Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

Việt Nam Cộng Hòa và những định mệnh xui xẻo


Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958
Nhìn lại lịch sử, chúng tôi thấy câu ngạn ngữ "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai" sao nó đúng quá: tai bay vạ gió thì luôn theo nhau mà đến với Việt Nam Cộng Hòa, còn những cái may mắn thì ít khi nó trở lại.
Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm: sau bao nhiêu gian lao với Pháp, ông đã khai sinh ra nền Cộng Hòa.
Sau đó xây dựng được những thành tích vẻ vang của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960," (độc giả xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 13). Nhưng vừa tới năm 1961 thì ông phải đối đầu ngay với những giao động khôn lường: nửa năm đầu thì Tổng thống John F. Kennedy hết sức ủng hộ, tới nửa năm sau, bang giao Việt - Mỹ rơi vào khủng hoảng.
Sau cùng thì trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng vào dịp Lễ Phật Đản thứ 2507 (ngày 8/5/1963), TT Kennedy gửi ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại sứ thay thế ĐS Frederick Nolting về hưu.
Nolting là người ủng hộ ông Diệm. Ông Lodge là người mưu mô, nham hiểm, có nhiều thành kiến về ông Diệm. Vì tham vọng muốn lập thành tích để ra ứng cứ tổng thống vào năm 1964 cho nên ông đã dùng đủ mọi mưu lược triệt tiêu Tổng thống Diệm với hậu quả là phá nát nền Đệ Nhất Cộng Hòa mùa Thu 1963. Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY I.
Tới Đệ Nhị Cộng Hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại gặp ngay một tay HENRY nữa - Henry A. Kissinger. Về ông này, ta có thể đặt câu hỏi: ở một cường quốc vĩ đại như Hoa Kỳ, biết bao nhiêu người vừa tài, vừa đức, vừa có tâm, vừa có tầm mà lại không lên được tới địa vị quyền hành như ông Kissinger?
Ông này còn mưu lược, gian dối hơn Cabot Lodge gấp mấy lần. Kissinger đã đạo diễn chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam trong gần sáu năm rưỡi, tức là trên hai phần ba thời gian của Đệ Nhị Cộng Hòa.
Cái nguy hiểm cho cả Mỹ lẫn Miền Nam là ông này thích hành động bí mật và một mình.
Trong một cuộc phỏng vấn với nữ ký giả người Ý, bà Oriana Fallaci, ông giải thích rằng sở dĩ ông có sức mạnh là nhờ ở lối hành động một mình:
"Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa, đi đầu, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ, một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi, không có gì khác. Có thể là không có cả súng nữa, là vì gã ta không cần bắn. Gã chỉ hành động bằng cách là ở đúng chỗ, vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã là một cao bồi miền Tây."
Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY II.
Nhân dịp 30 tháng Tư, chúng tôi xin chia sẻ với đồng hương một vài cảm nghĩ về số phận long đong của cả hai nền Cộng Hòa vào lúc hoàng hôn thê lương ảm đạm.

Khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ

Những cái xui xẻo đã xảy ra liên tục cho Tổng thống Ngô Đình Diệm trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời ông (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 22).
Ngày 3/03/1963 Tòa Bạch Ốc gửi mật điện chỉ thị cho Đại sứ Lodge là: "phải thông báo đầy đủ cho Tướng Harkins (tư lệnh quân đội Mỹ ở Miền Nam) trong mọi giai đoạn, và sử dụng những khuyến cáo của cả Harkins lẫn Smith," và "tất cả chỉ thị cho Conein (người trung gian với nhóm tướng lãnh đảo chính) cũng phải được thông qua ý kiến của Harkins và Smith." Nhưng vào những giờ phút chót, ông Lodge đã trái lệnh Tổng thống, không chịu bàn bạc, thông báo gì với ông Harkins (vì Harkins hết sức bênh vực TT Diệm);
Cố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963Bản quyền hình ảnhYOUTUBE
Image captionCố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963
Cùng ngày 30/03, Đại sứ Lodge hoãn chuyến đi Washington. Ông đã định đi vào ngày 31 tháng 10. Chỉ thị từ Washington là khi ông Lodge đi vắng thì Tướng Harkins sẽ thay thế ông để điều khiển ở Sàigòn. Nếu ông Harkins ở lại thì khó có thể đảo chính. Sau cùng, Washington lại quyết định cho phép ông Lodge hoãn chuyến đi vài ngày. Lodge muốn ở lại Sàigòn để theo rõi đảo chính ngày hôm sau.
Ngày 31 tháng 10 là ngày trước đảo chính. Vì ngày đảo chính (mồng 1 tháng 11) là ngày Lễ Các Thánh, ngày lễ của người Công giáo, nên ông Diệm có thể đi kinh lý hoặc thăm viếng chỗ này chỗ kia. Cho nên Tướng Trần Văn Đôn đề nghị với TT Diệm là ông nên tiếp xã giao Đô đốc Harry Felt (Tư lệnh quân lực Mỹ Thái Bình Dương) vừa tới Sàigòn. Đề nghị như vậy là để có cớ thuyết phục TT Diệm ở lại Dinh Gia Long trong ngày đảo chính cho chắc ăn.
Chính ông Đôn đã viết lại trong cuốn hồi ký Our Endless War - Inside Vietnam:
"Sáng ngày 31 tháng 10, tôi vào dinh gặp Tổng thống Diệm để hỏi về vấn đề Đô đốc Felt đến Sàigòn, và dò hỏi xem có phải vì ông không có mặt ở Sàigòn vào ngày mai nên không tiếp ông Felt được hay không? Ông Diệm ngạc nhiên vì không biết tin ông Felt tới Sàigòn."
Vì Tướng Đôn đề nghị, TT Diệm đã quyết định ở lại Sài gòn để tiếp Đô đốc Felt vào ngày 1/11.
Buổi sáng ngày 1 tháng 11, khi TT Diệm tiếp hai ông Felt và Lodge, ông bất chợt hỏi ông Lodge rằng ông biết đang có âm mưu đảo chính nhưng không biết rõ tướng tá nào muốn đảo chính. Ông Lodge trả lời một cách quanh co: "Tôi không nghĩ rằng Tổng thống phải lo ngại gì cả." Như vậy là để đánh lừa ông Diệm;
Một chuyện nữa hết sức quan trọng, đó là cuối cùng, như đã đề cập trên đây, Tổng thống Diệm đã muốn làm một nghĩa cử ôn hòa với cả Đại sứ Lodge, cả Tổng thống Hoa kỳ. Vì biết ông Lodge sắp lên đường về Washington, ông dặn ông Lodge là khi về tới Washington thì nên gặp hai ông Colby (trưởng trạm CIA ở Sàigòn trước đây) và Nolting (cựu Đại sứ) để bàn bạc về vấn đề giải quyết chuyện ông Nhu cho ổn thỏa.
Rồi ông gửi một thông điệp cho TT Kennedy nói:
"Tôi bằng lòng chấp nhận tất cả những đề nghị của Tổng thống Kennedy một cách hết sức nghiêm chỉnh, và muốn thực sự thi hành những điều này, chỉ còn vấn đề thời gian tính."
Tổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963 ở Dallas
Chắc ông Lodge cũng còn một chút lương tâm và cho rằng như vậy là đã có thể đi tới chỗ hòa hoãn với ông Diệm được rồi, nên ông có báo cáo về Washington thông điệp này.
Thế nhưng, vô tình hay hữu ý, theo Mark Moyar thì ông Lodge lại gửi điện tín này theo thủ tục 'ưu tiên thấp nhất' nên khi thông điệp này tới Washington thì tiếng súng đã bắt đầu nổ ở Sàigòn rồi. Theo một tác giả khác, James W. Douglas trong cuốn JFK and The Unspeakable thì Lodge đã trì hoãn để khi Kennedy nhận được điện tín này thì đã quá trễ.
Ngày 1 tháng 11 cũng là ngày sinh nhật của Đại tá Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, là người trung thành với TT Diệm và đã cứu ông trong dịp đảo chính tháng 2 năm 1962.
Sau khi chơi quần vợt với một số đồng đội, họ mời ông dùng cơm trưa để mừng sinh nhật thứ 36 của ông. Thoạt đầu, ông đã từ chối. Buổi sáng hôm ấy, ông cũng đã chột dạ vì thấy có những cuộc chuyển quân hơi lạ nên muốn theo dõi để báo cáo cho ông Diệm. Nhưng rồi viên sĩ quan phụ tá cố nài ép nên ông nể lòng. Lúc đang trên đường đi tới một quán nhậu ở ngoại ô Sàigòn, ông đã bị sát hại. Như vậy là ông Quyền đã đi trước và dọn đường tới nghĩa trang cho hai ông Diệm-Nhu.
Theo tác giả Mark Moyar (trong cuốn Triumph Forsaken) thì "khi cuộc đảo chính sắp bắt đầu, một viên sĩ quan chỉ huy lữ đoàn Lực lượng Đặc biệt đề nghị với Tổng thống Diệm cho ông dùng xe thiết giáp tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính để bắt trọn ổ số Tướng lãnh đang họp hành. Thành công là chắc chắn, viên sĩ quan cố thuyết phục ông Diệm, vì chỉ có một số lính đang tập sự đứng gác ở Tổng Tham Mưu, và đúng như vậy.
Nếu những tướng chủ mưu bị bắt thì quân đội đảo chính tất sẽ bị rối loạn.
Nhưng TT Diệm không cho phép, ông nói: "Quân đội phải tiết kiệm súng đạn để chống Cộng, và tránh đổ máu," rồi thêm: "Chỉ cần bảo vệ Dinh Gia Long, nhà Bưu điện và Tổng Nha Ngân khố."
GS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ Henry IIBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionGS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ Henry II
Như đề cập trên đây, sau khi tiếng súng đảo chính đã vang dội, Tổng thống Diệm gọi giây nói cho Đại sứ Lodge vào lúc 4 giờ 30 chiều (ngày 1 tháng 11) để hỏi về thái độ của Hoa kỳ. Ông Lodge trả lời lơ mơ là ông không biết gì để nói nhưng có đề nghị với ông Diệm là sẽ cho xe cắm cờ Mỹ đến Dinh Gia Long đưa ông Diệm ra phi trường, rồi dùng máy bay riêng của đại sứ để chở ông ra khỏi nước, nhưng TT Diệm từ chối. Nhưng trái với điều mà nhiều tác giả đã viết, cuộc điện đàm này không phải là trao đổi cuối cùng giữa hai người. Vẫn còn một cú điện thoại khác nữa.
Cú điện thoại thứ hai là lúc ở tại nhà thờ Cha Tam, ông Diệm đã gọi ông Lodge để yêu cầu giúp đỡ phương tiện để ra đi, vì ông Lodge đã hứa rằng "Nếu tôi có thể làm được gì để giúp cho an toàn của Ngài thì Ngài cứ gọi tôi." Nhưng bây giờ ông Lodge lại trả lời là Tòa Đại sứ Mỹ chỉ có thể cho ông trú ẩn và bất cứ điều gì khác, nhưng không thể giúp phương tiện chuyên chở ông ra khỏi nước. Như vậy là trái hẳn với đề nghị của ông Lodge chiều hôm trước. Ông Mike Dunn, Phụ tá trưởng của đại sứ - là người đứng bên ông Lodge khi ông này nói diện thoại với ông Diệm - đã xin tự nguyện đến chở hai ông Diệm, Nhu đi để bảo vệ cho hai ông, nhưng ông Lodge đã không đồng ý! "Tôi thật ngạc nhiên là ta đã không làm gì để giúp cho hai anh em họ Ngô," ông Dunn phàn nàn.
Một nhân chứng nữa cũng khẳng định về việc này là nhà báo Joseph Fried của tờ New York Daily News trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 11, 1963.
Sau khi ông Lodge từ chối giúp đỡ, Tổng thống Diệm hoàn toàn thất vọng, khoảng 7 giờ sáng ngày mồng 2 ông quyết định gọi điện thoại cho Bộ Chỉ huy Đảo Chánh thông báo là ông đã ra lệnh cho lính phòng vệ Phủ tổng thống ngưng bắn và ông đầu hàng vô điều kiện.
Đây là một việc không may mắn nhất cho TT Diệm vì cho tới ngày đảo chính, nhóm tướng lãnh vẫn còn nghi ngờ nhau, chưa có sự tin tưởng và đồng ý hoàn toàn. Chính TT Thiệu đã kể lại (với Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân) là "nếu ông Diệm và ông Nhu không ra trình diện (gọi điện thoại) vào sáng ngày 2 tháng 11, chỉ cần nán lại tới trưa cùng ngày thì các tướng lãnh sẽ lên máy bay chạy hết vì lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau" là đã mắc mưu ông Nhu.
Trước đó, trong giai đoạn chuẩn bị đảo chính, Tướng Paul Harkins, Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam cũng báo cáo về cho tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Tham Mưu Liên Quân về nhóm tướng lãnh:
Bà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoàiBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionBà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoài
"Tôi thấy chúng ta có một tổ chức của nhóm người thật hoang mang trong đó mọi người nghi ngờ mọi người khác."
Các tướng lãnh yêu cầu Conein sắp xếp máy bay, nhưng CIA trả lời là cần 24 giờ thì mới thu xếp được, nhưng thật ra là đã có sẵn một chiếc máy bay ở Sàigòn để chở Đại sứ Lodge về Washington và ông này đã hoãn chuyến đi. Dù sao, khi nghe thấy nói đến 24 giờ, Tướng Minh gắt lên "Chúng tôi không giữ họ lâu thêm được nữa."
Sau này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó là Đại tá) còn kể lại với chúng tôi rằng:
"Khi được lệnh đánh Dinh Gia Long, ông đã có ý định tìm TT Diệm và mời ông lên xe jeep mở mui để về Bộ TTM rồi đưa ông đi ra ngoại quốc, nhưng khi chiếm Dinh xong thì thấy ông Diệm đã đi rồi. Ông Thiệu thêm: "Nếu như TT Diệm đi xe jeep mui trần như vậy thì không ai dám sát hại ông..."
Đến khi ông Thiệu được tin TT Diệm gọi điện thoại về Bộ Tổng Tham Mưu, ông còn đề nghị với Tướng Minh để cho ông đi đón TT Diệm từ nhà thờ Cha Tam, nhưng ông Minh gạt đi và nói "Khỏi phải lo, đã có người rồi."

Bất hạnh cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Hòa

Tháng 2/1972, TT Nixon đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao. Dịp này ông đã đảo ngược "chính sách ngăn chặn Trung Quốc" (containment of China). Khi mở cửa Bắc Kinh thì ông đóng cửa Sàigòn, và khi bắt tay với ông Mao thì buông ngay tay ông Thiệu (như chúng tôi đã viết trong cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu).
Sau đó Nixon - Kissinger áp lực Miền Nam ký Hiệp Định Paris (1/1973). Từ đó những cái xui xui xẻo tới dồn dập:
Ngược lại với những cam kết của TT Nixon là sẽ tiếp tục viện trợ, VNCH vừa ký kết một hiệp định hết sức bất lợi thì lại bị cắt xén viện trợ thật bất ngờ và thật nhanh;
Còn được chút ít viện trợ thì lại bị ngay cú 'sốc' siêu lạm phát (do chiến tranh Israel - Ai Cập vào tháng 10/1973) làm tiêu hao mãi lực của viện trợ. Một thùng dầu thô đang từ 4USD vọt lên 12 USD.
Tới khi viên trợ bị cắt hết, Miền Nam xoay xở đi vay Quốc Vương xứ Saudi để mua tiếp liệu. Vua Saud al Faisal vừa đồng ý cho vay 300 triệu USD thì lại bị người cháu ruột hạ sát thê thảm ngay trong hoàng cung. Ông nằm xuống vào đúng ngày cố đô Huế bị bỏ ngỏ.
Tổng thống Johnson và Tổng thống ThiệuBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống Johnson và Tổng thống Thiệu tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Việt 20/07/1968 ở Honolulu
Trên chiến trường, lúc bị tấn công, Ban Mê Thuột gọi không quân đến yểm trợ. Phi vụ vừa tới thả bom thì một trái rơi trúng ngay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23;
Mất Ban Mê Thuột, có lệnh rút Pleiku. Ngày 18 tháng 3, quân dân hoảng hốt rút trên con đường 7B đẫm máu. Vừa về tới Phú Bổn thì bị kẹt ngay vì công binh chưa làm xong cây cầu nổi như đã dự tính: đoàn người di tản chịu thêm một trận pháo kích bên bờ sông Ea Pha. Sau này Tổng Thống Thiệu kể lại cho tôi rằng ông vẫn còn thắc mắc về chuyện tại sao Công Binh không làm xong cái cầu nổi? Đại tướng Viên cũng cho rằng "Sư đoàn 320 của cộng sản sẽ không bao giờ truy kích kịp đoàn quân nếu chúng ta có được cầu qua sông thiết lập đúng lúc, và giữ đuợc trật tự trong đoàn dân quân di tản." Vì cầu không xong, cho nên:
Hai ngày sau mới rời đuợc Hậu Bổn. Đoàn dân quân vừa tiến được chừng 20 cây số là khựng ngay, vì "trước mặt đoàn di tản là Phú Túc đả bị địch chiếm."
Khi không quân tới cứu,"một trái bom nữa rơi vào đoàn quân đi đầu, gây thương vong cho gần một tiểu đoàn Biệt Động Quân."
Tôi đang dự một buổi họp đầy căng thẳng tại Dinh Độc Lập sau cuộc rút lui thảm hại này thì Đại Tá Cầm (Chánh Văn phòng Tổng Thống) bước vào đưa một tin bất hạnh: ông Paul Léandri, trưởng phòng thông tấn xã Agence France Presse ở Sàigòn bị cảnh sát bắn chết.
Léandri loan tin "có số lính người Thượng (Montagnards) đã nổi loạn ở Hậu Bổn, chống lại quân đội VNCH'. Nha Cảnh Sát mời ông đến để thẩm vấn. Sau vài tiếng đồng hồ bị giữ lại, Leandri bỗng nhiên bước ra khỏi phòng, nhảy lên xe và lái vút đi. Khi cảnh sát huýt còi ngừng, ông cứ tiếp tục phóng. Cảnh sát rút súng bắn vài phát vào bánh xe để giữ lại. Chẳng may một viên đạn lạc trúng ngay vao người. Leandri gục chết tại chỗ.
Phóng viên ngoại quốc vô cùng phẫn uất, phản kháng kịch liệt. Trong một tình hình vô cùng bất lợi cho Miền Nam về tất cả mọi phương diện quân sự, chính trị, kinh tế, và bộ mặt Miền Nam đã bị bôi nhọ bởi những hình ảnh dã man, độc tài, tham nhũng, bây giờ hình ảnh Leandri bị bắn gục chết lại phóng đi khắp thế giới! Tổng Thống Thiệu nghe tin này đã tái mặt. Ông liền chấm dứt, bước ra khỏi phòng họp.
Mấy ngày hôm sau, trong một phiên họp khác ở Văn Phòng Thủ Tướng, lại có tin chiếc máy bay vận chuyển C-5A chở đám trẻ em mồ côi vừa cất cánh ở Tân Sơn Nhất đã bị nổ tan. Chết trên 200 trăm em bé! Vào chính lúc đó lại đang có những chống đối ngay tại Washington về việc di tản người Việt Nam bằng máy bay Mỹ.
Ôi sao tin tức nó dồn dập, bi đát đến thế vào lúc con thuyền Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm!
Suy gẫm như vậy, nhiều nguời trong đó có tác giả, cũng chỉ còn có cách là nghĩ đến chữ 'mệnh'.
...Ngày nay nhìn lại, riêng phần tác giả thì cũng chỉ có một mong ước, đó là những thế hệ con cháu được sống trong thời đại kỹ thuật, có nhiều phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi để liên lạc nên sẽ có thể gần gũi nhau hơn, thông cảm nhau hơn để rồi từng bước có thể giúp cho vận mệnh đất nước trở nên tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là niềm hy vọng của đại đa số người dân Việt Nam hôm nay.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Công văn hỏa tốc đề nghị các tỉnh 'giải cứu' lợn


Đọc tin "giải cứu lợn" đã thấy buồn cười. Cứu gì lợn, kêu gọi toàn dân hăng hái giết lợn thì có. Công văn của Bộ Lông Vịt toàn những câu sáo rỗng và biện pháp duy ý chí, chắc chẳng ai thèm quan tâm. Chỉ có một số người dân thương nông dân thì cố... ăn thịt lợn. Nhưng ăn cũng chẳng giúp gì được nông dân mà chủ yếu làm giầu cho các doanh nghiệp và cơ sở buôn bán lợn vì chúng lợi dụng cơ chế quản lý nửa thị trường, nửa hành chính hiện nay để cố tình mua rẻ, bán đắt kiếm lợi nhuận siêu khủng. Đáng buồn là câu kết của bài này: "Thực tế, ngành chăn nuôi lợn hiện nay đang bị “khủng hoảng thừa” dẫn đến giá lợn giảm rất mạnh nhưng vẫn khó bán". Thừa đâu mà thừa, khắp nơi đồng bào ko có thịt ăn nhưng doanh nghiệp vẫn bán giá cao độc quyền, nhà nước vẫn tìm mọi cách vơ vét hết tiền của dân vào ngân sách dưới nhiều hình thức. Xem thêm: Chính phủ vay hơn 600.000 tỷ bù đắp bội chi ngân sách đến 2018
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
Công văn hỏa tốc đề nghị các tỉnh 'giải cứu' lợn
27/04/2017  Bộ NN-PTNT vừa mới có công văn hỏa tốc gửi các UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị khẩn trương vào cuộc ổn định tình hình chăn nuôi lợn. Trong đó, cần tạo điều kiện cho các cơ sở giết mổ, chế biến phát huy tối đa công suất sản xuất các sản phẩm thành phẩm và dự trữ thịt lợn góp phần tạo nguồn tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho người chăn nuôi..
Công văn hỏa tốc của Bộ NN-PTNT đề nghị các tỉnh "giải cứu" lợn khẩn cấp
Cụ thể, theo công văn của Bộ NN-PTNT, sau một thời gian phát triển nóng của ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn và công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi (TĂCN) đã bộc lộ một số tồn tại bất cập về thị trường. Trong đó, đặc biệt là thị trường thịt lợn. Giá thịt lợn hơi xuất chuồng đã xuống thấp, gây thua thiệt lớn cho người chăn nuôi.

Nhằm từng bước ổn định và phát triển chăn nuôi nói chung, nhất là đối với chăn nuôi lợn (ngành chiếm tỷ trọng trên 70% thị phần các sản phẩm chăn nuôi cũng như cơ cấu tiêu dùng thực phẩm hàng ngày của người dân), Bộ NN-PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Sở, ngành có liên quan triển khai một số giải pháp cấp bách trước mắt cũng như lâu dài để ổn định tình hình chăn nuôi lợn


Cụ thể, giao cho các cơ quan chuyên môn hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, thức ăn và quy trình chăm sóc nuôi dưỡng nhằm hạ giá thành sản xuất ở mức thấp nhất trong điều kiện có thể;

Tuyên truyền, khuyến cáo các đơn vị sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi trên địa bàn rà soát quy trình sản xuất, điều chỉnh giá bán phù hợp trên tinh thần chia sẻ với người chăn nuôi vượt qua những khó khăn trước mắt; Chỉ đạo cơ quan thú y tăng cường công tác kiểm tra dịch bệnh, tiêm phòng vắc-xin, không để tình trạng cắt bớt các khâu quản lý dịch bệnh sẽ dẫn tới hệ lụy phát dịch trong thời gian tới.

Tạo điều kiện cho các cơ sở giết mổ, chế biến phát huy tối đa công suất sản xuất các sản phẩm thành phẩm và dự trữ thịt lợn góp phần tạo nguồn tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho người chăn nuôi. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý thị trường, giảm khâu trung gian, quản lý tốt giá cả, tạo thuận lợi cho người chăn nuôi tiêu thụ sản phẩm.

Về lâu dài, tổ chức lại sản xuất chăn nuôi theo chuỗi liên kết, trong đó phát huy tối đa vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội và hợp tác xã nhằm kiểm soát tốt hơn về chất lượng, an toàn thực phẩm và điều tiết cung cầu thị trường các sản phẩm chăn nuôi; Triển khai các giải pháp tổng thể nhằm phát triển thị trường cho sản phẩm chăn nuôi của địa phương (xác định địa phương phải chủ động là chính kết hợp giải pháp liên kết trong vùng và liên vùng).

Ngoài ra, cần rà soát, thống kê chăn nuôi để có qui hoạch tổng thể phát triển chăn nuôi phù hợp với từng địa phương; vừa bảo đảm ổn định thị trường vừa bảo vệ môi trường chăn nuôi gắn an toàn thực phẩm…

Thực tế, ngành chăn nuôi lợn hiện nay đang bị “khủng hoảng thừa” dẫn đến giá lợn giảm rất mạnh nhưng vẫn khó bán.

B.H
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/bo-nn-ptnt-gui-cong-van-hoa-toc-de-nghi-cac-tinh-giai-cuu-lon-370080.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Truyện như cứt:

Chuyện đời chị Việt
Dạo ấy, chỉ có anh Nhật, vì ghét thằng Trung nên đã cho chị mấy đồng đi bác sĩ khám bệnh sau vụ hiếp dâm. Anh Nhật là con nhà có giáo dục, nghĩa tình với chị Việt vẫn còn. Tiếc là anh Nhật bị yếu sinh lý nên có cũng như không, chẳng giúp gì được cho bi kịch cuộc đời chị. Chị Việt có con trai. Năm ấy anh chàng này đã cố gào lên một câu tuyên bố không đánh đổi sự mất mát đau đớn của chị Việt lấy quan hệ với thằng Trung. Nhưng bây giờ, anh con trai này cũng chỉ ở nhà nghe Đàm Vĩnh Hưng hát Thành phố buồn.

Đêm đã về khuya, viết thời sự kinh tế xã hội thì thật kém duyên. Thế nên tôi xin phép viết truyện ngôn tình, đó là câu chuyện cuộc đời chị Việt.
Chị Việt vốn là người con gái đẹp. Chị có body với đường cong chữ S mà phụ nữ ngày nay phải nướng vào các thẩm mỹ viện hàng trăm triệu đồng, chịu dao kéo đớn đau, thậm chí có người mất mạng... mới có được.



Đáng lẽ hồng nhan thì phải có bạc tỉ. Nhưng tiếc thay, chị Việt sinh ra trong một gia đình có truyền thống vô giáo dục, bằng cấp thì có mà tri thức lại không. Bản thân lười biếng nhưng lại tiêu hoang, chị Việt ngày càng tha hoá.

Về kinh tế, chị Việt kiếm ăn bằng cách bán vốn tự có.

Năm xưa, khi mới được giao thừa kế đất đai, nhà cửa, để có tiền tiêu xài, vườn tược có gì chị mang ra bán hết. Miệng ăn núi lở, đến nay đất cũng chẳng có mà cạp, chị bán vốn tự có với mức giá của gái đứng đường nhặt vài đồng lẻ, chứ nào dám mơ được đi tour ngàn đô như giới showbiz. Doanh thu không bù chi phí, mỗi đợt bảo trì máy móc, chị lại phải chạy vạy vay mượn xóm giềng. Hàng năm kiểm toán chị Việt đều lỗ nặng, kinh tế gia đình ngày càng thê thảm, đàn con rách rưới, đói khát...

Hành nghề kinh doanh vốn tự có nên chị Việt quen biết nhiều. Anh nào đến chị cũng gật đầu. Anh nào chị cũng quan hệ. Anh nào chị cũng coi như tình nhân. Nhưng, hẩm hiu cho đời chị, khi lỡ dại bầu bí thì các anh mất hút.

Đau đớn nhất trong cuộc đời chị là gặp phải thằng Trung nhà hàng xóm. Nó là tình nhân của chị, thường xuyên ăn bánh mà không chịu trả tiền, quan hệ thì vô cùng thô bạo, không hề thương hoa tiếc ngọc, không xót thương cho phận liễu yếu đào tơ của chị.

Mấy năm trước, thằng Trung còn cả gan hiếp dâm chị Việt. Hầu hết khách hàng thân thiết của chị khi ấy làm ngơ, chẳng ai mủi lòng xót thương cho một thân phận hồng nhan bạc mệnh.

Năm ấy, khi chị Việt khóc hết nước mắt vì bị thằng Trung hiếp dâm, thì thằng Nga - chị vốn coi là người tình suốt mấy chục năm qua, lại đứng vỗ tay cổ vũ Trung. Còn gì đau đớn hơn không? Còn gì ê chề, nhục nhã hơn không?

Thất vọng về Nga, ánh mắt chị Việt nhìn sang anh Mỹ đợi chờ trong hy vọng. Khi còn sung sức, anh Mỹ bị hấp dẫn bởi thân hình sexy của chị, đã ngỏ lời cầu hôn không biết bao nhiêu lần, muốn xây nhà ở Cam Ranh để chung sống trọn đời bên chị. Chị Việt khi ấy đã lạnh lùng từ chối. Nay, khi chị nhìn Mỹ với ánh mắt van nài, thì anh lại hô to: America First!

Dạo ấy, chỉ có anh Nhật, vì ghét thằng Trung nên đã cho chị mấy đồng đi bác sĩ khám bệnh sau vụ hiếp dâm. Anh Nhật là con nhà có giáo dục, nghĩa tình với chị Việt vẫn còn. Tiếc là anh Nhật bị yếu sinh lý nên có cũng như không, chẳng giúp gì được cho bi kịch cuộc đời chị.

Chị Việt có con trai. Năm ấy anh chàng này đã cố gào lên một câu tuyên bố không đánh đổi sự mất mát đau đớn của chị Việt lấy quan hệ với thằng Trung. Nhưng bây giờ, anh con trai này cũng chỉ ở nhà nghe Đàm Vĩnh Hưng hát Thành phố buồn.

Đám con của chị thì vẫn đang đói khát. Có lẽ nào, chị lại yêu Trung.


Đêm nay thật yên lắng sau một ngày mưa bão sấm sét, chị lặng lẽ ngồi nhìn ra sân nhà, bên bình trà sen, mông lung suy nghĩ. Trước mặt chị là một màn đen mù mịt, tối như tiền đồ của chị Dậu...

Cuộc sống gia đình chị cơ cực hơn, lộn xộn hơn kể từ ngày chồng chị - cha già của các con chị đi xa mãi mãi. Anh ra đi để lại một túp lều tranh rách nát và đàn con thơ dại. Cũng vì chị đẹp như cô gái ngủ quên trong rừng, một vẻ đẹp hoang dã và vì miếng đất vàng tổ tiên để lại, nên đã có không biết bao nhiêu chàng trai thèm khát, muốn chiếm đoạt cả thể xác lẫn tài sản của chị. Gia đình chị dốc sức chống cự, dù có mất mát, dù có hy sinh chị cũng quyết phải giữ gìn tiết hạnh của mình và đất đai cho các con về sau.

Ngày ấy, những bữa cơm chỉ có canh rau với muối trắng nhưng đầy ắp tiếng cười, thằng lớn nhường cơm cho thằng bé, thằng bé nhường canh cho thằng lớn...

Bảo vệ được đất đai, vườn tược, chị vay mượn khắp nơi làng trên xóm dưới để xây nhà cho các con sống khang trang hơn, đàng hoàng hơn. Chị học người ta vay nặng lãi để đầu tư, kinh doanh, thấy người ta nói gì hay chị cũng thả tiền vào dù chẳng biết gì về nó. Mỗi ngành mỗi nghề chị đều giao cho các con quản lý điều hành. Chị tin các con chị giỏi giang. Các con chị giờ đã lớn, đã thoát kiếp nghèo bằng những đồng tiền chị đi vay. Chúng trở nên hư hỏng kể từ khi được giữ tiền. Bây giờ, các con của chị đứa thì nghiện hút, đứa thì cờ bạc, gái gú... Bao nhiêu tệ nạn xã hội, gia đình chị chẳng thiếu món nào.

Chỉ sau một thời gian ngắn, các ngành nghề đầu tư đa phần thua lỗ. Các con chị không giỏi như chị nghĩ. Trong khi mô hình kinh doanh của gia đình chị lại quá nhiều lỗ hổng, gây thất thoát, lãng phí. Vì thế, chẳng mấy chốc gia đình chị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Làng trên xóm dưới, giờ đây không còn tin tưởng gia đình chị nữa. Họ cho rằng gia đình chị quen ngửa tay đi vay nên đang hạn chế cho vay mới và tăng cường đòi nợ cũ. Chị lo đến mất ăn mất ngủ...

Túng quẫn, chị nghĩ đến anh Nga làng trên và thằng Trung hàng xóm. Anh Nga đẹp trai hào hiệp nhưng nhỏ con và yếu sinh lý, còn thằng Trung hàng xóm thì xấu trai, bẩn tính nhưng to con khỏe mạnh. Chị V đẹp nhưng đầu óc không được minh mẫn như người khác. Vì thế chị đã quyết định dâng hiến nốt phần đời còn lại cho Trung, bất chấp Trung chính là kẻ đã không ít lần hãm hiếp chị.

Với bản tính khốn nạn sẵn có, Trung nhếch mép cười đồng ý với 1 điều kiện, chị phải xử lý hết đám con có tư tưởng ghét Trung trước. Trung biết trong số con đàn cháu đống của chị có nhiều đứa muốn quỳ gối trước anh nhưng cũng có những đứa tỉnh táo, ghét anh ra mặt. Trung muốn xử lý đám này. Việc xử thế nào là tuỳ chị. Trung sẽ xem xét cứu sau khi chị xử được đám con ấy.

Trên đường về, chị nghĩ, giết hết những đứa con ghét Trung sao? Dã man quá, chị sẽ không làm. Đánh nó cho thật đau, rồi bắt quỳ lên gai mít sám hối ư? Vậy nó giận bỏ đi rồi vạch trần thói hư tật xấu của gia đình chị thì sao? Cách này không ổn. Mà lấy cớ gì để phạt chúng nó đây? Chị thật sự rối bời với trăm phương ngàn kế, nâng lên đặt xuống vẫn không quyết được. Chị đành tổ chức họp gia đình.

Hôm họp gia đình, các con chị chia làm 3 nhóm: nhóm yêu Trung ngồi bên phải, nhóm ghét Trung ngồi bên trái và nhóm không chính kiến chạy loanh quanh.

Theo đề nghị của anh lớn tuổi nhất, phải đánh đòn với những đứa em được cho là góp phần khiến kinh tế gia đình trở nên khó khăn, tức nhóm ghét Trung. Cả gia đình đa phần gật đầu đồng ý vì biết trước phải có người bị phạt thì gia đình mới được Trung cứu giúp. Tuy vậy, trong lòng ai cũng hiểu các em ấy cũng chỉ là người phải gánh chịu vì cái gia đình này. Ngày ấy còn trẻ, các em cũng chỉ đi theo các anh, làm theo quyết sách của các anh và những gì các anh chỉ đạo mà thôi.

Chị V đau đớn bao nhiêu thì mấy thằng lớn thương Trung lại hỉ hả bấy nhiêu. Chúng nghĩ rồi đây Trung sẽ giúp chúng có tiền để trả nợ. Chúng muốn hưởng thụ bằng nồi da nấu thịt, bằng xương máu anh em mình.

Chúng không quan tâm, rồi đây thằng Trung sẽ vùi hoa dập liễu, dày vò tấm thân tàn tạ của mẹ chúng. Chúng quỵ luỵ Trung dù chính Trung là thằng đang rình mò cướp nốt cái ao mà gia đình chị đang nuôi cá ngay trước sân nhà...

Cái ao bây giờ đang dậy sóng.

Bạch Hoàn
(FB Bạch Hoàn)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Từ tương lai trở về… hiện tại


Trong thế giới hữu hình, chúng ta có 3 chiều: dài, rộng và cao. Có thể xem khái niệm về không gian 3 chiều là quy luật bất biến của vật chất và vật thể. Bước sang dòng tư tưởng trừu tượng, người ta lại khám phá ra thêm một chiều nữa là “Chiều Thời Gian” luôn chuyển động không ngừng nghỉ.

Thời gian chi phối mọi biến đổi của cuộc sống cho dù rất khó có thể xác định một cách chính xác. Tuy nhiên, cuộc sống của tất cả các sinh vật, dù muốn dù không, đều chuyển động theo chiều thời gian.

Hệ quả là sinh vật đi từ trẻ thơ đến tuổi già, vật chất lại tiến hóa từ lúc còn mới đến trở thành cũ. “Chiều của thời gian” chính là trình tự đi từ Quá Khứ, chuyển qua Hiện Tại và chấm dứt ở Tương Lai.

Từ không gian 4 chiều, con người lại chuyển sang một ý niệm trừu tượng, nếu không muốn nói là rất “hợp lý”: một ngày nào đó, người ta sẽ tạo ra một cỗ máy, tạm gọi là “cỗ máy thời gian”. Cỗ máy đó có vận tốc nhanh hơn ánh sáng gấp nhiều lần để người ta lùi lại thời Quá Khứ cũng như thấy được Tương Lai.

Vào năm 1895, nhà văn người Anh, H. G. Wells, dựa vào lý thuyết “chiều thứ tư” đã viết một cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng khi đề cập đến việc ngồi trong cỗ máy thời gian để trở về Quá Khứ hoặc nhìn thấy được Tương Lai.

“The Time Machine” đã được chuyển thể thành hai bộ phim cùng tên vào năm 1960 và 2002. Từ đó, cỗ máy thời gian đã tạo cảm hứng cho các tác phẩm văn học cũng như giải trí như phim truyền hình và chuyện tranh.   

Yvette Mimieux và Rod Taylor trong phim “The Time Machine” năm 1960

Nhân vật chính của “The Time Machine” là một nhà khoa học, đồng thời là nhà phát minh ra cỗ máy. Ông sống ở Anh dưới thời Victoria và được Wells gọi là “Người du hành thời gian”. Cỗ máy mới thoạt trông cũng giống như bất kỳ cỗ máy nào, chỉ khác một điều là nó có bảng điều khiển để người du hành có thể bấm nút vào điểm thời gian để trở lại Quá khứ hay đi đến Tương Lai. 

Nếu có cỗ máy đó, chúng ta có thể nhìn lại Sài Gòn hay Hà Nội mà không cần lục lại những hình ảnh xưa như ta vẫn thường làm ngày nay. Chắc phải thú vị và hấp dẫn bội phần và điều quan trọng không ai có thể ngụy tạo những hoạt cảnh đó! Đơn giản vì hình ảnh mà ta lưu giữ có thể là đã bị photoshop nhưng hình ảnh ta nhìn từ cỗ máy thời gian sẽ hoàn toàn trung thực.

 Tác phẩm “The Time Machine” của H. G. Wells.
Ấn bản đầu tiên năm 1895

Đến năm 1948, nhà văn người Anh, George Orwell, viết một cuốn sách, không phải là “khoa học giả tưởng” như “The Time Machine” nhưng thuộc loại “chính trị giả tưởng”. Ông đặt tựa sách là “Nineteen Eighty-Four” mà sau này được đơn giản hóa chỉ còn 4 con số: “1984”.

“1984” là thời tương lai của năm 1948, chỉ cần đảo ngược 2 con số cuối, nhưng những chuyện xảy ra trong năm 1984 không đơn giản như việc đảo ngược những con số. George Orwell “tưởng tượng” vào 1984 sẽ có một nhà nước được gọi tên là Oceania (tạm dịch là Đại Dương), đó là một trong 3 siêu cường của thế giới sau cuộc thế chiến nguyên tử, hai siêu cường kia là Eurasia và Eastasia.

 Bản đồ thế giới năm 1984 gồm 3 siêu cường Oceania, Eurosia và Eastasia

Oceania chính là nước Anh và chuyện xảy ra ở thành phố “Airstrip One”, đó chính là thủ đô Luân Đôn đã được đổi tên. Khắp nơi trong thành phố tràn ngập chân dung của “Big Brother” (tạm dịch là Anh Cả) với khẩu hiệu “Anh Cả đang theo dõi bạn” (nguyên văn: “Big Brother is Watching You”).

Chữ viết tại Oceania vẫn là tiếng Anh nhưng là loại tiếng Anh “cải tiến”, được mang tên “Newspeak”. Có những từ ngữ mới như “doublethink” (suy nghĩ ngược lại với đường lối của Đảng), “thoughtpolice” (cảnh sát tư tưởng), “thoughtcrime” (tội phạm về tư tưởng)… Tiếng Anh vào năm 1984 là loại “tiếng Anh xã hội chủ nghĩa”, có tên là “Ingsoc” (English Socialism), khác nhiều so với “Oldspeak” là tiếng Anh tiêu chuẩn (Standard English).

Để hiểu rõ những gì được đề cập đến trong “1984” người đọc phải làm quen với một số từ ngữ trong “Newspeak”. Quy luật văn phạm đơn giản hơn tiếng Anh ngày nay rất nhiều, để cấu thành những tiếp đầu ngữ, Orwell dùng “plus_” như “plusgood”, phủ định chỉ dùng “un_”: “ungood” hay thể so sánh tuyệt đối, tác giả chỉ cần dùng “double plus_” như trong câu ca tụng Anh Cả: "Big Brother is doubleplusgood".

Trong “Newspeak”, “crimethink” là những suy nghĩ phản động, dễ biến thành tội ác về tư tưởng “thoughtcrime” và như vậy đi ngược lại với “goodthink” do Đảng đề ra. Nhân vật chính trong truyện đã viết trong nhật ký của mình:"Thoughtcrime does not entail death: thoughtcrime IS death”.

Cũng trong ngôn ngữ của năm 1984, “duckspeak” có nghĩa là kêu cạp cạp như vịt hay nghĩa đen là nói mà không suy nghĩ. “Duckspeak” có thể là một một từ diễn tả một ý tốt đẹp nhưng lại cũng là ý xấu xa, nói dối mà trong ngôn ngữ Newspeak gọi là “ungood”. Ý tốt hay xấu tùy thuộc vào người nói và cũng còn tùy vào quan điểm của Đảng.

Một công dân khi trở thành “unperson” (người chết) có nghĩa là người đó đã bị “bốc hơi” (vaporized). Hắn không những bị nhà nước giết chết mà sự hiện diện của hắn còn bị xóa sạch khỏi hồ sơ để hoàn toàn biến mất trong cuộc sống. Hắn không lưu lại một dấu vết nào đối với người sống, dù đó là bạn bè hay thân thuộc.


“Ingsoc” (English Socialism) là thứ tiếng Anh dùng trong năm 1984


Châm ngôn hành động của nhà nước Oceania được gói gọn trong 3 khẩu hiệu:

·         CHIẾN TRANH LÀ HÒA BÌNH (War is Peace)
·         TỰ DO LÀ NÔ LỆ (Freedom is Slavery)
·         DỐT NÁT LÀ SỨC MẠNH (Ignorance is Strength)

Mọi sinh hoạt hàng ngày ở Oceania đều thông qua những “thiết bị thu và phát sóng truyền hình” được gọi là “telescreen” để kiểm soát mọi hoạt động, riêng tư cũng như công cộng, của người dân. Người dân tại đây được chia thành 3 giai cấp chính:

(1) Giai cấp thượng lưu “Inner Party” (những người trong Đảng) là giai cấp thiểu số thống trị, chiếm 2% dân số;

(2) Giai cấp trung lưu “Outer Party” (những người ngoài Đảng), chiếm 13%;

(3) Giai cấp vô sản “Proletariat” bao gồm những người không thuộc 2 thành phần trên, họ chiếm 85%. 

Về mặt chính quyền, Đảng có 4 Bộ chính:

(1) Bộ Hòa bình (Ministry of Peace - Minipax) phụ trách quốc phòng và chiến tranh;

(2) Bộ Sung túc (Ministry of Plenty - Miniplenty) phụ trách các vấn đề về kinh tế, bao gồm nghèo đói và khẩu phần lương thực;

(3) Bộ Tình thương (Ministry of Love - Miniluv) phụ trách về pháp luật, kể cả việc tẩy não (brainwashing) và tra tấn (torture);

(4) Bộ Sự thật (Ministry of Truth - Minitrue) phụ trách về thông tin, giải trí, giáo dục, nghệ thuật, tuyên truyền…

“Big Brother is Watching You”


Nhân vật chính trong “1984” là Winston Smith, thuộc thành phần thứ 2, “Outer Party”. Anh đã bị tách ra khỏi gia đình từ nhỏ và sống trong một cô nhi viện, được nhà nước dạy dỗ để trở thành “đầy tớ trung thành của chế độ”.

Smith là một nhân viên trực thuộc Bộ Sự thật với nhiệm vụ biên tập lại lịch sử trong quá khứ để phù hợp với hiện tại. Anh còn có nhiệm vụ xóa mọi dấu tích của những người đã bị nhà nước cho “bốc hơi” (vaporised) để trở thành “unperson”, biến mất khỏi cuộc sống.  

Châm ngôn của Đảng là: "Kẻ nào kiềm chế được quá khứ, kẻ đó kiểm soát được tương lai: Kẻ nào kiểm soát được hiện tại, kẻ đó kiềm chế được quá khứ". 

Cái khó của Smith khi sống trong môi trường chính trị này là đòi hỏi trí óc phải vận dụng khi sửa đổi các tư liệu lịch sử. Tuy nhiên, anh vẫn hứng thú với thứ gọi là "quá khứ thực" và dày công tìm hiểu về nó mặc dầu biết đó là một “thoughtcrime”.

Trong giai đoạn bị “cải tạo chính trị”, Winston Smith thừa nhận những tội trạng mà anh “đã làm” cũng như “không hề làm”. Cảnh sát tư tưởng đã khai thác anh trong “Phòng 101”, căn phòng đáng sợ nhất ở Miniluv. Tại đây, bất cứ ai cũng đều phải ở chung với thứ mà họ sợ nhất. Đối với Smith, đó là những con chuột. Chính những sinh vật này đã khiến Smith phải ngoan ngoãn chấp nhận việc “cải tạo”.

Cuối cùng có tin Oceania đã giành chiến thắng quyết định trước quân đội Eurasia. Đám đông nô nức ăn mừng ngoài đường phố và Smith cũng tưởng tượng mình có mặt trong dòng người đó. Anh nhìn lên bức chân dung của “Big Brother”, anh đắm chìm trong một giấc mơ là mình sẽ tự thú hết và rồi sẽ được… lãnh án tử hình. Anh sẽ được “bốc hơi”!

Tác phẩm “Nineteen Eighty-Four”, ấn bản đầu tiên năm 1949 

Ngay sau khi “Nineteen Eighty-Four” được xuất bản trong năm 1949 đã gây nhiều tranh cãi vì đó là di chúc của George Orwell với những khuyến cáo nhân loại phải cảnh giác trước mối đe dọa của nền độc tài cực quyền.

Cuốn sách của Orwell đã nổi tiếng đến độ trong kho từ vựng tiếng Anh xuất hiện một từ mới: “Orwellian” với hàm ý sự ngụy tạo của một nhà nước độc tài, chuyên chế. Năm 2005, tạp chí Time xếp “1984” trong số 100 truyện có số người đọc nhiều nhất.

Kể từ khi Donald Trump xuất hiện trong vai trò Tổng thống Hoa Kỳ, “Nineteen Eighty-Four” một lần nữa trở thành “best seller” với doanh số tăng vọt đến 9.500%. Riêng nhà xuất bản Penguin đã in thêm 75.000 cuốn nhằm đáp ứng nhu cầu đọc sách của những người chưa đọc “1984”. Họ muốn tìm hiểu thêm giữa tiểu thuyết của Orwell và đường lối chính trị của Trump những gì tương đồng.

Cuốn truyện viết từ năm 1948, mô phỏng một thể chế “tương lai” vào năm 1984 và đến nay, năm 2017, có nhiều tình tiết để người đọc đối chiếu và chiêm nghiệm. Không phải chỉ ở riêng Hoa Kỳ mà hình như còn nhiều nước khác, trong đó có cả Việt Nam.  

Năm Orwell viết tiểu thuyết đã thuộc về Quá khứ, tên của cuốn sách ông đặt hàm ý thời Tương lai nhưng đối với người đương thời lại là Quá khứ. Như vậy, chỉ có cỗ máy thám hiểm thời gian mới có thể đưa ta chuyển động theo chiều thời gian.

Đó là lý do bài viết này có tên: “Từ tương lai trở về… hiện tại”!

Nhà văn George Orwell (1903-1950)

***

* Xem phim "The Time Machine" (202):
http://www.phimmoi.net/phim/co-may-thoi-gian-1688/

* Xem phim "Nineteen Eighty-Four":

* Xem bản dịch "1984" tại đây:

bg NNC

Phần nhận xét hiển thị trên trang