người dân Campuchia rất thân thiện với Việt Nam, Khmer Đỏ xây dựng quân đội chuẩn bị chiến tranh chống ta hàng vạn quân, nhưng chắc chắn không phải tất cả đều tự nguyện theo chúng chống Việt Nam. Khmer Đỏ hoặc thế lực nào khác ngày xưa, hay phe đối lập Sam Rainsy ngày nay ở Campuchia muốn chống Việt Nam bao giờ chúng cũng giở luận điệu tuyên truyền moi móc chuyện lịch sử xa xưa, kích động hận thù dân tộc rằng “Việt Nam chiếm đất Campuchia…”, nhưng hiệu quả luận điệu ấy không như chúng mong muốn.
         Tôi đồng ý ý kiến đạo diễn Lê Phong Lan: “…Lịch sử là cái đã qua, nhưng chúng ta có thể học hỏi nhiều từ lịch sử cho hôm nay và mai sau…”. Và, đã là lịch sử thì phải khách quan, chân thật, che dấu hay “vo tròn, bóp méo” sự thật lịch sử là có tội con cháu mai sau./                                                    
   Tháng 01 năm 2014 - Nhân kỷ niệm 35 năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam - N.M.Đ
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 22-1-14
http://viet-studies.info/kinhte/NguyenMinhDao_GiaiMatTayNam.htm


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cuộc tranh cãi về hệ thống của những gã khổng lồ

Nằm vài kilômét về phía Tây Nam từ trung tâm của thủ đô Ấn Độ New Delhi là một vùng đất mà nhiều người Ấn Độ đặc biệt tự hào vì nó: Gurgaon. Khu đất mới này của thành phố cần phải là hiện thân của đất nước Ấn Độ mới, Ấn Độ khởi hành, Ấn Độ ở bên kia của những căn nhà ổ chuột. Thật sự là nhiều tòa nhà văn phòng chọc trời và khu mua sắm đã được dựng lên từ khu đất khô cằn đó trong vòng những năm vừa qua. Nhiều công ty thành công trong ngành công nghệ thông tin của Ấn Độ có trụ sở của họ ở đây, và cả những công ty nổi tiếng nước ngoài cũng đặt chi nhánh của họ ở đây.

Nhiều người Ấn Độ cũng tự hào không kém về Khan Market ở Delhi của họ, một vùng đất có những ngôi nhà hai tầng theo phong cách thuộc địa đứng sát cạnh nhau mà trong đó là cửa hàng sang trọng, hiệu sách và nhà hàng. Thế nhưng Jochen Buchsteiner, cựu thông tín viên tờ Nhật báo Frankfurt Đại cương ở châu Á, phán xét một cách thô lỗ nhưng đúng: “Niềm tự hào của Delhi, Khan Market, chỉ có thể moi ra được một nụ cười thương hại từ những du khách châu Á Thái Bình Dương.”
Cả Khan Market lẫn Gurgaon đều không đứng vững được khi so sánh với những gì đã thành hình ở Đông Nam Á hay còn là ở Trung Quốc nữa. Nếu so sánh Gurgaon ví dụ như với khu Phố Đông rực rỡ mới trong Thượng Hải hay Khan Market với trung tâm mua bán và giải trí Sanlitun Village ở Bắc Kinh thì người ta phải khẳng định một cách rõ ràng rằng: Người chiến thắng hiển nhiên trong cả hai trường hợp là Trung Quốc.
Giữa Ấn Độ và Trung Quốc không phải chỉ có dãy núi Himalaya, mà nằm giữa hai gã khổng lồ Á châu này là nhiều thế giới.
Dù đó có là đấu tranh chống cái nghèo, đào tạo hay hạ tầng cơ sở – trong những lĩnh vực trung tâm, Trung Quốc đã bỏ xa láng giềng Ấn Độ của nó ở một mức độ rõ ràng đến phát sợ.
Số so sánh Trung Quốc – Ấn Độ
Chỉ số
Trung Quốc
Ấn Độ
Tuổi thọ dự tính
74,51 năm
66,46 năm
Tỷ lệ biết đọc (nam)
95,7%
73,4%
Tỷ lệ biết đọc (nữ)
87,6%
47,8 %
Tỷ lệ người nghèo trong dân số*
15,9%
41,6%
Đường cao tốc
65.000 kilômét
200 kilômét
* Thu Nhập dưới 1,25 dollar một ngày.
Nguồn: Zbigniew Brzezinski, Strategic Vision, Seite 167.
Trong những năm vừa qua, Trung Quốc đã giải phóng tròn 400 triệu người ra khỏi cảnh nghèo, Ấn Độ ngược lại chỉ 150 triệu. Vẫn còn ít nhất 300 triệu người đói ăn ở đó. Người Trung Quốc nói tiếng Anh tốt hơn người Ấn Độ, mặc cho quá khứ là thuộc địa Anh Quốc của Ấn Độ. Tỷ lệ biết đọc ở Trung Quốc cao hơn thấy rõ khi so với ở Ấn Độ.
Rõ ràng nhất là các khác biệt trong hạ tầng cơ sở. Dù đó là tàu hỏa, cảng hàng không hay đường sá – ở Trung Quốc thì tất cả đều nhanh hơn, cao hơn, dài hơn và xa hơn. Bộ trưởng Bộ Giao thông [Đức] Peter Ramsauer thường xuyên sang hai nước đó. “Nó rất dai dẳng ở đây, dai dẳng hơn là ở Trung Quốc. Không có gì nhiều xảy ra trong vòng một năm ở đây”, ông nói ở Mumbai sau chuyến đi thăm Ấn Độ lần thứ nhì trong vòng một năm.
Hoàn toàn khác sau chuyến thăm Trung Quốc của ông: “Ở Trung Quốc có nhiều việc tiến triển hết sức nhanh chóng. Họ mở rộng hay xây hoàn toàn mới 50 nhà ga hàng năm và cũng từng ấy cảng hàng không. Ở đó mỗi năm có 500 kilômét đường sắt được xây dựng.”
Đó không phải là lời phán xét của một người nước ngoài kiêu ngạo. Nhiều người Ấn cũng nhìn thấy giống như vậy. Như tờ báo kinh tế Ấn Độ The Economic Times trên trang trực tuyến của họ đã đăng tải một slideshow hình ảnh dưới tựa đề How China builds these, and why Indian never does. Trong lần trình diễn những dự án phô trương này có thể nhìn thấy, ngoài những cái khác, cây cầu dài 42 kilômét trong thành phố cảng Trung Quốc Thanh Đảo.
Ở Ấn Độ thì ngược lại đường sá còn không được xây xong. Ví dụ như Ganga Expressway. Nó cần phải là một dự án để trưng bày. Với tám làn xe, nó cần phải nối bang Uttar Pradesh có nhiều dân cư nhất (200 triệu người) với thủ đô Delhi. Thế nhưng tham nhũng và kiện tụng đã làm ngưng dự án lại cho tới ngày nay, cái mà viên đá đầu tiên đã được đặt cho nó ngay từ năm 2008. Vì vậy là vận tốc trung bình vẫn còn là 35 kilômét/giờ cho xe tải ở Ấn Độ.
Tại sao Trung Quốc lại đi trước láng giềng Ấn Độ của nó? Một lý do là chắc chắn, rằng Trung Quốc đã bắt đầu với các cải cách về kinh tế sớm hơn nhiều. Trung Quốc đã khởi động chúng ngay từ 1978 dưới thời Đặng Tiểu Bình, Ấn Độ thì ngược lại mãi tới 1992 dưới thời nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính thời đó và thủ tướng ngày nay, Manmohan Singh.
Nhưng chỉ riêng việc khập khiển ở đằng sau về thời gian thì cũng không giải thích được vị trí đi trước của Trung Quốc. Vì ở đó còn có câu hỏi về hệ thống: “Tại sao ở Trung Quốc có nhiều thứ tốt hơn ở Ấn Độ đến như vậy?”, Charles Kupchan hỏi. Vị giáo sư ở Đại học Georgetown đưa ra câu trả lời tàn nhẫn – cởi mở ngay sau đó: “Vì Trung Quốc không phải là một nền dân chủ.”
Trung Quốc chống Ấn Độ – đó cũng là một sự so sánh các hệ thống chính trị. Ở đây là Ấn Độ dân chủ, ở kia là Trung Quốc chuyên quyền.
Nhưng sự so sánh này có vững chắc hay không? Có, vì người Ấn tự làm điều đó. Họ liên tục so sánh họ với người láng giềng ở phía Đông. Trong khi người Trung Quốc thì ngược lại không làm điều đó: họ không nhìn họ trong cùng một đẳng cấp với Ấn Độ, ngay cả khi họ không nói ra điều đó một cách thẳng thừng như vậy.
Ở Ấn Độ, nước thích gọi mình là nền dân chủ lớn nhất của thế giới, có một – như các nhà chính trị học gọi – nền dân chủ khiếm khuyết. “Gọi người dân đi bầu năm năm một lần thì chưa làm nên một nền dân chủ”, người phụ nữ Ấn Độ hoạt động vì dân quyền Mallika Sarabhai nói, “một nền dân chủ cần Luật Hiến pháp áp dụng, tự do báo chí, một nền tư pháp độc lập. Tất cả những điều đó không hoạt động ở Ấn Độ.”
Nền dân chủ khiếm khuyết của Ấn Độ này thua cuộc – so với thể chế chuyên quyền đang hoạt động ở Trung Quốc. Nhà trí thức người Ấn Mohan Guruswamy là một người Ấn dễ gây thiện cảm và là một nhà dân chủ không thể chê vào đâu được, nhưng ông nói tự phê phán: “Điều cần phải khiến cho chúng tôi suy nghĩ là Trung Quốc làm tốt hơn, mặc dù chúng tôi cũng chi tiêu cùng một số phần trăm đó của tổng sản lượng quốc gia cho đào tạo.” Và: “Họ sản xuất lương thực thực phẩm nhiều gấp đôi chúng tôi.”
(Còn tiếp)
Wolfgang Hirn
Phan Ba trích dịch từ “Der nächste Kalte Krieg: China gegen den Westen” ["Cuộc Chiến tranh Lạnh kế tiếp - Trung Quốc chống Phương Tây"]

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sách mới: NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT - NGƯỜI MƯỜNG



NXB Tri thức giới thiệu sách

Nguồn gốc Người Việt - Người Mường của Tạ Đức


Về tác giả:

Tạ Đức: Được đào tạo về ngành dân tộc học tại khoa Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội từ 1976 đến 1980, được hành nghề tại Viện Dân tộc học - Ủy ban Khoa học xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) từ 1980 đến 1989, được tu nghiệp tại nước Đức từ 1989 đến 1990, đặc biệt được độc lập nghiên cứu tại Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, Hội Nghiên cứu Khoa học Đông Nam Á từ 1999.

Về tác phẩm:

Về nội dung, chủ đề chính của cuốn sách là nguồn gốc của hai nền văn hóa Đá Mới Phùng Nguyên và Đồng ThauĐông Sơn; sự hình thành của các nước Xích Quỉ, Việt Thường, Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt (những nước được coi là của tổ tiên người Việt), từ đó làm sáng tỏ nguồn gốc người Việt-người Mường, hai tộc người vốn khác nhau từ gần 4000 năm qua.

Về hình thức, cuốn sách gồm 17 Chương và 31 Phụ lục. Các Chương sẽ bàn trực tiếp về các chủ đề chính, các Phụ lục (số đánh theo số Chương) gồm những nghiên cứu độc lập về những vấn đề có liên quan chặt chẽ với các Chương chính (ví dụ, các Phụ lục 1A, 1B, 1C, 1D, 1Đ có liên quan với chủ đề của Chương 1). Tất cả phối hợp với nhau nhằm giúp độc giả hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn về lịch sử người Việt và người Mường, về lịch sử văn hóa Việt và văn hóa Mường trong mối liên hệ cội nguồn với lịch sử của nhiều tộc người, nhiều nền văn hóa ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á.

***
MỤC LỤC

Lời đầu sách                                                                                               
Lời cảm ơn                                                                                                  
Lời giới thiệu                                                                                              

Các Chương chính

Chương 1. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên - các giả thuyết đã có
Giả thuyết của Hà Văn Tấn - Giả thuyết của Trần Quốc Vượng - Giả thuyết của Charles Higham - Giả thuyết của Peter Bellwood.

Chương 2. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên - từ một nghiên cứu so sánh
Bôn tứ giác và rìu bôn có vai - Bôn tứ giác cỡ nhỏ và lối sống săn bắt hái lượm - Bôn đá ngọc - Bàn đập vải vỏ cây - Dọi xe sợi - Sự vắng mặt của đỉnh - Chạc gốm - Thố - Bát bồng - Bình, nồi, bát - Ấm hình chim - Đất trắng miết mặt gốm - Gốm đen miết láng - Hoa văn in khắc chữ S - Nha chương - Phù hiệu đá - Trang sức hình dấu phẩy và hình rìu Việt - Khuyên tai bốn mấu - đĩa bích - Vòng có mặt cắt chữ T - Dùi, đục - Vòng tay hình ống có gờ nổi - Qua - Tục làm mộ có bậc - Tục để đầu người chết hướng Đông/Đông Nam - Tục chôn người chết ngay tại nơi cư trú - Tục nhổ răng.

Chương 3. Nguồn gốc người Phùng Nguyên - một giả thuyết mới
Nhân chủng người Phùng Nguyên và người Khok Phanom Di - Ngôn ngữ người Phùng Nguyên và người Khok Phanom Di Chương - Tên tự gọi của người Phùng Nguyên và người Khok Phanom Di - Người Đản - Tổ tiên người Phùng Nguyên và người Khok Phanom Di là người Đản cổ - Vì sao họ đến Việt Nam? - Họ đến như thế nào?

Chương 4. Nguồn gốc và sự phát triển của tên gọi Việt
Hình khắc trên thạp Đại Văn Khẩu - Hình vẽ trên thạp Diêm Thôn - Liên hệ cội nguồn Diêm Thôn - Lương Chử - Nguồn gốc hai chữ Lạc Việt - Nguồn gốc bốn dạng chữ Lạc và chữ Hồng - Chữ Việt trong văn giáp cốt Thương - Chữ Việt trong kim văn Thương - Chữ Việt trên kiếm đồng vua Việt - Các dạng chữ Việt trong thư tịch - Sự biến đổi về âm của từ Việt - Sự biến đổi về nghĩa của từ Việt

Chương 5. Nước Xích Quỷ
Nước Xích Quỷ trong truyền thuyết và sử sách Việt Nam - Các nước Quỷ trong văn giáp cốt Thương - Nước Việt có kinh đô ở Bàn Long Thành, Hồ Bắc - Nước Việt có kinh đô ở Ngô Thành, Giang Tây - Nước Việt có kinh đô ở Ninh Hương, Hồ Nam - Các nước Việt ở Bắc Dương Tử - Bản chất của nước Xích Quỷ - Tên gọi Xích Quỷ - Tên gọi thực của nước Xích Quỷ.

Chương 6. Nước Việt Thường
Nước Việt Thường trong sử sách xưa và nay - Nước Việt Chương ở Giang Tây - Nước Việt Thường ở Hồ Nam - Sự bành trướng của Sở - Sự phát tán của người Việt Thường

Chương 7. Nước Văn Lang
Nước Văn Lang trong truyền thuyết và sử sách - Nguồn gốc người La - Lịch sử nước La - Liên hệ cội nguồn La - Văn Lang - Sự ra đời của nước Văn Lang - Tên gọi Văn Lang - Nước Việt thời Thương ở Lão Ngưu Pha - Nguồn gốc người Việt ở Lão Ngưu Pha - Quan hệ cội nguồn Việt Lão Ngưu Pha và Lạc Việt Diêm Thôn - Nước Việt thời Thương = Nước La thời Chu - Liên hệ cội nguồn La - Ư Việt.

Chương 8. Nước Âu Lạc
Vấn đề nguồn gốc Thục Phán - Nguyên mẫu thành Cổ Loa - Nguồn gốc hoàng tộc Khai Minh của Thục Phán - Từ gốc của tên gọi Cổ Loa? Liên hệ Khả Lạc - Cổ Loa - Tên gọi An Dương Vương và Âu Lạc

Chương 9. Nước Nam Việt
Nước Nam Việt ra đời thế nào? Triệu Đà là ai?

Chương 10. Nguồn gốc người Đông Sơn - văn hóa Đông Sơn - các giả thuyết đã có
Giả thuyết của Anrousseau - Giả thuyết của Goloubew - Giả thuyết của Heine-Geldern - Giả thuyết của Madrolle - Giả thuyết của Karlgren - Giả thuyết của Đào Duy Anh - Giả thuyết của Porée Maspéro - Giả thuyết của Bình Nguyên Lộc - Giả thuyết của Hán Văn Phùng.

Chương 11. Liên hệ cội nguồn Đông Sơn - Hồ Nam - Quảng Tây
Trống đồng - Chiêng đồng - Rìu hình hia - Hoa văn săn hươu - Chuông sừng dê - Ký hiệu trên qua đồng - Tranh vẽ trên vách đá - Dao găm cán hình người

Chương 12. Liên hệ cội nguồn Đông Sơn - Ư Việt
Trống đồng - Thạp đồng - Qua đồng - Mô típ người - chim - Mô típ cò trắng - chim lạc - Nhà hình chim - Thuyền biển - Thuyền đồng - Thuyền chim và thuyền rồng - Nhà sàn hình thuyền - Nhà sàn mái hồi tròn - Mộ thuyền - Mộ gò - Tiếng Ư Việt = Tiếng Lạc Việt = Tiếng Nam Á - Tên tộc người - tên nước: Ư Việt = Lạc Việt - Lạc Câu Tiễn = Lạc vương - Đông Âu và Tây Âu - Wu = Vua - Câu = Cổ = Kẻ - Đại Việt - Biểu tượng bông lau - Quy Sơn - Kim Quy - Nhất Dạ Trạch - Kiếm Long Tuyền - Hồ Hoàn Kiếm - Hồ Tây - Kim Ngưu

Chương 13. Liên hệ cội nguồn Đông Sơn - Thục - Dạ Lang
Dao găm cán hình người - Kiếm Đông Sơn kiểu Dạ Lang gốc Ba - Thục - Vòng khảm ngọc - Nồi quai tròn có tượng chim - Nồi hình trống - Tấm đồng với mô típ ếch - Khóa thắt lưng với mô típ ba ba - Tục che mặt úp đầu người chết - Tượng hổ - Mô típ sừng trâu - Mô típ cây vũ trụ - Mô típ mặt trời -chim lạc - Tục tết tóc đuôi sam - Tục quấn tóc - đóng khăn - Tục búi tóc - đội mũ hình chùy hay hình nón - Họ Cao - Vàng vó - Người Dạ Lang ở Nam Cửu Chân - Qua đồng và tượng tê tê đồng Long Giao - Các yếu tố Thục trong văn hóa Mường

Chương 14. Liên hệ cội nguồn Đông Sơn - Điền
Tục búi tóc sau gáy - Tục búi tóc đỉnh đầu - Tục tết tóc đuôi sam - Mũ Bàn Hồ - Hội thề trống đồng - Vai trò của phụ nữ - Đèn hình người - Lưỡi cuốc hình tim - Qua cán ngắn - Tục thờ vật tổ khỉ - Di dân Điền ở Việt Nam.

Chương 15. Liên hệ cội nguồn Đông Sơn - Nam Việt
Thạp Đông Sơn - Đỉnh Việt - Qua có hình người - dê - Ấn Triệu Văn Đế - Các di vật ở mộ Việt Khê và Kiệt Thượng - Di dân Nam Việt.

Chương 16. Nguồn gốc người Đông Sơn - văn hóa Đông Sơn - Một giả thuyết mới
Cuộc di tản của người La - Lạc Việt - Cuộc di tản của người Ư Việt - Lạc Việt - Cuộc di tản của người Thục - Cuộc di tản của người Nam Việt, Điền, Dạ Lang.

Chương 17. Nguồn gốc người Mường
Giả thuyết của Cuisinier - Giả thuyết của Bình Nguyên Lộc - Giả thuyết của Nguyễn Lương Bích - Giả thuyết của K. Taylor - Một giả thuyết mới

Các Phụ lục

Phụ lục 1A: Thiên di - Bản địa
Thuyết truyền bá - thiên di - Thuyết bản địa - Sự cố truyền thông với Marc Oxenham - Nguồn gốc của Thần Nông - Thuyết Rời Châu Phi - Quan hệ biện chứng di dân - dân bản địa - Quan hệ biện chứng truyền bá - tiếp thu - đổi mới - sáng tạo - Mặc cảm nguồn gốc phương Bắc

Phụ lục 1B: Huyền thoại Bản Chiềng
Huyền thoại - Sự thật

Phụ lục 1C: Quê hương của tiếng Việt-Mường
Giả thuyết của Nguyễn Tài Cẩn - Giả thuyết của Ferlus - Giả thuyết của Chamberlain

Phụ lục 1D: Từ Thái-Kađai hay từ Nam Á?
Các từ: gạo, cày, cuốc, ngan, tre, bánh, sông, noi, chiềng.

Phụ lục 1Đ: Thanh-Nghệ: Trung tâm hội tụ và phát tán Việt-Mường
Các địa danh gốc Mân - Mon ở Thanh Hóa - Con đường biển Phúc Kiến - Quảng Đông - Cửu Chân - Các nhóm Việt - Mường gốc Lê ở Thanh - Nghệ

Phụ lục 2A: Các văn hóa Đá Mới vùng trung lưu Dương Tử
Văn hóa Đại Khê - Văn hóa Khuất Gia Lĩnh - Văn hóa Thạch Gia Hà - Người Đại Khê, Khuất Gia Lĩnh, Thạch Gia Hà là ai?

Phụ lục 2B: Các văn hóa Đá Mới vùng hạ lưu Dương Tử
Văn hóa Hà Mẫu Độ - Người Hà Mẫu Độ là ai? - Văn hóa Lương Chử - Người Lương Chử là ai? - Văn hóa Lương Chử vì sao biến mất? - Người Lương Chử đi đâu?

Phụ lục 2C: Văn hóa Đá Mới vùng hạ lưu Hoàng 
Văn hóa Đại Văn Khẩu - Người Đại Văn Khẩu là ai? - Văn hóa Long Sơn

Phụ lục 2D: Nguồn gốc bánh chưng - bánh giầy
Nguồn gốc hai từ chưng - giầy trong tiếng Việt - Hai từ Tông - Bích trong tiếng Hoa - Nguồn gốc bánh chưng - bánh giầy

Phụ lục 3A: Tiếng Nam Á ở Trung Quốc xưa
Nghiên cứu của Norman - Mei - Nghiên cứu của Pulleyblank - Nghiên cứu của Schuessler - Nghiên cứu của Mcraw

Phụ lục 3B: Di dân Phúc Kiến - Quảng Đông thời lịch sử
Di dân Phúc Kiến - Quảng Đông ở Việt Nam - Di dân Phúc Kiến - Quảng Đông ở Đài Loan và ĐNA - Phúc Kiến - Quảng Đông hai trung tâm di dân

Phụ lục 3C: Nguồn gốc 9 vị vua và chúa trong lịch sử Việt Nam
Nguồn gốc Mai Hắc Đế - Nguồn gốc Phùng Hưng - Nguồn gốc Đinh Bộ Lĩnh - Nguồn gốc Lý Công Uẩn - Nguồn gốc nhà Trần - Nguồn gốc Lê Lợi - Nguồn gốc Nguyễn Kim - Nguồn gốc Trịnh Kiểm - Nguồn gốc Mạc Đăng Dung

Phụ lục 4A: Rìu Việt - Nha Chương
Rìu Việt - Nha Chương

Phụ lục 4B: Họ Từ Người
Từ chỉ người trở thành tên tự gọi tộc người - Từ chỉ người thành từ chỉ nhà, làng, đất, nước... - Tên tộc người thành tên nước - Tên tộc người thành tên sông - Tên tộc người thành tên dòng họ

Phụ lục 4C: Quan hệ cội nguồn Lava - Lạc Việt
Bằng chứng ngôn ngữ - Bằng chứng khảo cổ - Bằng chứng dân tộc học - sử học

Phụ lục 4D: Nguồn gốc người Chăm
Các giả thuyết đã có - Một giả thuyết mới

Phụ lục 5A: Nguồn gốc nghề đúc đồng ở Trung Quốc
Văn hóa Mã Gia Diêu - văn hóa Đồng Thau sớm nhất Trung Quốc - Người Tam Miêu - một chủ nhân chính của văn hóa Mã Gia Diêu.

Phụ lục 5B: Văn hóa Bách Việt ở vùng Nam Dương Tử thời Thương
Đồ sành - sứ nguyên thủy - Lò rồng - khuôn gốm - Đỉnh hổ - đỉnh chim - Nông cụ đồng - Chữ Ngô Thành - Mộ gò Tân Can - Não bạt Ninh Hương - Đỉnh vuông bốn mặt người và rìu Việt - Các bình rượu hình động vật - trống đồng Sùng Dương

Phụ lục 5C: Trống đồng nước Xích Quỷ
Trống đồng nước Xích Quỷ - các mô típ và biểu tượng - Sự ra đời của trống đồng ở nước Xích Quỷ - Trống đồng Bách Việt thời Chu - Trống đồng nước Xích Quỷ và trống đồng Đông Sơn.

Phụ lục 5D: Thánh Gióng - Thần Trống đồng nước Xích Quỷ
Truyền thuyết Thánh Gióng - những cách lý giải đã có - Tên gọi Gióng - những cách lý giải đã có - Thánh Gióng - một phân tích biểu tượng - Từ nguyên của Gióng - Truyền thuyết Thánh Gióng - một cách lý giải mới.

Phụ lục 5Đ: Văn hóa Tam Tinh Đôi
Các di vật đặc sắc Tam Tinh Đôi - Người Tam Tinh Đôi là ai?

Phụ lục 6A: Hai nước Ngô - Việt
Lịch sử nước Ngô - Lịch sử nước Việt - Văn hóa Ngô - Việt - một số thành tựu tiêu biểu

Phụ lục 6B: Nước Sở
Vua Sở - Tiếng Sở - Người Sở - Văn hóa Sở - vua Hán - hồn Sở - Đạo Mẫu Sở và đạo Mẫu Việt.

Phụ lục 6C: Nước Điền
Nguồn gốc vua Điền - nước Điền - Khác biệt Điền - Đông Sơn - Vai trò của người Scyth

Phụ lục 6D: Nước Dạ Lang
Người Dạ Lang - Nước Dạ Lang - Đất Dạ Lang - Văn hóa Dạ Lang

Phụ lục 7A: Họ Hùng - Họ Mỵ

Phụ lục 7B: Hồ Động Đình trong truyền thuyết Việt

Phụ lục 8: Liên hệ cội nguồn Lô Lô - Lạc Việt
Tên gọi Lô Lô và lịch sử người Lô Lô - Văn hóa trống đồng của người Lô Lô - Tục thờ vật tổ hổ của người Lô Lô

Phụ lục 11: Dân tị nạn Tống thời Trần
Người Tống đã mất nước thế nào? - Dân Tống di tản gồm những ai?

Phụ lục 16A: Di dân Lạc Việt ở vùng lục địa ĐNA
Di dân Lạc Việt ở Lào - Di dân Lạc Việt ở Thái Lan - Các tộc ít người gốc Lạc Việt khác

Phụ lục 16B: Di dân Lạc Việt ở vùng hải đảo ĐNA
Người Dayak ở Borneo - Người Toraja ở Sulavesi - Người Java ở Java

Lời cuối sách
Nhận xét
Sách báo tham khảo
Chỉ dẫn          

Điểm nhấn
“Là một người yêu thích những bài ca đầy hào khí Tây Nguyên, hào khí Đông Sơn xưa của nhạc sĩ Nguyễn Cường, tôi cũng rất tâm đắc với một câu châm ngôn của anh: “Đừng kêu ca hay nguyền rủa bóng tối, hãy thắp lên một ngọn lửa”.
   (trích Lời đầu sách, Nguồn gốc người Việt – người Mường, Tạ Đức, NXB Tri thức, 2013).

Liên hệ để mua sách: 
Nhà xuất bản Tri thức
Tầng 1 - Tòa nhà VUSTA - 53 Nguyễn Du -  Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội , Hà Nội
ĐT: 84 39447279 
Email: lienhe@nxbtrithuc.com.vn
Nguồn: NXB Tri thức.
______________________
TẠ ĐỨC cũng là tác giả của các công trình: Tình yêu trai gái Việt Nam (Nhà xuất bản Thanh Niên, 1989,1993); Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc- Biểu tượng của Ngôn ngữ Đông Sơn (Hội Dân tộc học Việt Nam- Trung tâm tiền sử Đông Nam Á, 1999); Tìm hiểu văn hoá Ka Tu (Nhà xuất bản Thuận Hoá, 2002)…

Xin chúc mừng và cảm ơn Anh Tạ Đức đã tặng chúng tôi cuốn sách mới nhất của Anh.
NXD
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang