Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

Ghi chép về Xuân Diệu và mấy nhà thơ cùng thế hệ (I)

V.Tr.N

1986
Nguyễn Đức Mậu nói với tôi:
-- Hôm đi viếng Xuân Diệu về, tôi có làm ngay một bài thơ. Nghĩ thương ông ấy chứ, công trình lớn như thế “công trình kể biết mấy mươi”, mà lúc cái chết đến, vẫn không cứu được.
- Kể Xuân Diệu với Huy Cận cũng lạ. Xuân Diệu toàn nói về cái sống (Quả sấu non trên cao, Sự sống chẳng bao giờ chán nản) còn Huy Cận toàn nói về cái chết. Tập thơ mới của ông ta, tập Hạt lại gieo, đến 2/3 là nói về cái chết (dù không hay).
Ông Huy Cận cả đời sướng, đến cái chết của ông ta cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng.

- Tố Hữu đến buổi tưởng niệm Xuân Diệu. Trông ông không có khí thế như cũ nữa. Ông bảo thơ tôi không được phổ biến như Xuân Diệu (là nói thơ tình). Con tôi chẳng hạn, nó cũng thích thơ Xuân Diệu hơn thơ tôi. Mà tôi cũng nghĩ biết đâu sau này, con tôi nó chả hơn tôi.
Theo lời Nguyễn Đức Mậu, Tố Hữu có cái tướng lạ lắm. Tai mỏng dính và đỏ hỏn lên, như miếng thịt bò tái hàng phở nó dát trên bát phở. Chỉ được cái nói ngọt. “Anh em văn nghệ sống với nhau tình cảm thế này là tốt. Mong mãi mãi sống được với nhau như thế.”
 Rồi Tố Hữu rủ mọi người xuống thăm mộ Xuân Diệu, ở Văn Điển.

Bài của Phạm Tiến Duật trên báo Văn nghệsố 8 (1986), cho biết: Tố Hữu nói rằng cái ghế của Xuân Diệu đấy, không ai được ngồi vào.
         Trong những  cái cách để đề cao mình, thật thế, có một cách khôn loại nhất: đặt mình sau người đã chết .

Duật bảo: trong phê bình ông Diệu đã thành một thứ hoá công.
Tôi nghĩ cái đó không đúng. Xuân Diệu cũng chỉ là người vừa vừa thôi, không thể là Thánh Thán được. Trong các bài phê bình của ông, tôi luôn luôn bắt gặp tư thái của một người khoảng bậc 4 - bậc 5 gì đấy, nói về các cụ thợ bậc 7-8.

Lắm lúc nghĩ cũng lạ: Trong Xuân Diệu có cả Tố Hữu, Khánh Chi, lẫn Tản Đà, Trần Tuấn Khải. Người ấy ra đều rất liên tài, và sẵn sàng tánnhững câu thơ rất công thức của những Lê Thánh Tông.
Theo Vũ Quần Phương, Xuân Diệu có loại em cúc cung tận tuỵ như Hữu Nhuận (ông cho Nhuận nhiều thứ) em tán (Vũ Quần Phương) và em cấu (những người em hay xin tiền).
Có những người như Vũ Quần Phương và Duật cùng được ông Diệu cưng, dù hai tay này chả có gì chung với nhau cả.

Nhàn: Một người như Trần Huyền Trân tuy làm ít, nhưng vẫn có chỗ trong dòng thơ tiền chiến, bên cạnh Xuân Diệu.
Vũ Quần Phương: Không đúng. Xuân Diệu ở một trình độ cao hơn chứ. Trong thư gửi ra cho mình, anh Chế Lan Viên hay nói tới những câu Xuân Diệu, đại loại như “Mây trắng ngang hàng từ thuở xưa. Bao giờ viễn vọng đến bây giờ”... bảo là không thể coi thường được.
 Nhân nói về việc chọn thơ vào tuyển.
Nhàn: Ai cũng không hài lòng với mình. Ai cũng đòi thêm.
Vũ Quần Phương: Không, những ông như Xuân Diệu, Huy Cận, ông ấy biết là ông ấy được nhiều. Định viết một tập hồi ký mang tên  Tôi cảm tạ cuộc đời cơ mà. 

Vào những ngày sau khi Xuân Diệu chết,  nhiều người bảo Tế Hanh đang thích làm chủ tịch Hội đồng thơ. Họ đều có khía cạnh quan liêu hoá để thành nhà thơ cung đình. Tế Hanh cũng lắm thèm muốn, tuy nghèo  và  yếu ớt hơn.
Nếu có một người lâu nay vẫn thao túng giới thơ thì đó là Chế Lan Viên. Thường được tiếng là thơ trí tuệ, thơ giàu suy nghĩ. Gốc người  cực đoan. Lấy những tư tưởng văn hoá để minh hoạ thêm, lấy sự đọc nhiều để làm ý tứ sắc nhọn thêm. Nhưng vẫn khác với người trí thức ở chỗ:
- Suy nghĩ theo lối cuồng tín
- Có cái vẻ của phe phái nào đó chứ không phải người của bàn dân thiên hạ.
- Quá ư là rành mạch. Hay tổng kết thành 3 điểm, 7 điểm.

 Người xu thời thời này qua nhiều rồi, Xuân Diệu cũng vậy, nhiều khi lại quá lộ liễu. Nhưng cái vẻ gượng gạo cố tình làm lấy được ấy lại cho thấy Xuân Diệu vẫn còn  có một cái gì đó của riêng mình. Vì cái gì đó mà ông phải nhẫn nhịn quỵ lụy. Vì cần bảo vệ phần thơ trước 1945 của mình mà ông phải khen tràn cung mây những thứ thơ linh tinh ba vạ thời nay chăng? Có thể lắm. Ông Chế thì mang tất cả mình vào cuộc. Viết về những ông A, ông B, như là người của muôn đời; viết  về những cơ chế chỉ có hôm nay như là nó đã có sẵn trong trời đất. Hàm hồ. Đào cùng tát cạn. Nói lấy được.

Năm 1985, khi tuyển thơ cả đời mình, đến phần thơ trước Cách mạng, Chế Lan Viên chỉ lấy rất ít.
Có vẻ Chế Lan Viên muốn phủ nhận chính mình, đối xử với quá khứ của mình theo tinh thần  phê phán.
Đọc lại tập Điêu tàn, thấy Chế Lan Viên có một ý, ý đó nhân lên làm nhiều lần, mà không hề có sự đa dạng .
 Thế còn sau Cách mạng? Ở Chế có hai dòng a/ thơ tứ tuyệt kiểu Đường thi, thứ thơ mực thước, quy củ, nhưng trong đó, nhà thơ lại chừng mực ngơ ngẩn, như ở người làm nghề câu dầm. b/ những bài chiến lược dài, viết theo những cơn bốc chốc lát
Cái phần thứ hai giống được ông Chế cố ý trình ra trước mọi người. Còn cái phần tứ tuyệt kia là cái mà ông ủ kín trong lòng. Nhưng tôi phục và thích trở lại với ông Chế ở cái phần tứ tuyệt này hơn.
Ông Phan Ngọc bảo: Thơ Chế, đấy là một cách nói trạng. Chế đúng là một người hay chữ, sắp xếp thế nào cũng được
Tư tưởng trong những bài thơ chính trị của Chế đơn điệu vụ lợi. Nó phải cố tìm ra một vẻ phảo bông pháo hoa để gây ấn tượng.

Bàn với nhà thơ Thợ Rèn (Phạm Lê Văn) về Xuân Diệu.
Nhàn: Xuân Diệu chưa đến được Thánh Thán.
Thợ Rèn: Đến sao được. Vẫn là anh học trò làm luận, kỹ càng. Đâu đã biết đùa với đời như Thánh Thán được. Thường viết về một cuốn sách nào, Thánh Thán cũng chỉ chọn ra một điểm thật tiêu biểu, rồi nói mọi chuyện xung quanh sự kiện đó. Ông nói văn chương như một chuyện đời. Mấy ai làm được thế.

Nhàn: ông Tuân viết Tú Xương là mổ xẻ Tú Xương. Còn ông Diệu có chút khấn vái.
Thợ Rèn: Khấn vái xuýt xoa, như thể quý hoá lắm. Mà sự thực, vẫn là một ông thày giáo giảng bài, giảng thật kỹ thật tỉ mỉ, thật tinh tế, nhưng mà là hạ mình xuống.

Nghĩ về Xuân Diệu một công chức. Nguyễn Minh Châu hay nhìn chữ để nói  về người. Hôm đi đưa đám Xuân Diệu ông ghé tai tôi bảo sao chữ Xuân Diệu viết lại mực thước rõ ràng thế, có vẻ bay bướm mà vẫn khuôn phép. Tôi  nói riêng với anh, ta không hiểu thời Pháp thuộc, họ rèn  công chức An Nam kỹ lắm.
Xuân Diệu hiểu được cái hay cái đẹp thông thường, nhưng không vươn tới cái siêu việt phi lý. Trước 1945 Xuân Diệu không chấp nhận Hàn Mặc Tử là vì vậy.
Kém cảm giác hài hước. Không đùa chơi, không ngang ngược. Đến mức không có cảm giác trò chơi  nữa. Làm mà chơi, chơi mà làm, cái đó không có.
Một thứ đàn bà, thành tâm theo cái người cầm vận mệnh mình: một thứ thê thiếp.
Chính ra Xuân Diệu là người giỏi nhượng bộ, giỏi khuôn mình theo hoàn cảnh. Vừa muốn giữ mình, vừa khiếp nhược, không dám chống lại hoàn cảnh.
Xuân Diệu hay kể thuở bé, chất tỉnh lẻ trong mình như thế nào (ở Quy Nhơn, ngóng báo chí Hà Nội)
Xuân Diệu lại là con vợ bé (?) giàu chất thương cảm chăng?
Nguyễn Đình Nghi kể: Nguyễn Đình Thi rất sợ mất quyền xuất bản - quyền phát ngôn quyền xuất hiện trước mặt mọi người. Xuân Diệu, cũng có nỗi sợ đó, coi đó là một tai hoạ khủng khiếp.

Lúc nào Xuân Diệu cũng có lối vậy. Hiểu sự phiền toái làm người. Nhưng không dám khác mình. Cũng tham, cũng tầm thường như mọi người.
Có một nhà thơ trong cách sống Nguyễn Tuân - chữ thơ với nghĩ đẹp. Có một nhà văn xuôi trong cách sống của Xuân Diệu -- chữ văn xuôi theo nghĩa phàm tục. Chế Lan Viên từng nói đùa “Cái nghề văn xuổi từ sau xin chừa”

Tố Hữu và Xuân Diệu
Hai mẫu người trái ngược nhau
Tố Hữu là người nhào nặn lại quan niệm văn học, người định chống lại thứ văn hoá xưa (phía truyền thống...), người dựng đám thiếu kiến thức mà thừa bản năng dạy, để rồi lại khinh bỉ họ, người kéo quần chúng xuống, để thấy mình cao hơn lên.
Người kiêu căng dám so mình với Nguyễn Du (Vả Nguyễn Du đâu có được đưa vào chương trình dạy trong nhà trường nhiều như vậy). Người không công nhận cá thể, số phận bi kịch - những hằng số trong văn hoá.
Xuân Diệu ngược với tất cả những cái đó.

Câu thơ tiêu biểu của Xuân Diệu, cả trước và sau cách mạng.
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử
Thái độ quỵ luỵ của một kẻ yếu. Kẻ ấy biết mình có tài, có cái phần riêng không ai so được. Nhưng trước những kẻ thực dụng thì lại biết mình chỉ là hương hoa, thêm thắt, thừa hiểu rằng “người ta” còn nhiều chuyện quan trọng hơn.
Chất đàn bà= cúc cung tận tuỵ



Nhàn: ông Diệu kỹ thuật quá.
Nguyễn Thành Long: đến cả thơ tình của ông ấy cũng vậy. Tỉnh táo trong sự tỏ ra say mê của mình.
Nhàn: Đúng, chưa bao giờ Xuân Diệu có cái nỗi đau đến không nói được nên lời.

Một phía hèn của Xuân Diệu - thái độ với Nguyễn Bính.
Phạm Lê Văn (Thợ Rèn) kể: Xuân Diệu hay nói cả một đời người làm được vài ba bài thơ để người ta thuộc, cũng đã quý lắm rồi. Mà Nguyễn Bính – vẫn lời Xuân Diệu - thì không chỉ có vài ba bài.
Chính Xuân Diệu có lần ghé vào tai tôi: “Nguyễn Bính còn tài hơn Tế Hanh nhiều. Nhưng thằng Tế Hanh nó ngoan”.
Thế mà, trong tất cả các bài phê bình của Xuân Diệu, có nói đến Nguyễn Bính bao giờ?
Năm 1958 (lần cuối cùng?)  nhắc tới Nguyễn Bính, bên cạnh Chế Lan Viên, Thế Lữ.
Tại sao? Có lẽ là vì ông Tố Lành. Nhưng gần hơn, vì ông Như Phong giám đốc xuất bản văn học sau 1957. Như Phong khinh thằng Nguyễn Bính, cho là thơ học trò chỉ tán gái chả ra gì. Xuân Diệu đành im tho là vì vậy.
Thợ Rèn: Chính Xuân Diệu cuối đường cũng hối, cũng đau, thấy ngoài phần trước cách mạng, phần sau chả được gì.

 Đọc lại Những bước đường tư tưởng của tôi , nhớ máy chi tiết.
Người luôn luôn tự nhủ  không thể ngựa quen đường cũ
 Tr. 6 Con một ông tú nghèo, dạy học từ nông thôn chuyển dần lên thành phố
má tôi = một người vợ bé, sớm  bị  áp bức trong gia đình.
Thuở bé, bố mẹ ở xa nhà nhau
Kể lại mê Musset, Verlaine và mê Tuyết hồng lệ sử

“Bởi thấy những người tài tình ở trong đời bị thiểu số và bị khinh thường, tôi nghĩ một bài văn để “chiêu tài tử” gọi nhau từ xưa đến nay, đặng tri ân với nhau, thương lấy nhau.”
Tr. 19 Tự nhận tư tưởng mình: một tạp-pí-lù
Tr.23 Một câu trong bài An cư giữa loài người (1939)
“Tôi như chiếc lá lo chuyện lìa rừng
buồn đời bé nhẹ, nghĩ đến muôn ngàn ức triệu lá bạn, mà lại phe phất với đời...”
Xuân Diệu nhắc tới văn học Pháp, trước 1945, chỉ nhắc Paul Morand và Pière Loti.
Những xu thời nông nổi
Tr 45 Những Bá Nha cứ sáng tác đi, lo gì quần chúng thiếu Chung Tử Kỳ.
Tr.51 Hình thức, kỹ thuật của ta cũng xây dựng trên cơ sở quần chúng.

 Xuân Diệu là loại người viết văn mang trong mình chất lập nghiệp từ rất sớm, từ  hồi đi học ở quê đã mơ ra Hà Nội.
 Thèm sự bất tử, tin rằng còn mãi với cuộc đời này.
Muốn chứng tỏ rằng mình có đủ tài năng như mọi người. Cũng là một kiểu Julien Sorel chăng?  Cũng phải mồi chài mọi người, “đánh đĩ” với mọi người!
Cho nên, thơ Xuân Diệu, rất nhạy với cả hai điểm ngược nhau.
- Hướng vào cái đông vui
- Trở lại cái đơn độc.Thèm một cái gì khác mình
Không có cánh mà vẫn thèm bay bổng
Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời (Là thi sĩ)

Nếu có một tình yêu thứ nhất, thì tình yêu của Xuân Diệu là giành cho nền văn hoá Pháp. Thèm quá, ao ước quá, được động vào người đã đủ sung sướng lắm rồi. Từ văn hóa Pháp mới sang văn hóa Việt, dù sau này sống bằng văn hóa Việt.
Còn mối tình Xuân Diệu với cách mạng với Tố Hữu lại là một mối tình của người vợ tảo tần, tao khang, hiểu nhau, biết cả những phiền muộn của nhau. (Đã có một đời chồng rồi không thành, nên người đàn bà ấy rất giữ gìn cái hạnh phúc hôm nay mà mình có, và rất bằng lòng với nó).
Nhưng sao thơ Xuân Diệu sau cách mạng, không thể có những bài đỉnh như  Lời kỹ nữ  Hy Mã Lạp Sơn. Tất nhiên, Lời kỹ nữ tiêu biểu hơn, Xuân Diệu cô đơn trong mối quan hệ với người khác dễ bỏ hơn. Hình ảnh nhà thơ vời vợi một mình như Hy Mã không hợp.
Sau cách mạng, Xuân Diệu có bài Biển bàiQuả sấu non trên cao - đều là cỡ trung bình.

Đọc Trường ca: Thấy phục, nhưng không thích, như một vẻ đẹp nhung lụa mà tôi vốn xa lạ!  Tuy nhiên phải nhận nó có cái  óng ánh sang trọng của đời sống quý phái.

Nghĩ tới Chế Lan Viên trước sau 1945. Như một cây táo chặt đi, mọc lên một cây khác. Như một cây táo mọc cạnh một ngách tường nào đấy, uốn đổi hình hài đi; nếu dỡ bức tường ra, người ta không thể nghĩ là có một cây táo như vậy.
Tại Chế Lan Viên  quá nhạy với hoàn cảnh?
Tại quá tài?
Tại tất cả.


Chuyện của Nguyễn Minh Châu (13/10)
- Cái đám tiền chiến đi theo cách mạng thật là hèn hạ Chính họ nghĩ ra chữ lột xác chứ gì. Như là nó vừa bảo cởi quần áo thì cởi luôn cả áo lót.
Nhưng sau khi thốt lên cái câu tự đáy lòng như vậy, rồi Ng M Châu lại bảo mình ở hoàn cảnh các ông ấy rồi cũng phải nói như các ông chứ làm sao được.

 Nguyên Hồng hồi kháng chiến (1948) có lần viết  một truyện không được in. Và ông ghi trong nhật ký “Hời hợt như Diệu, già cũ và khôn ngoan như Tuân ào ạt như Thi … thì làm sao mà thích được truyện này"
Đoạn nhật ký trên tôi đọc được ở nhà Nguyên Hồng trong một trang vở cũ nát, hôm theo Nguyễn Kiên lên Yên Thế. Chắc chẳng ai giữ những đoạn nhật ký ấy làm gì.
Nguyễn Minh Châu kể:
--  Khi lên thăm mộ Nguyên Hồng, tôi được một người nông dân dẫn đi thăm cả xóm. Đây chỗ này ông này ở chỗ kia ông kia ở. Và một cái xà ngang, đây chỗ Ngô Tất Tố tự tử. Thì ra, Ngô Tất Tố đã tự kết liễu đời mình thật.

Không biết có thể tin được không.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Năm Gà, xin hãy cất cao tiếng gáy!


Không tính các quan chức (tức những người có chức có quyền) và các doanh nhân XHCN mới giàu (những người mạnh vì gạo, bạo vì tiền), xã hội Việt Nam nói chung vẫn dành một sự vị nể nhất định cho trí thức, xem họ là giới tinh hoa.

Và tất nhiên, cả phong trào dân chủ cũng vậy. Đa số những người hoạt động dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam đều có sự trọng thị đối với nhân sĩ trí thức. Cuộc tuần hành, biểu tình nào có mặt trí thức thì dường như sang trọng, có tính chính danh hẳn lên, và nhất định là hình ảnh của trí thức đó sẽ được đăng tải, chia sẻ rộn ràng trên mạng xã hội. Cuộc phỏng vấn nào của truyền thông quốc doanh với trí thức cũng được chú ý ít nhiều; lời nào của họ mang tính phản biện mạnh mẽ một chút (mà vẫn được báo chí duyệt đăng) đều sẽ được chia sẻ, trích dẫn nhiều nơi trên facebook.

Thái độ vị nể trí thức đó là một điều tốt. Một xã hội trọng thị trí thức cũng là xã hội tốt, vì nó cho thấy người ta tôn trọng tri thức cũng như ngưỡng mộ những người đã đầu tư cuộc đời vào việc theo đuổi và phát triển tri thức.

Tuy nhiên, có một sự thật không phải ai cũng thấy, đó là: Trong xã hội hiện đại, “biển học vô bờ”, tri thức đã mở rộng và chuyên biệt hóa thành vô số ngành chuyên sâu, mà trong đó, hoạt động chính trị cũng là một lĩnh vực cực kỳ rộng lớn (bản thân nó cũng chia thành nhiều nhánh nữa). Và một thạc sĩ, tiến sĩ, thậm chí viện sĩ trong một ngành khoa học nào đó, không nhất thiết là người biết đấu tranh chính trị, không nhất thiết là chuyên gia trong hoạt động dân chủ-nhân quyền.

Khuyên và tư vấn

Đôi khi ta có thể nghe thấy những lời khuyên như thế này từ những người đi trước, trong đó có cả trí thức:

- Làm gì thì làm, phải biết lúc tiến lúc lùi. Thời điểm này cộng sản còn mạnh lắm, chưa thể có đối lập, mà nếu có thì cũng không làm gì nổi cộng sản đâu.

- Không ai chống cộng sản giỏi hơn chính người cộng sản. Cứ để nó tự chết, không cần làm gì cả.

- Viết thì gì viết, phải tỉnh, phải khéo, làm sao để “nó” không làm gì được mình mà dân vẫn hiểu được ý mình muốn nói.

- Không phải cứ xuống đường biểu tình là hay đâu. Cực đoan quá, dân người ta sợ, mà cuối cùng cũng có thay đổi được gì đâu. Cần những cách làm khôn khéo hơn.

Hãy cứ tin những lời khuyên đó xuất phát hoàn toàn từ thành ý và thiện chí đối với phong trào dân chủ. Nhưng ta cũng nên nhớ thêm rằng một chuyên gia hàng đầu trong một ngành khoa học nào đó không nhất thiết là người biết đấu tranh chính trị.

Chống độc tài, trong đó có đấu tranh phi bạo lực, thật sự là một lĩnh vực rất mới ở Việt Nam và ít ai có thể nói hay được về nó, cho dù người ấy có là bậc đại trí thức đi chăng nữa.

Nhà phê bình mỹ thuật Nguyên Hưng:
"Con gà kiểu Nhật và con gà kiểu Tàu:
Một bên thể hiện chí kiêu hùng,
một bên chỉ mơ có tiền".

"Chờ khi có lợi"

Ở ta thường có câu: “Cái này đưa ra vào thời điểm này chưa có lợi”. Ví dụ đạo diễn Đặng Nhật Minh khi trình kịch bản phim Mùa Ổi lên Hội đồng duyệt, được trả lời: “Trong giai đoạn này, dựng phim chưa có lợi”. Về sau ông Minh trả lời phỏng vấn báo An Ninh Thế Giới, có kể: “Tôi chờ hai năm, làm sao biết lúc nào có lợi, tôi sốt ruột quá vì không thể chờ sang năm thứ ba”.

Đó. Đúng là ai cũng có thể dễ dàng khuyên người khác “chờ thời điểm có lợi” rồi mới làm cái gì đó. Vấn đề là làm sao biết lúc nào có lợi?

Người viết bài này, với tư cách một nhà báo, có quan điểm sau:

Trong kinh doanh, thời điểm tốt để khởi nghiệp là khi thị trường đã có nhu cầu mà chưa ai đưa ra được giải pháp, và thành công là khi bạn làm việc gì mà chưa ai làm, chứ không phải là khi mọi người đã làm rồi và bạn “hòa vào dòng chảy”. Cơ hội của bạn chỉ là cơ hội khi chưa ai phát hiện ra nó, còn khi nhiều người đã nhìn thấy nó, thậm chí thực thi nó rồi, thì nó không còn là cơ hội nữa.

Trong nghề viết cũng vậy. Bạn phải là người viết thay cho mọi người, viết lên điều mà nhiều người muốn nói mà không nói được, chứ không phải ngồi chờ tới lúc ai cũng nói rồi, viết rồi và bạn lên tiếng để “hòa vào dòng chảy”.

Muốn nắm được cơ hội, bạn phải hiểu thị trường, hay rộng ra là hiểu xã hội. Chẳng hạn, đến thời điểm này, nếu là người viết, chúng ta phải ý thức được rằng cái thời của sự bóng gió đã qua rồi. Độc giả nhìn chung không còn ưa thích, không còn cần đến những truyện ngụ ngôn, những ám chỉ, phiếm chỉ, nói bóng nói gió để trình bày một vấn đề chính trị nào đó nữa.

Còn người dân Việt Nam nói chung thì cần những giải pháp, được trình bày một cách rõ ràng, thuyết phục và hấp dẫn, chứ không cần những lời ca thán, và đặc biệt chán ghét sự dài dòng, lằng nhằng, bóng gió.

Trên tất cả, họ cần trí thức lên tiếng, đưa ra giải pháp và cùng họ thực hiện. Tất cả đều phải được nêu lên rõ ràng, thuyết phục, hấp dẫn và tất nhiên, mạnh mẽ. Họ không cần những lời khuyên “phải tỉnh, phải khéo” nữa.

Nếu cần bóng gió thì xin được viết rằng: Năm nay là năm con gà trống (rooster), nên rất mong giới tinh hoa sẽ hùng dũng ngẩng cao đầu, đập cánh và gáy vang…


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chữ đủ và giá trị của hạnh phúc


>> Lo ngại tác động của lợi ích nhóm với báo chí
>> Một tấm gương xấu, để lại hậu quả không dễ khắc phục


Tuấn Thành/Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần
VNN - Chúng ta không thể nhìn vào một người có thu nhập 500 triệu đồng/tháng và nói anh ta hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn một người có thu nhập 50 triệu/tháng, hoặc ngược lại. 

Thời điểm kết thúc một năm luôn là khoảng thời gian vô cùng đặc biệt. Vì khi ấy, mỗi người trong chúng ta có dịp sống chậm lại, bỏ qua một bên những vội vã, tất bật, lo lắng thường ngày, để có thể cảm nhận được bước tiến chậm chạp nhưng vững chắc của thời gian, để có thể một lần nữa đặt ra cho mình những câu hỏi về giá trị của cuộc sống, tiền bạc, mục tiêu, kế hoạch tài chính… và về ý nghĩa của những thứ mà mình đang theo đuổi.

Và rồi chúng ta, sẽ lại một lần nữa tự hỏi, một câu hỏi được xem là gốc rễ của mọi vấn đề tài chính, tiền bạc, đó là: “Bao nhiêu là đủ?”.

Tất nhiên rồi, càng nhiều càng tốt!

Thật trớ trêu, nhưng những người trả lời câu hỏi bao nhiêu là đủ này rằng “càng nhiều càng tốt” lại không mấy khi có được cái kết có hậu.

Theo đánh giá của những chuyên gia tâm lý học hành vi, một khi bạn đã có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống, như nhu cầu về thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, chỗ ở, giao tiếp… thì sự tác động của các nguồn lực về tiền bạc sau đó sẽ càng khó khiến bạn hạnh phúc, khó khiến bạn có được cảm giác thỏa mãn như trước đây. Nó giống như khi chúng ta đã ăn no rồi, thì những món ăn sau đó được mang ra, dù ngon hơn, trình bày đẹp mắt hơn, cũng không còn mang lại cho chúng ta nhiều cảm giác hứng thú nữa.

Cũng chính vì không hiểu được điều này, mà nhiều người, sau khi đã có được thành công cơ bản, tạo dựng được một nền tảng tài chính tốt, đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết trong cuộc sống rồi, lại lao vào những cuộc “kiếm tìm hạnh phúc” sai lầm, như người anh trong câu chuyện cổ tích ăn khế trả vàng, để rồi cuối cùng phải đón nhận những kết cục cay đắng.

Hay như trong thần thoại Hy Lạp đã kể về một lối trừng phạt rất quái ác của các vị thần đối với loài người, đó là ban cho loài người những thứ vượt quá những điều họ mong muốn.

Biết đủ là… biết hạnh phúc

Chúng ta không thể nhìn vào một người có thu nhập 500 triệu đồng/tháng và nói anh ta hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn một người có thu nhập 50 triệu/tháng, hoặc ngược lại. Cảm giác đủ thực ra là cảm giác hạnh phúc, thỏa mãn với những gì chúng ta đang có trong cuộc sống hiện tại. Và “biết đâu là đủ” chính là biết đâu là điều khiến chúng ta hạnh phúc.

Theo tiến sĩ Joe Gladstone, hiện giảng dạy tại Đại học Cambridge (Anh), dựa trên hai kết quả từ cuộc khảo sát gần đây (khảo sát The importance of “cash on hand” to life satisfaction, có quy mô 525 người, và khảo sát Money Buys Happiness, có quy mô 76.000 người) thì ở mỗi người, sẽ có cách cảm nhận hạnh phúc rất khác nhau. Và vì thế, họ cũng sẽ tìm kiếm những điều khác nhau để thỏa mãn nhu cầu đó.

“Nhiều người thích thể thao, đi du lịch, xem phim. Số khác lại có thể ngồi hàng giờ ở nhà, đọc sách, viết nhật ký. Người lại chỉ muốn vui đùa và làm bạn với những con thú cưng, hoặc làm từ thiện, giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận ra một điều, rằng khi ai đó chi càng nhiều tiền bạc, thời gian và công sức của họ cho những thứ phù hợp với tính cách, sở thích thì họ sẽ càng có mức độ thỏa mãn cao hơn, và qua đó mức độ hạnh phúc, cảm nhận sự đầy đủ trong cuộc sống của họ, cũng sẽ cao hơn”.

Vậy, bao nhiêu là đủ?

Trở lại với câu hỏi ban đầu, vậy bao nhiêu là đủ, bao nhiêu thì giúp chúng ta có thể sống hạnh phúc? Có lẽ chúng ta đã nhận ra rằng, bao nhiêu là đủ thực chất là kiểu câu hỏi hạnh phúc có giá bao nhiêu. Đây là một câu hỏi không đúng. Câu hỏi đúng, lẽ ra phải là: “Điều gì khiến bạn hạnh phúc trong cuộc sống?”. Có được điều đó, nghĩa là đủ.

Với Elizabeth Warren, thượng nghị sĩ bang Massachusetts, Hoa Kỳ, giáo sư chuyên giảng dạy về luật tại Trường Đại học Harvard, thì “công thức” cho sự đủ, cho sự hạnh phúc của bà, là đủ tiền để có thể chi cho những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống (50%), đủ tiền để chi cho những gì bà muốn (30%) và cuối cùng là đủ tiền để tiết kiệm, tái đầu tư, chuẩn bị cho kế hoạch tài chính tương lai (20%).

Còn với Grant Cardone, triệu phú tự thân nổi tiếng của Mỹ, hiện sở hữu khối tài sản ước tính khoảng 350 triệu USD, là người xếp đầu tiên trong danh sách 25 Marketing Influencers to Watch in 2017 của tạp chí Forbes, thì cảm giác đủ, cảm giác hạnh phúc là khi ông có thể trả lời được ba câu hỏi: “Tôi đã đủ tiền để lo cho gia đình mình chưa?”, “Sự nghiệp của tôi đã phát triển như tôi mong muốn chưa?” và “Tôi đã có thể thoải mái đến những nơi mình muốn, ăn những món mình thích mà không phải quan tâm đến giá cả, hay chưa?”.

Cũng chính vì hiểu được bao nhiêu là đủ, hay điều gì thực sự khiến bản thân cảm thấy hạnh phúc, mà những tỉ phú xuất hiện trong danh sách những người giàu nhất thế giới của tờ Forbes, dù sở hữu khối tài sản lên tới hàng tỉ USD, nhưng lại luôn làm chúng ta bất ngờ vì sự tiết kiệm của họ. Carlos Slim Helú, nhà sáng lập Tập đoàn Grupo Carso (Mexico), người giàu nhất Mexico với khối tài sản trị giá 50 tỉ USD, vẫn đang sống trong căn nhà sáu phòng ngủ trong suốt 40 năm qua, luôn ăn cơm nhà và tự lái chiếc Mercedes-Benz cổ đi làm mỗi ngày.

Warren Buffett – Chủ tịch kiêm CEO Công ty Berkshire Hathaway, huyền thoại đầu tư với khối tài sản ròng ước tính khoảng 60,8 tỉ USD, hiện chỉ sống trong căn nhà mà ông mua với giá 31.500 USD từ năm 1958, không dùng điện thoại di động và cũng không có máy tính ở bàn làm việc.

Trong kỳ đại hội cổ đông của công ty vào năm 2014, Buffett giải thích về sự đủ, về chất lượng cuộc sống của ông chỉ đơn giản là phụ thuộc vào ông, chứ không phải phụ thuộc hay bị ảnh hưởng bởi số tiền mà ông có. “Cuộc sống của tôi đang rất hạnh phúc. Thực tế, nó sẽ tồi tệ hơn nếu tôi có sáu hay tám ngôi nhà. Do vậy, tôi có mọi thứ cần phải có và không cần thêm bất kỳ điều gì vì chúng chẳng tạo ra sự khác biệt nào cả”.

Đủ… cho con cái của bạn

John Bogle, chủ tịch hội đồng quản trị kiêm sáng lập viên Tập đoàn Vanguard, người đưa Vanguard trở thành quỹ đầu tư lớn thứ hai trên toàn thế giới, trong một lần trả lời phỏng vấn tờ The New York Times, đã cho rằng, bài học giá trị nhất mà một đứa bé được học, về tiền bạc, chính là bài học về giá trị của tiền bạc, về sự đủ, về việc xác định và theo đuổi để có được điều khiến chúng hạnh phúc trong cuộc sống.

“Khi gia đình tôi rơi vào tình cảnh khó khăn, lúc ấy tôi chỉ mới khoảng mười tuổi và phải làm việc để phụ giúp gia đình mình, trong khi những đứa bạn của tôi khi ấy chỉ suốt ngày chạy nhảy và vui chơi ở khắp nơi. Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi cho rằng đó là một bài học giá trị nhất mà tôi từng được học. Bởi tôi đã có cơ hội để tự hiểu rõ bản thân mình, biết mình muốn gì, cần gì, khát khao điều gì.

Để sớm hình thành trong đầu mình những ước mơ và khát vọng. Cho đến tận ngày nay, khi gia đình tôi đã không phải quá quan tâm đến những vấn đề tài chính nữa, thì những đứa con của tôi vẫn phải làm việc để có được thứ chúng muốn, thứ chúng đam mê, thậm chí tôi vui khi thấy chúng chú tâm vào việc tìm cách nâng cao thu nhập mỗi năm”.

Không chỉ có John Bogle cố gắng dạy cho con mình hiểu ý nghĩa của từ “đủ” trong cuộc sống, những tỉ phú khác, dù để lại cho con cái phần lớn hay phần nhỏ gia tài của mình, cũng luôn cố gắng làm điều tương tự, dạy cho con cái hiểu giá trị của sự đủ, của điều thực sự khiến chúng hạnh phúc.

Bill Gates, người giàu nhất thế giới, từng tiết lộ với đài truyền hình ABC, rằng các con của ông, ngay từ khi còn nhỏ, đều có tài khoản riêng. Tuy nhiên, không phải chúng muốn mua gì cũng được, mà phải chờ đến những dịp như Giáng sinh hay sinh nhật, hoặc đợi đến khi có đủ tiền, thì mới được mua. “Tôi nghĩ đứa trẻ nên lớn lên với nhận thức rõ ràng rằng mình phải tự tạo ra con đường của chính mình, tự chọn lấy công việc mình sẽ theo đuổi”.

Còn Warren Buffett cũng luôn khuyến khích các con chọn đường đi cho riêng mình, thất bại hay thành công theo cách riêng của chúng. Ông không hề sắp đặt tương lai và đường đi cho các con.

Câu lạc bộ tỉ phú được ông lập ra, không phải để ông dạy cho lũ trẻ cân bằng tài chính hay cách đầu tư, mà thực chất ở đó chỉ cung cấp cho trẻ những thủ thuật vui giúp chúng hiểu về kinh doanh và phát triển các thói quen tốt từ khi còn nhỏ. Chính vì vậy, mà con trai ông – Peter Buffett – đã trở thành một nhạc sĩ, là người soạn nhạc cho bộ phim Khiêu vũ với bầy sói, thay vì trở thành một nhà đầu tư cổ phiếu lừng danh như cha mình.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TUÂN NGUYỄN – TÔI LÀ NGƯỜI CÓ LỖI… Ngô Minh

N.M

 tuan-nguyenNhà văn Tuân Nguyễn
Nhà văn Trần Phương Trà, người Huế ở Hà Nội vừa gửi tặng tôi cuốn sách “ Nhớ Tuân Nguyễn” do anh sưu tầm và biên soạn ( NXB Hội Nhà văn, 2008). Cuốn sách 420 trang dày dặn là tập hợp đầy đủ nhất về tính cách, sáng tác và cuộc đời đau đớn của nhà thơ Tuân Nguyễn và những kỷ niệm sâu sắc của bạn bè về anh. Đã 25 năm Tuân Nguyễn  về cõi vĩnh hằng, hình ảnh của anh, thơ ca của anh vẫn nóng hổi nước mắt trong tâm trí bạn bè. Điều ấy không dễ có. Họ vẫn lưu giữ thơ anh, vẫn thuộc thơ anh để chép lại cho người biên soạn sách. Đọc xong tập sách, tôi xúc động thẫn thờ. Trong tôi cứ nhói lên một câu hỏi: Sao người trí thức trẻ ấy lại lâm vòng lao lý oan khiên làm vậy?  Trong bài “ Tuân Nguyễn- Kẻ mơ mộng”, Hà Nhật kể :” Buổi chiều ngồi nói chuyện với Cao Xuân Hạo về Tuân Nguyễn, Hạo buông một câu nghe là lạnh người: Tuân Nguyễn sinh ra ở đời là để đóng cái vai trò này: Khi có ai đó muốn kêu lên:” Trời ơi sao mà tôi khổ thế ?”, thì nhìn vào Tuân Nguyễn  sẽ thấy mình chưa phải là người khổ”.

Tôi chưa được gặp anh Tuân Nguyễn. Thế hệ độc giả Việt Nam tuổi 60 như tôi trở xuống cũng không mấy người biết Tuân Nguyễn, bạn đọc ở miền Nam lại càng không biết, vì thời trẻ anh chỉ có ít thơ  in trên báo, phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, chưa có tác phẩm nào được xuất bản, lúc 31 tuổi (1964) anh đã bị tù tội đến 10 năm trời. Nhưng giới trí thức Hà Nội những năm 60 của thế kỷ trước ai cũng biết “vụ” Tuân Nguyễn. Vì Tuân Nguyễn là nhà báo, thân thiết với làng văn nghệ, nên việc anh bị bắt làm rúng động giới trí thức lúc bấy giờ. Tôi biết nhiều về Tuân Nguyễn nhờ anh Phùng Quán kể; rồi sau này biên soạn, tổ chức bản thảo mấy cuốn sách về Phùng Quán, được đọc nhiều bài viết về Tuân Nguyễn. Năm 1985, lần đầu tôi đến nhà anh Phùng Quán ở phía sau Trường Chu Văn An cũ. Tôi thấy nhà thơ có làm trang thờ hai người: Chị Võ Thị Sáu, người con gái Đất đỏ bị quân Pháp hành hình ở Côn Đảo  khi còn tuổi vị thành niên mà Phùng Quán viết trường ca “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo”; bên cạnh là trang thờ Tuân Nguyễn, một người bạn đồng hương, đồng đội, tri âm, tri kỷ của anh Quán, một người có khuôn mặt khôi ngô, đeo kính cận dày cộp đang nhìn đời như một đứa trẻ. Ngày nào anh Quán cũng thắp nhang rồi vái ở hai trang thờ đó. Anh bảo thiêng lắm. Năm 2003, sau khi ra mắt cuốn “Nhớ Phùng Quán” (NXB Trẻ) được vài tháng thì có một người không nêu tên đã mail vào máy tôi bài “Người bạn lính cùng tiểu đội” của Phùng Quán viết về Tuân Nguyễn. Tôi đọc mà bàng hoàng gan ruột. Khi tổ chức bản thảo cuốn “Phùng Quán– Ba phút sự thật” cho NXB Văn Nghệ, tôi đã coi bài viết của Phùng Quán về Tuân Nguyễn là “cái đinh” của cuốn sách. Đó là chân dung của một trí thức nhân hậu, trung thực, một tâm hồn thật đẹp một nhân cách tuyệt vời. Bị tù tội gần 10 năm xơ xác thân mình vẫn đam mê văn chương thơ phú. Bị ô tô tông chấn thương sọ não, dẫn đến cái chết ở tuổi mụ 49, Tuân Nguyễn vẫn thương người lái xe đã tông mình, vì anh ấy phải đi làm để nuôi vợ và 8 đứa con ở nhà. Tôi cứ ám ảnh câu trăng trối của Tuân Nguyễn :” Đừng bắt tội người lái xe. Cái kết cục buồn thảm này là lỗi tại tôi… Tôi là người có lỗi…”

           Vâng, TÔI LÀ NGƯỜI CÓ LỖI ! Phùng Quán kể rằng, có lần Tuân Nguyễn “định viết bài thơ dài, nhan đề : Tôi có lỗi.  ”Chữ Tôi ở đây phải viết hoa. Tôi ở đây là người nghệ sĩ, người trí thức chân chính của đất nước. Tôi có trách nhiệm với tất cả, những oan uổng, đớn đau, những xấu xa, đang lăng nhục và xúc phạm con người. Vì tôi chưa đem hết sức mình thực hiện sứ mạng cao cả mà Thượng Đế đã đặc trao cho người nghệ sĩ”. Nói cách khác người trí thức, nghệ sĩ chưa có những tác phẩm lớn để để lay động tâm can cơn người, làm cho con người ngày càng NGƯỜI  HƠN, nên xã hội còn có quá nhiều kẻ hại dân hại nước ! Lỗi là lỗi như thế. Vì lẽ đó, đọc cuốn “Nhớ Tuân Nguyễn”, tôi muốn kể lại câu chuyện về NGƯỜI CÓ LỖI Tuân Nguyễn để bạn đọc biết thêm trí thức Việt Nam đã sống như thế nào trong cái thời khốn khổ chưa xa ấy…

Tuân Nguyễn là một người dấn thân vì kháng chiến. Anh tên thật là Nguyễn Tuân, sinh tháng 9-1933 ở Phú Thượng, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Lớn lên thấy tên mình trùng với tên nhà văn “Vang bóng một thời”, nên anh  đảo ngược lại thành Tuân Nguyễn, vì sợ người đời cho là ngộ nhận . Theo nhà thơ Hà Nhật, bạn thân của Tuân Nguyễn thì quê gốc của anh ở Quảng Bình. Học trường Pellerin (trường dòng) ở Huế, tốt nghiệp Tú tài 2 toán. Thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, biết cả chữ Hán, lại có năng khiếu văn chương.  Thời ấy tiếp tục học lên đại học hay đi du học, nhất định anh sẽ trở thành một trí thức giàu có. Nhưng anh là người mơ mộng, người lãng mạn nên thoát ly theo cách mạng.  Năm 1949, anh tham gia Đoàn học sinh kháng chiến Huế. Năm 1950 lên chiến khu gia nhập Vệ Quốc đoàn ở Trung đoàn 101, rồi Trung đoàn Trung Lào trong những năm 1950, 1951, 1953, những năm ác liệt nhất. Là học sinh vừa chậm, vừa yếu, lại cận thị nặng mà phải tham gia các trận đánh, cứu thương, tải gạo, rồi phải ăn những bát cơm thấm máu đồng đội…Thế mà Tuân Nguyễn đã vượt qua tất cả. Sau Hiệp định Geneve anh được vào học Đại học Sư phạm Hà Nội, khoa văn khoá I cùng lứa với Hà Nhật, Vũ Bội Trâm ( vợ Phùng Quán sau này). Năm 1957 ra trường làm giáo viên dạy cấp 3 Trường học sinh miền Nam tại Hà Đông. Năm 1960 là biên tập viên chương trình Tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam.
Những năm ở Đài Tiếng nói Việt Nam  là những năm Tuân Nguyễn đọc rất nhiều sách và say sưa với thơ, viết cả trường ca, viết nhiều phóng sự về nông thôn, viết được hai chương gần 100 trang tiểu thuyết Người mơ mộng. Anh đọc sách trực tiếp bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Anh mê Đốt, nghiện Đốt. Anh  thích thơ Chế Lan Viên qua tập thơ “ Ánh  sáng và phù sa”. Thời gian này anh cũng được đi rất nhiều nơi như đảo Cô Tô, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, sang Vân Nam, Trung Quốc, vô tận Vĩnh Linh, Quảng Bình, đi thuyền trên sông Kiến Giang. Đi nhiều, có đầu óc quan sát, suy nghĩ nên anh biết rõ cuộc sống thực của người dân và những sai lầm khuyết điểm trong xây dựng kinh tế và quản lý xã hội ở miền Bắc. Ở Hà Nội, anh chơi thân với nhiều bạn văn thơ như Băng Sơn, Nguyễn Xuân Thâm,Tạ Vũ- Nguyễn Thị Điều, Vân Long, Hà Nhật, Hoàng Tố Nguyên.v.v. Anh làm thơ nhớ Huế, nhớ miền Nam , “Nghe quan họ nhớ mái nhì”, “ Tôi viết vài thơ gửi Huế yêu/ Giữa trưa Hà Nội nắng vui reo…”, “ Anh nhìn bằng tim tim anh trong vắt”, anh viết thơ về Lê Quang Vịnh, Nguyễn Văn Trôi, thơ tặng một kiều bào về nước, tặng một chuyên gia địa chất Nga.v.v..Anh còn viết nhiều thơ tình rất sâu sắc: Tôi thường đợi vần thơ như đợi người yêu dấu / Lúc đi chơi không muốn đóng cửa phòng ( Không dề I);Khi tình yêu đi qua / Một mảnh buồn ở lại ( Không đề II)…Anh có nhiều câu thơ găm vào trí nhớ bạn bè : Người ta lấy của anh nhiều thứ/ Chỉ còn hai tay và cái mắt hay cười;  Phật nào lấp được bể trầm luân…Bạn bè anh hay nhắc bài thơ Nghe nhạc Johann Strauss viết trong một đêm cùng bạn thơ đi chơi Hà Nội rồi về nhà Băng Sơn uống rượu :
Sông Hồng bỗng xanh màu Da nuýp
                           Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao
                           Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp
                           Những con người nước lạ phải lòng nhau
Nghe bản nhạc Sông Đa Nuýp xanh của nhạc sĩ Áo vẳng lên trong đêm Hà Nội mà lẩy ra được ý thơ Sông Hồng bỗng xanh màu Da nuýp là rất nhạy cảm. Câu thơ Những con người nước lạ phải lòng nhau chứng tỏ một tấm lòng rộng mở, một tình cảm nhân loại bao la. Những năm ấy thơ Tuân Nguyễn được in  nhiều ở báo Văn Nghệ, báo Thống Nhất, phát trong buổi Tiếng Thơ. Anh được coi là một cây bút thơ chỉnh chu, lão luyện. Nhưng  như trong bài thơKhông đề I anh viết năm 1963: Có những người / Nếu thêm được mười năm/ Sẽ trở thành thi sĩ / Nhưng cuộc sống không mỉm cười đến thế/  Đã chết sớm mười năm / Để lại những tuần trăng chưa đến độ rằm…Những câu thơ như là vận vào số phận của anh…

Ngày 21/10/1964, khi mới 31 tuổi, tài năng sắp chín, Tuân Nguyên bị bắt tại cơ quan trước sự ngạc nhiên của bạn bè, đồng nghiệp. Tại sao anh bị bắt ? 45 năm nay, câu trả lời vẫn úp mở. Theo tôi biết, Tuân Nguyễn bị bắt trong trào lưu “chống xét lại” nhập khẩu từ Phương Bắc những năm 69 của thế kỷ XX. Tức là theo phong trào “chung sống hòa bình” đang nổi ở Liên Xô, ngược với tư tưởng “thế giới đại loạn” của Mao. Trí thức là những người có đầu óc suy nghĩ độc lập, luôn có tư duy phản biện đối với những việc làm không đúng, không nhân văn, những ấu trĩ, non nớt của các cấp lãnh đạo. Họ không nói được trong cuộc họp thì nói trong cuộc rượu, hoặc ghi những suy tư của mình vào nhật ký. Ai bị phát hiện ra những lời nói mang tư tưởng “ngược” ấy đều bị quy vào tội “ xét lại”, “chống đối  ”, “phản động” và bị bắt tù mà không cần xử án. Để tìm ra những trí thức “phản động” đó cần phải có bọn dòi bọ làm nghề tố giác! Tố giác để tâng công, tố giác để chạy tội.  Phùng Quán kể :”Tuân Nguyễn “trong đợt học tập nghị quyết 9, cậu ta xin bảo lưu ý kiến, bị cơ  quan đưa ra kiểm điểm vì những luận điệu ủng hộ chủ nghĩa xét lại Liên Xô, cậu ta làm thơ ca ngợi Khrutsov…vào thời gian ấy, những chuyện như thế là chuyện chết người cả”. Hơn nữa, lãnh đạo đã để ý nhiều lần Tuân Nguyễn chơi thân với “Phùng Quán nhân văn giai phẩm”, Phùng Quán hay đến Đài. Vì Phùng Quán và Tuân Nguyễn ở cùng tiểu đội trong Trung đoàn 101 thời chống Pháp ở Bình Trị Thiên sao mà không thân nhau được. Mà Tuân Nguyễn lại không quan niệm Phùng Quán là người có tội. Phùng Quán bị nạn, đẻ con gái đầu lòng, không có tiền mua sữa, Tuân Nguyễn đã trích lương mình mỗi tháng 5 đồng mua sữa cho cháu Phùng Đỗ Quyên. Đến kỳ lĩnh lương Tuân Nguyễn dặn Phùng Quán đến Đài để lấy tiền vì anh hay bận. Tuân Nguyễn cũng đã lường trước hậu quả của mỗi quan hệ này, nên anh đã nhờ người canh chừng. Trong bài Nhớ anh Tuân Nguyễn, Mai Niệm viết :” Mỗi lần anh Quán đến chơi, anh Tuân nguyễn thường nhờ tôi xuống dưới cầu thang cạnh bếp ăn tập thể để canh có ai hỏi anh Tuân Nguyễn thì ngăn lại, bảo anh đi vắng (nhất là H)…. Sáng 18/8/1963, anh Quán đến… Tôi đang lau xe đạp thi H đến. H. là người cùng phòng nên  đi thẳng lên gác…Vừa lên chưa được một phút, H đã xuống mặt hầm hầm sát khí bảo tôi :Sao câu lại để cho ông Quán đến cơ quan mình mà không báo bảo vệ ?”…Tuân Nguyễn có một bài viết rất sâu nói về một công trường thuỷ lợi tại Nông trường Quốc doanh Rạng Đông, Nam Định, tố cáo bọn có chức có quyền trong các phòng ban thông đồng với ban chỉ huy công trường nghiệm thu khống khối lượng đào đắp để ăn chặn tiền nhà nước, chia nhau. Bài viết bị trưởng phòng cho là “không có lập trường”, nói xấu cán bộ thuỷ lợi, bôi nhọ xã hội chủ nghĩa.v.v.. Thế là tên Tuân Nguyễn đã nằm trong “sổ đen” rồi. Trong bài “Một kỷ niệm buồn”, nhà văn Đoàn Minh Tuấn kể :”Những sinh hoạt hàng ngày trong gian khó, Tuân Nguyễn đều ghi vào nhật ký, kể cả lên giá một cốc siro một hào thành một hào mốt, cùng với những suy nghĩ về thời cuộc. Tuân Nguyễn bị H. người cùng Phòng Văn nghệ lấy được lấy được cuốn nhật ký và nộp cho tổ chức. Tổ chức đọc và suy diễn cho rằng nói xấu chế độ, tư tưởng lệch lạc…” Về việc cuốn nhật ký của Tuân Nguyễn,  Xuân Đài  kể rằng, Tuân Nguyễn đã báo cho bạn bè biết ai đó đã mở ngăn kéo bàn viết của anh, dù đã khoá rất kỹ, lấy mất  cuốn nhật ký và một chỉ vàng. Tuân bảo nhật ký của mình ghi cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, những chuyện riêng tư và một số nhận định của mình về thời cuộc của đất nước và thơ. Thằng đê tiện đã đánh lạc hướng bằng cách ăn cắp thêm chỉ vàng để Tuân Nguyễn nghĩ là kẻ gian lấy trộm. Người  biết sự thật là hai nhà văn Phạm Tường Hạnh và Mai Văn Tạo, hai anh đều là đảng viên, đều làm việc ở Đài Tiếng Nói Việt Nam thời ấy cho biết, người nộp quyển nhật ký của Tuân cho chi bộ phòng Văn nghệ  chuyển lên lãnh đạo là… H cùng phòng với Tuân Nguyễn.  Không biết đến bây giờ H.còn sống để đọc cuốnNhớ Tuân Nguyễn không? Nếu đọc thì “con người lập trường“ ấy có chút gì ân hận về việc làm hèn mạt của mình không ?  Trong cuốn nhật ký ấy còn có bài thơ rất cảm động, nhưng “gay cấn” là bài  “Khóc thầy”. Thầy đây là ông Dương Bạch Mai người bị quy tội “đại xét lại”:  Một tiếng nói chúng tôi chờ đã mất / Tiếng nói của lương tâm / Đau đớn này đau đớn nào hơn / Chân lý không muốn nằm dưới đất / Chúng tôi sống bây giờ / Mỗi khuôn mặt đều có phần bí ẩn / Mỗi trái tim đều có phần im lặng / Mỗi niềm tin đều mất chút ngây thơ… Và đây là hai câu kết :
Chúng con đi sau linh cửu của thầy
                                      Nhưng không phải đưa thầy ra nghĩa địa

         Ta đã biết ai  là kẻ đã ăn cắp cuốn nhật ký Tuân Nguyên để tâng công với cấp trên. Nhưng theo nhà văn Xuân Đài, cái anh H ấy rồi sau này vẫn không cứu được mình, do sống tha hoá nên bị khai trừ ra khỏi đảng.  Nhưng không hiểu sao, khi Tuân Nguyễn mất cuốn nhật ký, nhiều anh em trong giới văn nghệ lại nghi là Trần Nguyên Vấn (tức nhà thơ Trần Phương Trà, người biên soạn cuốn sách  này) , là người cùng phòng, lại đồng hương lấy. Chính tôi thế hệ sinh sau, ra Hà Nội đầu những năm 80 của thế kỷ XX , khi nhắc đến Tuân Nguyễn cũng nghe nói như vậy. Một mất mười ngờ. TNV rất đau khổ trước sự độc mồn độc miệng của thiên hạ. Mặc dù ngay lúc đó Tuân Nguyên đã khẳng định Trần Nguyên Vấn là một người bạn tốt. Nhưng “ nghi án” vẫn không được gỡ bỏ. Nhưng anh Vấn chẳng thanh minh với ai.  Anh lặng lẽ gửi đồ tiếp tế, sách, bút Trường Sơn, và cả cuốn từ điển Nga-Việt vào Trại cải tạo cho Tuân Nguyễn tự học tiếng Nga , để dịch được cuốn sách Bim trắng tai đen của G.Trôiepônxki ra tiềng Việt được tái bản nhiêù lần. Tuân Nguyễn đi tù, Trần Nguyên Vấn vẫn bảo quản cái bàn, chiếc ghế và tủ sách của bạn. Và lần này anh cất công làm cuốn sách Nhớ Tuân Nguyễn vừa tôn vinh một người bạn tài hoa mệnh yểu, lại vừa làm rõ “nghi án” bao năm đè nặng trái tim mình. Cảm ơn tấm lòng và sự kiên nhẫn của nhà thơ Trần Phương Trà !

Trong chuyện bị bắt của Tuân Nguyên, có một chi tiết Phùng Quán kể làm người đọc cười ra nước mắt. Trước khi bị bắt, Tuân Nguyễn là thanh niên chưa vợ, suốt ngày vùi đầu vào sách vở, nên khi viết về một nhân vật chơi bời, Tuân Nguyễn thiếu thực tế, liền nhờ Phùng Quán kiếm cho một cái “đồng tiền vàng”, tức là  nhãn hiệu của cái bao cao su của Tiệp Khắc sản xuất. Thời đó loại bao cao su này không được bán tự do bên ngoài, mà chỉ có ở cửa hàng phân phối có giấy giới thiệu của Công đoàn cơ quan mới mua được. Phùng Quán ngờ bạn mình đang cần cái đó vì yêu. Nhưng không phải, Tuân Nguyễn chỉ xem để  biết, để mô tả cho chính xác khi viết văn. Phùng Quán  bảo với Tuân Nguyên rằng:“tay H (H đã nói ở trên) hay chơi bời, cùng cơ quan với cậu lúc nào cũng có “đồng tiền vàng” trong túi, Cậu hỏi xin nó một cái”.  Và cái ngày định mệnh 21/10/1964 ấy, Tuân Nguyễn gặp H. tại cổng cơ quan, hỏi  xin một “đồng tiền vàng” . H móc túi lấy cho Tuần Nguyễn mộtđồng tiền vàng. Tuân Nguyễn đút túi chưa kịp bóc xem thì  người ta đến đọc lệnh. Sau lệnh bắt, người ta yêu cầu Tuân Nguyễn cởi bỏ hết đồ mang theo trong người, kể cả kính cận, để lập biên bản. Thế là đồng tiền vàng trong túi bị phát hiện. Tuân Nguyễn hổ thẹn lắm, vì anh bị quy thêm một tội nữa: Chưa vợ mà có đồng tiền vàng tức là “hủ hoá” ! Sau này Tuân Nguyên kể với Phùng Quán: “ Lúc đó, một chi tiết khó tin trong tác phẩm Kỷ niệm ngôi nhà những người chết của Dostoievsky vụt hiện lên trong ký ức mình.Có một người tử tù sắp sửa phải thụ hình. Y bị trói vào cọc hành hình cố vươn ra chuẩn bị đón lưỡi dao bén ngọt của đao phủ. Y chợt ngoảnh lại, run rẩy nói với người đao phủ: Trên gáy tôi có cái ung nhọt đang mưng mủ. ông làm ơn đừng chém vào chỗ cái nhọt ! Rất đúng với hòan cảnh của mình lúc đó, sắp phải đi tù không biết bao nhiêu năm, thế mà mình lại không cảm thấy đau khổ bằng sự việc trong túi  có đồng tiền vàng”. Đi tù cải tạo 9 năm 7 tháng , cho đến khi ra tù, Tuân Nguyễn vẫn chưa biết đồng tiền vàng ấy hình thù như thế nào…

Sau khi bị bắt, Tuân Nguyễn bị đưa vào Trại cải tạo ở Nghĩa Đàn (Nghệ An), Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá). Trong  bài “ Nhớ thương anh”  Phạm Ngân Giang, là người đã cưu  mang Tuân Nguyên nơi ở khi ra tù trong một thời gian , cho biết, ở Trại cải tạo Nghĩa Đàn, anh được làm thống kê đi khắp các đội sản xuất để ghi số liệu, thời gian rỗi thì miệt mài học tiếng Nga, tiếng Hán, làm thơ… Anh sống nhân cách, không kêu ca phàn nàn, lại hay nhường nhịn giúp đỡ mọi người, nên ai cũng thương anh.  Trong trại người ta nhốt cao bồi riêng, gái điếm riêng, họ nhờ anh đưa thư cho nhau, anh thương tình đưa hộ, bị giám thi trại bắt được, cảnh cáo nếu tái phạm thì chuyển đi lao dộng chứ không được làm thống kê nữa. Ở Trại Nghệ An được một năm thì Trại bị máy bay Mỹ bắn nên chuyển ra Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá). Thời hạn cải tạo được 4 năm anh được Ban giám thị Trại cho làm bản tự kiểm điểm để được tha, nhưng Tuân Nguyên không tự kiểm điểm mình mà lại viết bản lên án , tố cáo Ban giám thị ăn hối lộ, đút lót.v.v. nên không những không được tha mà bị chuyển qua trại Bá Thước (cũng ở Thanh Hoá) làm công việc khai thác gỗ rất nặng nhọc thêm gần 6 năm nữa. Khi được tha anh khoác ba lô về, loanh quanh mấy tháng trời không biết đi đâu, về đâu, làm gì. Anh buồn chán lại khoác ba lô quay trở về trại Cẩm Thuỷ. Mọi người trong trại khuyên anh  hãy về với cuộc sống để yêu, để bảo vệ cái đẹp. Về để đi tiếp chặng đường dang dở của mình. Và anh lại về Hà Nội sống nương tựa vào bạn bè…Anh đi đánh véc ni, đi dọn vệ sinh ( đổ thùng nhà cầu) ở ga Hàng Cỏ để sống qua ngày.

Cuối năm 1974, một người con gái đã đến với Tuân Nguyên như là sứ giả của Thượng Đế sai về để đánh thức trái tim cô độc của anh. Đó là Phương Thuý, là con gái của  ông Nguyễn Đức Phiên, tức Hoài Chân, một trong hai tác giả  Thi nhân Việt Nam lừng danh. Chị Thuý làm thơ, dạy đàn tam thập lục ở Nhạc Viện Hà Nội. Chồng trước của chị là một tiến sĩ vật lý danh tiếng, nhưng chị đã ly dị để đi theo tiếng gọi của  trái tim, lấy anh chàng Tuân Nguyễn vừa được tha tù sau 10 năm, dù bị gia đình phản đối quyết liệt. Có lẽ chị Phương Thuý đã nhận ra cái  CHẤT NGƯỜI  cao cả rất đậm đặc hiếm có ở Tuân Nguyễn chăng ? Nhà văn Thái Vũ ( Bùi Quang Đoài) viết:” Quả là “mệnh trời” khi Tuân gặp Thuý, khi nỗi buồn khó dứt của một người đang mong có một niềm vui, đúng hơn là một chỗ dựa. Trong thời buổi chữ “tài” đang lay lắt thì chữ “mệnh” đúng là đã cứu vãn một kiếp người…”

Lấy nhau rồi mà phải ở nhờ nhà những người em, người bạn như  Phạm Ngân Giang, Vũ- Điều, Băng Sơn. Hơn tháng sau, chị Thuý đem tất cả số tiền dành dụm được, rồi bạn hữu góp thêm, mua một gian buống 6 mét vuông gần Ga Hàng Cỏ. Bạn bè xúm tay góp nồi, góp soong , bếp dầu, chén bát, bàn viết, ghế ngồi, giá sách, giường…Hoạ sĩ Chu Hoạch góp một bức chân dung Đốtx treo trước bàn viết, Phùng Quán, Lê Huy Quang góp tre đóng chạn đựng bát đữa, soong nồi… Sau khi có nhà Tuân Nguyên-Phương Thuý tổ chức “lễ thành hôn” theo kiểu riêng của mình. Tuân Nguyên làm một bài thơ “Thơ mời bạn bè ngày cưới”, chép tay thành nhiêù bản gửi đi mời bạn bè.
Quá nghèo nên tạm thế này thôi
                                  Đâu dám làm cho khác mọi người
                                  Thiếu rượu vì tin tình nghĩa bạn
                                   Không hoa, mong hiểu vợ chồng tôi
                                   Bao năm nghoảnh lại hoàn tay trấng
                                   Một sáng nhìn lên miệng hé cười
                                   Thiếp báo là thơ- giờ gửi tới
                                    Xin mời có dịp đến nhà chơi.

          Dự cuộc “tiệc cưới” ở nhà Tuân Nguyên-Phương Thuý, Phùng Quán có bài thơ ứng tác đọc lên nghe lạnh người: … Có nơi nào trên trái đất này / Mật độ nhà thơ như ở đây? / Ba thước vuông sáu nhà thơ ngồi / Ba phải đứng vì không đủ chỗ… Có nơi nào trên trái đất này / Mật độ cô đơn như ở đây ?/ Một đám trẻ bơ vơ không nhà cửa / Sống bằng thơ đau với rượu cay/ Có nơi nào trên trái đất này / Mật độ yêu thương như ở đây ? / Mỗi tấc đất có một người quỳ gối / Dâng trái tim và nước mắt / Cho nỗi đau của cả loài người…

         Sau năm 1975, vợ chồng Tuân Nguyên- Phương Thuý vào Sài Gòn ở lô K, cứ xá Thanh Đa, quận Bình Thạnh. Nhờ một người học sinh miền Nam cũ giúp đỡ anh đã được đi dạy học ở Trường Nghiệp vụ Bộ Văn hoá ở Thủ Đức, ngoài giờ thì dịch sách báo. Buồn cười nhất là khi khai lại lý lịch để vào Sài Gòn dạy học, đoạn thời gian 9 năm 7 tháng đi tù, tổ chức bảo anh kê khai là “ nghỉ chữa bệnh!”. Vui thật. Còn chị Phương Thuý ở nhà mở quán bán báo kiếm sống. Ngày 25/4/1983, trên đường đi lấy báo về cho vợ bán, Tuân Nguyễn đã bị một chiếc xe đang lùi tông phải. Anh ngã giúi dụi, kính cận văng một nơi, báo văng một nơi. Người lái xe hoảng hồn chạy đến đỡ anh dậy, anh bảo :” Không việc gì, may cái kính không vỡ”. Rồi anh đạp xe về nhà, lúc đó mới biết mình bị chấn thương sọ não phải vào cấp cứu tại bệnh viện. Khi biết mình không qua khỏi, anh đã trăng trối câu nổi tiếng : Đừng bắt tội người lái xe… Tôi là người có lỗi…”. Câu nói thể hiện bản chất thương người của Tuân Nguyễn, cũng là một lời nhắn đối với tất cả trí thức trong cuộc đời này: 
- Chính Trí thức là người có lỗi, vì từng lớp trí thức tài giỏi của đất nước đã không làm được gì để cho người dân bớt khổ, cho xã hội công bằng dân chủ văn minh .Vâng, chúng ta là người có lỗi !


Phần nhận xét hiển thị trên trang