Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

Thế giới sáu tỉ người, có sáu tỉ đường tới hạnh phúc


Lê Hồng Lâm
28 tháng 1 2019 - Điều gì khiến con người hạnh phúc? Não bộ có tác động tới cảm nhận hạnh phúc của con người như thế nào? Một người thợ lao động chân tay ở Bangladesh và một người trí thức trung lưu ở Boston (Mỹ) có cơ hội hưởng thụ hạnh phúc như nhau không? Tại sao con người hiện đại dù dư thừa vật chất nhưng tỷ lệ trầm cảm ngày càng tăng lên?... Hàng loạt câu hỏi thú vị liên quan đến chủ đề hạnh phúc - một chủ đề tưởng đơn giản và được bàn tới quá nhiều - vẫn trở nên lôi cuốn và mang tới những kiến giải khoa học cực kỳ hữu ích trong cuốn sách Sáu tỷ đường tới hạnh phúc - tác phẩm best-seller toàn cầu của nhà báo người Đức Stefan Klein.


Tạp chí Nature đã nhận xét về tác phẩm này như sau: "Một cuốn sách nghiên cứu được viết cực kỳ hấp dẫn, dễ đọc và đầy chuyên nghiệp về một chủ đề mà đã từ lâu đòi hỏi sự quan tâm luận bàn của khoa học thường thức". Trong phần mở đầu của cuốn sách, khi bàn tới hành trình đi tìm hạnh phúc của con người, nhà báo Stefan Klein viết rằng nhiều người tìm kiếm hạnh phúc như "kẻ say rượu đi tìm nhà mình", theo lời triết gia Pháp Voltaire. "Họ không thể tìm thấy, nhưng họ biết nó tồn tại". Nhưng bởi vì khả năng có thể có những cảm giác tích cực lại được gắn cứng vào não bộ và chỉ bị ảnh hưởng tối thiểu bởi những điều kiện bên ngoài nên chỉ có một cách giải thích cho vấn đề hóc búa của Voltaire: "khi săn đuổi hạnh phúc, chúng ta tự vấp vào chân mình."

Trong thế giới hiện đại đầy náo động và con người càng ngày càng trở thành nô lệ cho công nghệ và quay cuồng trong dòng chảy thông tin thật giả lẫn lộn của thế giới ảo trên mạng xã hội, con người càng ngày càng trở nên cô đơn và khó khăn hơn trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Stefan Klein cho rằng: Chúng ta phải trả một cái giá rất nặng nề cho việc coi thường hạnh phúc. Hơn 25% người Mỹ chịu đựng chứng rối loạn tâm lý ít nhất một lần trong đời, và trong một năm thì gần như cứ mười người lại có một người trải qua trạng thái trầm cảm kéo dài vài tuần. Hơn 30.000 người ở Mỹ tìm đến cái chết hàng năm. Những nước còn lại của thế giới có tỉ lệ tự tử thấp hơn rất nhiều.

Tỉ lệ bệnh trầm cảm ở mức độ nghiêm trọng đang tăng lên rất nhanh trong cả nước Mỹ cũng như ở hầu hết các nước công nghiệp. Trên hết, căn bệnh này ngày nay ảnh hưởng nhiều hơn đến trẻ em và thanh thiếu niên. Hiện nay, nguy cơ bệnh trầm cảm xảy ra đối với thanh thiếu niên cao hơn ba lần so với mười năm trước đây.

Vấn đề mà nhà báo Klein chỉ ra là con người hiện đại ngày càng khó khăn trong việc tìm kiếm hạnh phúc là do chính bản thân họ nhiều hơn là tác động bên ngoài. Ông cho rằng, con người có thể hạnh phúc trong hầu hết mọi trường hợp. Các điều kiện bên ngoài quyết định hạnh phúc của ta ít hơn nhiều so với ta thường nghĩ. Những nghiên cứu chuyên sâu đã cho thấy rằng, niềm vui cuộc sống không phải vấn đề của tuổi tác cũng như giới tính. Nó không hề phụ thuộc vào IQ của bạn, hoặc bạn có bao nhiêu đứa con, hoặc tài khoản ngân hàng của bạn nhiều hay ít. Một người thợ thủ công ở Bangladesh có những cơ hội vui thú không ít hơn một viên chức ở Boston. Cả hai - cũng như tất cả chúng ta - đều phải tận dụng mọi cơ hội có trong tay.
Cuốn sách Sáu tỷ đường tới hạnh phúc được dịch sang tiếng Việt
Image captionCuốn sách Sáu tỷ đường tới hạnh phúc được dịch sang tiếng Việt
Ông đặt ra những giả thiết: Có phải hạnh phúc đơn giản chỉ là đối cực của bất hạnh không? Có phải hạnh phúc có tính di truyền? Cảm giác tức giận có biến mất khi ta xả hết? Có thể kéo dài khoảnh khắc dễ chịu? Tiền có làm cho con người hạnh phúc? Chúng ta có thể mãi yêu một người trong suốt cuộc đời? Hạnh phúc lớn nhất là gì?
Trong cuốn sách, tác giả đã giới thiệu một vài sách lược để đạt được hạnh phúc, và chỉ ra chúng có tác dụng như thế nào và tại sao.
Tựu chung, theo ông, khả năng khiến cho cuộc sống của ta hạnh phúc hơn dựa vào hai nguyên tắc cơ bản: chúng ta có thể gia cố mạng thần kinh tạo ra cảm giác tích cực bằng tập luyện có ý thức và chúng ta có thể tìm kiếm những hoàn cảnh đem lại cho chúng ta niềm vui và sự thích thú.
Cổ động viên bóng đá Việt Nam vui mừngBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionCổ động viên bóng đá Việt Nam vui mừng

LIỆU PHÁP ROBINSON CRUSOE

Theo Stefan Klein, não bộ có ảnh hưởng rất lớn đến việc cảm nhận hạnh phúc hay bất hạnh của con người. Với những người mắc chứng trầm cảm hay rối loạn lo âu thì việc nạp lại năng lượng cho não bộ là một phương pháp chống lại u sầu; còn trang bị vũ khí cho chúng ta để chống lại những cảm giác và ý nghĩ tiêu cực thì lại là việc khác.
Ông dẫn ví dụ kinh điển về người anh hùng Robinson Crusoe trong văn học Anh để minh chứng cho việc đặt nguyên tắc thứ hai vào hoạt động. Robinson Crusoe đã bị suy sụp bởi trầm cảm khi bị trôi dạt vào một hòn đảo, bất lực, cô đơn, không có hy vọng được cứu thoát. Nhưng cuối cùng, Crusoe đã tự nhủ với bản thân, không có tình huống nào vô vọng đến nỗi phải đầu hàng cả. Nên ông đã lấy một cái bút chì từ con tàu bị mắc cạn và viết một danh sách những điều may rủi.
Rủi:
Mình bị trôi dạt đến một hòn đảo hoang khủng khiếp, không có bất cứ hy vọng nào quay trở về.
Mình bị cô lập và tách rời khỏi toàn bộ thế giới, chịu đựng đau khổ
Mình không có quần áo để mặc.
May:
Nhưng mình vẫn còn sống và không bị chết đuối như tất cả những người khác trên tàu.
Nhưng mình cũng được tách ra từ tất cả thủy thủ đoàn để thoát chết; và Chúa đã cứu mình thật kỳ diệu khỏi cái chết thì cũng có thể giải thoát mình khỏi tình trạng này.
Nhưng mình đang ở một nơi thời thiết nóng nực, nên giả sử có quần áo mình cũng không mặc.
Từ câu chuyện của Crusoe, tác giả rút ra kết luận: "Nói chung đây là một bằng chứng không nghi ngờ rằng, hiếm có một tình cảnh nào trên thế giới lại bi đát như vậy, nhưng ở đây cũng có điều gì đó tiêu cực hay tích cực mà ta phải biết ơn; và hãy để điều này có giá trị như là một chỉ dẫn từ sự trải nghiệm tình cảnh khốn khổ nhất trong tất cả các tình cảnh trên đời này. Rằng chúng ta có lẽ luôn luôn tìm kiếm trong đó một điều để an ủi bản thân, và để tìm ra phần lợi ích trong khi mô tả những may rủi. Niềm hạnh phúc này đã cứu ông. Còn nếu ông đầu hàng sự chán nản hẳn ông đã chết sớm trong cô độc."
Hình minh họaBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES

LY NƯỚC ĐẦY MỘT NỬA HAY VƠI MỘT NỬA?

Tác giả tiếp tục đặt ra câu hỏi phản biện: "Phải chăng Crusoe đã tự ru mình vào niềm hạnh phúc mù quáng?" rồi đi đến kết luận: "Không hề, cả hai cột trong bảng thống kê của ông đều đúng. Vấn đề là bạn chọn phía nào. Việc quyết định rằng ly nước là đầy một nửa thay vì vơi một nửa chính là một trong những thuốc giải độc tốt nhất cho căn bệnh trầm cảm."
Từ câu chuyện về cuộc đấu tranh sinh tồn của Robinson Crusoe, Stefan Klein cho biết rằng sau đó viện Sức khỏe Quốc gia đã tốn mười mấy triệu đô la vào một trong những thí nghiệm trị liệu lớn nhất mọi thời đại để kiểm tra phương pháp của Crusoe. Các nhà tâm lý học tự hào gọi nó là Liệu pháp hành vi nhận thức (cognitive behavior therapy), hay còn gọi là Liệu pháp Crusoe. Cuộc nghiên cứu kéo dài sáu năm, thu hút hàng trăm người đang chịu đựng mức độ trầm cảm từ bình thường đến nghiêm trọng tham gia. 60% trong số họ được chữa trị theo liệu pháp hành vi nhận thức, - tỷ lệ thành công này tương đương với số bệnh nhân được điều trị bằng thuốc. Nếu như kết hợp cả dược phẩm lẫn liệu pháp nhận thức thì tỷ lệ phần trăm người khỏi bệnh còn cao hơn, và nguy cơ tái phát giảm đi.
Cuối cùng, ông kết luận: "Đặt những nỗi sợ hãi và cảm giác về sự vô dụng của ta lên giấy cũng làm cho chúng hữu hình - và do vậy sẽ dễ dàng kiểm nghiệm chúng hơn là những ý tưởng chỉ lặn ngụp trong đầu ta. Theo đó mẹo giải quyết vấn đề nằm ở chỗ loại bỏ những ý tưởng đen tối ngay khi chúng ta nhận biết chúng. Việc bắt chước phương pháp của Robinson Crusoe viết ra các lý lẽ phản biện lại những suy nghĩ đang hành hạ chúng ta rất có tác dụng."

HIỆU ỨNG COOLIDGE HAY "TẠI SAO CHÚNG TA SA NGÃ"?

Một trong những phần thú vị nhất trong cuốn sách khoa học thưởng thức của Stefan Klein có lẽ là phần nói về sự đam mê và bản năng tình dục của con người. Từ chuyện bộ não tác động đến sự ham muốn, khoái cảm hay tình yêu của con người đến những lý giải sâu hơn về não bộ, sự tiến hóa của cảm giác hay chất hóa học nào điều khiển chúng ta…; Klein đã mang đến những lý giải vừa thú vị vừa sống động dựa trên các nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới. Cách dẫn chuyện của ông dí dỏm và hài hước với những dẫn chứng "nói có sách mách có chứng".
Trong chương lý giải tại sao con người thích sa ngã, ngoại tình, tác giả đã phân tích những chất hóa học trong não bộ điều khiển những ham muốn hay thích khoái cảm của con người hay các loài động vật khác.
Hình minh họaBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Để lý giải về chuyện tại sao con người hay sa ngã hay thích của lạ, Stefan Klein dẫn một câu chuyện được gọi là "Hiệu ứng Coolidge".
Chả là ông tổng thống Mỹ Calvin Coolidge (Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ) và bà phu nhân Grace Coolidge đến thăm một trang trại chăn nuôi gia súc của chính phủ. Hai ông bà được dẫn tách riêng ra chứ không phải đi cùng nhau. Bà Grace Coolidge đã tạt vào thăm khu nuôi gà đúng lúc một con gà trống cường tráng đang đè một con gà mái ra cỏ. Bà Đệ nhất phu nhân có vẻ ấn tượng, nên mới hỏi con gà trống này nhảy mái được nhiều hơn một lần trong một ngày không. Người chăn nuôi bèn trả lời, "hàng chục lần, thưa bà". Bà Coolidge bèn nhân cơ hội này, nói với người chăn nuôi gà: "Hãy nói cho Tổng thống biết điều đó"
Một lúc sau đó, Tổng thống Coolidge cũng ghé qua khu chăn nuôi gà. Khi được nghe kể về những chiến công oai hùng của con gà trống, nhất là qua cái câu nhắn gửi của bà Đệ nhất phu nhân, ông bèn hỏi lại: "Thế mỗi lần nó đều làm vậy với một con gà mái à?". "Ồ không, thưa Tổng thống, mỗi lần với một con gà mái khác nhau ạ". Ông Tổng thống sung sướng gật gù rồi nhắn gửi lại: " Vậy hãy nói lại điều này cho bà Đệ nhất nghe nhé".
Màn trả treo của hai ông bà Tổng thống về chuyện gà trống gà mái về sau được lấy làm cho một ví dụ khoa học về sự ham thích của lạ của con người và động vật. Và để dễ nhớ, người ta gọi luôn nó là "Hiệu ứng Coolidge".
Stefan Klein sau đó dẫn nghiên cứu của các nhà khoa học và cho rằng hành vi sa ngã hay thích của lạ của chúng ta là do sự điều khiển của một chất gọi là dopamine trong não bộ.
Nhà nghiên cứu não bộ người Canada Anthony Phillips công bố: "Ham muốn của con người/con vật đối với bạn tình có thể đo được. Số liệu nghiên cứu của ông cho biết, chỉ hình ảnh một con cái mới đằng sau tấm kính cũng làm tăng lượng dopamine của con chuột đực lên đến 44%. Ngay trước lúc giao phối, lượng dopamine tiếp tục tăng gấp đôi mức bình thường, lên đến đỉnh điểm rồi sau đó hạ xuống đáng kể. Lần giao phối tiếp theo cũng với đối tác cũ, mức tăng yếu dần và sau một vài lần nữa thì mức dopamine không hơn gì mức bình thường. Ham muốn của con đực đã giảm sút. Nhưng nếu lại có một con cái mới xuất hiện sau tấm kính thì mức dopamine ngay lập tức tăng lên... 34%."
Một nhà khoa học khác là Dean Hamer thì cho rằng chất dopamine trong não bộ liên quan đến gien. Và qua nghiên cứu, ông kết luận là 30% đàn ông được cho là có "gien lang chạ" và trong đời họ có số lượng bạn tình hơn người bình thường 20%. Điều này lý giải cho những huyền thoại phóng đãng được người đời truyền tụng như Don Juan hay Casanova.
Hình minh họa

KHI THỜI GIAN NGỪNG TRÔI

Cuối cùng, thông điệp quan trọng nhất mà cuốn sách hướng tới là làm cách nào để con người hiện đại tận hưởng hạnh phúc cũng như ngăn chặn mầm mống của chứng lo âu, u sầu dẫn đến căn bệnh của thời đại là chứng trầm cảm đang hành hạ và giết chết hàng trăm ngàn người mỗi năm trên thế giới.
Tuy nhiên, mỗi người có một trải nghiệm hạnh phúc khác nhau. Vậy thế nào là cảm giác hạnh phúc? Nữ văn sĩ người New Zealand Katherine Mansfield miêu tả trạng thái tuyệt vời này như là ánh sáng rực rỡ của mặt trời mà ai đó thu nhận được.
Theo Klein, hiến mình cho một hoạt động nào đó có thể mang lại sự tập trung sâu sắc cho cả sự chú ý lẫn nhận thức của con người và do vậy cũng dẫn đến những cảm giác tích cực. Không quan trọng hoạt động thuộc loại gì, miễn là chúng được thực hiện với sự tập trung. Trượt tuyết hoặc đọc sách, một cuộc nói chuyện, bất cứ việc gì được làm một cách nghiêm túc - điều quan trọng là tìm ra một nhiệm vụ để lợi dụng triệt để não bộ.
"Bị cuốn vào một hoạt động nào đó có thể mang lại cảm giác vui thích đến mức chúng ta muốn làm đi làm lại vì chính hoạt động đó. Tại những lúc như vậy mọi việc dường như đang xảy ra không phải bởi hoạt động của chính ta, mà là tự động, như thể được điều khiển bởi một sức mạnh nó đang sử dụng ta như một công cụ của nó. Cái tôi bị lãng quên, và những bận tâm của ta cũng tan biến để chúng ta có thể tập trung tốt hơn vào nhiệm vụ trước mặt." - tác giả viết.
Nhà tâm lý học người Hungary Mihaly Csikszentmihalyi đã làm nên công trình của đời mình khi ghi chép lại những trải nghiệm như thế, mà ông gọi là dòng chảy (flow). Theo ông dòng chảy là trạng thái hoạt động của tâm trí, khi mà cá nhân thực hiện một hoạt động với tràn ngập cảm xúc, tập trung tối đa năng lượng của mình, tham dự toàn vẹn vào quá trình thực hiện hoạt động và tận hưởng quá trình đó. Ông đã phỏng vấn các vận động viên, bác sĩ phẫu thuật, nhạc trưởng và những người khác mà công việc chuyên môn đòi hỏi sự tập trung tuyệt đối. Ông cũng nói chuyện với hàng trăm nhân viên văn phòng và những người có công việc bình thường khác. Ông đi đến kết luận rằng trong những khoảnh khắc tập trung cao độ thì trải nghiệm mọi người đều giống nhau và hầu hết không phụ thuộc vào hoạt động cụ thể nào.
Nói chung những người được phỏng vấn cảm thấy tốt hơn khi họ tập trung cao độ vào một hoạt động nào đó so với khi họ nghỉ ngơi buổi tối và cuối tuần mà không làm gì cả. Công nhân nhà máy cho thấy khi làm việc họ cảm thấy hạnh phúc hơn gấp đôi so với khi nhàn rỗi. Theo ghi nhận được thì cảm giác uể oải khó chịu trong khi nghỉ ngơi thường nhiều hơn gấp ba trong khi làm việc.
Tất nhiên, theo ông, quá dễ và quá khó đều không tốt. Dòng chảy chỉ xảy ra khi hoạt động đòi hỏi não bộ phải gắng sức ở mức độ hợp lý. Trong những trường hợp này, nỗ lực không cứ phải dẫn đến tình trạng kiệt sức hay tiêu cực. Đúng hơn nó còn giải phóng ra một kích thích dễ chịu, thậm chí là hưng phấn nhẹ.
Vậy những cảm giác tích cực đến từ đâu khi chúng ta bận rộn hết mình vào một hoạt động nào đó? Ông cho rằng, dopamime đóng một vai trò quan trọng, bởi vì chất truyền dẫn này kiểm soát sự tập trung và đánh thức niềm vui sướng. Dopamine gây tác động trực tiếp lên các nơ ron thần kinh ở thùy trán vốn chịu trách nhiệm về bộ nhớ làm việc. Khi chúng ta tập trung thì dường như dopamine cũng tăng lên. Đồng thời dopamine cũng là một loại chất bôi trơn tinh thần.
*
Còn hàng loạt chủ đề thú vị khác mà Stefan Klein bàn luận trong cuốn sách của mình, từ việc "chinh phục bóng tối đời ta" đến "tập nhiễm tuyệt vọng", từ "nghịch lý của tiền bạc và hạnh phúc" đến "tam giác thần kỳ của hạnh phúc".
Và cuối cùng, ông đi đến kết luận, ham muốn sống của con người là bẩm sinh. Nỗi mong đợi cồn cào, cơn vui sướng ngất ngây, lòng thương cảm đầy ấm áp, tất cả đều là những phần trang bị cơ bản của não bộ. Chúng là những món quà cần thiết cho sự tồn tại.
"Nhiệm vụ quan trọng nhất trong cuộc mưu cầu hạnh phúc là hiểu biết bản thân mình. Điều này không hề yêu cầu cái gì quá phức tạp hay đặc biệt cả. Chỉ cần chú ý đến những phản ứng của chúng ta đối với các kích thích hàng ngày và thử nghiệm một chút với cái đã thành thói quen, thế là đủ. Theo cách này, chúng ta càng ngày càng hiểu cái gì hữu dụng với ta. Tất cả chúng ta sẽ tìm ra đáp án cho riêng mình."
Chúng ta có sáu tỉ người, nên có sáu tỉ con đường dẫn đến hạnh phúc.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sử dụng Tổng cục Tình Báo để thao túng Nhà nước, tại sao án phạt bằng kẻ ăn trộm Vịt?


Hoàng Hải Vân

 - Những văn bản đóng dấu tuyệt mật do hai ông tướng Thứ trưởng Bộ Công an ký được phát tán trên mạng từ lâu trước khi Vũ nhôm bị khởi tố, đã không ai dám xác nhận chúng là thật hay là giả. Nay Cáo trạng tại phiên tòa đang diễn ra đã gián tiếp xác nhận chúng là có thật. Cần biết rằng, Tổng cục Tình báo Bộ Công an là một tổ chức siêu quyền lực. Với chức trách của nó, người dân có thể không việc gì phải sợ, nhưng tất cả các quan chức, không trừ một cấp nào, đều phải sợ nó. Nói cho công bằng, nếu cơ quan này làm đúng chức năng nhiệm vụ của mình thì các quan chức lương thiện không việc gì phải sợ nó. Nhưng nhìn thấy Vũ nhôm làm mưa làm gió cùng với những văn bản tuyệt mật kia, không ai là không sợ Tổng cục Tình báo Bộ Công an.




Tôi đồ rằng, trừ các vị “tứ trụ”, không một quan chức nào là không sợ Tổng cục Tình báo, kéo theo đó sợ luôn Vũ nhôm. Vì sao vậy ? Vì những báo cáo của Tổng cục Tình báo đều là tuyệt mật, ngay cả trong Bộ Chính trị cũng không phải ai cũng có quyền tiếp cận. Người ta có lý do để sợ rằng, khi những người lãnh đạo của nó bị thoái hóa biến chất, Tổng cục này hễ đưa ai vào danh sách cần phải theo dõi thì coi như người đó tàn đời. Đương sự không thể nào biết được mình có bị theo dõi hay không, có bị quy kết quan hệ chính trị bất minh hay không, có bị quy kết “cộng tác với địch” hay không. Những báo cáo quy kết tuyệt mật đó có thể không gây chết chóc tù tội gì, nhưng hễ đến đợt bầu bán bổ nhiệm đề bạt thì có người sẽ “thò” cái báo cáo đó ra, đương sự đâu thể nào biết mà thanh minh thanh nga gì được. Cho nên tốt nhất là không đụng tới Vũ nhôm và những người lãnh đạo Tổng cục Tình báo.


Tôi nghĩ rằng, nếu không có sự chỉ đạo của cụ Tổng Bí thư thì không ai có thể phá được đường dây phản dân hại nước này. Và nó sẽ làm những chuyện bí mật tày đình nào nữa sẽ không một ai biết được, dù biết cũng không ai dám mở miệng.

Bởi vậy, các văn bản của Bộ Công an do 2 ông tướng kia ký, đừng nói là văn bản mang tính chất đề nghị về thủ tục, mà là các văn bản có hiệu lực trên thực tế còn hơn là văn bản chỉ đạo của Thủ tướng, vì không ai có đủ gan dám phản đối.

Và theo tôi mới được biết thì chỉ có một người (còn có ai nữa thì tôi chưa nghe nói). Đó là Phó Chủ tịch thường trực UBND TP. Đà Nẵng nhiệm kỳ trước Võ Duy Khương. Ông Khương đã lên kế hoạch bán đấu giá khu nhà 16 Bạch Đằng, nhưng Thường trực Thành ủy và Thường trực UBND thành phố mang cái văn bản do một trong hai ông tướng kia ký ra yêu cầu bán chỉ định cho Vũ nhôm không qua đấu giá (khu nhà này có tới 3 văn bản tuyệt mật gửi xuống ép, chứ không phải một). Ông Khương đã phát biểu với lãnh đạo thành phố rằng bán công sản theo yêu cầu của các văn bản tuyệt mật kia là sai luật, ông đề nghị báo cáo xin ý kiến Thủ tướng, nhưng Thường trực Ủy ban vẫn bán cho Vũ nhôm mà không dám xin ý kiến Thủ tướng theo đề nghị của ông Khương.

Cáo trạng chỉ đề nghị hai ông nguyên Thứ trưởng Bộ Công an mức án 30-42 tháng tù, tôi thấy cơ quan công tố vẫn xem thường luật pháp. Sử dụng Tổng cục Tình báo để lũng đoạn bộ máy Nhà nước mưu cầu lợi ích cho cá nhân, xé bỏ pháp quyền mà chính Bộ Công an phải có trách nhiệm bảo vệ, lẽ nào chỉ bị phạt một mức án như những kẻ trộm vặt ?

Hoàng Hải Vân
_____________

Update : Chiều nay, TAND Hà Nội đã phán quyết : Cựu thượng tướng Thứ trưởng Bộ Công an Trần Việt Tân 36 tháng tù. Cựu trung tướng thứ trưởng Bộ Công an Bùi Văn Thành 30 tháng tù. Vũ nhôm 15 năm tù. Phan Hữu Tuấn 5 năm tù. Nguyễn Hữu Bách 5 năm tù. Tính cả các vụ án trước thì Vũ nhôm bị phạt tổng cộng 40 năm tù (riêng 17 năm tù trong vụ Ngân hàng Đông Á Vũ nhôm đang kháng cáo nên bản án chưa có hiệu lực, 8 năm tù trong vụ lộ bí mật đang có hiệu lực); Phan Hữu Tuấn tổng cộng 12 năm tù; Nguyễn Hữu Bách tổng cộng 11 năm tù.

(FB Hoàng Hải Vân)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Kẻ thù của người Tàu


Bá Dương 29-1-2019 

- Cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Tàu mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế. Nơi nào người Tàu đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Tàu trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được? Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật “thích xem” (người khác đau khổ), hoặc “chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác.” Họ luôn mồm “nhân nghĩa” mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: “Phải tử tế với người và súc vật!” Trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.
Tác giả Bá Dương
Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Tàu, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Tàu, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy Lạp thời nay với người Hy Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai Cập cũng vậy. Nhưng người Tàu hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Tàu cổ đại.
Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo ngược, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược. 

Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: “Làm người Tàu ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa”. Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.

Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ đồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.

Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!

Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn “chói tai”, có một người đứng dậy nói: “Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?.” Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: “Tiền đồ của Tàu nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!” Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: “Tiền đồ của Tàu nằm trong tay thế hệ các con đấy!” Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: “Tiền đồ Tàu nằm trong tay thế hệ các con đấy!”

Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời? Đến đời nào thì mới thật khá lên được?

Tại Tàu đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, giầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú.

Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.

Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?

Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Tàu (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?

Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái.

Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:

“Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!”

Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: “Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử.” Lại nhìn về trẻ con ở Tàu lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?

Người ta thường nói: “Mình nắm tương lai mình trong tay mình.” Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.

Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.

Lúc chết, Chúa Giê Su (Jesus) bảo: “Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu.” Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Tàu sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.

Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Tàu có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.

Tôi nghĩ người Tàu chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Tàu thoát khỏi khổ nạn?

Nguyên do vì sao?

Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Tàu có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.

Có người sẽ bảo: “Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!.” Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng “Quần ma” (Những con ma) của Ibsen (íp sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: “Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?” Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.

Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Tàu chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!

Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Tàu đến ở là những người khác phải dọn đi.

Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Paris sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: “Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!” (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Tàu). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: “Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?” Cô ta đáp: “Làm sao nổi!”

Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.

Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Tàu thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: “Chúng tôi đang thì thầm với nhau.”

Tại sao tiếng nói người Tàu lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?

Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Tàu bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.

Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Tàu. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.

Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại, người Tàu không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Tàu mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.

Cho nên, có thể nói, mỗi người Tàu đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Tàu ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi nơi không cần quan hệ với người khác thì lại có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Tàu họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Tàu có biệt tài đấu đá lẫn nhau.

Chỗ nào có người Tàu là có đấu đá, người Tàu vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Tàu không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: “Anh có biết người Tàu vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!” Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.

Người Tàu không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.

Ở Tàu có câu: “Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống.” Người đông thì dùng để làm gì? Người Tàu trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.

Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học. Anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước.

Ngày hôm sau tôi bảo:

“Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!” Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: “Anh đưa tôi đi một lát nhé!” Anh ta bảo: “Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!”

Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Tàu cắn xé nhau là một đặc tính nghiêm trọng.

Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Tàu tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Tàu với nhau. Bán rẻ người Tàu, hăm dọa người Tàu lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Tại Malaysia có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Malaysia tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: “Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?” Người kia bảo: “Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?”

Cho nên kẻ thù của người Tàu lại là người Tàu.

Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Tàu với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói “người Tàu và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù.” Điều này phải chia làm hai phần:

Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy ngàn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.

Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Tàu thường đăng: “Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau”, nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng Israel vẫn tổ chức bầu cử.

Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.

Tại Tàu chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco… Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở Israel cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Tàu thì một người sẽ bảo: “Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!”

Người Tàu không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Tàu ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.

Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: “Chết cũng không chịu nhận lỗi.” Có ai nghe thấy người Tàu nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Tàu nói: “Việc này tôi đã sai lầm rồi!” Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.

Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: “Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!” Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.

Người Tàu không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che giấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: “Đóng cửa suy ngẫm lỗi lầm” (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai? Dĩ nhiên của đối phương.

Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: “Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!.” Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?

Người Tàu không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Tàu không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Tàu thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.

Họ liên miên khoa trương về dân Tàu, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Tàu, nào là có thể khuếch trương thế giới v.v… Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.

Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Tàu thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu “Em yêu, em cưng” [Bá Dương dùng chữ “đường mật” và “ta linh” để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh: ND] thì người Tàu gọi nhau là “kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc” (sát thiên đao đích).

Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: “Tại sao người Tàu lại độc ác và hạ lưu đến thế?”

Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: “Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!.”

Còn người Tàu sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là “Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!” Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.

Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: “Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!” Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.

Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.

Tàu diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Tàu lại có một tâm địa thật hẹp hòi.

Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Tàu có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Tàu không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?

Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Tàu đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.

Mọi người Tàu đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: “Bỏ qua cho rồi!”

Mấy chữ “bỏ qua cho rồi” này đã giết hại không biết bao nhiêu người Tàu và đã biến dân Tàu thành một dân tộc hèn mọn.

Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.

Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan ở Tàu không bao giờ bị tiêu diệt.

Trong truyền thống văn hóa Tàu, các vị có thể xem ở “Tư trị thông giám” (Một pho sử của Tư Mã Quang tóm hết chuyện hơn 2.000 năm để làm gương cho người đời sau), cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Tàu mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế.

Nơi nào người Tàu đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Tàu trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được? Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật “thích xem” (người khác đau khổ), hoặc “chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác.”

Họ luôn mồm “nhân nghĩa” mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: “Phải tử tế với người và súc vật!” Trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.

Tóm lại, người Tàu đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm?





Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hội chứng chống Hoa Kỳ ở Venezuela và các nước Nam Mỹ


baomai.blogspot.com
Simon Bolivar (cưỡi ngựa trắng) sau trận Carabobo năm 1821 trong tranh của Arturo Michelena

·        Khủng hoảng Venezuela đang đem lại những con số, hình ảnh kinh khủng tràn ngập màn hình tin tức toàn cầu.
·        Quốc gia này hiện có hai tổng thống, hai quốc hội và hai trưởng công tố đối nghịch nhau.
·        Kinh tế Venezuela sắp 'đặt mức' lạm phát 10 triệu phần trăm.
·        Có trên 4 triệu dân Venezuela đã vượt biên, và chỉ ở một khu lều trại bên Colombia, chừng hơn 1 triệu người t nạn đang sống cực khổ.

baomai.blogspot.com
  
Sự phá sản của chế độ Nicolas Maduro đã rõ nhưng hiện cũng chưa rõ nếu phe Juan Guaido thắng lợi thì tình hình có dễ tiến bộ.

Vì tuy là đối thủ của nhau, hai ông Maduro và Guaido (35 tuổi), đều tôn thờ các biểu tượng của cuộc cách mạng Bolivar.

Để hiểu được các vấn đề của riêng Venezuela và rộng ra là vùng Nam Mỹ, ta cần xem chủ nghĩa Bolivar là gì.

Chủ nghĩa Bolivar và quan điểm bài Mỹ

baomai.blogspot.com
  
Simon Bolivar (1783-1830) sinh ra trong một gia đình quý tộc gốc Tây Ban Nha ở Caracas đã giành độc lập cho Venezuela, làm tổng thống Colombia (1819-30) và nhà độc tài Peru (1823-26).

Ông cũng có tham vọng lập ra Liên bang Granada độc lập ở vùng Trung và Nam Mỹ nhưng không thành, và vùng này sau chia ra thành Venezuela, Ecuador, Colombia, Bolivia, Panama và một phần Peru ngày nay.

Chết vì lao phổi ở tuổi 47, ông để lại một di sản phức tạp mà các thế hệ sau diễn giải theo nhiều nghĩa, gồm cả ý tưởng chống Hoa Kỳ.

Cố tổng thống Hugo Chavez từng rất thích trích dẫn câu nói của Simon Bolivar:

"Hoa Kỳ tự cho họ sứ mệnh nhận từ Thượng Đế đem dịch bệnh tai quái đến cho Nam Mỹ nhân danh tự do."

baomai.blogspot.com
  
Ông Chavez hồi 1999 đã đổi tên nước Venezuela thành CH Bolivar Venezuela, gương cao ngọn cờ cách mạng khu vực chống Hoa Kỳ.

Tượng Bolivar không chỉ có ở Caracas mà còn được dựng ở Buenos Aires, Havana, México City, Panama, Paramaribo, San José, Santo Domingo, Bogotá...

Bên cạnh tinh thần dân tộc, chủ nghĩa Bolivar cũng có cả phần di sản quân phiệt (militaristic legacy), thiên về dùng bạo lực.

Sau khi chiếm được Caracas năm 1813 Bolivar cho bắt giam nhiều người và xử bắn họ không xét xử.

Quân cách mạng cũng tiêu diệt người lai thổ dân (Creole).

baomai.blogspot.com
  
Tuy thế, kể từ thế kỷ 18 đến nay, các nhà lãnh đạo Nam Mỹ đều tôn thờ di sản quân đội trên hết của Bolivar.

Hình ảnh 'đàn ông đầy nam tính' (macho) phổ biến ở Nam Mỹ cũng làm tăng tâm lý đề cao 'caudillos' (thủ lĩnh, tướng quân).

Chống Mỹ vì nhiều lý do

baomai.blogspot.com
Tượng Simon Bolivar ở Central Park, New York

Cựu bộ trưởng văn hóa Argentina, học giả Marcos Aguinis từng lý giải về hiện tượng bài Mỹ ở châu Mỹ La Tinh.

Theo ông, Hoa Kỳ là nền dân chủ đầu tiên ở Tây Bán Cầu và là mô hình của thể chế hiện đại, tự do, dân chủ, bao dung tôn giáo.

Các nước Nam Mỹ đều sao chép lại hiến pháp Hoa Kỳ với mong ước đạt thành tựu như vậy.

Nhưng trên thực tế, Simon Bolivar không hề bài Mỹ và rất ngưỡng mộ George Washington.

baomai.blogspot.com
  
Có gốc đại quý tộc, ông chỉ đánh giá mô hình Anh Quốc với vua, Viện Nguyên lão (House of Lords) cao hơn "dân chủ bình dân" kiểu Hoa Kỳ.

Đổi lại, nước Mỹ trẻ tuổi cũng tôn trọng Bolivar và một bức tượng lớn của ông được đặt ở Central Park, New York.

Nhưng sau thời Bolivar, quan hệ giữa các nước châu Mỹ La Tinh và Hoa Kỳ là "vừa yêu vừa ghét".

Phản ứng tiêu cực

Tiếp thu di sản phong kiến của Tây Ban Nha, nhiều nước Nam Mỹ chậm phát triển hơn Mỹ và thường 'đoàn kết' trong cảm xúc tiêu cực với Washington.

Dù độc lập từ thế kỷ 19, cả khu vực này không trở thành trung tâm công nghệ của thế giới và sang thế kỷ 21 vẫn có nền kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên.

baomai.blogspot.com
  
Ở các nước giáp biên giới với Hoa Kỳ như Mexico, tinh thần bài Mỹ còn có lý do lịch sử.

Cuộc chiến lập quốc của Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc vùng dân cư gốc tiếng Tây Ban Nha bị đẩy dần xuống phía Nam.

Nhiều người Mexico nay cho rằng việc di dân của họ "quay trở lại Hoa Kỳ" dù bất hợp pháp, vẫn có thể lý giải được như một thứ "đòi lại công lý".

Tự do với dân nghèo có nghĩa là đòi bình đẳng chứ không phải tự do cá nhân như cách hiểu ở Anh, Mỹ, Pháp, Canada.

Giáo hội Công giáo châu Mỹ La Tinh cũng ủng hộ tư duy 'chống bất công' này.

Thời Chiến tranh Lạnh, Nam Mỹ có Thuyết tự do giải phóng (Liberation Theory) được sinh viên học sinh và nhiều linh mục Công giáo, nhà truyền giáo ủng hộ.

Một số cha dòng Tên (Jesuits) còn ủng hộ các nhóm du kích vũ trang thiên tả chống lại giới chủ đất địa phương.

Trong nhiều năm, Washington thường ủng hộ các chế độ quân nhân, độc tài bản địa nên càng trở thành đối tượng của sự căm ghét.

baomai.blogspot.com
Dòng người bỏ chạy khỏi Venezuela sang Colombia lên tới cả triệu

Nhiều đảo chính quân sự của phe hữu được Hoa Kỷ ủng hộ vì sau cách mạng Cuba, Washington kiên quyết muốn ngăn ảnh hưởng của Liên Xô tại Nam Bán Cầu.

Di sản này khiến tâm lý bài Hoa Kỳ trong các giới thiên tả, sinh viên, và cả giáo hội Công giáo tại châu Mỹ La Tinh vẫn còn rất mạnh.

Bài Mỹ trong thế kỷ 21

baomai.blogspot.com
  
Ngày nay, tâm lý bài Mỹ, theo Marco Aguinis viết hồi 2006, còn có nguồn gốc tự thân và mang màu sắc dân tuý.

'Sức mạnh của ghen tỵ (power of envy) và tính phụ thuộc cũng là lý do bài Mỹ..."

Chống Mỹ còn là biểu hiện của "mâu thuẫn giữa tư duy hiện đại và chống hiện đại" và dễ thành chống bao dung và tự do ngôn luận.

Mặc dù lãnh đạo Venezuela hay lên án Mỹ, người dân của họ lại không ghét Mỹ như người Argentina, nước có đa số dân gốc Âu, theo Marco Aguinis.

baomai.blogspot.com
  
Hiện còn rất sớm để đánh giá về 'tổng thống tự phong' Juan Guaido của Venezuela.

Có vẻ như cả phe Maduro và đối lập đều không đi xa khỏi di sản Bolivar.

Không như một số hình ảnh 'bình dân' mà báo chí quốc tế thích nêu ra, các lãnh đạo đối lập chống Maduro đều xuất thân từ tầng lớp cầm quyền.

baomai.blogspot.com
  
Người thầy của Juan Guaido, ông Leopoldo Lopez, lãnh đạo đối lập Venezuela bị cầm tù, chính là một hậu duệ của gia tộc Bolivar.

Cụ ngoại của ông là Juana Bolivar, em gái nhà cách mạng Simon Bolivar, và Lopez cũng là cháu của tổng thống Cristóbal Mendoza.

Còn Juan Guaido sinh ra trong một gia đình trung lưu có ông là sĩ quan cao cấp trong hải quân và đã tốt nghiệp Đại học George Washington, Hoa Kỳ.

baomai.blogspot.com
  
Khi tuyên thệ nhậm chức, ông Guaido đã ôm tấm hình Simon Bolivar.

Điều này khiến một tờ báo Anh nói tinh thần 'cách mạng bạo động' sẽ không hề bị xóa đi với phái của Guaido, và Venezuela sẽ "còn đầy xáo trộn".

Cùng lúc, dù chế độ nào lên cầm quyền thì quan hệ mật thiết 'vừa yêu vừa ghét' của Venezuela với Hoa Kỳ sẽ vẫn tiếp tục.

baomai.blogspot.com

Phần nhận xét hiển thị trên trang