Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

"..Quỳ dưới chân quê Trăm sự cúi đầu.."


Người dựng kỳ đài Ngày Độc lập 2/9

by anle20

BBC đăng lại bài của cố nhà thơ Phùng Quán năm 1992 về ông Nguyễn Hữu Đang, người dựng kỳ đài Ngày Độc lập 2/9 năm 1945 ở Hà Nội.
Ông Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) từng bị thực dân Pháp bắt từ 1930, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương (1937-1939), Hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), phong trào Văn Hóa Cứu Quốc (1943-1946), Ủy Ban Giải phóng Dân Tộc tại Tân Trào 1945. Ông là người tổ chức ngày lễ 2-9-1945, xây dựng khán đài để Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình Hà Nội.
Trích đoạn bài của Phùng Quán (1932-1995):
Tôi là người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệ thuật kiến trúc...[Ở nhà tôi, ngoài hình ảnh những] Kim tự tháp, Vạn lý trường thành, Đền Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp Eiffel, Khải hoàn môn... tôi có chừng vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động, Hà Nội Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng thể Vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng hai tháng năm Một nghìn chín trăm bốn lăm.
Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình kiến trúc mỏng manh được xây dựng bằng gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi công trong vòng 48 giờ đồng hồ – nếu chậm lại một giờ là hỏng – rồi sau đó biến mất khỏi mặt đất như một lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục của người lính già tôi bao giờ cũng cay lệ...
Ai có thể tái tạo công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập cùng với tổng thể kỳ vĩ đó? Không một ai! Kể cả thánh thần... Theo ngu ý của tôi, lễ đài Độc lập là cái cột mốc giữa đêm dài một trăm năm nô lệ và bình minh của Độc lập Tự do của cả dân tộc. Kể từ khi trên mặt cỏ nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc gỗ này, số phận của cả dân tộc thay đổi, và số phần nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng tôi cũng thay đổi...
Vậy ai là tác giả cụ thể công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập?...Cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng tôi những tư liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9/1945 anh vừa tìm thấy trong Thư viện Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi đặc biệt chú ý:
“Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà Nội, về việc tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản chính được đánh máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130 mm x 210 mm, đóng dấu tròn với giòng chữ Ngày Độc lập và C.P.C.H D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa, nổi lên giòng chữ BAN TỔ CHỨC).
Nội dung thư:
Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,
Bộ tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2.9.1945 một “Ngày Độc lập”.
Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ phải cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập. Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”.
Một thư khác của Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc Bộ Thông tin và Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức và con dấu giống như trên. Nội dung thư:
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận. Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.
Kính thư, Nguyễn Hữu Đang”.
Một bức thư khác, hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai bức thư trên, với nội dung:
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2.9.1945 tới đây được hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho các Phố trưởng để các ông ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán hội Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa sau Sở tài chính.
Kính thư, Nguyễn Hữu Đang”.
Hồ Chí Minh tại Paris tháng 6/1946 sau đàm phán không thành với chính phủ Georges Bidault
Sau khi đọc kỹ những tư liệu trên, tôi suy luận: ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy chắc ông phải biết ai là tác giả của công trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm gặp ông để hỏi cho ra.
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê người, đầu không khiến mà chân cứ rụt về đúng thành tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm lính trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi chuyện.
Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất nước: 2-9-1945.
Gặp điều trắc trở?
Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà Nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “ Mình sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại có cả thóc và rơm cho nông dân vay”. “– Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó? ”. “– Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng cộng sản Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu, thấy bản dịch đã in sai nhiều quá” .
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà Nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi lo lắng hỏi nhau: “ Không biết anh Đang có gặp phải chuyện gì trắc trở dưới đó?”.
Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể muốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về quê thăm anh, mặc dầu đã gần giáp tết. Tôi nói khó với vợ: “ Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng này, lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang...”. “– Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?”.
“– Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mì nh...” . “– Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”.
“– Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “– Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”.
“– Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”. Vợ tôi đành trao cho tôi một nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhịn nhẫn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào việc không đâu! Tôi nhét vội mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.
 Trận Điện Biên Phủ chấm dứt vĩnh viễn nỗ lực tái chiếm Đông Dương của Pháp
Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... sáng 26 tết, tôi có mặt ở thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai.
Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ. “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó... ”. Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen được với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “– Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó nổi tiếng, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, [chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc] số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đã đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ đứng bật dậy, nói khẽ với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc ông biết”.
Tôi vội níu tay anh lại dặn nhỏ: “– Cậu nhớ đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “– Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ đi đến gặp ông ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi:
“Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ được bao nhiêu tuổi ạ? ”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà ba nâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “– Cảm ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi rồi đồng chí ạ”.
“– Trước cụ có làm công tác ở đâu không ạ?”. “– Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội... về hưu đã gần được chục năm rồi”.
“– Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “– Tôi có quen biết gì với ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác gíáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc gửi biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”
Anh cán bộ cười: “ Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về tới đó cũng vất vả đấy...”. Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “– Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy [cách đây mấy năm, ông Đang này tự tiện đi] sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về... ”.
Tôi tỏ ý sợ hãi, gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”. Anh cán bộ xuê xoa:
“ Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu ở trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào ly rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...
Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường như cũng bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công – nơi anh Đang tá túc – tôi vào cái quán bên đường uống li rượu cho ấm bụng.
Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà Nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn li và nói: “– Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rấ t kỹ. Ông ấy kể với tôi, tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè, bò vào nhà. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên huyện bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá...”.
Tôi bật phì cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười cây số để đổỉ lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ, mới nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt lại hiện ra trong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm li rượu nữa, giọng hào hiệp: “– Li này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôi cười ngất.
Tiếng lục lạc làm đỡ cô đơn
Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi:
“– Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết... ”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra gần sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như hai vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng xuống hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể.
Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn HữuĐang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như một công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất cứ một nhà tư sản Hà Nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh, là trao tận tay cho Cách mạng...
Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ – chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trong truyện Hương cuội của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp Tất niên...
Miên man nghĩ vậy và tôi bật phì cười... “ Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chóp mắt, răng vàng xỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... “ Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...
Nguyễn Hữu Đang bị mất tự do nhiều năm sau 1954
Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Động vào chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai.
Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh thiếu niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó leo thang – anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không kém...Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ đơn độc.
Chính giữa gian chái kê cái chiếc tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá cửa nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà Nội người ta thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng, và một xấp áo quần cũ làm gối... Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Mặt bàn lát bằng nan tre.
Anh nói, giọng Lão Trang:
“Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn lại hai chân, nó thành một con người”. Trên mặt bàn xếp kín những chai lọ, vỏ đồ hộp, hai [...mất nửa dòng... ] vài con dao làm bằng mẩu [... mất một dòng...] thuyết minh viên giới thiệu hiện vật trong các bảo tàng nghệ thuật: “Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền của nó làm các loại chuột, mối, dán phải vị nể”.
Bây giờ thì tôi đã hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lượt bụi tro. Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói.
Anh giải thích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang – anh cười – Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn...”. “ – Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam xuất khẩu hẳn hoi, quà của Hội nhà văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi”.
Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc mắt nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách... ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ bia lon, và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi lục tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa. “Đây rồi! Bây giờ già hoá lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói: “Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quý tộc Nga thời Sa hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quý cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quý”.
Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu tập thuốc lá à? Thế mà em [... mất một dòng...] vì phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu lên: “– Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô ấy, có vỏ bao thuốc lá ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...”, “– Hàng đối lưu?” , tôi ngạc nhiên hỏi. “– Để tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học”.
Tôi ngắm nhìn bao quát căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi:
“– Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “– Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôỉ, nên đề nghị tôi ra đó trông coi giúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với việc trông coi trạí. Mỗi mùa Hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà Nội biếu các chú... Khi tôi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô, tiếng lợn kêu ầm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn”.
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán: “– Đây là bàn ăn – anh giới thiệu, và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồí thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”.
Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào mỗi đĩa, giới thiệu thực đơn: [“– Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn] thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”.
  Dựng lại hình ảnh thời Cải cách Ruộng Đất ở Việt Nam ( Ảnh :Thai An  )
Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường đổ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật là phí phạm”. “– Nhưng cóc nhái đâu mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “– Ấy, chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá , nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số (0) đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới gọi nó là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng, tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao thuốc lá là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp. Hôm nào chú về tôi gửi bíếu cô, chú Cung (00) mỗi nhà mấy viên nếm thử!. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét! ”.
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “– Chú đi đâu mà lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi? ”. “– Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà Nội, chúng em rất lo. Không biết anh đau ốm gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng... Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì cho các thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được...”. Tôi lấy đưa anh xem một số tư liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: [“ Em suy luận ra anh là Trưởng ] ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỷ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất... mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin” .
Ngày Lễ Độc lập
Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành... Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
“Thấm thoát thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua... Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8... Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một... Năm đó tôi bước vào cái tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào... Hôm đó, tôi có việc cần giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ, chụp lấy tay tôi, nói: “– Anh vào ngay đi, Cụ Hồ đang ngồi đợi anh trong đó”.
Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ áo quần chàm, tay chóng lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “– Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một thoáng vớí cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha rất giống giọng Cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “– Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không? ”. Tôi tính rất nhanh trong đầu : tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn có 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong một phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi đó mình chỉ có hai bàn tay trắng.
Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là [quá khó, vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”]” Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.
“– Như chú biết đấy – giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông Cụ động viên, động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy, lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kỳ tích, những chiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ: “– Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy, con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”.
Cụ Hồ đứng lên bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “– Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng ở đó. Cụ hỏi ngay: “– Chú còn cần gì nữa? ”. “– Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “– Quyền gì chú cứ nói đi!”. “– Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho việc tổ chức buổi lễ, về người cũng như về của...”. “– Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.

Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa, rồi kể tiếp – Nội dung như sau : ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng chữ tít thật lớn chạy hết trang báo [... mất một dòng...] ngoài chật kín Hội quán.
Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận:
“– Biết bao nhiêu anh hùng, liệt nữ góp xương máu cho nền độc lập, đâu có lấy giấy biên nhận”, họ nói vậy. Tôi mời m ọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc Lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt ở đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó?
Một người trạc ngoài ba mươi tuổi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ. Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến để ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “– Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc Lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt được những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ nếu không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần có một kiến trúc sư phối hợp với anh”.
Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh (2), cùng hoạt động trong Hội văn hoá cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải rộng cuộn giấy can cầm sẵn trong tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát...
Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút ký duyệt vào bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh:
"Ban tổ chức quyết định giao công trình này cho hai anh [Các anh cần gì, chúng tôi] sẽ lo chạy đầy đủ. Hiện chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ (000), cần dùng bao nhiêu, các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng chín, tôi sẽ đến nghiệm thu lễ đài. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.
Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như cụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ, cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng Hai tháng Chín sắp tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
“– Ông Đang ơi! ông Đang!” , tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy hai chú bé trạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi: “– Ông có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ bát đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: “– Các cháu định đổi như thế nào?”. “– Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số”. “Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói và dáng bộ của anh đã chuyển hẳn sang giọng của dịch vụ đổi chác, “Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi thì ông đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi!” .
Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”. Anh cầm cái vỏ bao xem lại cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải chịu thua thiệt”.
Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ...”.
Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỷ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói: “Hiện tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây...
Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những sự việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo bản Tuyên ngôn Độc lập cụ Hồ viết... còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản Tuyên ngôn, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo làng Lịch sử, không có bản thảo Tuyên ngôn Độc lập... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổỉ đầu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm thật”...
Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp:
“ Chú có biết điều lo lắng nhất hiện nay của tôi là gì không?” không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “ Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà Nội... Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột rà máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thầy cô giáo, các cháu học sinh... Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết. Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy...”
Tôi theo anh ra đứng lên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. “ Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ dày lá tre rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằm ở đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay...”.
Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là vì bị cảm... Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:
... Mặt ra giông chớpRạc mái phong lưuGót nhọc men về thung cũQuỳ dưới chân quêTrăm sự cúi đầuXin quê rộng lượngChút thổ phần bò xéo cuối thôn!
Tháng 12.1992
Phùng Quán
Bài không được báo Văn Nghệ tại Việt Nam đăng nên sau đó trang Diễn đàn Forum ở Paris đăng tải lại.Theo nhà nghiên cứu Đặng Tiến, ông Nguyễn Hữu Đang "bị tù, biệt giam trong 15 năm, sau đó bị quản thúc tại quê hương Thái Bình non 20 năm. Và trong tang lễ của ông (2007), đại diện chính quyền đọc điếu văn còn nhắc tội trạng "phạm sai lầm tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm".

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tập Cận Bình Chuẩn Bị Hạ Bệ Cựu Lãnh Đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc


Cựu Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân tham dự phiên khai mạc của Đại hội toàn quốc lần thứ 18 tại Đại lễ đường nhân dân vào ngày 8 Tháng Mười Một năm 2012, tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Tại Đại hội này, Tập Cận Bình đã được bầu vào vị trí cao nhất trong Đảng, ông là người ra lệnh bắt các thành viên của phe Giang Trạch Dân với cáo buộc tham nhũng trong 19 tháng qua. (Feng Li / Getty Images)
Cựu Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân tham dự phiên khai mạc của Đại hội toàn quốc lần thứ 18 tại Đại lễ đường nhân dân vào ngày 8 Tháng Mười Một năm 2012, tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Tại Đại hội này, Tập Cận Bình đã được bầu vào vị trí cao nhất trong Đảng, ông là người ra lệnh bắt các thành viên của phe Giang Trạch Dân với cáo buộc tham nhũng trong 19 tháng qua. (Feng Li / Getty Images)
Thời gian còn lại của Giang Trạch Dân chỉ còn được đếm từng ngày. Kẻ thống trị hệ thống chính trị của Trung Quốc trong hơn hai thập kỷ qua hiện đang bị điều tra tại chính sân sau của ông ta, thành phố Thượng Hải.
Tin về đoàn điều tra chống tham nhũng của lãnh đạo đứng đầu ĐCSTQ Tập Cận Bình đến làm việc tại Thượng Hải đã được thông báo rộng rãi. Một công bố ngắn gọn vào ngày 11 tháng 8 trên trang web chính thức của Viện kiểm sát tối cao Thượng Hải, cơ quan chịu trách nhiệm việc điều tra và truy tố tội phạm, cho biết cuộc điều tra đang được tiến hành một cách nghiêm túc.
Doanh nhân nổi tiếng Vương Tông Nam, chủ tịch của Tập đoàn Thực phẩm Bright, đã bị bắt vì hối lộ và biển thủ công quỹ. Đó được cho là tội ác sẽ bị xét xử của Vương, nhưng hành vi phạm tội thực sự của ông ta là do có mối quan hệ chặt chẽ với cựu lãnh đạo ĐCSTQ Giang Trạch Dân và con trai của Giang là Giang Miên Hằng.
Thượng Hải là bệ phóng cho tham vọng chính trị quốc gia của Giang Trạch Dân và ông ta đã hình thành cơ sở quyền lực cho mình tại đây.
Giang từng là người đứng đầu Đảng của Thượng Hải từ năm 1985 đến năm 1989. Đối mặt với một phong trào dân chủ mạnh mẽ vào năm 1989, Đặng Tiểu Bình đã rất ấn tượng với cách làm mạnh tay của Giang trong việc xử lý các bất đồng chính kiến ​​ở Thượng Hải, trong khi nhiều vị lãnh đạo ĐCSTQ khác thì đứng bên lề.
Sau khi cách chức Tổng bí thư Triệu Tử Dương vì sự cảm thông của ông đối với sinh viên, Đặng Tiểu Bình đã đưa Giang Trạch Dân đến Bắc Kinh. Sau khi nắm quyền, Giang đã lần theo dấu vết và trừng phạt tàn nhẫn những ai bất đồng chính kiến ​​trong vụ ‘xe tăng’ vào đêm mùng 4 tháng 6.
Sau khi nắm quyền ở Bắc Kinh, Giang cất nhắc những cán bộ không mấy tiếng tăm ở Thượng Hải vào các vị trí quan trọng trong Đảng. Họ hình thành một đội ngũ lãnh đạo chủ chốt để Giang có thể sử dụng để chi phối hệ thống chính trị của Trung Quốc trong hơn 20 năm.
Nhắm mục tiêu vào Giang
Hơn 19 tháng qua, người đứng đầu ĐCSTQ Tập Cận Bình đã thực hiện một chiến dịch chống tham nhũng trên diện rộng, đồng thời đã hạ bệ các đồng minh thân cận nhất của Giang Trạch Dân.
Đỉnh cao của chiến dịch này là việc thông báo công khai cuộc điều tra chính thức về cựu chiến lược gia an ninh Chu Vĩnh Khang vào ngày 29 tháng 7. Dự đoán sự sụp đổ của Chu sẽ đánh dấu hồi kết cho cuộc thanh trừng phe phái đối lập trong Đảng của Tập đã nhanh chóng bị xua tan.
Ngay sau khi có thông báo về Chu, Nhân Dân nhật báo – cơ quan ngôn luận của ĐCSTQ đã công bố một bài bình luận có tiêu đề “Hạ bệ con hổ lớn Chu Vĩnh Khang chưa phải là sự kết thúc của chiến dịch chống tham nhũng”. Bài báo chỉ ra rằng Chu đã được cấp trên nâng đỡ. Ai cũng biết rằng Giang Trạch Dân là người đã cất nhắc Chu.
Mặc dù bài báo đã nhanh chóng bị gỡ bỏ, nhưng vẫn đủ thời gian để được sao chép và lan truyền rộng rãi trên toàn mạng Internet Trung Quốc.
Hai tuần trước đó, Thời báo Đại Kỷ Nguyên đã báo cáo rằng cố vấn hàng đầu của Giang Trạch Dân là Tăng Khánh Hồng đã bị bắt. Nếu chiến dịch chống tham nhũng trở thành một hoạt động càn quét, thì sau đó mục tiêu hợp lý tiếp theo chính là Giang Trạch Dân. Những con hổ lớn khác đều đã bị hạ bệ.
Việc bắt giữ Vương Tông Nam vào tuần trước đã khiến cho Giang bị tổn thất. Nếu Giang không thể bảo vệ Vương tại Thượng Hải, thì sau đó ông ta sẽ bị tước bỏ quyền lực tại thành lũy thâm sâu nhất của mình.
Nếu những động thái vừa qua mới chỉ là màn mở đầu, thì sau khi Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương điều tra hàng ngàn vụ trước đây tại những nơi khác ở Trung Quốc, thì hiện nay nó đang được thực hiện tại Thượng Hải, tạo ra một cuộc điều tra bủa vây từ ngoài vào trong. Ủy ban kiểm tra đang tấn công vào những mắt xích yếu nhất ở ngoại vi để chúng phơi bày các mối liên hệ với trung tâm và sau đó tiến hành từng bước cho đến khi mục tiêu cuối cùng bị bao vây và vô hiệu.
‘Bế tắc’
Theo cơ quan ngôn luận nhà nước Tân Hoa Xã, 85.000 quan chức đã bị điều tra trong vòng 6 tháng qua.
Mặc dù phạm vi điều tra của chiến dịch này rất rộng lớn, tuy nhiên tại một cuộc họp vào ngày 26 tháng Sáu của Bộ Chính trị, Tập Cận Bình đã phàn nàn rằng lực lượng tham nhũng và chống tham nhũng đang ở thế “bế tắc”.
Bốn ngày sau đó có thông báo rằng bốn quan chức cấp cao đã bị thanh trừng trong cùng một ngày: cựu lãnh đạo quân sự hàng đầu Từ Tài Hậu; cựu Chủ nhiệm Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước Tưởng Khiết Mẫn, và nguyên phó chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc Vương Vĩnh Xuân; và Lý Đông Sinh, cựu thứ trưởng Bộ Công an và là người đứng đầu phòng chuyên trách đàn áp Pháp Luân Công.
Bất chấp sự thanh trừng mạnh mẽ này, phe của Giang vẫn có những động thái chống cự.
Ngô Phạp, trưởng ban biên tập tạp chí các vấn đề Trung Quốc bằng tiếng Hoa có trụ sở tại Hoa Kỳ, gần đây đã nói với NTDTV rằng quân đội đang tiếp tục theo dõi Quách Bá Hùng, nay đã nghỉ hưu, là một trong những nhân vật được Giang Trạch Dân bổ nhiệm vào vị trí cao trong lực lượng vũ trang Trung Quốc.
Ngô Phạp cho biết “Một số khu vực quân sự, bao gồm cả Quân khu Quảng Châu và Quân khu Bắc Kinh, đã hoàn toàn không nghe theo sự chỉ đạo của Tập Cận Bình. Họ làm theo lệnh của Quách Bá Hùng và phe của ông ta”.
Cuộc chống cự của Quách là theo chỉ thị của phe Giang, bất chấp lệnh từ Trung ương Đảng.
Trong mười năm Hồ Cẩm Đào là người đứng đầu danh nghĩa của ĐCSTQ, đã có một câu nói phổ biến ở Trung Quốc là “một trật tự không bao giờ vượt quá xa cổng ra vào của Trung Nam Hải.” Trung Nam Hải là trụ sở chính và là khu liên hợp lãnh đạo của ĐCSTQ tại Bắc Kinh.
Để Tập Cận Bình được biết đến là người hoàn toàn thống lĩnh ĐCSTQ, ông ta cần phải nhổ tận gốc phe cánh của Giang, cũng có nghĩa là phải hạ bệ Giang.
“Cuộc sống và cái chết”
Nhưng ông Tập chậm chí có một lý do mạnh mẽ hơn để theo đuổi chiến dịch của mình vì kết quả của nó chính là: sự sống còn.
Trong bài phát biểu ngày 26 tháng 6 trước Bộ Chính trị, Tập được cho là đã nói rằng: “Trong cuộc chiến chống tham nhũng, cuộc sống và cái chết và danh lợi là vô nghĩa đối với tôi.”
Tập đã học được bài học về mối đe dọa đối với cuộc sống của mình trước khi chính thức được bầu vào vị trí cao nhất của Đảng. Theo những người trong Đảng, việc phát hiện ra kế hoạch đảo chính chống lại Tập Cận Bình là cùng lúc với những động thái trong chiến dịch chống lại Giang Trạch Dân và phe của ông ta.
Sau khi cảnh sát trưởng Trùng Khánh Vương Lập Quân xin tị nạn tại Lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô vào tháng Hai năm 2012, ông ta đã bị chuyển đến Bắc Kinh. Sau đó Trung ương Đảng biết được rằng Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai – cựu Bí thư tỉnh ủy Trùng Khánh – là người Giang đã từng muốn cất nhắc lên vị trí Tổng Bí thư, đã có dự định hạ bệ Tập ngay sau khi ông nhậm chức.
Các mối đe dọa đối với Tập vẫn chưa chấm dứt mặc dù âm mưu đảo chính đã bị vỡ lở. Đại Kỷ Nguyên báo cáo rằng trong khoảng thời gian các nhà lãnh đạo Đảng tập trung tại Bắc Đới Hà vào mùa hè năm 2013, Chu Vĩnh Khang đã từng nỗ lực ám sát Tập với một quả bom được hẹn giờ tại một hội nghị và trong một dịp khác với một cây kim độc khi Tập đến thăm một bệnh viện.
Vào ngày 6 tháng 8, Tạp chí Thế giới (World Journal) bằng tiếng Hoa có trụ sở tại Hoa Kỳ đã đăng bài về những tin đồn được lưu truyền rộng rãi trong quân đội Trung Quốc rằng Quách Bá Hùng đã lên kế hoạch thực hiện một cuộc đảo chính.
Động cơ
Trong khi truyền thông phương Tây đã bắt đầu quan tâm hơn đến cuộc chiến sống còn giữa Tập và Giang, thì các thông tin quan trọng đang dần hé lộ động cơ của cuộc chiến này. Họ cho rằng nền chính trị Trung Cộng đang ở vào thời điểm vô cùng nguy hiểm.
Rõ ràng là nếu Tập thể hiện sự yếu kém của mình trước kẻ thù, ông sẽ bị thua. Nhưng tại sao Giang Trạch Dân cần phải cho rằng Tập là kẻ thù trí mạng của mình?
Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ngoài tầm hiểu biết của các phương tiện truyền thông: đó chính là chính sách đàn áp Pháp Luân Công.
Giang Trạch Dân đã cấu kết với Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu, Bạc Hy Lai, Lý Đông Sinh và các nhà lãnh đạo hàng đầu khác của ĐCSTQ để thực hiện tội ác tày trời đối với nhân dân Trung Quốc.
Theo văn phòng báo chí của Pháp Luân Công, Trung tâm Thông tin Pháp Luân Đại Pháp, hàng trăm ngàn học viên Pháp Luân Công vẫn đang bị giam giữ kể từ khi Giang phát động chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công vào tháng Bảy năm 1999.
Theo thông cáo báo chí vào thời điểm đó, chiến dịch này đã tìm cách nhổ tận gốc môn tu luyện tinh thần truyền thống của Trung Quốc được 100 triệu người dân Trung Quốc tập luyện vào năm 1999. Do đó nó đã thiết lập trạng thái chiến tranh cho chế độ cầm quyền nhằm làm việc trái lương tâm lên 1/13 dân số Trung Quốc, xử lý họ như những tội phạm hình sự khi họ nỗ lực tuân theo các nguyên tắc của Chân Thiện Nhẫn.
Các học viên bị giam giữ thường bị tra tấn và tẩy não. Theo trang web của Pháp Luân Công Minghui.org, 3.776 trường hợp đã được xác nhận bị chết vì tra tấn và lạm dụng. Do khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin từ Trung Quốc, số lượng học viên thực tế bị chết được cho là cao hơn nhiều lần.
Ngoài ra, các học viên còn là mục tiêu bị thu hoạch nội tạng cưỡng bức. Trong năm 2011, các nhà nghiên cứu David Kilgour và David Matas, các tác giả của cuốn sách “Thu hoạch đẫm máu” (Bloody Harvest) đã điều tra về hoạt động mổ cướp nội tạng cưỡng bức, và nhà báo điều tra Ethan Gutmann, tác giả của “Sự tàn sát: Giết người hàng loạt, thu hoạch nội tạng, và Giải pháp bí mật của Trung Quốc đối với vấn đề bất đồng chính kiến​​” (The Slaughter: Mass Killings, Organ Harvesting, and China’s Secret Solution to Its Dissident Problem) ước tính rằng trong những năm 2000-2008, có tới 62.000 học viên đã bị giết để lấy nội tạng. Hiện nay con số này có thể là nhiều hơn hàng chục ngàn.
Giang Trạch Dân và phe của ông ta sợ Tập Cận Bình vì Tập không liên quan đến tội ác chống lại nhân loại này. Có khả năng Tập sẽ chấm dứt cuộc bức hại. Nếu Tập làm như vậy thì sự kêu gọi việc bắt những kẻ có trách nhiệm trong việc này ở Trung Quốc sẽ chiếm áp đảo.
Để tránh phải chịu trách nhiệm, phe Giang Trạch Dân đã tìm mọi cách để giành lại quyền lực, cũng đồng nghĩa với việc cố gắng hạ bệ Tập.
Hệ thống tham nhũng
Tập không phải là lãnh đạo ĐCSTQ đầu tiên sử dụng tham nhũng để tấn công kẻ thù của mình, nhưng trong trường hợp của phe Giang Trạch Dân, chiến dịch chống tham nhũng này không chỉ là một cái cớ. Nó nhắm đến một hệ thống quyền lực chính trị.
Giang Trạch Dân được coi là một tên hề ở Trung Quốc, nhưng ông ta đã biết cách điều hành để trở thành người quyền lực nhất tại Trung Quốc trong hơn 20 năm qua. Bằng cách cho phép tham nhũng ở mọi cấp lãnh đạo của Đảng, Giang đã mua lòng trung thành của cấp dưới đối với ông ta.
Các nhà bình luận về chiến dịch của Tập cho rằng tham nhũng như thể rằng đó đơn giản là cách thức điều hành của ĐCSTQ. Khi làm như vậy, họ đã bỏ qua quy mô tham nhũng trên diện rộng của phe Giang, thực sự vượt xa bất cứ điều gì được biết trước đó.
Các nhà bình luận cũng thường viết một cách khá vô cảm, và thiếu đi mặt cấp bách của vấn đề này đối với người dân Trung Quốc.
Khi người dân Trung Quốc nghĩ về tham nhũng, họ không nghĩ về những chiếc ô tô Audi lấp lánh đi trên đường phố hoặc sự nuông chiều của tình nhân hay những bữa ăn xa hoa.
Họ nghĩ về cuộc sống bên trong những ngôi làng ung thư. Họ nghĩ về thực phẩm nhiễm độc, nước nhiễm độc, và không khí không còn trong lành.
Họ nhớ đến hệ thống trại cải tạo lao động đã gần như chấm dứt hoạt động trước khi Giang lên nắm quyền và làm thế nào mà dưới quyền ông ta số lượng trại cải tạo lại tăng nhiều đến như vậy.
Họ biết về “hệ thống duy trì sự ổn định” – do Chu Vĩnh Khang sử dụng để chống lại các học viên Pháp Luân Công – cướp nhà cửa và trang trại của những người phản đối sự đàn áp này.
Người dân Trung Quốc cũng nhìn thấy một xã hội không còn ràng buộc đạo đức. Họ lướt qua câu chuyện kinh khủng này đến câu chuyện kinh khủng khác trên Internet và tự hỏi, làm thế nào các giá trị đạo đức của dân tộc mình lại suy đồi đến vậy?
Bằng cách này và vô số những cách khác, cuộc chiến chống tham nhũng của Tập hứa hẹn cho người dân Trung Quốc sẽ thoát khỏi sự bất bình nhức nhối.
Hạ bệ Giang
Ý nghĩa lớn nhất của việc khôi phục lại các luật lệ này, bằng việc chống tham nhũng, sẽ là việc hạ bệ chính Giang Trạch Dân.
Khi các cán bộ Đảng thấy rằng Giang đã nằm dưới sự kiểm soát của Tập, thì mạng lưới ảnh hưởng của Giang khắp Trung Quốc sẽ bắt đầu phân rã.
Ông Tập có thể hy vọng sau đó người dân Trung Quốc sẽ có thể tin tưởng vào một ĐCSTQ thuần khiết, nhưng sự tin tưởng của người dân Trung Quốc vào sự hồi sinh của Đảng đã qua rồi.
Chiến dịch của Tập Cận Bình sẽ chấm dứt một kỷ nguyên, nhưng con đường dẫn tới tương lai vẫn chưa rõ ràng.
Stephen Gregory

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Họ có gì đâu, ngoài nước mắt?

Ở Triều Tiên, nước mắt được coi là biểu tượng của lòng trung thành tuyệt đối với lãnh tụ.

 Lính Triều Tiên đồn trú trên đảo Jangjae, Nam Hwanghae khóc nức nở khi được lãnh tụ đến thăm
Lính Triều Tiên đồn trú trên đảo Jangjae, Nam Hwanghae khóc nức nở khi được lãnh tụ đến thăm
 
 Vợ các của các binh sĩ trên đảo Jangjae không cầm được nước mắt khi được trực tiếp gặp mặt nhà lãnh đạo.
Vợ của các binh sĩ trên đảo Jangjae không cầm được nước mắt khi được trực tiếp gặp mặt nhà lãnh đạo.
 
 Những phụ nữ trung tuổi này khóc như mưa khi được ông Kim Jong Un thăm hỏi
Những phụ nữ trung tuổi này khóc như mưa khi được ông Kim Jong Un thăm hỏi
 
 Quân nhân tưởng chừng là những người cứng rắn, nhưng khi gặp mặt nhà lãnh đạo tối cao của Triều Tiên, họ cũng không cầm được nước mắt
Thiếu sinh quân không cầm được nước mắt khi gặp mặt nhà lãnh đạo tối cao của Triều Tiên
 
 Một quân nhân vừa cúi rạp người vừa rớm lệ khi được nhà lãnh đạo bắt tay
Quân nhân tưởng chừng là những người cứng rắn, nhưng khi gặp lãnh tụ, họ cũng khóc như mưa. Trong ảnh là một quân nhân vừa cúi rạp người vừa sụt sùi khi được ông Kim Jong Un bắt tay
 
 Hai quân nhân này thì sung sướng gục hẳn đầu vào vai Kim Jong Un để khóc nức nở. Đối với họ, đó là một vinh dự vô cùng lớn
Hai quân nhân này thì sung sướng gục hẳn đầu vào vai Kim Jong Un để khóc nức nở. Đối với họ, đó là một vinh dự vô cùng lớn
 
 Các nữ quân nhân thuộc Đại đội Cây Hồng, đoàn 4302 quân đội Triều Tiên nức nở khi được nguyên soái Kim Jong Un đến thăm
Các nữ quân nhân thuộc Đại đội Cây Hồng, đoàn 4302 quân đội Triều Tiên nức nở khi được nguyên soái Kim Jong Un đến thăm
 Họ quây lấy nhà lãnh đạo mà khóc
Họ quây lấy nhà lãnh đạo mà khóc
 Ở Triều Tiên, nước mắt được coi là biểu tượng của lòng trung thành tuyệt đối với lãnh tụ
Ở Triều Tiên, nước mắt được coi là biểu tượng của lòng trung thành tuyệt đối với lãnh tụ
 Ngày 19/5/2013, ông Kim Jong Un và phu nhân đã tới thăm một trường học nằm ở chân núi Myohyang thuộc tỉnh Bắc Phyongan. Các em học sinh ở đây vừa vỗ tay vừa khóc khi đón nhà lãnh đạo
Ngày 19/5/2013, ông Kim Jong Un và phu nhân đã tới thăm một trường học nằm ở chân núi Myohyang thuộc tỉnh Bắc Phyongan. Các em học sinh ở đây vừa vỗ tay vừa khóc khi đón nhà lãnh đạo
 Cho đến khi được xếp hàng chụp ảnh chung với vợ chồng lãnh tụ, các em vẫn chưa khô được nước mắt
Cho đến khi được xếp hàng chụp ảnh chung với vợ chồng lãnh tụ, các em vẫn chưa khô được nước mắt
 
 Đối với người lao động Triều Tiên, được lãnh tụ đến úy lạo tinh thần là hạnh phúc tột đỉnh. Trong bức ảnh này, chỉ duy nhất ông Kim Jong Un là không rơi lệ
Đối với người lao động Triều Tiên, được lãnh tụ đến úy lạo tinh thần là hạnh phúc tột đỉnh. Trong bức ảnh này, chỉ duy nhất ông Kim Jong Un là không rơi lệ
 
 Một bức ảnh khác cho thấy
Một bức ảnh khác cho thấy “văn hóa nước mắt” của người Triều Tiên khi gặp lãnh tụ
Theo trí thức trẻ
Phần nhận xét hiển thị trên trang