Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

Evtoushenko và văn học phi chính thống xô viết ở Hà Nội trước sau 1975



Một sự kiện văn học được chú ý đầu tháng tư này là cái chết của nhà thơ Xô viết Evgeni Evtoushenko -- dưới đây viết tắt là E.E. – (1932 - 2017). Ông thuộc loại những tên tuổi Nga được biết nhiều nhất ở VN nhờ ở chỗ đại diện cho một xu thế trong văn học xô viết sau 1956,  có nhiều tiếng vang ở Hà Nội một thời gian dài, nhất là trước 1975. Tôi ghi lại ở đây những lý do khiến năm ấy chúng tôi ngưỡng mộ E. E. và những bài học mà chúng tôi rút được từ trường hợp của ông

Tuy đã biết tiếng Evtoushenko là một nhân vật  thuộc cái trào lưu mới nẩy nở ở nước Nga những năm 60 trở đi, nhưng trước sau 1970, một số  anh em trẻ bọn tôi,  kể cả dân biết tiếng Nga, vẫn chưa được tiếp xúc với những tác phẩm quan trọng nhất của ông.Về con người ông, cái thực thì không mấy  mà  toàn là ít chuyện đồn thổi linh tinh.
Lý do,  mối quan hệ giữa VN và Liên xô hồi ấy tương đối tế nhị, bề ngoài một đằng mà bên trong một nẻo, vừa tin cậy vừa nghi kỵ, vừa ra vẻ thân thiết vừa đề phòng nhau. Và trên hết cả trong khi mỗi bên vẫn giữ miếng của mình, thì  sự  lợi dụng lẫn  nhau không bao giờ bị bỏ lỡ.
 Từ khoảng 62 - 63, sự ngăn chặn chủ nghĩa xét lại được  Hà Nội làm hết sức triệt để nên chúng tôi càng bí.
Tới 1972,  khi theo chân bộ đội  vào sống giữa Quảng Trị đổ nát ít ngày, tới những căn nhà chủ đã bỏ đi, tôi mới lục được số bán nguyệt san Văn ra 1-1-1968 chuyên về văn học Nga Sô, trong đó có đăng Tự truyện viết sớm, bản tiếng Việt của Vũ Đình Lưu,  và mấy bài thơ của E.E. do Nguyễn Kim Phượng và Thạch Chương dịch.
Trong chùm thơ này, tôi sẽ lấy ra bài Những nỗi sợ hãiđể giới thiệu  với các bạn dưới đây.
Riêng bài Tự truyện viết sớm với chúng tôi lúc đó có chút gì giống như... một quả bom. Mấy trang in bài báo đó mang về  được những bạn tôi như Lưu Quang Vũt, Trúc Thông ...vồ vập. Chúng tôi truyền tay nhau thật nhanh, có người còn đánh máy lại nữa. Bởi chúng tôi không chỉ muốn biết thành quả của lớp người gọi là trẻ lúc ấy, mà còn quan tâm tới các bước đường tư tưởng của họ, những băn khoăn dằn vặt và cả những lầm lỡ tai họa họ đã phải chịu khi tim cách chệch hướng tức là tìm cách vượt xa hơn cái giới hạn mà họ bị hạn chế.

Trước chiến tranh, sự tiếp nhận văn hóa Nga ở Hà Nội đã sớm trải qua một cuộc khủng hoảng.
Nguyên là sau giai đoạn hậu chiến đầy tăm tối, tới khoảng 1960 trở đi, xứ sở mà Stalin để lại có sự tan băng trên phương diện tư tưởng. Trong văn học, đầu tiên là  sự hình thành các tác phẩm mới viết về chiến tranh, tiếp đó là những tác phẩm đặt lại toàn bộ các vấn đề về xã hội xô viết, trong đó đề cao các khái niệm nhân văn nhân bản. Mấy chữ phi chính thống tôi dùng ở đây với nghĩa nó không được nhà nước thích thú lắm, nhưng không đến nỗi đàn áp khốc liệt mà   chỉ răn đe, ngoài ra còn tìm cách lợi dụng .
 Xu thế chệch hướng này đặc biệt thấy rõ trong tâm lý lớp  người lúc đó gọi là trẻ.  Vốn được nhà nước đào tạo, trong họ vẫn âm ỉ rồi bùng phát một  xu hướng  nhân bản và khao khát vượt qua tấm màn sắt để gia nhập  vào thế giới hiện đại.


Nhưng vào lúc đó,  một xu hướng ngược lại đang chi phối Hà Nội. “Chúng ta cần phải kiên trì lý tưởng”. Cái câu quen thuộc ấy trong trường hợp này có nghĩa hãy trở nên khô héo đi, không được hướng về những chân trời xa xôi, không được bắt kịp cái sự sống run rẩy mà con người sau đại chiến thứ hai ở các phương trời khác đang cảm nhận. Ca ngợi hòa bình lúc này là cái tội. 
 Trước khi xuất hiện câu thơ của Chế Lan Viên đầy tự hào  khi nói với những kẻ đầu hàng -- Hỡi những con thỏ hòa bình đang bình yên gặm cỏ -,  giới nhà văn chúng  đã được hướng dẫn là phải  phê phán quyết liệt với những tác giả mới trong văn học xô viết.
    
Thế thì tại sao lại có việc mời E. E sang Hà Nội cuối 1971? Trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh,  nhà nước xô viết không dễ mà gạt bỏ hết mọi mầm mống thay đổi trong lòng xã hội mình. Đã thế  họ còn  khôn ngoan dùng luôn giới trẻ để tự quảng cáo cho cái gọi là sự cởi mở của mình, do đó là để mặc cả với Mỹ. Mà cái này thì VN đang  cần, VN trong khi triệt để cấm chợ ngăn sông để dân tình chỉ một lòng theo đuổi chiến tranh, vẫn  tìm mọi cách để -- nói như chữ nghĩa thời ấy -- là “tranh thủ sự đồng tình của nhân loại tiến bộ”, và cụ thể là lấy lòng người Nga đang cung cấp vũ khí hạng nặng. Thế là E. E.  được bố trí sang thăm  Hà Nội và đưa vào tận Vĩnh Linh.


Về những bê bối chung quanh chuyện E.E sang Hà Nội năm ấy, nhà văn Tô Hoài từng kể với tôi một chi tiết nhỏ. Noel 1971, E.E được Tô Hoài dẫn ra phố, hòa vào dòng người  có mặt trước Nhà thờ Lớn Hà Nội. Không rõ  được bộ phận tuyên huấn của ông Tố Hữu -- một trong những ông trùm khét tiếng vì kiên trì chống xét lại -- bố trí trước, hay người dân tự phát tỏ thái độ, chỉ biết một công dân thủ đô nào đó khi nhận ra một người Nga có mặt là E. E  đã hô to :”Đả đảo tên xét lại“. Vốn đã được chuẩn  bị từ trước,  Tô Hoài nhìn E. E, cả hai chia sẻ một nụ cười thản nhiên. Hình như chi tiết này Tô Hoài có đưa vào trong Cát bụi chân ai, rồi có lần tái bản ông đã bị sức ép phải xóa đi, rồi ông già tinh quái có lần đã lấy lại, và đưa vào một lần in khác, nhưng sách của Tô Hoài thì tái bản bao nhiêu lần, tôi chịu không đủ sức kiểm tra lại nữa mà chắc cũng chả ai làm nổi.



Ngày 1-4-2017,  E.E qua đời thì mấy ngày sau 5-4, 6-4 , nhiều báo tiếng Việt đã đưa tin, dưới đây là một đoạn trên mạng Tin tức nước Nga (chắc là dựa trên các báo đối ngoại của Nga), có nhắc tới những ngày E. E. ở VN.
“Evgeni Evtushenko là một phần của toàn thể nhân loại, của tất cả mọi người trên trái đất này, không phân biệt màu da, tôn giáo hoặc ngôn ngữ. Ông từng đến hơn một trăm quốc gia, có mặt trong những nơi đau thương nhất của hành tinh chúng ta, trong thời điểm nóng bỏng nhất. Chẳng hạn, năm 1962 ông đã đến  Cuba tại thời điểm khủng hoảng vịnh Caribe, khi quan hệ Xô-Mỹ đã trên bờ vực chiến tranh; ông cũng đã có mặt Việt Nam trong giai đoạn miền Bắc bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt.
"Và đau đến nỗi dường như hiện giờ, tại đây chúng tôi bị ném bom" — ông viết trong một bài thơ của mình  nhân chuyến đi  Việt Nam. Sự mất mát đau thương của những người dân, cảnh góa bụa của những người phụ nữ, sự trưởng thành trước tuổi phi tự nhiên của trẻ em ... khiến ông phải chú ý quan tâm. "Và người dân gầy ốm, tong teo/ No nê tai vạ, tai vạ, tại vạ" — nhà thơ buồn bã kêu lên trong bài thơ của mình. Ông lên tiếng kêu gọi người Mỹ và nhân dân toàn thế giới: "Đủ rồi, bom đạn, bom đạn" (trong bài thơ Cơn mưa dài ‘).
Liên quan đến giới văn nghệ VN hồi đó ấn tượng nhất trong tôi là mẩu chuyện sau đây:
Trong xu thế chống xét lại ngự trị,  nhà văn Ng Tuân đang bị coi là có vấn đề. Ông không công khai, nhưng gần như ai cũng biết rằng ông thích cái xu thế hòa bình của Liên xô lúc ấy hơn chủ trương đẩy mạnh chiến tranh của Trung quốc. Ông viết về chiến tranh theo cách của mình, tạo nên một cuộc thi đua săm soi dò xét những phản nghịch được ông phát biểu.  “Trời vẫn xanh một màu xanh nghi ngại”  ông Nguyễn đã viết như vậy trong một bài báo và cái câu văn rất Ng Tuân ấy bị đặt dấu hỏi bị coi là chung chung và mang màu sắc hoài nghi. “Trời vẫn xanh một màu xanh cảnh giác”,  giới văn nghệ đọc trên báo cái câu đã được Ng Tuân  chữa lại ấy, để rồi cùng luận ra rằng việc viết lách của mình cần chú ý những gì.
Nhưng những điều đó cũng đã đến tai những người làm ngoại giao, đến tai các nhà báo nước ngoài , kể cả E E . Nhà thơ trẻ càng khoái và khi đến Hà Nội, có ý tìm cách nắm bắt không khí dân tình Hà Nội, qua những dịp  bù khú trực tiếp với loại nhân vật như ông Nguyễn. 
Bên cạnh những bài thơ viết về đường số một, về  tinh thần bất khuất hồn nhiên của người dân,  E.E.  còn có một bài thơ nói về cuộc đàm đạo  với một nhà triết học ở Hà Nội — gọi Ng Tuân không tiện chỉ nói nhà triết học -- nó là một cách được ông sử dụng để ghi nhận một khía cạnh  trong đời sống tư tưởng ở xã hội VN thời chiến. 
E.E. muốn nói với đồng bào của mình và cả bạn đọc các phương trời khác rằng ở đây, ngay trong chiến ranh,  những người tiên phong trong xã hội xô viết vẫn tìm được người đồng điệu. Điều đó cũng có nghĩa ở đây, vẫn còn một dòng tư tưởng muốn hội nhập với sự vận động chung của tư tưởng bên Nga bên Mỹ ngoài kia, và nghĩ xa mãi ra, nghĩ cả về chuyện hậu chiến sau này. 
Tôi dự đoán những cuộc gặp gỡ với những người như Nguyễn Tuân  trong chuyến đi ấy càng cho  E. E . thấy rằng con đường mà họ lựa chọn là có ích không chỉ cho Liên xô mà còn cho giới trí  thức ở các xã hội tương tự. 
Sự có mặt của E.E năm ấy khiến những người làm văn nghệ Hà Nội càng thấy phe phi chính thống  xô viết  không phải là hèn nhát là đầu hàng, họ chỉ có cách chống Mỹ theo kiểu khác, và họ gắn liền với một tương lai  đồng nghĩa với những giá trị văn hóa. 
Xu thế này trong xã hội xô viết sẽ âm ỉ tồn tại rồi từ tốn bùng phát.  Tới lúc ấy, cái mạch sau này sẽ làm nên cải tổ,  bắt đầu là từ A. Tvardovski, với  dòng thơ của nhóm tứ trụ (ngoài E.E. còn phải kể A.Voznhexinski, B. Akhmadulina,  R. Rozhdestvensky)  với các nhà văn xuôi như G. Baklanov, V. Rasputin, Ju.Trifonov các nhà nghiên cứu như Ju. Kariakin ...sẽ đỡ bị cấm đoán để trở nên thân thiết với giới văn nghệ Hà Nội hơn.


  Số phân E. E. còn được chúng tôi theo đuổi tìm biết nhiều năm sau. Xu thế phi chính thống ở Nga sau này có những tên tuổi quyết liệt  hơn và trong hoàn cảnh ấy,  chúng tôi thấy phong trào này không thuần nhất, nhưng đông đảo nhất vẫn là những người  như  E. E.
Thực ra họ vẫn là con đẻ của xã hội xô viết.
Họ chỉ muốn đi xa hơn một chút, muốn  tìm tới "một chủ nghĩa xã hội  có khuôn mặt người". Chứ  chuyển hẳn sang chủ nghĩa tư bản, thì họ không chấp nhận hoặc đơn giản hơn là không nghĩ tới.
 Đây là cả một vấn đề mà tới đầu thế kỷ XXI này vẫn chưa giải quyết nổi.
 Trong hoàn cảnh ấy thì câu chuyện nhân cách con người lại nổi lên.
Cả ở Nga lẫn phương Tây người ta đều cũng nhận ra cuối cùng E.E. vẫn đặc chất xô viết . Ông muốn thay đổi nhưng không hiểu thay đổi thế nào.
Cái chính là trước mắt, ông vẫn chỉ muốn khẳng định tên tuổi mình. Điểm này vừa là nhu cầu chính đáng -- ông có tài thật -- vừa là một trò ăn gian, ăn gian với hai nghĩa một là ông muốn có hơn cái mình đang có, và hai là những biện pháp ông sử dụng đôi khi lại chẳng khác gì những kẻ ông hằng chế giễu.
 Bằng chứng thì người ta có thể tìm ngay ở thời gian ông còn trẻ. Tiểu luận  Tự truyện viết sớm được E.E viết ở Pháp, khi  ông cùng mấy nhà văn  xô viết tới  Paris và chỉ công bố sau khi E.E ở Pháp về  một thời gian. Chung quanh bản tự bạch này có ít lùm xùm. Tình thực không rõ thế nào chỉ nghe nói Hội nhà văn Liên xô rất lấy làm phiền lòng. Bị kiểm điểm, tác giả chối không nhận và Hội nhà văn đòi phía Pháp chứng minh. Khi phía nhà Gallimard  gửi bản thảo trả lại, thì phía Moskva công bố là bưu phẩm bị mất. Sau đó Hội nhà văn Liên xô và E. E . không nói gì nữa, ai muốn hiếu thế nào thì hiểu.
 Phóng to sự kiện  lên một chút, tôi nghĩ tớ trường hợp G. Galilé  sau khi nhận trước tòa rằng Kinh thánh là đúng, ra ngoài lại tự lẩm bẩm trái đất vẫn quay. Nghe đơn đôc và cay đắng quá. Nhưng ở thời đại hiện nay mọi chuyện tầm thường hơn nhiều. Trước mắt E.E. là tấm gương của các nhà văn đàn anh như Ehrenburg. Cho đến đầu thế kỷ XXI  này,  ở Nga cũng như ở nước ngoài,  trường hợp Ehrenburg vẫn gây ra chia rẽ trong các nhà nghiên cứu, người coi ông chỉ là tên chỉ điểm tay sai của Stalin, người khác ghi nhớ mãi những đóng góp của ông trong việc gìn giữ di sản của các nhà văn cấp tiến đương thời và duy trì mối quan hệ giữa văn học xô viết và văn học phương Tây. Và nhất là  việc  Ehrenburg, thông qua cuốn Băng tan,  gọi ra sự thay đổi trong không gian tư tưởng xô viết. Học theo tác giả  bộ hồi ký Con người năm tháng cuộc đời, chắc E.E. đã làm mọi việc đối phó với KGB rất gọn, tự nhiên.  Các nhân vật gọi là phi chính thống ở Nga cư xử như vậy rất nhiều, số  đi xa hơn, đến mức bị đẩy đi lưu vong, như I.Brodsky, A.Sinhiavski, Soljenitxưn ... số đó ít hơn hẳn.


Khi tiếp xúc với văn học xô viết, tôi tự đặt cho mình một nguyên tắc, không chỉ bằng lòng với sự định hướng  và cách đánh giá  của chính Moskva, mà phải xem nó được thế giới bên ngoài tiếp nhận ra sao. Ví dụ một cuốn sách được ban phát các thứ giải thưởng, nhưng không hề được  dịch in ở Paris London thì hãy xem chừng đã. Ngược lại tôi vẫn thường dựa vào sự phát hiện của các nhà xuất bản bên Pháp bên Mỹ để định giá cũng như giải thích các tác phẩm, qua đó xác định hướng đi của các nhà văn. Cần nói thêm là ở giới sáng tác và bạn đọc Liên xô lúc đó cũng có một làn sóng ngầm như vậy, họ dùng con mắt người để hiểu mình và định hướng cho công việc của mình.
  Lý do khiến bọn tôi chú ý  tới E.E. ngoài chuyện ngay từ trẻ ông muốn tìm con đường độc lập, còn một lý do đơn giản hơn, nhưng lại cực kỳ quan trọng với người viết ở ta: từ trẻ ông và thế hệ ông  đã sớm tìm cách vượt ra ranh giới của nước Nga để tồn tại như một nhà văn mà dù tầm cỡ thế nào vẫn có cái nghĩa mà mọi nơi mọi thời đều hiểu. Có thể là không làm được, nhưng phải nghĩ tới chuyện đó.
Nhớ hồi chiến tranh, cả Tế Hanh lẫn Nguyễn Minh Châu cùng than thở với tôi một điều giống nhau: các nhà văn ta ra nước ngoài  chỉ được người ta gọi chung là nhà văn Việt Nam chứ họ có biết ai với ai đâu. Làm gì có tác phẩm?
Với người Nga thì không thể nói thế được. Ngay từ khi còn là người của vùng Irkutsk xa xôi, E.E  đã nghĩ đến ngày ra với những thủ đô  văn học lớn trên thế giới. Lớp người như E. E. năm ấy mở ra cho bọn tôi hiểu rằng  không sớm thì muộn,  chắc là lúc nào đó, VN cũng như thế, chỉ sợ lúc điều kiện đến, mình không đủ khả năng tận dụng  cái sự mở ra bung ra của hoàn cảnh. Tình hình hiện nay xác định rằng tôi đoán không sai.

 Mấy năm 1986-1989 khi tôi có dịp may được làm việc Moskva thì cũng là thời gian xã hội  xô viết bước vào giai đoạn cuối trong công cuộc cải tổ, tiến tới tan vỡ. E. E. lúc này không  còn đóng vai trò người phát ngôn những vấn đề mới nhất của xã hội nữa. Trên tờ báo có số lượng in lớn nhất lúc ấy, tờ Ognhek (Ngọn lửa nhỏ), ông thường xuyên có bài nhưng là các bài có liên quan tới lịch sử văn học.  E.E. đóng vai trò của một người tổng kết tình hình sáng tác. Ông soạn bộ tuyển  thơ Nga thế kỷ XX  với những lời bình luận rất chuyên nghiệp. Sau này, khi được biết từ 1991, E.E.  ký một hợp đồng giảng dạy với trường Đại học Oklahoma và sống với gia đình từ đó tại Hoa Kỳ, tôi hiểu rằng ông đã chọn cho mình một kết thúc phải chăng đúng như  ông có thể có.

Những nỗi sợ hãi.
                                
Bao nỗi sợ hãi ở nước Nga đang mất dần đi
Tựa bóng ma những năm tháng xa rồi.
Và chỉ còn, như những mụ già đây đó
Ngồi xin của bố thí nơi thềm một giáo đường

Nhưng tôi còn nhớ chúng giữa mãnh lực và quyền uy
Trước pháp đình hư nguỵ đang chiến thắng
Như bóng tối, niềm sợ hãi len lỏi khắp mọi chỗ
Và xâm nhập mọi sân nhà

Dần dần, chúng bắt mọi người làm tôi mọi
Và che giấu đi hết mọi điều
Chúng dạy ta la hét lúc đáng lẽ ta phải yên lặng
Và ngậm miệng lúc đáng lẽ ta cần phải la hét

Ngày nay thì tất cả đã xa rồi
Giờ cũng lạ lùng khi nhớ lại
Niềm sợ hãi âm thầm rằng mình bị tố giác
Niềm sợ hãi âm thầm khi có người gõ cửa

Còn nhớ chăng niềm sợ hãi khi nói với một người  lạ
Người lạ là một chuyện -- nhưng còn khi nói với vợ ta
Và còn nhớ chăng niềm sợ hãi vô biên khi còn lại
Một mình -- với niềm im lặng sau lúc dàn kèn đồng đã ngưng tiếng

Chúng tôi không sợ xây cất trong bão tuyết
hoặc ra trận giữa những tiếng trái phá nổ
nhưng nhiều khi ta sợ đến chết
ngay cả khi nói chuyện một mình
Chúng tôi không hư hỏng hay lạc đường
Và nước Nga ngày nay đã chinh phục được những nỗi sợ của mình
làm cho kẻ thù càng thêm sợ hãi
- không hẳn là không có lý
Tôi ước rằng  con người bị ám ảnh bởi
nỗi sợ lên án một người mà chẳng cần xét xử
nỗi sợ làm nhục tư tưởng bằng hư nguỵ
nỗi sợ tự tuyên dương mình bằng hư nguỵ
nỗi sợ lạnh nhạt với tha nhân khi có kẻ gặp khó khăn hay thất vọng
nỗi sợ tuyệt vọng không được an tâm
khi vẽ trên giá vẽ hay vạch màu đen trắng
và khi tôi viết những dòng này
Và đôi khi tôi còn vô cùng vội vã
Tôi chỉ còn một nỗi sợ

Nỗi sợ không còn được viết, với tất cả quyền uy của tôi.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam Cộng Hòa và những định mệnh xui xẻo


Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958
Nhìn lại lịch sử, chúng tôi thấy câu ngạn ngữ "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai" sao nó đúng quá: tai bay vạ gió thì luôn theo nhau mà đến với Việt Nam Cộng Hòa, còn những cái may mắn thì ít khi nó trở lại.
Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm: sau bao nhiêu gian lao với Pháp, ông đã khai sinh ra nền Cộng Hòa.
Sau đó xây dựng được những thành tích vẻ vang của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960," (độc giả xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 13). Nhưng vừa tới năm 1961 thì ông phải đối đầu ngay với những giao động khôn lường: nửa năm đầu thì Tổng thống John F. Kennedy hết sức ủng hộ, tới nửa năm sau, bang giao Việt - Mỹ rơi vào khủng hoảng.
Sau cùng thì trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng vào dịp Lễ Phật Đản thứ 2507 (ngày 8/5/1963), TT Kennedy gửi ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại sứ thay thế ĐS Frederick Nolting về hưu.
Nolting là người ủng hộ ông Diệm. Ông Lodge là người mưu mô, nham hiểm, có nhiều thành kiến về ông Diệm. Vì tham vọng muốn lập thành tích để ra ứng cứ tổng thống vào năm 1964 cho nên ông đã dùng đủ mọi mưu lược triệt tiêu Tổng thống Diệm với hậu quả là phá nát nền Đệ Nhất Cộng Hòa mùa Thu 1963. Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY I.
Tới Đệ Nhị Cộng Hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại gặp ngay một tay HENRY nữa - Henry A. Kissinger. Về ông này, ta có thể đặt câu hỏi: ở một cường quốc vĩ đại như Hoa Kỳ, biết bao nhiêu người vừa tài, vừa đức, vừa có tâm, vừa có tầm mà lại không lên được tới địa vị quyền hành như ông Kissinger?
Ông này còn mưu lược, gian dối hơn Cabot Lodge gấp mấy lần. Kissinger đã đạo diễn chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam trong gần sáu năm rưỡi, tức là trên hai phần ba thời gian của Đệ Nhị Cộng Hòa.
Cái nguy hiểm cho cả Mỹ lẫn Miền Nam là ông này thích hành động bí mật và một mình.
Trong một cuộc phỏng vấn với nữ ký giả người Ý, bà Oriana Fallaci, ông giải thích rằng sở dĩ ông có sức mạnh là nhờ ở lối hành động một mình:
"Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa, đi đầu, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ, một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi, không có gì khác. Có thể là không có cả súng nữa, là vì gã ta không cần bắn. Gã chỉ hành động bằng cách là ở đúng chỗ, vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã là một cao bồi miền Tây."
Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY II.
Nhân dịp 30 tháng Tư, chúng tôi xin chia sẻ với đồng hương một vài cảm nghĩ về số phận long đong của cả hai nền Cộng Hòa vào lúc hoàng hôn thê lương ảm đạm.

Khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ

Những cái xui xẻo đã xảy ra liên tục cho Tổng thống Ngô Đình Diệm trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời ông (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 22).
Ngày 3/03/1963 Tòa Bạch Ốc gửi mật điện chỉ thị cho Đại sứ Lodge là: "phải thông báo đầy đủ cho Tướng Harkins (tư lệnh quân đội Mỹ ở Miền Nam) trong mọi giai đoạn, và sử dụng những khuyến cáo của cả Harkins lẫn Smith," và "tất cả chỉ thị cho Conein (người trung gian với nhóm tướng lãnh đảo chính) cũng phải được thông qua ý kiến của Harkins và Smith." Nhưng vào những giờ phút chót, ông Lodge đã trái lệnh Tổng thống, không chịu bàn bạc, thông báo gì với ông Harkins (vì Harkins hết sức bênh vực TT Diệm);
Cố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963Bản quyền hình ảnhYOUTUBE
Image captionCố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963
Cùng ngày 30/03, Đại sứ Lodge hoãn chuyến đi Washington. Ông đã định đi vào ngày 31 tháng 10. Chỉ thị từ Washington là khi ông Lodge đi vắng thì Tướng Harkins sẽ thay thế ông để điều khiển ở Sàigòn. Nếu ông Harkins ở lại thì khó có thể đảo chính. Sau cùng, Washington lại quyết định cho phép ông Lodge hoãn chuyến đi vài ngày. Lodge muốn ở lại Sàigòn để theo rõi đảo chính ngày hôm sau.
Ngày 31 tháng 10 là ngày trước đảo chính. Vì ngày đảo chính (mồng 1 tháng 11) là ngày Lễ Các Thánh, ngày lễ của người Công giáo, nên ông Diệm có thể đi kinh lý hoặc thăm viếng chỗ này chỗ kia. Cho nên Tướng Trần Văn Đôn đề nghị với TT Diệm là ông nên tiếp xã giao Đô đốc Harry Felt (Tư lệnh quân lực Mỹ Thái Bình Dương) vừa tới Sàigòn. Đề nghị như vậy là để có cớ thuyết phục TT Diệm ở lại Dinh Gia Long trong ngày đảo chính cho chắc ăn.
Chính ông Đôn đã viết lại trong cuốn hồi ký Our Endless War - Inside Vietnam:
"Sáng ngày 31 tháng 10, tôi vào dinh gặp Tổng thống Diệm để hỏi về vấn đề Đô đốc Felt đến Sàigòn, và dò hỏi xem có phải vì ông không có mặt ở Sàigòn vào ngày mai nên không tiếp ông Felt được hay không? Ông Diệm ngạc nhiên vì không biết tin ông Felt tới Sàigòn."
Vì Tướng Đôn đề nghị, TT Diệm đã quyết định ở lại Sài gòn để tiếp Đô đốc Felt vào ngày 1/11.
Buổi sáng ngày 1 tháng 11, khi TT Diệm tiếp hai ông Felt và Lodge, ông bất chợt hỏi ông Lodge rằng ông biết đang có âm mưu đảo chính nhưng không biết rõ tướng tá nào muốn đảo chính. Ông Lodge trả lời một cách quanh co: "Tôi không nghĩ rằng Tổng thống phải lo ngại gì cả." Như vậy là để đánh lừa ông Diệm;
Một chuyện nữa hết sức quan trọng, đó là cuối cùng, như đã đề cập trên đây, Tổng thống Diệm đã muốn làm một nghĩa cử ôn hòa với cả Đại sứ Lodge, cả Tổng thống Hoa kỳ. Vì biết ông Lodge sắp lên đường về Washington, ông dặn ông Lodge là khi về tới Washington thì nên gặp hai ông Colby (trưởng trạm CIA ở Sàigòn trước đây) và Nolting (cựu Đại sứ) để bàn bạc về vấn đề giải quyết chuyện ông Nhu cho ổn thỏa.
Rồi ông gửi một thông điệp cho TT Kennedy nói:
"Tôi bằng lòng chấp nhận tất cả những đề nghị của Tổng thống Kennedy một cách hết sức nghiêm chỉnh, và muốn thực sự thi hành những điều này, chỉ còn vấn đề thời gian tính."
Tổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963 ở Dallas
Chắc ông Lodge cũng còn một chút lương tâm và cho rằng như vậy là đã có thể đi tới chỗ hòa hoãn với ông Diệm được rồi, nên ông có báo cáo về Washington thông điệp này.
Thế nhưng, vô tình hay hữu ý, theo Mark Moyar thì ông Lodge lại gửi điện tín này theo thủ tục 'ưu tiên thấp nhất' nên khi thông điệp này tới Washington thì tiếng súng đã bắt đầu nổ ở Sàigòn rồi. Theo một tác giả khác, James W. Douglas trong cuốn JFK and The Unspeakable thì Lodge đã trì hoãn để khi Kennedy nhận được điện tín này thì đã quá trễ.
Ngày 1 tháng 11 cũng là ngày sinh nhật của Đại tá Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, là người trung thành với TT Diệm và đã cứu ông trong dịp đảo chính tháng 2 năm 1962.
Sau khi chơi quần vợt với một số đồng đội, họ mời ông dùng cơm trưa để mừng sinh nhật thứ 36 của ông. Thoạt đầu, ông đã từ chối. Buổi sáng hôm ấy, ông cũng đã chột dạ vì thấy có những cuộc chuyển quân hơi lạ nên muốn theo dõi để báo cáo cho ông Diệm. Nhưng rồi viên sĩ quan phụ tá cố nài ép nên ông nể lòng. Lúc đang trên đường đi tới một quán nhậu ở ngoại ô Sàigòn, ông đã bị sát hại. Như vậy là ông Quyền đã đi trước và dọn đường tới nghĩa trang cho hai ông Diệm-Nhu.
Theo tác giả Mark Moyar (trong cuốn Triumph Forsaken) thì "khi cuộc đảo chính sắp bắt đầu, một viên sĩ quan chỉ huy lữ đoàn Lực lượng Đặc biệt đề nghị với Tổng thống Diệm cho ông dùng xe thiết giáp tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính để bắt trọn ổ số Tướng lãnh đang họp hành. Thành công là chắc chắn, viên sĩ quan cố thuyết phục ông Diệm, vì chỉ có một số lính đang tập sự đứng gác ở Tổng Tham Mưu, và đúng như vậy.
Nếu những tướng chủ mưu bị bắt thì quân đội đảo chính tất sẽ bị rối loạn.
Nhưng TT Diệm không cho phép, ông nói: "Quân đội phải tiết kiệm súng đạn để chống Cộng, và tránh đổ máu," rồi thêm: "Chỉ cần bảo vệ Dinh Gia Long, nhà Bưu điện và Tổng Nha Ngân khố."
GS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ Henry IIBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionGS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ Henry II
Như đề cập trên đây, sau khi tiếng súng đảo chính đã vang dội, Tổng thống Diệm gọi giây nói cho Đại sứ Lodge vào lúc 4 giờ 30 chiều (ngày 1 tháng 11) để hỏi về thái độ của Hoa kỳ. Ông Lodge trả lời lơ mơ là ông không biết gì để nói nhưng có đề nghị với ông Diệm là sẽ cho xe cắm cờ Mỹ đến Dinh Gia Long đưa ông Diệm ra phi trường, rồi dùng máy bay riêng của đại sứ để chở ông ra khỏi nước, nhưng TT Diệm từ chối. Nhưng trái với điều mà nhiều tác giả đã viết, cuộc điện đàm này không phải là trao đổi cuối cùng giữa hai người. Vẫn còn một cú điện thoại khác nữa.
Cú điện thoại thứ hai là lúc ở tại nhà thờ Cha Tam, ông Diệm đã gọi ông Lodge để yêu cầu giúp đỡ phương tiện để ra đi, vì ông Lodge đã hứa rằng "Nếu tôi có thể làm được gì để giúp cho an toàn của Ngài thì Ngài cứ gọi tôi." Nhưng bây giờ ông Lodge lại trả lời là Tòa Đại sứ Mỹ chỉ có thể cho ông trú ẩn và bất cứ điều gì khác, nhưng không thể giúp phương tiện chuyên chở ông ra khỏi nước. Như vậy là trái hẳn với đề nghị của ông Lodge chiều hôm trước. Ông Mike Dunn, Phụ tá trưởng của đại sứ - là người đứng bên ông Lodge khi ông này nói diện thoại với ông Diệm - đã xin tự nguyện đến chở hai ông Diệm, Nhu đi để bảo vệ cho hai ông, nhưng ông Lodge đã không đồng ý! "Tôi thật ngạc nhiên là ta đã không làm gì để giúp cho hai anh em họ Ngô," ông Dunn phàn nàn.
Một nhân chứng nữa cũng khẳng định về việc này là nhà báo Joseph Fried của tờ New York Daily News trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 11, 1963.
Sau khi ông Lodge từ chối giúp đỡ, Tổng thống Diệm hoàn toàn thất vọng, khoảng 7 giờ sáng ngày mồng 2 ông quyết định gọi điện thoại cho Bộ Chỉ huy Đảo Chánh thông báo là ông đã ra lệnh cho lính phòng vệ Phủ tổng thống ngưng bắn và ông đầu hàng vô điều kiện.
Đây là một việc không may mắn nhất cho TT Diệm vì cho tới ngày đảo chính, nhóm tướng lãnh vẫn còn nghi ngờ nhau, chưa có sự tin tưởng và đồng ý hoàn toàn. Chính TT Thiệu đã kể lại (với Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân) là "nếu ông Diệm và ông Nhu không ra trình diện (gọi điện thoại) vào sáng ngày 2 tháng 11, chỉ cần nán lại tới trưa cùng ngày thì các tướng lãnh sẽ lên máy bay chạy hết vì lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau" là đã mắc mưu ông Nhu.
Trước đó, trong giai đoạn chuẩn bị đảo chính, Tướng Paul Harkins, Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam cũng báo cáo về cho tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Tham Mưu Liên Quân về nhóm tướng lãnh:
Bà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoàiBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionBà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoài
"Tôi thấy chúng ta có một tổ chức của nhóm người thật hoang mang trong đó mọi người nghi ngờ mọi người khác."
Các tướng lãnh yêu cầu Conein sắp xếp máy bay, nhưng CIA trả lời là cần 24 giờ thì mới thu xếp được, nhưng thật ra là đã có sẵn một chiếc máy bay ở Sàigòn để chở Đại sứ Lodge về Washington và ông này đã hoãn chuyến đi. Dù sao, khi nghe thấy nói đến 24 giờ, Tướng Minh gắt lên "Chúng tôi không giữ họ lâu thêm được nữa."
Sau này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó là Đại tá) còn kể lại với chúng tôi rằng:
"Khi được lệnh đánh Dinh Gia Long, ông đã có ý định tìm TT Diệm và mời ông lên xe jeep mở mui để về Bộ TTM rồi đưa ông đi ra ngoại quốc, nhưng khi chiếm Dinh xong thì thấy ông Diệm đã đi rồi. Ông Thiệu thêm: "Nếu như TT Diệm đi xe jeep mui trần như vậy thì không ai dám sát hại ông..."
Đến khi ông Thiệu được tin TT Diệm gọi điện thoại về Bộ Tổng Tham Mưu, ông còn đề nghị với Tướng Minh để cho ông đi đón TT Diệm từ nhà thờ Cha Tam, nhưng ông Minh gạt đi và nói "Khỏi phải lo, đã có người rồi."

Bất hạnh cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Hòa

Tháng 2/1972, TT Nixon đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao. Dịp này ông đã đảo ngược "chính sách ngăn chặn Trung Quốc" (containment of China). Khi mở cửa Bắc Kinh thì ông đóng cửa Sàigòn, và khi bắt tay với ông Mao thì buông ngay tay ông Thiệu (như chúng tôi đã viết trong cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu).
Sau đó Nixon - Kissinger áp lực Miền Nam ký Hiệp Định Paris (1/1973). Từ đó những cái xui xui xẻo tới dồn dập:
Ngược lại với những cam kết của TT Nixon là sẽ tiếp tục viện trợ, VNCH vừa ký kết một hiệp định hết sức bất lợi thì lại bị cắt xén viện trợ thật bất ngờ và thật nhanh;
Còn được chút ít viện trợ thì lại bị ngay cú 'sốc' siêu lạm phát (do chiến tranh Israel - Ai Cập vào tháng 10/1973) làm tiêu hao mãi lực của viện trợ. Một thùng dầu thô đang từ 4USD vọt lên 12 USD.
Tới khi viên trợ bị cắt hết, Miền Nam xoay xở đi vay Quốc Vương xứ Saudi để mua tiếp liệu. Vua Saud al Faisal vừa đồng ý cho vay 300 triệu USD thì lại bị người cháu ruột hạ sát thê thảm ngay trong hoàng cung. Ông nằm xuống vào đúng ngày cố đô Huế bị bỏ ngỏ.
Tổng thống Johnson và Tổng thống ThiệuBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống Johnson và Tổng thống Thiệu tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Việt 20/07/1968 ở Honolulu
Trên chiến trường, lúc bị tấn công, Ban Mê Thuột gọi không quân đến yểm trợ. Phi vụ vừa tới thả bom thì một trái rơi trúng ngay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23;
Mất Ban Mê Thuột, có lệnh rút Pleiku. Ngày 18 tháng 3, quân dân hoảng hốt rút trên con đường 7B đẫm máu. Vừa về tới Phú Bổn thì bị kẹt ngay vì công binh chưa làm xong cây cầu nổi như đã dự tính: đoàn người di tản chịu thêm một trận pháo kích bên bờ sông Ea Pha. Sau này Tổng Thống Thiệu kể lại cho tôi rằng ông vẫn còn thắc mắc về chuyện tại sao Công Binh không làm xong cái cầu nổi? Đại tướng Viên cũng cho rằng "Sư đoàn 320 của cộng sản sẽ không bao giờ truy kích kịp đoàn quân nếu chúng ta có được cầu qua sông thiết lập đúng lúc, và giữ đuợc trật tự trong đoàn dân quân di tản." Vì cầu không xong, cho nên:
Hai ngày sau mới rời đuợc Hậu Bổn. Đoàn dân quân vừa tiến được chừng 20 cây số là khựng ngay, vì "trước mặt đoàn di tản là Phú Túc đả bị địch chiếm."
Khi không quân tới cứu,"một trái bom nữa rơi vào đoàn quân đi đầu, gây thương vong cho gần một tiểu đoàn Biệt Động Quân."
Tôi đang dự một buổi họp đầy căng thẳng tại Dinh Độc Lập sau cuộc rút lui thảm hại này thì Đại Tá Cầm (Chánh Văn phòng Tổng Thống) bước vào đưa một tin bất hạnh: ông Paul Léandri, trưởng phòng thông tấn xã Agence France Presse ở Sàigòn bị cảnh sát bắn chết.
Léandri loan tin "có số lính người Thượng (Montagnards) đã nổi loạn ở Hậu Bổn, chống lại quân đội VNCH'. Nha Cảnh Sát mời ông đến để thẩm vấn. Sau vài tiếng đồng hồ bị giữ lại, Leandri bỗng nhiên bước ra khỏi phòng, nhảy lên xe và lái vút đi. Khi cảnh sát huýt còi ngừng, ông cứ tiếp tục phóng. Cảnh sát rút súng bắn vài phát vào bánh xe để giữ lại. Chẳng may một viên đạn lạc trúng ngay vao người. Leandri gục chết tại chỗ.
Phóng viên ngoại quốc vô cùng phẫn uất, phản kháng kịch liệt. Trong một tình hình vô cùng bất lợi cho Miền Nam về tất cả mọi phương diện quân sự, chính trị, kinh tế, và bộ mặt Miền Nam đã bị bôi nhọ bởi những hình ảnh dã man, độc tài, tham nhũng, bây giờ hình ảnh Leandri bị bắn gục chết lại phóng đi khắp thế giới! Tổng Thống Thiệu nghe tin này đã tái mặt. Ông liền chấm dứt, bước ra khỏi phòng họp.
Mấy ngày hôm sau, trong một phiên họp khác ở Văn Phòng Thủ Tướng, lại có tin chiếc máy bay vận chuyển C-5A chở đám trẻ em mồ côi vừa cất cánh ở Tân Sơn Nhất đã bị nổ tan. Chết trên 200 trăm em bé! Vào chính lúc đó lại đang có những chống đối ngay tại Washington về việc di tản người Việt Nam bằng máy bay Mỹ.
Ôi sao tin tức nó dồn dập, bi đát đến thế vào lúc con thuyền Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm!
Suy gẫm như vậy, nhiều nguời trong đó có tác giả, cũng chỉ còn có cách là nghĩ đến chữ 'mệnh'.
...Ngày nay nhìn lại, riêng phần tác giả thì cũng chỉ có một mong ước, đó là những thế hệ con cháu được sống trong thời đại kỹ thuật, có nhiều phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi để liên lạc nên sẽ có thể gần gũi nhau hơn, thông cảm nhau hơn để rồi từng bước có thể giúp cho vận mệnh đất nước trở nên tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là niềm hy vọng của đại đa số người dân Việt Nam hôm nay.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Công văn hỏa tốc đề nghị các tỉnh 'giải cứu' lợn


Đọc tin "giải cứu lợn" đã thấy buồn cười. Cứu gì lợn, kêu gọi toàn dân hăng hái giết lợn thì có. Công văn của Bộ Lông Vịt toàn những câu sáo rỗng và biện pháp duy ý chí, chắc chẳng ai thèm quan tâm. Chỉ có một số người dân thương nông dân thì cố... ăn thịt lợn. Nhưng ăn cũng chẳng giúp gì được nông dân mà chủ yếu làm giầu cho các doanh nghiệp và cơ sở buôn bán lợn vì chúng lợi dụng cơ chế quản lý nửa thị trường, nửa hành chính hiện nay để cố tình mua rẻ, bán đắt kiếm lợi nhuận siêu khủng. Đáng buồn là câu kết của bài này: "Thực tế, ngành chăn nuôi lợn hiện nay đang bị “khủng hoảng thừa” dẫn đến giá lợn giảm rất mạnh nhưng vẫn khó bán". Thừa đâu mà thừa, khắp nơi đồng bào ko có thịt ăn nhưng doanh nghiệp vẫn bán giá cao độc quyền, nhà nước vẫn tìm mọi cách vơ vét hết tiền của dân vào ngân sách dưới nhiều hình thức. Xem thêm: Chính phủ vay hơn 600.000 tỷ bù đắp bội chi ngân sách đến 2018
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
Công văn hỏa tốc đề nghị các tỉnh 'giải cứu' lợn
27/04/2017  Bộ NN-PTNT vừa mới có công văn hỏa tốc gửi các UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị khẩn trương vào cuộc ổn định tình hình chăn nuôi lợn. Trong đó, cần tạo điều kiện cho các cơ sở giết mổ, chế biến phát huy tối đa công suất sản xuất các sản phẩm thành phẩm và dự trữ thịt lợn góp phần tạo nguồn tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho người chăn nuôi..
Công văn hỏa tốc của Bộ NN-PTNT đề nghị các tỉnh "giải cứu" lợn khẩn cấp
Cụ thể, theo công văn của Bộ NN-PTNT, sau một thời gian phát triển nóng của ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn và công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi (TĂCN) đã bộc lộ một số tồn tại bất cập về thị trường. Trong đó, đặc biệt là thị trường thịt lợn. Giá thịt lợn hơi xuất chuồng đã xuống thấp, gây thua thiệt lớn cho người chăn nuôi.

Nhằm từng bước ổn định và phát triển chăn nuôi nói chung, nhất là đối với chăn nuôi lợn (ngành chiếm tỷ trọng trên 70% thị phần các sản phẩm chăn nuôi cũng như cơ cấu tiêu dùng thực phẩm hàng ngày của người dân), Bộ NN-PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Sở, ngành có liên quan triển khai một số giải pháp cấp bách trước mắt cũng như lâu dài để ổn định tình hình chăn nuôi lợn


Cụ thể, giao cho các cơ quan chuyên môn hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, thức ăn và quy trình chăm sóc nuôi dưỡng nhằm hạ giá thành sản xuất ở mức thấp nhất trong điều kiện có thể;

Tuyên truyền, khuyến cáo các đơn vị sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi trên địa bàn rà soát quy trình sản xuất, điều chỉnh giá bán phù hợp trên tinh thần chia sẻ với người chăn nuôi vượt qua những khó khăn trước mắt; Chỉ đạo cơ quan thú y tăng cường công tác kiểm tra dịch bệnh, tiêm phòng vắc-xin, không để tình trạng cắt bớt các khâu quản lý dịch bệnh sẽ dẫn tới hệ lụy phát dịch trong thời gian tới.

Tạo điều kiện cho các cơ sở giết mổ, chế biến phát huy tối đa công suất sản xuất các sản phẩm thành phẩm và dự trữ thịt lợn góp phần tạo nguồn tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho người chăn nuôi. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý thị trường, giảm khâu trung gian, quản lý tốt giá cả, tạo thuận lợi cho người chăn nuôi tiêu thụ sản phẩm.

Về lâu dài, tổ chức lại sản xuất chăn nuôi theo chuỗi liên kết, trong đó phát huy tối đa vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội và hợp tác xã nhằm kiểm soát tốt hơn về chất lượng, an toàn thực phẩm và điều tiết cung cầu thị trường các sản phẩm chăn nuôi; Triển khai các giải pháp tổng thể nhằm phát triển thị trường cho sản phẩm chăn nuôi của địa phương (xác định địa phương phải chủ động là chính kết hợp giải pháp liên kết trong vùng và liên vùng).

Ngoài ra, cần rà soát, thống kê chăn nuôi để có qui hoạch tổng thể phát triển chăn nuôi phù hợp với từng địa phương; vừa bảo đảm ổn định thị trường vừa bảo vệ môi trường chăn nuôi gắn an toàn thực phẩm…

Thực tế, ngành chăn nuôi lợn hiện nay đang bị “khủng hoảng thừa” dẫn đến giá lợn giảm rất mạnh nhưng vẫn khó bán.

B.H
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/bo-nn-ptnt-gui-cong-van-hoa-toc-de-nghi-cac-tinh-giai-cuu-lon-370080.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Truyện như cứt:

Chuyện đời chị Việt
Dạo ấy, chỉ có anh Nhật, vì ghét thằng Trung nên đã cho chị mấy đồng đi bác sĩ khám bệnh sau vụ hiếp dâm. Anh Nhật là con nhà có giáo dục, nghĩa tình với chị Việt vẫn còn. Tiếc là anh Nhật bị yếu sinh lý nên có cũng như không, chẳng giúp gì được cho bi kịch cuộc đời chị. Chị Việt có con trai. Năm ấy anh chàng này đã cố gào lên một câu tuyên bố không đánh đổi sự mất mát đau đớn của chị Việt lấy quan hệ với thằng Trung. Nhưng bây giờ, anh con trai này cũng chỉ ở nhà nghe Đàm Vĩnh Hưng hát Thành phố buồn.

Đêm đã về khuya, viết thời sự kinh tế xã hội thì thật kém duyên. Thế nên tôi xin phép viết truyện ngôn tình, đó là câu chuyện cuộc đời chị Việt.
Chị Việt vốn là người con gái đẹp. Chị có body với đường cong chữ S mà phụ nữ ngày nay phải nướng vào các thẩm mỹ viện hàng trăm triệu đồng, chịu dao kéo đớn đau, thậm chí có người mất mạng... mới có được.



Đáng lẽ hồng nhan thì phải có bạc tỉ. Nhưng tiếc thay, chị Việt sinh ra trong một gia đình có truyền thống vô giáo dục, bằng cấp thì có mà tri thức lại không. Bản thân lười biếng nhưng lại tiêu hoang, chị Việt ngày càng tha hoá.

Về kinh tế, chị Việt kiếm ăn bằng cách bán vốn tự có.

Năm xưa, khi mới được giao thừa kế đất đai, nhà cửa, để có tiền tiêu xài, vườn tược có gì chị mang ra bán hết. Miệng ăn núi lở, đến nay đất cũng chẳng có mà cạp, chị bán vốn tự có với mức giá của gái đứng đường nhặt vài đồng lẻ, chứ nào dám mơ được đi tour ngàn đô như giới showbiz. Doanh thu không bù chi phí, mỗi đợt bảo trì máy móc, chị lại phải chạy vạy vay mượn xóm giềng. Hàng năm kiểm toán chị Việt đều lỗ nặng, kinh tế gia đình ngày càng thê thảm, đàn con rách rưới, đói khát...

Hành nghề kinh doanh vốn tự có nên chị Việt quen biết nhiều. Anh nào đến chị cũng gật đầu. Anh nào chị cũng quan hệ. Anh nào chị cũng coi như tình nhân. Nhưng, hẩm hiu cho đời chị, khi lỡ dại bầu bí thì các anh mất hút.

Đau đớn nhất trong cuộc đời chị là gặp phải thằng Trung nhà hàng xóm. Nó là tình nhân của chị, thường xuyên ăn bánh mà không chịu trả tiền, quan hệ thì vô cùng thô bạo, không hề thương hoa tiếc ngọc, không xót thương cho phận liễu yếu đào tơ của chị.

Mấy năm trước, thằng Trung còn cả gan hiếp dâm chị Việt. Hầu hết khách hàng thân thiết của chị khi ấy làm ngơ, chẳng ai mủi lòng xót thương cho một thân phận hồng nhan bạc mệnh.

Năm ấy, khi chị Việt khóc hết nước mắt vì bị thằng Trung hiếp dâm, thì thằng Nga - chị vốn coi là người tình suốt mấy chục năm qua, lại đứng vỗ tay cổ vũ Trung. Còn gì đau đớn hơn không? Còn gì ê chề, nhục nhã hơn không?

Thất vọng về Nga, ánh mắt chị Việt nhìn sang anh Mỹ đợi chờ trong hy vọng. Khi còn sung sức, anh Mỹ bị hấp dẫn bởi thân hình sexy của chị, đã ngỏ lời cầu hôn không biết bao nhiêu lần, muốn xây nhà ở Cam Ranh để chung sống trọn đời bên chị. Chị Việt khi ấy đã lạnh lùng từ chối. Nay, khi chị nhìn Mỹ với ánh mắt van nài, thì anh lại hô to: America First!

Dạo ấy, chỉ có anh Nhật, vì ghét thằng Trung nên đã cho chị mấy đồng đi bác sĩ khám bệnh sau vụ hiếp dâm. Anh Nhật là con nhà có giáo dục, nghĩa tình với chị Việt vẫn còn. Tiếc là anh Nhật bị yếu sinh lý nên có cũng như không, chẳng giúp gì được cho bi kịch cuộc đời chị.

Chị Việt có con trai. Năm ấy anh chàng này đã cố gào lên một câu tuyên bố không đánh đổi sự mất mát đau đớn của chị Việt lấy quan hệ với thằng Trung. Nhưng bây giờ, anh con trai này cũng chỉ ở nhà nghe Đàm Vĩnh Hưng hát Thành phố buồn.

Đám con của chị thì vẫn đang đói khát. Có lẽ nào, chị lại yêu Trung.


Đêm nay thật yên lắng sau một ngày mưa bão sấm sét, chị lặng lẽ ngồi nhìn ra sân nhà, bên bình trà sen, mông lung suy nghĩ. Trước mặt chị là một màn đen mù mịt, tối như tiền đồ của chị Dậu...

Cuộc sống gia đình chị cơ cực hơn, lộn xộn hơn kể từ ngày chồng chị - cha già của các con chị đi xa mãi mãi. Anh ra đi để lại một túp lều tranh rách nát và đàn con thơ dại. Cũng vì chị đẹp như cô gái ngủ quên trong rừng, một vẻ đẹp hoang dã và vì miếng đất vàng tổ tiên để lại, nên đã có không biết bao nhiêu chàng trai thèm khát, muốn chiếm đoạt cả thể xác lẫn tài sản của chị. Gia đình chị dốc sức chống cự, dù có mất mát, dù có hy sinh chị cũng quyết phải giữ gìn tiết hạnh của mình và đất đai cho các con về sau.

Ngày ấy, những bữa cơm chỉ có canh rau với muối trắng nhưng đầy ắp tiếng cười, thằng lớn nhường cơm cho thằng bé, thằng bé nhường canh cho thằng lớn...

Bảo vệ được đất đai, vườn tược, chị vay mượn khắp nơi làng trên xóm dưới để xây nhà cho các con sống khang trang hơn, đàng hoàng hơn. Chị học người ta vay nặng lãi để đầu tư, kinh doanh, thấy người ta nói gì hay chị cũng thả tiền vào dù chẳng biết gì về nó. Mỗi ngành mỗi nghề chị đều giao cho các con quản lý điều hành. Chị tin các con chị giỏi giang. Các con chị giờ đã lớn, đã thoát kiếp nghèo bằng những đồng tiền chị đi vay. Chúng trở nên hư hỏng kể từ khi được giữ tiền. Bây giờ, các con của chị đứa thì nghiện hút, đứa thì cờ bạc, gái gú... Bao nhiêu tệ nạn xã hội, gia đình chị chẳng thiếu món nào.

Chỉ sau một thời gian ngắn, các ngành nghề đầu tư đa phần thua lỗ. Các con chị không giỏi như chị nghĩ. Trong khi mô hình kinh doanh của gia đình chị lại quá nhiều lỗ hổng, gây thất thoát, lãng phí. Vì thế, chẳng mấy chốc gia đình chị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Làng trên xóm dưới, giờ đây không còn tin tưởng gia đình chị nữa. Họ cho rằng gia đình chị quen ngửa tay đi vay nên đang hạn chế cho vay mới và tăng cường đòi nợ cũ. Chị lo đến mất ăn mất ngủ...

Túng quẫn, chị nghĩ đến anh Nga làng trên và thằng Trung hàng xóm. Anh Nga đẹp trai hào hiệp nhưng nhỏ con và yếu sinh lý, còn thằng Trung hàng xóm thì xấu trai, bẩn tính nhưng to con khỏe mạnh. Chị V đẹp nhưng đầu óc không được minh mẫn như người khác. Vì thế chị đã quyết định dâng hiến nốt phần đời còn lại cho Trung, bất chấp Trung chính là kẻ đã không ít lần hãm hiếp chị.

Với bản tính khốn nạn sẵn có, Trung nhếch mép cười đồng ý với 1 điều kiện, chị phải xử lý hết đám con có tư tưởng ghét Trung trước. Trung biết trong số con đàn cháu đống của chị có nhiều đứa muốn quỳ gối trước anh nhưng cũng có những đứa tỉnh táo, ghét anh ra mặt. Trung muốn xử lý đám này. Việc xử thế nào là tuỳ chị. Trung sẽ xem xét cứu sau khi chị xử được đám con ấy.

Trên đường về, chị nghĩ, giết hết những đứa con ghét Trung sao? Dã man quá, chị sẽ không làm. Đánh nó cho thật đau, rồi bắt quỳ lên gai mít sám hối ư? Vậy nó giận bỏ đi rồi vạch trần thói hư tật xấu của gia đình chị thì sao? Cách này không ổn. Mà lấy cớ gì để phạt chúng nó đây? Chị thật sự rối bời với trăm phương ngàn kế, nâng lên đặt xuống vẫn không quyết được. Chị đành tổ chức họp gia đình.

Hôm họp gia đình, các con chị chia làm 3 nhóm: nhóm yêu Trung ngồi bên phải, nhóm ghét Trung ngồi bên trái và nhóm không chính kiến chạy loanh quanh.

Theo đề nghị của anh lớn tuổi nhất, phải đánh đòn với những đứa em được cho là góp phần khiến kinh tế gia đình trở nên khó khăn, tức nhóm ghét Trung. Cả gia đình đa phần gật đầu đồng ý vì biết trước phải có người bị phạt thì gia đình mới được Trung cứu giúp. Tuy vậy, trong lòng ai cũng hiểu các em ấy cũng chỉ là người phải gánh chịu vì cái gia đình này. Ngày ấy còn trẻ, các em cũng chỉ đi theo các anh, làm theo quyết sách của các anh và những gì các anh chỉ đạo mà thôi.

Chị V đau đớn bao nhiêu thì mấy thằng lớn thương Trung lại hỉ hả bấy nhiêu. Chúng nghĩ rồi đây Trung sẽ giúp chúng có tiền để trả nợ. Chúng muốn hưởng thụ bằng nồi da nấu thịt, bằng xương máu anh em mình.

Chúng không quan tâm, rồi đây thằng Trung sẽ vùi hoa dập liễu, dày vò tấm thân tàn tạ của mẹ chúng. Chúng quỵ luỵ Trung dù chính Trung là thằng đang rình mò cướp nốt cái ao mà gia đình chị đang nuôi cá ngay trước sân nhà...

Cái ao bây giờ đang dậy sóng.

Bạch Hoàn
(FB Bạch Hoàn)

Phần nhận xét hiển thị trên trang