Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015

Tài liệu văn học tham khảo, xét nghệ thuật viết..Bỏ qua các thứ khác: Những Thiên Đường Mù #1 - Truyện Dài của Dương Thu Hương | Trò Chuyện Đê...

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lên đường khai phóng!


Nguyên Ngọc
Theo Văn Việt
PCTDiễn từ khai giảng trường Đại học Phan Châu Trinh
Hôm nay, mồng 9 tháng 9 năm 2015, kỷ niệm ngày sinh của nhà chí sĩ, nhà văn hóa và nhà giáo dục kiệt xuất Phan Châu Trinh, cũng là ngày truyền thống của trường ta, trường Đại học Phan Châu Trinh làm lễ Khai giảng khóa K 15, khóa học 2015-2019. Thay mặt lãnh đạo nhà trường, tôi xin chào mừng và chân thành cám ơn các vị đại biểu đã đến chia vui cùng thầy trò chúng tôi. Xin chào mừng tất cả các thầy cô, các cán bộ nhân viên, các sinh viên và cựu sinh viên của trường. Và đương nhiên, lời chào nồng nhiệt nhất hôm nay của tất cả chúng ta là dành cho các tân sinh viên, chào mừng các em nữ và nam từ khắp nơi, có em từ tận Thái Bình cuối Đồng bằng sông Hồng, có em từ tận Thành phố Hồ Chí Minh xa xôi, đã đến với không gian Phan Châu Trinh thân yêu của chúng ta. Tôi xin phép, và tôi tin chắc tất cả quý vị đều đồng ý cho phép tôi hôm nay dành diễn từ khai giảng này để chủ yếu nói với các tân sinh viên, những thành viên mới mẻ và trẻ trung của gia đình Phan Châu Trinh.
Các em thân yêu,
Như các em đều biết, trường của chúng ta có tên là trường Đại học Phan Châu Trinh. Và tôi xin nói: Những người sáng lập ngôi trường này đã chọn cái tên ấy với tất cả tâm huyết và với một ý tứ sâu xa. Bởi vì đấy là tên của một con người rất đặc biệt, cũng có thể nói rất kỳ lạ, hết sức độc đáo và là người sáng suốt nhất trong lịch sử cận đại và hiện đại của nước ta. Sự sáng suốt của ông còn soi đường cho chúng ta đến tận ngày nay.
Phan Châu Trinh sinh ra khi đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ tối tăm và thảm khốc. Và khi ông bước vào đời, nghĩa là đến tuổi như tuổi các em hôm nay, thì tất cả các cuộc nổi dậy cứu nước của tất cả những người anh hùng dũng cảm và tài năng nhất để chống ngoại xâm giải phóng dân tộc bấy giờ đều thất bại đau đớn. Cha của Phan Châu Trinh là một vị tướng anh hùng đã chết trong một cuộc khởi nghĩa anh hùng, tuyệt vọng và thất bại cay đắng như thế … Trước tình hình bức thiết đó, nảy sinh câu hỏi nóng bỏng: Vì sao? Và làm thế nào? Tất cả bấy giờ đều chỉ có một câu trả lời: Phải anh hùng hơn nữa! Dám hy sinh nhiều hơn nữa! Tất cả. Trừ một người. Người đó là Phan Châu Trinh. Ông nói: Không, không phải như vậy, không thể đi con đường ấy nữa. Ông là người duy nhất đi tìm và đã tìm thấy nguyên nhân mất nước, dân tộc bị đày đọa vào vòng nô lệ thảm khốc, không phải trong sự thiếu anh hùng của nhân dân, mà là ở trong văn hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về văn hóa của đất nước, so với thế giới, một thế giới đã đổi khác về căn bản – ngày nay ta gọi là thế giới toàn cầu hóa – mà ông cũng là người duy nhất hồi bấy giờ nhận ra. Ông nói chính sự tăm tối và ngu dốt, sự lạc hậu quá xa so với thế giới hiện đại là nguyên nhân khiến Việt Nam mất nước. Ông khẳng định căn bệnh chết người của dân tộc là căn bệnh về văn hóa, ngu dốt và lạc hậu về văn hóa. Và để chữa trị một căn bệnh về văn hóa thì chỉ có một phương thuốc duy nhất, đó là Giáo dục. Phan Châu Trinh chủ trương một cuộc cải cách giáo dục căn bản, hiện đại, triệt để, toàn diện, rộng lớn, đưa Việt Nam thành một nước văn minh, tiên tiến, cùng nhân loại năm châu. Có như vậy thì nền độc lập đươc dành lại dù bằng cách nào mới là độc lập thật sự, độc lập mới bền vững, nhân dân mới thật sự có hạnh phúc…
Tiếc thay, những điều kiện éo le của lịch sử đã khiến cho chương trình vĩ đại của Phan Châu Trinh bị dở dang. Lịch sử đã đi theo con đường khác. Độc lập và thống nhất đã được giành lại. Nhưng, tôi nghĩ hôm nay chúng ta cần dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau, chúng tôi có trách nhiệm thẳng thắn nói với các bạn trẻ sự thật này: nay chúng ta đã có độc lập rồi, nhưng căn bệnh chết người Phan Châu Trinh đã thấy và thống thiết muốn chạy chữa cho dân tộc hơn một trăm năm trước thì về cơ bản vẫn còn nguyên đấy. Vẫn là nguy hiểm chết người. Việt Nam vẫn là nước lạc hậu, đứng ở hàng cuối không chỉ của thế giới, mà ngay của khu vực, của châu Á và Đông Nam Á. Chúng ta phải dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau sự thật ấy. Chính vì vậy mà ngôi trường này mang tên là trường Phan Châu Trinh. Ngôi trường này được thành lập, tất cả chúng ta có mặt ở đây, các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên của trường, và các em sinh viên trẻ trung, quan trọng và chủ yếu nhất là các em, chúng ta có mặt ở đây là để góp phần, dù là nhỏ nhoi, tiếp tục chương trình sống còn do nhà giáo dục vĩ đại Phan Châu Trinh khởi xướng và còn bị dở dang. Trường của chúng ta nhỏ, còn non trẻ và nghèo, sức của mỗi chúng ta hạn chế, nhưng chúng ta có một lý tưởng lớn, chúng ta, người dạy, người học, chúng ta biết chúng ta tham gia vào một chương trình to lớn và có ý nghĩa sinh tử đối với đất nước này, hôm nay và ngày mai.
Thưa quý vị,
Các em thân yêu,
Ở trên tôi có gọi Phan Châu Trinh là một nhà giáo dục lớn, có lẽ điều ấy hơi lạ, xưa nay người ta thường vẫn coi và vẫn gọi ông là một chí sĩ yêu nước, hoặc có nhiều hơn nữa, là một nhà văn hóa. Song như ta vừa thấy, một trong những đặc sắc nhất của Phan Châu Trinh là ở chỗ ông đồng nhất giáo dục với giải phóng, theo ông chỉ có giáo dục mới thật sự giải phóng được con người, thật sự giải phóng được dân tộc. Ông quan niệm giáo dục tức là giải phóng. Ở đây có một ý tứ rất thâm sâu, mà hôm nay tôi muốn được nói với các em vì trường chúng ta thiết tha đi theo quan niệm này, sẽ cố gắng tối đa thực hiện nó trong mọi hoạt động của mình, đến cả trong “khí quyển’’ của không gian Phan Châu Trinh mà thầy trò chúng ta cố gắng cùng nhau xây dựng nên, cùng sống và làm việc trong đó. Suốt 4 năm. Và rồi các em sẽ mang theo ra đời, suốt đời.
Nhà thơ lớn của nước Anh John Keats có một câu nói thâm thúy về giáo dục, Keats nói: ‘’Giáo dục không phải là chất cho đầy, mà là đốt lên ngọn lửa’’. Chất cho đầy (kiến thức) tức là rót từ bên ngoài vào, từ bên trên xuống, đổ cho đầy vào đầu con người được coi là một cái thùng ù lì, bị động. Đốt lên ngọn lửa là khêu cháy từ bên trong. Giáo dục khêu cháy từ bên trong, vì giáo dục bắt đầu bằng lòng tin rằng trong mỗi con người đều có, tiềm ẩn, mầm mống của một ngọn lửa, tức những năng lực có thể và cần được đánh thức dậy để phát triển. Giáo dục là giải phóng, là đánh thức. Đánh thức cái vốn đã có sẵn trong từng con người, từng người học, từng sinh viên. Hôm nay, trong ngày đầu tiên các em bước chân vào trường, tôi muốn nói với các em điều này: ở trường này có một phương châm, một niềm tin: không có sinh viên kém. Em nào cũng giỏi, tất cả, không trừ một ai, tạo hóa rất công bằng, mọi người đều giỏi, mỗi người giỏi một cái, một cách, người giỏi toán, người giỏi văn, người giỏi ngoại ngữ, người giỏi tin học, người giỏi nhạc, người giỏi đá bóng, người hát hay, người vẽ đẹp, người năng nổ trong giao tiếp, người thâm trầm trong suy nghĩ…, đều quý, xã hội đều cần vì xã hội có những nhu cầu hết sức đa dạng. Sở dĩ ta coi người này hay người kia là kém, dốt, vì ta thường có lối đòi hỏi chủ quan, vô lý và kỳ quặc, cứ một mực đòi mọi người đều phải giỏi cùng một thứ mà ta cũng rất chủ quan coi là quan trọng nhất, ai không giỏi theo đúng đòi hỏi chủ quan của ta thì ta cho là dốt, khinh miệt và đẩy qua một bên trên đường đi tới của cộng đồng. Nói cho đúng, đấy là một tội ác, bởi vì người bị ta chủ quan coi là dốt sẽ đinh ninh mình dốt thật, chẳng đáng gì trong xã hội, mất hết tự tin, tự coi thường, tự khinh bỉ chính mình, sẽ lủi thủi với cái dốt tưởng tượng, thành một ám ảnh tủi nhục suốt đời.
Ở trường này chúng ta nhất quyết không làm như vậy, không đi theo con đường phi nhân bản, phi giáo dục đó. Chúng ta chủ trương làm một kiểu giáo dục khác, một kiểu giáo dục hạnh phúc, giáo dục đem lại cho con người hạnh phúc, giáo dục khiến cho con người hạnh phúc hơn, giáo dục làm cho con người tự tin và tự hào về chính mình, tôi muốn đề nghị chúng ta gọi là ‘’kiểu giáo dục Phan Châu Trinh’’. Trong 4 năm tới, bắt đầu từ hôm nay, trường chúng ta, thầy trò chúng ta quyết cùng nhau làm cho kỳ được một trong những việc quan trọng nhất: bằng mọi cách (trong đó có một cách rất quan trọng là chương trình giáo dục khai phóng mà chốc nữa thầy Chu Hảo sẽ trao đổi cùng các em), giúp cho mỗi em tự hiểu mình, tự khám phá và phát hiện chính mình, biết cho ra, hiểu cho rõ mình giỏi cái gì, đặc sắc nhất cái gì, từng em. Theo tôi, đó là công việc quan trọng nhất của mỗi thầy cô giáo, nằm trong chiều sâu căn bản của thiên chức nhà giáo nơi mỗi thầy cô. Nhưng cũng đương nhiên, trước hết, chủ yếu, đó phải là nổ lực của các em, từng em, với sự giúp đỡ của các thầy cô, của các bạn, của toàn bộ môi trường giáo dục mà chúng ta phải cùng nhau tạo ra ở đây. Trước hết ở các em, từng em, tôi nhắc lại. Bởi vì phát triển bao giờ cũng là tự phát triển, như cái cây phải tự nó lớn lên, không ai có thể lớn lên thay nó được.
Và một quá trình như vậy chỉ có thể có kết quả khi nó là một sự hợp tác khắng khít, dân chủ, tự do và bình đẳng giữa chúng ta, người dạy và người học, thầy và trò.
Ở trường này có một nhận thức rõ ràng: sinh viên là công dân đi học. Sinh viên cần ứng xử như một công dân có trách nhiệm, và cần được tôn trọng như một công dân tự do. Chúng ta tôn trọng đúng mức lễ độ truyền thống và hiện đại giữa thầy và trò, người lớn tuổi hơn và người ít tuổi hơn, người đi trước và người đi sau, nhưng chúng ta bình đẵng trước chân lý cuộc sống và chân lý khoa học. Trường có quy định: trên lớp học, sinh viên sẽ không xưng con, xưng cháu, mà xưng tôi, một cách bình đẳng và tự tin, hoặc cũng có thể xưng em với giáo viên, các giáo viên xưng thầy, cô với các em. Để cùng nhau trao đổi, và thảo luận, tranh luận, vì lẽ phải chung, trong một ngôi trường thật sự văn minh.
Các em thân yêu,
Giáo dục là việc khó, mà cũng là việc thật đẹp, rất khó mà cũng lại đẹp nhất. Bởi, như đã nói, đây là việc đánh thức dậy những gì những gì hay nhất, đẹp nhất trong mỗi con người để con người ấy phát triển tự do và hạnh phúc. Khó và đẹp còn ở chỗ con người là vô cùng đa dạng, mỗi em là một thế giới. Mỗi em một khác, mỗi lớp, mỗi năm, mỗi khóa một khác. Vừa rất căn bản, vừa rất mới lạ, luôn mới lạ. Vừa chắc chắn trên những nền tảng chung cơ bản, vừa lại rất cá biệt, bao giờ cũng mới mẻ, cũng khác thường. Cho nên tôi luôn nghĩ, nói theo cách nào đó, thì về cơ bản giáo dục là việc một thầy một trò, một người cùng với một người khó nhọc và tha thiết đi tìm ra chính mình. Tôi luôn mong ước, và tôi nghĩ các thầy cô giáo cũng vậy, luôn muốn được đến tận từng em, hiểu được từng em, gần gũi và là bạn của từng em, để ta cùng làm cho thành công công việc khó khăn mà đẹp đẽ này. Sẽ rất hạnh phúc cho cả thầy và trò ta.
Vậy đó, các em thân yêu, hôm nay ta lên đường.
Một lần nữa, thay mặt nhà trường, thay mặt các em, tôi xin cám ơn các vị đại biểu đã đến cùng thầy trò chúng tôi trong ngày lên đường của chúng tôi hôm nay.
Còn với các em, ta hãy cùng chúc nhau một hành trình khai phá thật đẹp và thật thành công.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một lối đi tránh điều phức tạp của BC thui mờ!


Thủ dâm tinh thần cỡ này mới ghê.
Mẹ cái bọn làm báo, dặt toàn một lũ ăn tục nói phét. Đọc cái bài báo là đủ thấy chúng nó viết bài với những cái đầu rỗng tuếch về khoa học, về công nghiệp. Đưa một thằng cha với dăm ba cái máy thủ công đồng nát đòi chế tạo chính xác tới 1/1000 mm. Ô tô chạy bằng nước lã là cái ôtô gì vậy trời? sản phẩm lại còn xuất đi khắp thế giới. Thôi mai mình bỏ nghề. Công ty đang làm chắc có đến mấy nghìn kỹ sư và tiến sỹ nhưng chưa thấy ai siêu giỏi như cái ông này.
Chiếc vành xe đạp inox của ông Khánh - người chế tạo ô tô chạy bằng nước lã,…


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhân tài bao giờ cũng thuộc về số ít


Hà Vũ Hiển
Khi tổ chức cần người già
Thì ta vẫn còn trẻ
Khi tổ chức cần người trẻ
Thì ta đã về già
Khi tổ chức cần đàn bà 
Thì ta là đàn ông
Khi tổ chức cần công nông 
Ta trót là trí thức
Khi tổ chức cần người có đức 
Ta lại trót là người có tài…
Có lẽ đó là những lời kêu ca một cách hài hước của những người cảm thấy luôn luôn “nhỡ thời”, không được “xã hội” trọng dụng vì các tiêu chuẩn “quy hoạch cán bộ” thiên về cơ cấu hay lứa tuổi để phù hợp với các “yêu cầu chính trị của đất nước” ở từng thời kỳ khác nhau. “Xã hội” trong ngữ cảnh trên được hiểu theo nghĩa hẹp là các cơ quan thuộc hệ thống nhà nước, nơi đề ra các tiêu chuẩn đó.
Những năm gần đây, tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ của Nhà nước cũng đã được cải tiến và thay đổi nhiều. “Xã hội” cũng đã được mở rộng hơn ra ngoài khu vực “quốc doanh” nên người có thực tài có nhiều “kênh” đa dạng hơn để phát triển sự nghiệp của mình. Hơn 6.400 cán bộ, công chức bỏ việc, thôi việc tại các cơ quan Nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh mà báo Tuổi Trẻ đưa tin ngày 3/6/2008 là một ví dụ cụ thể. Và điều này không hẳn chỉ xuất phát từ  tiền lương thâp mà còn do môi trường làm việc chưa tạo cơ hội tốt cho người có năng lực thăng tiến, việc bố trí cán bộ không phù hợp… như thừa nhận của UBND TP.
Thực ra thì các cơ quan Nhà nước bây giờ khi tuyển người cũng như khi bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo đều đưa ra các tiêu chuẩn rất khắt khe về tuổi tác, năng lực, trình độ… Nhưng tại sao chúng ta vẫn cảm thấy ít có những nhân vật xuất sắc trong “hệ thống của chúng ta” so với những “hệ thống” mà chúng ta thấy ở rất nhiều nước khác. Không những thế, lại còn có tình trạng chạy chức, chạy quyền ở mọi cấp, mọi nơi gia tăng, “dù về mặt pháp lý, quy định đã khá chặt chẽ…” nhưng trên thực tế, “con voi vẫn chui lọt lỗ kim” như phát biểu của ĐBQH Lê Văn Cuông được VietNamNet trích dẫn lại ngày 22/5/2008.
Vấn đề là ở chỗ mặc dù “hệ thống của chúng ta”  cũng đặt ra các quy chuẩn có vẻ rất chặt chẽ, nhưng trong rất nhiều trường hợp chính cái quy chuẩn ấy lại là cái cớ, một thứ “rào cản kỹ thuật” cứng nhắc để cố tình hay vô tình gạt bỏ những người vừa có tâm lại vừa có tài một cách thực sự trong khi lại mở toang cửa cho “những con voi” đi vào.
Chẳng hạn như ở những nơi người ta đặt ra “quy hoạch cán bộ” là không bổ nhiệm người trên 50 tuổi thì rất có thể sẽ có những người từ 51 tuổi trở lên tuy rất xuất sắc nhưng sẽ bị loại, hoặc cũng sẽ có nhiều ông phải lo “chạy” giấy khai sinh cho đủ tiêu chuẩn. Nếu ở một nơi nào khác, người ta quy định phải 30 tuổi trở lên mới đủ “chín chắn” để được bổ nhiệm, thì rất có thể sẽ có người đặc biệt xuất sắc và có uy tín nhưng sẽ bị loại chỉ vì anh ta mới 29 tuổi. Hoặc ở một nơi khác nữa, người ta quy định cán bộ lãnh đạo phải có bằng thạc sỹ trở lên, thì rất có thể sẽ có một loạt những người có tài thực sự nhưng chỉ mới có bằng đại học sẽ bị loại để nhường chỗ cho những ông “thạc sỹ giấy” hoặc “tiến sỹ giấy”, hoặc cũng sẽ có ông phải lo đi “chạy” bằng.
Mặt khác: – Đa số những người già thì vừa yếu về sức khỏe, suy nghĩ chậm hơn người trẻ nhưng lại có những ông già rất thông minh, sáng tạo hoặc vẫn khỏe hơn nhiều thanh niên, tất nhiên đây chỉ là số ít.
– Đa số những người trẻ dưới 30 tuổi thì còn bồng bột, thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống và trong công việc…, nhưng lại cũng có một số ít những anh chàng hoặc cô nàng ở lứa tuổi này không những rất thông minh mà lại còn rất chín chắn.
– Đa số những người có bằng cấp cao thì có trí tuệ cao hơn những người có bằng cấp thấp hơn, nhưng cá biệt lại có những người có ít bằng cấp, bằng cấp không cao hoặc thậm chí không có bằng cấp lại có trí tuệ hơn rất nhiều người có bằng cấp cao hơn (như ông Tạ Quang Bửu là một ví dụ)…
Có thể nhiều bạn nói rằng, đó chỉ là SỐ ÍT, là CÁ BIỆT.
Nhưng xin thưa rằng, những nhân tài thực sự bao giờ cũng thuộc về SỐ ÍT, thuộc về CÁ BIỆT, họ chưa bao giờ thuộc về số đông.
Vì thế nên Bill Clinton mới làm Tổng thống Mỹ khi mới ngoài 40 tuổi còn Reagan khi đã ở gần cái tuổi 80 vẫn còn là Tổng thống Mỹ.
Không phải vì dưới thời Bill Clinton, nước Mỹ thay đổi tiêu chuẩn về tuổi tác trong “quy hoạch cán bộ” so với thời Reagan.
Đơn giản là vì nước Mỹ chỉ chọn người có THỰC TÀI. Và nếu tôi không nhầm thì trong thành phần chính phủ Anh cách đây vài năm còn có vị bộ trưởng chưa có bằng đại học. Và các nước ấy đã phát triển được thành những nước tiên tiến cũng một phần, nếu không nói phần lớn, là vì họ biết phát hiện và trọng dụng nhân tài.
(*)  Bài đã đăng trên Tuần Việt Nam với tiêu đề (do TVN đặt):  “Quy hoạch” cán bộ – thường hay nhỡ thời?

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tôi yêu đất nước tôi


“Đất nước tôi nằm phơi phới bên bờ biển xanh
Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình… Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui …
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi!”
Tôi nhớ năm lên 12 hay 13 gì đó, tôi chui lỗ chó vào rạp Quốc Tế, đường Trần Hưng Đạo bây giờ, để coi “cọp” một chương trình đại nhạc hội Tết rất hoành tráng. Tôi đã quên chi tiết của các màn trình diễn hay tên nghệ sĩ, chỉ còn nhớ điều duy nhất là một bài hát nghe lần đầu. Bài “Tình Ca” của Phạm Duy do Thái Thanh hát. Tôi bị cuốn hút ngay từ câu đầu…”Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, mẹ hiền ru những câu xa vời…” Cho đến giờ này, hơn 50 năm sau, tiếng hát vẫn quyện tròn quanh tôi trong những đêm về sáng.
Tuổi thơ Việt Nam
Thực ra, khi tôi sinh ra, không phải là giọng ru con êm đềm của Mẹ mỗi đêm mà là tiếng đại bác và bom đạn vọng về thường trực. Chiến tranh bùng nổ khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương năm 1945 và gia đình tôi phải chạy giặc liên tục. Một ký ức Mẹ thường kể lại là có đêm tôi bị lên “bẹn” khóc suốt buổi và các gia đình cùng chạy giặc phài bịt mũi tôi để giữ im lặng trong căn hầm trú ẩn. Đôi khi giặc sục sạo trên đầu và Mẹ cứ lo là tôi đã bị ngạt thở chết rồi. Có lẽ nó cũng giải thích lý do là tại sao trong suốt 40 năm đầu của cuộc đời, tôi thường hốt hoảng giật mình tỉnh giấc giữa đêm như đang bị ai bóp họng.
Lớn lên, tôi cũng an hưởng một tuổi thơ tương đối êm đềm dù nghèo khổ. Một ký ức khác từ Mẹ là cho đến năm tôi lên 3 tuổi, Mẹ đi bán rong mỗi ngày. Quầy hàng nặng ở một đầu gánh và tôi vui cười ở đầu gánh khác để Mẹ đươc cân bằng. Đứa bạn thân duy nhất của tuổi thơ đó là một con khỉ nhỏ đi lạc vào nhà, cho đến ngày nó bứt dây xích và biến mất. Trong những ngày tiểu học, vì thiếu ăn và nhỏ con, tôi luôn bị các bạn đồng lớp bắt nạt và đánh đập. Có lẽ nhờ vậy, kỹ năng đánh lộn và phá phách của tôi cũng được trau dồi nâng cấp khá ấn tượng.
Những năm hạnh phúc
Gia đình tôi dọn về Saigon khoảng 1950. Ở cạnh vườn Tao Đàn bây giờ, tôi có chút khung xanh để đuổi hoa bắt bướm, để nghe tiếng ve sầu mỗi hè, để nhìn lá me bay khắp phố mỗi mùa mưa. Cái tuổi thơ đó chắc cũng không khác gì những tuổi thơ của triệu triệu đứa bé khác trên trái đất, nô đùa và vui cười hay khóc nhè mà không cần biết đến những nổi trôi của đất nước. Thế giới của chúng tôi quay nhẹ qua những trận đá dế, ném bi…những lần trốn học bị đòn nát đít, những lần được cha mẹ cho đi ngoại ô dã ngoại (ngoại ô đây là công viên ở sân bay Tân Sân Nhất hay ven sông Nhà Bè…).
Rồi tình yêu cũng đến rất sớm trong cái nhút nhát rụt rè của …”em tan trường về, đường mưa nho  nhỏ”. Quen nhau 3 năm, ngày tôi rời Việt Nam qua Mỹ khi lên 18, tôi chỉ mới dám nắm tay nàng. Nhưng đã có Trịnh Công Sơn, Nguyên Sa, Mai Thảo…nói thay tôi những lời yêu thương mật ngọt, đã có ngàn hè phố bóng cây giữ cho chúng tôi dấu ấn, đã có trăm ghế đá công viên nghe câu chuyện tình ngây ngô …
Những ngày ra biển lớn
Dù đẹp và thơ mộng, cái tuổi mới lớn đó cũng khác gì nhiều với những thiếu niên đã lớn lên ở Boston, Bogota hay Belgrade. Quê hương Việt Nam của tôi không phải là vườn địa đàng của tuổi trẻ hay là một chùm khế ngọt ngào đặc thù nào. Cho nên, với tuổi còn say mê khám phá những chân trời lạ, xứ Mỹ vừa gặp qua phong cảnh mênh mông, văn hóa đa dạng và nhịp sống năng động làm tôi mau chóng quên đi những êm đềm của quê hương, dù mỗi đêm trên đài truyền hình, thời sự về Việt Nam đã được phát sóng không ngừng.
Con người tôi thich ứng khá nhanh. Từ một cậu học trò nhút nhát ham học, tôi thành một sinh viên tự tin, nhưng ham chơi và lười biếng. Tôi sống như người Mỹ, học như người Mỹ và chơi như người Mỹ. Là người Việt duy nhất trong số 42,000 sinh viên của trường, tôi cũng không có nhiều lựa chọn. Hòa nhập vào cộng đồng mới với một tư duy mới và nhiều cuộc tình ngắn ngủi nhưng cháy bỏng, tôi quên đi các tà áo dài trắng e ấp ngày nào bên sân trường Duy Tân. Viêt Nam thật xa và ký ức mờ nhạt.
Cho đến một ngày đẹp trời nào đó, tôi nhận một lá thơ của Bộ Ngoại Giao Mỹ nhắc nhở anh đã tốt nghiệp đại học, chúng tôi sẽ ngưng gởi tiền học bổng. Anh cũng lo mà về phụng sự nước mình đi chứ. Tôi quăng lá thơ vào sọt rác, điện thoại bạn bè hỏi cách ở lại Mỹ, hợp pháp và bất hợp pháp, rồi tiếp tục mê mết trong một cuộc tình đang nhiều thú vị với hai cô đồng tính (lesbians).
Quê hương tìm đến
Vài ngày sau, chị Loan gõ cửa phòng. Em chị là Chí, người bạn nối khố từ nhỏ của tôi từ trường tiểu học đến khi đậu Tú Tài 2. Chị qua Mỹ tu nghiệp và đi xe buýt cả 10 tiếng để đến thăm tôi. Tôi hồn nhiên hỏi thăm về Chí. “Nó hy sinh ở chiến trường Bình Giả hai tháng trước rồi em.” Tôi lặng người. Chị kể thêm về anh Quang, người yêu sắp cưới của chị, cũng đã gục ngã ở Quảng Nam. ‘Em còn nhớ con Thu Anh?” Ai mà không nhớ, hoa khôi Trưng Vương, niềm yêu thầm nhớ trộm của cả nhóm học sinh Petrus Ký lẫn Chu Văn An. Chúng tôi cứ nghĩ là ông nhạc sĩ nào đặt bài “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu” là để dành riêng cho nàng. “Con bé đi thăm chồng đóng quân ở Pleiku, khi về, xe bị trúng mìn, nó cũng chết rồi em ạ”. Sau một tiếng, tôi không nhớ được con số bạn bè đã ra đi hay tàn phế. Trên cả sự chết chóc là một nỗi niềm tuyệt vọng vô bờ của lớp người trẻ đã lớn lên cùng tôi.
Đêm đó mưa xuân, nhẹ nhưng rả rich cả đêm. Tôi và chị ngồi co ro ngoài hiên nghe hơi gió hú. Suốt đêm không ngủ, nhưng hai đứa cũng không nói lời nào. Cái thanh bình riêng biệt mà tôi tự tạo mấy năm qua để quên đi những quằn quại của quê hương ngàn dặm giờ đang bị chị Loan xô đẩy. Cái hạnh phúc bé nhỏ của thế giới mới tôi đang an hưởng đã bị gánh nặng của ký ức và thực tại đè chìm. Tôi đã sống như trong một cơn mơ. Và đến giờ phải tỉnh giấc.
Bài hát ngày xưa
Tháng sau, tôi rời bỏ công việc mới, người tình mới, căn nhà thuê mới…khăn gói về lại Việt Nam. Tôi hoàn toàn không có ảo tưởng hay tham vọng gì về tiền bạc hay quyền lực hay sự nghiệp. Tôi cũng chắc chắn là mình sẽ không thay đổi được điều gì, tốt hay xấu, cho đất nước. Tôi chỉ có cảm giác là mình “thuộc về đây”, mình về để chia sẻ với bạn bè, gia đình, các người trẻ khác những khó khăn, đắng cay, tủi nhục và đau thương của những người đã “sinh nhầm thế hệ”.
Trước Tết Mậu Thân 1968, tôi lại tình cờ vào phòng trà nghe nhạc. Lần thứ hai, Thái Thanh lại làm nước mắt tôi lại lưng tròng với bài Tình Ca …” bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu..vài ngàn năm… khóc cười theo mệnh nước nổi trôi… nên tôi yêu biết bao người…Lý, Lê, Trần và còn ai nữa…”.
Tôi tự nhủ, “bao giờ quê hương mình mới hết hát nhạc buồn?”.
*link của bài “Tình Ca”, nhạc Phạm Duy, qua tiếng hát Thái Thanh:
T/S Alan Phan là Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa tại Hong Kong và Shanghai. Du học Mỹ từ năm 1963, ông đã làm việc tại nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street và phát triển công ty Hartcourt của mình thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ với thị giá hơn 700 triệu dollars. Ông sống và làm việc tại Trung Quốc từ 1999. T/S Phan tốt nghiệp BS tại Penn State (Mỹ), MBA tại American Intercontinental (Mỹ), Ph.D tại Sussex (Anh) và DBA tại Southern Cross (Úc). Ông đã xuất bản 8 cuốn sách bằng Anh và Việt ngữ. Email của ông là gocnhinalan@gmail.com và Web site cá nhân là www.gocnhinalan.com.
T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa
1 Jan 2011

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Niềm tin vào công lý trong chúng tôi đã chiến thắng!



Ba nhà báo: Đặng Kim Ngân, Hữu Nguyên, Từ Khôi và Luật sư Phạm Quốc Bình. 
Nguồn ảnh: FB Đặng Kim Ngân

Chiều 01/10/2015, TAND quận Hoàn Kiếm, Hà Nội đã tuyên bố Quyết định số 45 do ông Đinh Đức Lập (tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết) ký ngày 26/6/2013 buộc thôi việc tôi (Hữu Nguyên) là oan sai, trái pháp luật. Tòa tuyên buộc báo ĐĐK phải ra quyết định hủy bỏ quyết định 45 nói trên, chậm nhất là 10 ngày kể từ khi bản án có hiệu lực, báo phải thông báo công khai việc hủy bỏ quyết định 45 buộc thôi việc trái pháp luật đối với tôi tại cơ quan báo.
Tòa cũng tuyên buộc báo Đại Đoàn Kết phải bồi thường các thiệt hại về thu nhập trong thời gian do quyết định 45 gây ra.
Niềm tin vào công lý mà tôi đã từng khẳng định cách đây 3 năm trong bức thư gởi các đồng nghiệp nhân ngày 21/6/2013, khi mà ông Lập đang ra sức ráo riết thực hiện âm mưu trù dập, trả thù tôi cùng các đồng nghiệp Đặng Kim Ngân, Nguyễn Mạnh Thắng (Từ Khôi) nay đã thành hiện thực.
Công lý đã được thực thi dù phải mất khá nhiều thời gian. Điều đó càng chứng tỏ chừng nào chúng ta còn tin vào công lý và chiến đấu hết mình vì nó, công lý sẽ vẫn mãi còn tồn tại. Càng khiến cho những người còn đang do dự, mất nìêm tin vào lẽ phải, vào những giá trị chân chính trong cuộc sống còn có cơ hội xem xét lại và củng cố thêm miềm tin của chính mình. Khi các giá trị tốt đẹp được xác lập, bảo vệ và chiến thắng, xã hội sẽ bớt đi cái ác, cái xấu. Những kẻ xấu không còn có thể lộng quyền và đàn áp sự thật. lẽ phải, những người lương thiện một cách dã man như chốn không người nữa…
Trong cuộc đấu tranh tìm kiếm công lý đầy gian khổ, chúng tôi may mắn gặp được nhiều người tốt. Những người không chỉ chia sẻ về thân phận con người mà còn thực hiện, hành động cùng với chúng tôi để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ luật pháp. Nhiều đồng nghiệp của chúng tôi ở báo ĐĐK, nhiều báo khác đã lên tiếng, đã âm thầm chia sẻ và giúp đỡ chúng tôi. Nhất là những anh em nơi tôi đang trực tiếp làm việc ở Ban đại diện báo tại TP.HCM, Ban công tác phía Nam của MTTQVN….
Đặc biệt là cơ duyên gặp gỡ với luật sư Pham Quoc Binh của công ty Luật Long Hà trên bước đường mù mịt của thời gian đầu bị oan ức. LS Bình không chỉ giỏi về kiến thức pháp luật mà còn là một luật sư bản lĩnh, dày dạn, một người thấu hiểu, chia sẻ với chúng tôi như những người bạn. Mọi việc từ đó sáng dần ra, dưới sự soi rọi của tình thần thượng tôn pháp luật.
Xin chân thành cảm ơn tất cả các anh chị, các bạn, kể cả những người dù có thể do hoàn cảnh chưa từng lên tiếng công khai, nhưng vẫn đã âm thầm chia sẻ và ủng hộ chúng tôi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bức ảnh thay đổi thế giới

Alan Kurdi, một cái tên lạ lẫm với hầu hết ngót 8 tỷ người trên thế giới này, vào ngày 04/09/2015 đã trở lên nổi tiếng theo một cách mà chắc em chưa bao giờ hình dung đến.


Trong cuộc đời ngắn ngủi chưa đầy 3 tuổi của mình, Kurdi chắc chắn chưa hiểu được những gì đang diễn ra xung quanh và ở quê hương mình. Trong sự xô đẩy của định mệnh, được định đoạt bằng quyết định của những người thân, Alan Kurdi được đưa lên một con thuyền nhỏ cùng với cha, mẹ và người anh trai 5 tuổi, với em, hẳn cũng giống một chuyến đi chơi. Ít giờ sau, em được tìm thấy khi nằm dài trên bãi cát của một bờ biển tại Thổ Nhĩ Kỳ, yên bình trong giấc ngủ giờ đã thành vĩnh viễn. Mẹ và anh trai của Kurdi cũng ra đi trong ngày hôm đó khi chiếc thuyền nhỏ chìm giữa biển trong nỗ lực tuyệt vọng chạy trốn khỏi Syria, giờ đã thành một địa ngục sau các nước cờ giành giật quyền lực giữa các thế lực chính trị cả trong và ngoài quốc gia Trung Đông bi thảm này.

Đó là những gì được phơi bày trên hầu hết các bản tin của các hãng truyền thông trên thế giới vào ngày 04/09/2015.

Anh Lãng đã ngắm bức ảnh này nhiều lần, và thú thật chưa bao giờ đủ can đảm để nhìn chăm chú quá 1 phút. Dù rằng luôn có điều gì đó thôi thúc cần phải nhìn lại thêm một lần nữa.


Những năm 1970 và 1980, hàng triệu người Việt lênh đênh trên biển, giữa bão tố, đói khát, cướp bóc và sát nhân, vào lúc mà trình độ văn minh của nhân loại còn man rợ hơn ngày nay rất nhiều lần, chắc chắn những bi kịch tương tự Alan Kurdi không hề ít, thậm chí còn bi thảm hơn nhiều lần. Lúc đó chưa sẵn máy ảnh và truyền thông, mạng internet cũng không hề có. May mắn thay (hay cũng bi thảm thay) những nỗi đau ấy của người Việt không bị lưu lại một cách đầy ám ảnh giống như bức ảnh này.

Anh sẽ không nói gì về lương tri, thứ tình cảm ủy mị em chã ấy là sự biểu trưng cho sự đớn hèn và là căn nguyên của nhiều đau khổ trên thế giới này. Nhưng sự ám ảnh từ hình ảnh này khiến anh và các bạn cần thật sự trân trọng những gì đang có, và phải quyết liệt đấu tranh để triệt tiêu mọi nhân tố khiến con cháu chúng ta phải rơi vào thảm cảnh bi thương này.

Thế giới năm 2015, cũng vì thế mà thay đổi.

Cuối cùng người ta vẫn thấy đâu là ánh sáng của văn minh và tự do. Một châu Âu vật vã trong suy thoái kinh tế, một loạt các đảng phái có khuynh hướng bài trừ người nhập cư lên nắm quyền ở nhiều nước châu Âu trong các năm 2011 - 2015. Khắp nơi người ta nói đến việc bế quan tỏa cảng với các nền văn hóa ngoại lai, với người nhập cư và bảo vệ việc làm cũng như an sinh xã hội cho người bản địa. Sau khi hình ảnh và câu chuyện về Kurdi được lan truyền, người ta thấy một lối cư xử hoàn toàn khác. Hầu hết các chính phủ châu Âu đều hành động trong các chương trình an sinh cho người nhập cư tị nạn, nhiều dòng người tại Na Uy, Áo, Đức, Anh ... mang theo chăn và quần áo ấm ra đón những người tị nạn. Một lần nữa, giá trị nhân văn, khái niệm về lòng bác ái và quyền con người thắng thế tại Âu Châu, dù các khó khăn kinh tế vẫn chưa hề thuyên giảm. Cuối cùng thì sức sống thực sự của các giá trị dân chủ vẫn giành phần thắng cuối cùng, sau nhiều nghi ngờ về sự thất bại của các nền văn minh phương tây khi để các xu hướng dân tộc chủ nghĩa thắng thế trong một vài năm khó khăn kinh tế. Một điển hình cho các giá trị nhân văn, Angela Merkel tuyên bố nước Đức sẽ giành một ngân khoản 11 tỷ USD để hỗ trợ cho người nhập cư trong năm tài chính tới. Trong một phát biểu công khai, nữ thủ tướng quyền lực của một nước Đức luôn chặt chẽ trong chi tiêu và thận trọng trong tiếp nhận các nền văn hóa ngoại lai, nói về một xu hướng mới khi đón tiếp những người xa lạ, và bà tin rằng đó sẽ là xu hướng tốt. Rất khó để nói trước điều đó sẽ đúng hay sai, khi thế giới ngày nay thường phải vật lộn giữa các giá trị văn minh và cực đoan, khi lực lượng tàn bạo đến ghê rợn là IS lại mộ được một lượng chiến binh đáng kể từ những thanh niên được sinh ra và lớn lên ở các nước châu Âu vốn được hưởng các giá trị nhân văn từ tấm bé.

Tuy nhiên giữa sự bạo tàn của chiến tranh, của các toan tính đầy thủ đoạn của các thế lực chính trị trên thế giới và những số phận bi thương như Alan Kurdi. Xen lẫn giữa bức tranh bạo tàn và bi thương, đọng lại cuối cùng và đem lại niềm hy vọng, chính là các giá trị nhân văn, sản phẩm kết tinh từ sự văn minh và tự do mà các nền văn minh phương tây đã phấn đấu để đạt tới trong nhiều thế kỷ.

Không ai có thể nói trước được liệu những người di cư hồi giáo Syria được châu Âu chào đón hôm nay, sau nhiều năm nữa sẽ biến thành những động lực tích cực mới cho miền đất mà họ phải đánh đổi vô số thứ mới tìm đến được, hay lại trở thành các nhân tố gây bất ổn và biến thành các ví dụ điển hình cho sự thất bại của các giá trị châu Âu. Tuy nhiên, ngay vào lúc này, thế giới có lẽ lại tìm thấy một niềm hy vọng khi ánh sáng của văn minh và tự do vẫn đang thắng thế.

Một quốc gia phải sống bấp bênh trong mối đe dọa chủ quyền, trong một xã hội cai trị độc tài và ngự trị bởi nạn tham nhũng và các giá trị xã hội ngày càng xuống cấp, sớm muộn rồi cũng sẽ đối mặt với hoang tàn nếu những công dân của nó không thức tỉnh. Anh Lãng không xúi các bạn làm loạn, vì như vậy là rất ngu và anh không muốn ngồi tù, nhưng anh Lãng xúi các bạn phải thức tỉnh ý thức và trách nhiệm với xã hội. Phải hành động bằng chính những quyền mà hiến pháp trao tặng cho mỗi công dân, phải đòi hỏi xã hội được cai trị bằng luật pháp và sự công bằng. Phải đòi hỏi bộ máy nhà nước sống bằng tiền thuế và tiền bán tài nguyên quốc gia phải hành động trong sạch vì lợi ích quốc gia. Phải kiên trì trong hòa bình nhưng kiên quyết đối mặt với họa xâm lăng với dũng khí cao nhất để bảo toàn được tương lai cho các thế hệ tiếp sau. Trên hết, phải có tự trọng với chính bản thân mình để nhận ra mình vẫn là một con người với niềm khao khát cho những giá trị thuộc về lý tưởng.

Liệu dân tộc này có còn phải chịu đựng bi thương như hơn hai triệu người Việt đã từng trên biển vào những năm 1970, 1980 và nhiều năm sau đó? Liệu một lúc nào đó chính con cái các bạn sẽ phải nằm dài trên cát giống Alan Kurdi? Liệu có một lúc nào đó người Việt nam sẽ được sống trong hoàn cảnh và các giá trị như Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy? Và liệu sau 10, 15 năm nữa những câu hỏi giống như thế này vẫn được gõ và đưa lên net như một ám ảnh? Những người Việt Nam có tư duy, đang sống và tồn tại ở thời điểm này, chúng ta đang làm gì để thúc đẩy một tương lai văn minh và tự do cho thế hệ sau của người Việt?
Phần nhận xét hiển thị trên trang