Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

Trời đang nổi nóng!

Giao bloger

Mùa hè năm 2015 ở Hà Nội

Một đợt nóng kéo dài cùng một năm, hồi tháng 5, đã thấy ở đây.

Bây giờ là một đợt khác. Nhìn chung là trên dưới 40 độ ở trong nhà. Còn ngoài đường thì khoảng 50 độ. Hầu như không làm được gì. Ngay một entry của blog cũng chưa chắc viết được một cách bình thường, trong không khí như cái chảo thế này.

Đặc biệt, món đặc sản của thủ đô đã duy trì tốt trong thế kỉ 20, thì sang đầu thế kỉ 21 vẫn được lưu giữ tốt. Ấy là mất điện. Hai đêm ở Hà Nội thì cả hai đều mất điện từ 11 h đến khoảng 2 h sáng hôm sau. Tức là mất điện ở thời điểm cần có điện nhất.

Tính di cư sang một vài nơi khác. Nhưng những nơi ấy cũng vậy. Đều là mất điện lúc nửa đêm. 

Nóng quá, chỉ ghi được vài dòng nghệch ngoạc.

Thèm một trận mưa thật to. Mà nghe đâu mưa dông đang kéo đến rồi.

---

Bổ sung 1 (3/7/2015):

Hiện nay, rãnh áp thấp có trục ở khoảng 24 – 26 độ vĩ Bắc nối với vùng áp thấp nóng phía Tây đang bị nén bởi bộ phận áp cao lục địa ở phía Bắc. Do ảnh hưởng của rãnh áp thấp bị nén và đẩy dịch dần xuống khu vực Bắc bộ nên khoảng chiều tối và đêm mai (4/7) ở Bắc bộ có mưa dông trên diện rộng. Trong cơn dông có khả năng xảy ra tố lốc, mưa đá và gió giật mạnh. 
Ảnh chụp mây vệ tinh ngày 3/7. Ảnh: kttv.gov.vn

Theo Trung tâm dự báo Khí tượng và Thủy văn Trung ương, bên cạnh đó, do ảnh hưởng của rìa Đông Nam vùng áp thấp phía Tây nên ở vịnh Bắc bộ có gió Nam đến Tây Nam mạnh cấp 5, có lúc cấp 6, giật cấp 7-8, biển động. Sóng biển cao 1,5-2,5 mét.

Ngoài ra, do gió mùa Tây Nam ở phía Nam hoạt động mạnh nên vùng biển từ Bình Thuận đến Cà Mau, khu vực giữa và Nam Biển Đông (bao gồm cả quần đảo Trường Sa) có gió mạnh cấp 6, có lúc cấp 7, giật cấp 8-9, biển động và có mưa dông mạnh. Sóng biển cao 2- 4 mét. Độ rủi ro thiên tai ở cấp 1.Thu Phương (TTXVN)

http://baotintuc.vn//xa-hoi/chieu-toi-va-dem-mai-bac-bo-co-mua-dong-dien-rong-20150703110041368.h






Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc hành xử xấu xí: Còn nhiều nguy hiểm hơn thế...


(Baodatviet) - Một khi lòng tự trọng, danh dự, uy tín của một quốc gia bị bỏ qua, thì họ có thể làm những chuyện rất nguy hiểm...

TS.Ngô Hữu Phước, Trưởng bộ môn Công pháp quốc tế, ĐH Luật. TP.HCM chia sẻ với báo Đất Việt. 
PV:- Thưa ông, sau khi trang bị vũ khí hạng nặng cho tàu tuần tra, biến tàu dân sự thành tàu quân sự...Trung Quốc lại dự định dùng máy bay Boeing-747 cho mục đích quân sự. Ông bình luận như thế nào về những động thái trên? Trung Quốc có ý đồ gì khi tạo nên ấn tượng Trung Quốc lúc nào cũng có thể dùng vũ lực? 
TS.Ngô Hữu Phước: - Theo quan điểm của tôi, những hành động nói trên của TQ nhằm hai mục đích. Thứ nhất, TQ đang muốn quân sự hóa các hoạt động dân sự của họ. Thứ hai, TQ muốn cho các nước thấy rằng, về phương diện quân sự chống lại TQ là điều không dễ hay nói cách khác là đặc biệt khó.
Đó là hành vi mang tính đe dọa các quốc gia trong khu vực chứ không đơn thuần chỉ là suy nghĩ nhằm đối phó với Mỹ như nhiều người suy đoán.

Trung Quoc hanh xu xau xi: Con nhieu nguy hiem hon the...
Hình ảnh Trung Quốc cải tạo bất hợp pháp các đảo, bãi đá Trường Sa mà nước này đã cưỡng chiếm bất hợp pháp của Việt Nam.
Tôi cho rằng, trong một thế giới văn minh thì các quốc gia phải hành xử với nhau một cách văn minh trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Trong thế giới văn minh thì mọi hành động sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực là không thể chấp nhận được và phải bị loại trừ khỏi đời sống quốc tế.
Về phương diện pháp luật quốc tế, một quốc gia sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực để xâm lược, để thôn tính, để chèn ép quốc gia khác, dùng vũ khí thay cho công lý hoặc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế trong đó có tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đều là hành động không văn minh, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. 
Tuy nhiên, chúng ta phải tỉnh táo, bình tĩnh để bình luận, đáng giá vấn đề này từ nhiều khía cạnh.
Trước tiên, những tuyên bố về việc TQ chủ trương trang bị vũ khí hạng nặng cho tàu tuần tra, biến tàu dân sự thành tàu quân sự... hoặc dự định dùng máy bay Boeing-747 vào mục đích quân sự là tuyên bố của ai, cơ quan nào, nhân danh ai, nhân danh cơ quan có thẩm quyền nào của TQ … hay chỉ là nguồn thông tin báo chí không chính thống?.
Nếu đó chỉ là thông tin tuyên truyền trên báo chí không chính thống thì chúng ta chưa cần phải quan tâm. Tuy nhiên, nếu những thông tin trên là chính thống, là tuyên bố của cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền của TQ...thì đó là điều hết sức nguy hiểm, và chúng ta phải nghiên cứu, xem xét, đánh giá một cách hết sức thận trọng để chủ động đối phó với những tình huống xấu nhất có thể xẩy ra.
Thứ hai, hành động này của TQ có vi phạm luật pháp quốc tế hay không? Tôi khẳng định là, luật pháp không cấm các quốc gia tăng cường trang thiết bị vũ khí, khí tài quân sự của họ. Bởi lẽ, đây là nhu cầu về quốc phòng, an ninh của mỗi quốc gia. Do vậy, nếu một quốc gia tăng cường các thiết bị vũ khí, khí tài quân sự nhằm mục mục đích đơn thuần là phòng thủ, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ hòa bình và an ninh của quốc gia và quốc tế là điều hoàn toàn chính đáng, hợp pháp được luật quốc tế công nhận.
Tuy nhiên, nếu một quốc gia chạy đua vũ trang, tăng cường tiềm lực quân sự nhằm mục đích khiêu khích, tấn công quốc gia khác; hoặc đe dọa các quốc gia khác và lấy sức mạnh quân sự để áp đảo quốc gia khác để dành phần thắng về mình trong các tranh chấp về lãnh thổ, biên giới là hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế. Cụ thể là trái với Hiến chương Liên Hợp quốc (LHQ) và các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia; nguyên tắc cấm sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình và nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau.  
Thứ Sáu, 03/07/2015 10:06

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2015

Vì tiền của Trung Quốc, Campuchia có thể bất chấp tất cả?


Campuchia đã đáp ứng gần như tất cả các yêu cầu của Bắc Kinh để đổi lấy các khoản viện trợ kinh tế và quân sự.


Trong một hội nghị về hợp tác giữa Trung-Campuchia được tổ chức vào tháng Sáu năm 2015, bà Bố Kiến Quốc (Bu Jianguo), đại sứ Trung Quốc tại Campuchia đã xác định rằng, Campuchia được xác định nằm trong kế hoạch phát triển "Con đường tơ lụa thế kỷ 21 của Trung Quốc", đồng thời khẳng định Trung Quốc sẵn sàng đem đến các cơ hội hợp tác kinh tế Trung-Campuchia dưới chiến lược mới "một vành đai, một con đường". Đáp lại, ông Sok An Phó Thủ tướng Campuchia khẳng định các cơ hội phát triển kinh tế cho Campuchia khi tham gia vào sáng kiến "một vành đai, một con đường".
Thực tế đã cho thấy, gần đây Trung Quốc đã hiện diện đáng kể trong sự phát triển kinh tế của Campuchia, và Trung Quốc đang đưa Campuchia vào sáng kiến "một vành đại, một con đường" của họ không chỉ với các dự án hiện tại mà nhiều hơn nữa trong các dự án giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng, năng lượng...
Trung Quốc đang mở rộng sự tham gia của mình tại Campuchia và điều đó phản ánh những thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế của họ. Sau hơn ba thập kỷ tăng trưởng trên hai con số, Trung Quốc đã bước vào một giai đoạn phát triển "bình thường". Do đó sáng kiến "Vành đai, Con đường" là nhằm kích thích sự tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc cũng như các đối tác của họ trong khu vực Nam và Đông Nam Á, Âu Á và Trung Á, cũng như châu Phi và Mỹ Latin...

Trong một cuộc họp vào tháng 5 năm 2012, trong cuộc gặp giữa Tea Banh, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia và người đồng cấp Trung Quốc, Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt, phía Trung Quốc tái khẳng định cam kết hợp tác quân sự với Campuchia bằng việc tăng cường cung cấp khoản viện trợ 17 triệu USD cho các lực lượng vũ trang Campuchia, bao gồm cả việc xây dựng trường huấn luyện và bệnh viện quân y. Đổi lại, Campuchia tái khẳng định việc tuân thủ nguyên tắc một Trung Quốc của Bắc Kinh cũng như sự ủng hộ của Campuchia đối với Trung Quốc trong các vấn đề quốc tế khác, bao gồm cả các tranh chấp lãnh thổ, như Biển Đông. Mối quan hệ này lại được tái khẳng định hai năm sau khi vào tháng 5 năm 2014, Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia Tea Banh có cuộc gặp Phó chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương Trung Quốc. Tại cuộc họp này, Trung Quốc giúp Campuchia xây dựng năng lực quân sự với hơn 400 suất học bổng cho các cán bộ quân đội Campuchia để họ tiếp tục học và nghiên cứu tại Trung Quốc, đồng thời cung cấp các xe tải quân sự cùng các máy bay trực thăng Z-9.
Sự hỗ trợ về quân sự của Trung Quốc đối với Campuchia có thêm điểm sáng là sự phát triển của các Học viện Quốc phòng tại Campuchia. Năm 1999, Học viện Thlok Tasek được thành lập với sự hỗ trợ tài chính của Trung Quốc, và kể từ đó Trung Quốc đã tiếp tục cải thiện và mở rộng các cơ sở đào tạo của Viện này. Vào tháng Giêng năm 2013, Trung Quốc-Campuchia mở rộng chương trình đào tại của Viện Thlok Tasek, nhằm đào tạo các cán bộ binh Campuchia bởi các cố vấn quân sự Trung Quốc. Các chương trình giảng dạy của Viện được thiết kế bởi Bộ Quốc phòng Trung Quốc và các cố vấn quân sự của Trung Quốc hướng dẫn các giáo viên Campuchia. Các chương trình đào tạo cũng bao gồm việc đào tạo các học viện quân sự tại Trung Quốc. Thlok Tasek hiện đã đào tạo khoảng một nửa số nhân viên cho quân đội Campuchia.
Trước kia Mỹ là quốc gia đã cung cấp rất nhiều và lớn nhất sự viện trợ quân sự cho Campuchia, và khoản viện trợ quân sự của Mỹ cho Campuchia đã lên tới 18,2 triệu USD trong năm 2012. Thực tế, trong những năm 1990, con trai cả của Thủ tướng Campuchia Hun Sen ông Hun Manet đã được Hoa Kỳ nhận đào tạo tại các học viện quân sự uy tín của Mỹ như West Point. Hợp tác quân sự Mỹ-Campuchia đã bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh cãi chính trị trong năm 2009 khi Campuchia trục xuất người Uighur của Trung Quốc khi họ xin tị nạn tại Campuchia, và Mỹ đã huỷ bỏ việc trao tặng 200 xe quân sự. Trong năm 2013, Mỹ đã chỉ trích cuộc tổng tuyển cử Campuchia và đã dẫn việc tạm ngừng hợp tác quân sự giữa Campuchia và Hoa Kỳ. Chính sự hỗ trợ về kinh tế và quân sự của Trung Quốc đã giúp Campuchia vượt quan thời kỳ suy thoái quan hệ Campuchia - Hoa Kỳ.
Trung Quốc hiện là nhà tài trợ lớn nhất cho Campuchia. Trong giai đoạn 1992 đến 2014, Trung Quốc đã cấp cho Campuchia 2,85 tỷ USD các khoản vốn vay ưu đãi và viện trợ phát triển khác, và trong tháng 11 năm 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã cam kết rằng Trung Quốc sẽ cung cấp cho Campuchia sự hỗ trợ phát triển hàng năm trị giá 500-700 triệu USD mỗi năm. Việc phục hồi những con đường cũ và xây dựng những con đường mới là một ví dụ rõ nét nhất trong sự hỗ trợ phát triển của Trung Quốc đối với Campuchia. Đến năm 2011, Trung Quốc đã xây dựng hơn 1.500 km đường và cầu tại Campuchia...
Thương mại song phương giữa Trung Quốc và Campuchia cũng đã tăng lên hàng năm, và đạt 3,75 tỷ USD trong năm 2014. Chính phủ Campuchia hy vọng thương mại sẽ tăng lên đến 4,2 tỷ USD trong năm 2015 và 5 tỷ USD vào năm 2017. Trung Quốc cũng đã trở thành nhà đầu tư lớn nhất của Campuchia, với số vốn hơn 10 tỷ USD đầu tư. Phần lớn các khoản đầu tư nằm trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, hàng may mặc, và khai thác mỏ. Trong tháng 5 năm 2015, Thủ tướng Hun Sen đã kêu gọi chính phủ Trung Quốc khuyến khích hơn nữa các doanh nghiệp Trung Quốc tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Campuchia, đặc biệt là trong các lĩnh vực đặc thù.
Campuchia đã đáp ứng gần như tất cả các yêu cầu của Bắc Kinh để đổi lấy các khoản viện trợ kinh tế và quân sự. Trong năm 2009, 20 người Duy Ngô Nhĩ từ Trung Quốc đến Campuchia xin được tịn nạn chính trị, tuy nhiên Campuchia đã bất chấp luật pháp quốc tế, vi phạm công ước LHQ và đã trục xuất về Trung Quốc nhóm người này. Chỉ một ngày sau khi 20 mươi người Ngô Nhĩ hồi hương, 1,2 tỷ USD viện trợ từ Trung Quốc đã được cung cấp cho Campuchia, món tiền vượt quá cả những sự trợ giúp trước đó từ Trung Quốc trong suốt 17 năm trước.
Không chỉ vậy, Campuchia còn cung cấp sự hỗ trợ cho Trung Quốc trong các vấn đề khác nữa. Trong các tranh chấp Biển Đông, năm 2012 khi họ đang nắm giữ vị trí là chủ tịch của hội nghị thượng đỉnh ASEAN, Campuchia đã ủng hộ lời kêu gọi của Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán song phương trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, động thái này chống lại đường lối của Philippines và Việt Nam cũng như sự đồng thuận của các quốc gia ASEAN khác trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Campuchia đã tổ chức một cuộc họp với các nhà ngoại giao từ 28 quốc gia và nhắc lại quan điểm của mình rằng ASEAN không nên can thiệp vào tranh chấp Biển Đông. Trong năm 1997 Campuchia đóng cửa Văn phòng Kinh tế và Văn hóa của Đài Bắc tại Phnom Penh, và Trung Quốc đã đáp lại bằng cách viện trợ một số xe quân sự cho Campuchia với trị giá khoảng 2,8 triệu USD. Năm 2003 Hun Sen khẳng định rằng Đài Loan sẽ không được phép mở lại văn phòng đại diện tại Campuchia. Gần đây nhất vào tháng 6 năm 2015, Campuchia đã bắt giữ và chuyển về Trung Quốc một đối tượng được cho là phạm tội tham nhũng của Trung Quốc.
Nguồn: Reds Theo DEFENCEVN / EURASIAREVIEW
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mỹ chuẩn bị “lật bài” với Trung Quốc.


02 tháng 7 năm 2015
Trong bài “Hai đòn cực hiểm của Mỹ buộc Trung Quốc phải lùi trên Biển Đông” thì tôi chỉ nêu vấn đề Đài Loan và vấn đề bán vũ khí sát thương cho Việt Nam là 2 đòn hiểm như 2 lá bài mà Mỹ có thể lật ra bất cứ khi nào để chơi với Trung Quốc. Trong cuộc đối thoại chiến lược Trung-Mỹ vừa rồi, ngoài vấn đề Biển Đông, Mỹ còn tố cáo Trung Quốc hỗ trợ cho các cuộc tấn công mạng vào nước Mỹ. Mỹ không nói suông, không ngồi nhìn và đang “lật bài” chuẩn bị sử dụng 2 đòn hiểm này để trả đũa.

Đòn tập hậu mang tên Đài Loan
Nếu như bán vũ khí cho Đài Loan đã khiến Trung Quốc giãy lên như đĩa phải vôi thì vào ngày 25/6 Thượng viện Mỹ thông qua một đạo luật cho phép Mỹ tăng cường hợp tác quân sự với Đài Loan, theo đó  Đài Loan được khuyến khích tham gia vào tập trận chung với Mỹ, bao gồm huấn luyện trên không cũng như huấn luyện nâng cao cho bộ binh, tấn công bằng trực thăng và huấn luyện máy bay do thám, theo Reuters.
Đây là lần đầu tiên kể từ vụ “khủng hoảng eo biển Đài Loan” năm 1996, Mỹ không chỉ tuyên bố bán vũ khí mà còn tập trận trong vùng “cấm địa” của Trung Quốc. Hành động này của Mỹ đã khiến Bộ Quốc phòng Trung Quốc vô cùng tức giận và phản đối quyết liệt.
Bán vũ khí cho Đài Loan tự vệ, tập trận cùng với Đài Loan là hành động thách thức rắn nhất, trực tiếp vào chính sách “một Trung Hoa” của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Đây được coi như là đòn tập hậu cực kỳ nguy hiểm buộc Trung Quốc phải co lực lượng từ tuyến đầu (trên Biển Đông) để đối phó với một thực tế bất ổn khi Mỹ và Đài Loan nghênh ngang trước mũi, trong vùng “cấm địa” của mình. Mỹ muốn chứng tỏ cho Trung Quốc thấy rằng, nếu Trung Quốc thách thức an ninh về tự do hàng hải, hàng không, thách thức lợi ích Mỹ trên Biển Đông thì Mỹ sẵn sàng thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc không những trên Biển Đông mà cả Đài Loan.
Ly khai là một từ ngữ tối kỵ trên đất nước Trung Hoa vĩ đại thì sự tồn tại của Đài Loan là một biểu tượng xấu mà bấy lâu nay luôn như là một khúc xương mắc ngay tại cửa họng của Trung Quốc. Vì thế hơn ai hết, thu hồi Đài Loan là một nhiệm vụ mang tính lịch sử của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Đã có các cuộc tập trận gần đây của Trung Quốc với mục tiêu giả định là tấn công Đài Loan, tuy nhiên, đó mới chỉ là tập trận diễu võ giương oai mang tính đe dọa. Tuy thế, không ai hiểu khả năng sức mạnh của Trung Quốc bằng chính họ. Hậu quả không lường hết của cuộc tấn công thu hồi Đài Loan đã khiến cho giới cầm quyền Bắc Kinh do dự, mất ý chí, không dám mạo hiểm, chính là Mỹ đằng sau Đài Loan.
Xem ra, đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông và khu vực địa chính trị quan trọng là ĐNA bằng tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông và xây các đảo nhân tạo trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam với một thái độ hung hăng, bất chấp chỉ làm cho các quốc gia ven Biển Đông lo ngại nhưng chưa đủ để buộc Mỹ phải “cụp đuôi” thì Mỹ đã chuẩn bị ra đòn hiểm mang tên Đài Loan để buộc Trung Quốc phải “co vòi”.
Đòn chỉ điểm tàu ngầm
Trong rất nhiều bài viết, tôi đã từng cho rằng Biển Đông với Trung Quốc không chỉ là vùng đặc quyền kinh tế mà khi chiếm được, Trung Quốc sẽ biến thành vùng “đặc quyền quân sự” và là tuyến xuất phát tấn công thuận lợi của tàu ngầm các loại.
Trung Quốc có một căn cứ tàu ngầm lớn, hiện đại ở Tam Á. Để tránh làm mồi ngon cho tên lửa hành trình, không quân đối phương tấn công, thì khi có xung đột quân sự, về nguyên tắc chiến thuật, tất cả các tàu ngầm phải rời cảng, phân tán đến vị trí trú ẩn hoặc vị trí đợi cơ, xuất phát tấn công.
Tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc có giấu được ai dưới lòng Biển Đông?
Biển Hoa Đông, Hoa Nam độ sâu nông lại gặp phải hệ thống săn ngầm hiện đại của liên quân Mỹ-Nhật Bản thì tàu ngầm Trung Quốc chẳng khác nào như cá nằm trên cạn. Do đó chỉ có Biển Đông là chỗ tốt nhất cho tàu ngầm trú ẩn, hay xuất phát tấn công. Nói là tốt nhất bởi độ sâu bảo đảm, phương tiện săn ngầm của các quốc gia ven Biển Đông như Philipines, Việt Nam, Malaysia…không có và có thì không hiện đại, nên tàu ngầm Trung Quốc vừa an toàn, vừa được bí mật.
Bởi vậy, chỉ điểm tàu ngầm Trung Quốc trên Biển Đông, nắm chắc “đường đi lối về” của nó là điều nguy hiểm, đáng sợ nhất của Trung Quốc.
Việc Philipines đã cùng với máy bay săn ngầm P3-C Orion Nhật Bản tuần tra trên Bãi Cỏ Rong thuộc Biển Đông khiến Trung Quốc lo lắng, bất an.
Chưa biết khả năng săn ngầm của Việt Nam ra sao với vũ khí, phương tiện hiện có, liệu Việt Nam có tự tin trong cuộc đối đầu với hàng chục tàu ngầm các loại của Trung Quốc trên Biển Đông hay không, cũng đã khiến các nhà quân sự Trung Quốc đau đầu. Nhưng nếu như Mỹ sẵn sàng bán cho Việt Nam loại máy bay săn ngầm hiện đại có thể phát hiện rõ ràng, nhanh chóng các tàu ngầm trong lòng Biển Đông mà Việt Nam có nhu cầu và yêu cầu thì Biển Đông không phải là nơi trú ẩn an toàn, bí mật cho tàu ngầm Trung Quốc như các nhà quân sự phân tích.
Có thể nói “phá tan” nơi trú ẩn, bí mật, an toàn của tàu ngầm Trung Quốc trên Biển Đông là đánh sập chiến lược quân sự của Trung Quốc vươn ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Máy bay săn ngầm Mỹ tuần tra trên Biển Đông cũng vì mục đích đó và nếu như các tàu ngầm này còn thách thức, đe dọa đến chủ quyền của Việt Nam, Philipines hay Malaysia…thì đương nhiên nó cũng sẽ trở thành đối tượng tác chiến được quan tâm theo dõi của các quốc gia này.
Với thế địa lý thuận lợi, được trang bị máy bay săn ngầm hiện đại thì các tàu ngầm Trung Quốc ở Biển Đông có nguy cơ như “cá trong chậu” và chiến lược bành trướng về phía Biển Đông của Trung Quốc sẽ gặp vô vàn khó khăn.

Hơn ai hết chỉ có Mỹ mới hiểu rõ vấn đề này (vì chỉ Mỹ mới biết khả năng phát hiện tàu ngầm Trung Quốc của máy bay P3-C Orion) và Mỹ có bán vũ khí sát thương cho Việt Nam hay không (Bỏ cấm vận toàn bộ) thì có thể sẽ xảy ra sau chuyến thăm Mỹ của TBT Đảng CSVN. Tất nhiên, mua hay không với Việt Nam lại là chuyện khác, nhưng dù sao Trung Quốc sẽ vô cùng bất an, không dám mạo hiểm, khi những quốc gia ven Biển Đông đều được trang bị máy bay săn ngầm hiện đại của Mỹ.
 
Nguồn: Ngocthongqb
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 1 tháng 7, 2015

Mình và họ

“Mi xuống từ trời cao hay lên từ vực thẳm
Hỡi cái đẹp...”
(Baudelaire, “Ngợi ca cái đẹp”, trong tập Những bông hoa ác)

1. Một tiểu thuyết đầy máu
Có lẽ chưa bao giờ Nguyễn Bình Phương mô tả hiện thực một cách trần trụi như trong Mình và họ [1]. Trần trụi, nhếch nhác, oan nghiệt. Nhân vật chính, Hiếu, một thanh niên “đọc nhiều sách”, làm việc trong thư viện một cơ quan tại Hà Nội, sống trong một phòng trọ tồi tàn, nhưng lại là thành viên (hờ) một băng buôn thuốc phiện và là người tình (cũng hờ) của chủ băng, Trang. Ông ngoại Hiếu là “trùm phỉ”. Mẹ Hiếu đi tù vì “buôn hàng quốc cấm”. Anh ruột Hiếu tham gia chiến tranh biên giới, bị lính Trung Quốc bắt, thả về nhưng hóa điên. Bản thân Hiếu cũng dính – dù không trực tiếp – vào một số vụ thanh trừng giữa các băng nhóm. Cả cuốn tiểu thuyết kể về chuyến đi chơi miền núi, nhưng thực chất là “cuộc trốn chạy nửa cố tình nửa vô tình”[2] của Hiếu và Trang sau khi thanh toán địch thủ là Vân Ly. Chính Hiếu, khi bị công an phát hiện, đã gieo mình xuống vực.
Cũng chưa bao giờ Nguyễn Bình Phương lại viết nhiều về bạo lực đến thế. Thực ra thì trước đó bạo lực đã thường trực trong tác phẩm của anh, nhất là Thoạt kỳ thủy. Nhưng Mình và họ mở rộng hơn đề tài này bằng cách thêm yêu tố chính trị: nó vẽ lên cuộc chiến kinh hoàng giữa các lực lượng chính thống và phi chính thống (thổ phỉ, dân tộc thiểu số, buôn lậu, băng đảng thuốc phiện, săn đêm... ), giữa các lực lượng chính thống với nhau (quân đội Việt Nam và quân đội Trung Quốc).
Ở trang nào của Mình và họ độc giả cũng giẫm lên xác người. Xác trẻ sơ sinh trong “xe rác ven hồ Giảng Võ” (tr. 15). Xác chết vì tan nạn giao thông:“Đó là một phụ nữ, đầu gập qua nách, mặt trắng bệch, cả môi cũng trắng. Ngó dáng nằm kỳ quái, chân tay gập cả vào nhau (... ) Duy chỉ mớ tóc là còn sức sống, nó rờ rẫm, lả lướt trên mặt người chết mỗi khi có gió thổi qua” (tr. 19). Xác bị sét đánh: “đã cháy đến mức nó giống như đống giẻ rách nhồi chặt”. Xác bị côn trùng làm biến dạng:“anh đã chết, miệng và tai đầy kiến (... ) chuột hay con gì đó gặm mất một mắt và hai cánh mũi”(tr. 239). Xác khi bốc mộ: “Thợ mang sọ lên trước, sau đó mới chuyển phần thân lên. Ba người ba cái cật nứa cặm cụi làm. Đầu tiên khoét một vòng ở phần bả vai, tách cánh tay ra rồi rạch một đường dài dọc theo cánh tay và rút xương (... ) thịt hồng đào như chân giò luộc chưa kỹ”(tr. 28).
Trong Mình và họ, người ta giết hoặc bị giết bằng đủ mọi hình thức phương tiện, vì đủ mọi lý do. Người yêu cô giáo Kiều “uống rượu say rồi mang dao đến đâm bố mẹ Kiều vì bị họ ngăn cản cuộc tình. Giết hai người đó xong, cậu ta (... ) lên xe máy phóng đến trường tìm Kiều nhưng đã quệt vào cái bếp than để ở ven đường và bị bánh xe ô tô lăn qua đầu” (tr. 229). Trang và đồng bọn tưới xăng thiêu sống Vân Ly, người tình hờ của Hiếu, như trong một“hàng vịt quay Bắc Kinh” (tr. 193). Kẻ trộm chặt tay một ông lão bị sét đánh chết: “Không phải một mà là hai bàn tay đều bị chặt mất. Vết chặt cũng kỳ, tơi tướp...” (tr. 136).
Nhưng bạo lực nhiều nhất vẫn là những câu chuyện về phỉ. Ông ngoại Hiếu “bị mưu sát khi đang ngủ, xác treo ngược lên cành cây lim ở sườn núi, đầu thì biến mất” (tr. 58). Châu Quang Lồ, trùm phỉ người Miêu, bị kẻ thủ sát “lách dao vào đốt sống thứ hai tính từ đầu xuống và dằn mạnh. Cái đầu lìa ra gần như ngay lập tức”(tr. 63). Tàn quân của ông ta bị “phun lửa” (tr. 65). Haitce, “nhân viên phiên dịch tiếng Trung người Pháp”, bị phỉ “lấy gan (... ) nhắm rượu, còn thân thì chặt làm sáu mảnh, cắm lên cọc” (tr. 101) năm 1886, trong khi đám cận vệ của ông ta bị phanh thây – “Phỉ đặt người ta lên một phiến đá và nhẩn nha chặt như chặt thịt lợn. Có người bị chặt đứt phăng hai tay, hai chân mà vẫn còn sống, mồm miệng loe máu kêu gào” (tr. 101).
Bạo lực phủ đầy những đoạn về chiến tranh. Trên trận địa, người ta chết khi còn rất trẻ: “Bốn tay lính mặt non choẹt mải nhai lương khô đến mức khi bị bắn chết mồm tay nào tay ấy còn đầy khự, còn nhoe nhoét cả”(tr. 184). Người ta không chỉ giết bằng súng, mà thường bằng dao, trực diện, hoang thú: “Đại trưởng cắm dao vào giữa tim của tay to nhất, cái tay có một vết chàm xanh lét trên mặt” (tr. 182). Người ta chôn sống đối phương: “chín em trong đội văn nghệ quân đoàn bị bắt rồi bị đem chôn sống dạo tháng hai”(tr. 185). Người ta diệt cả đoàn xe:”hơn hai mươi chiếc bị phục kích (... ) ba bốn tháng rồi mà cả vùng này vẫn cứ thối inh lên” (tr. 209).
Chưa hết, Mình và họ vô khối những chuyện ăn “cao Bành trướng” – “sau cuộc Mười bảy tháng Hai, xác người chết nhiều đến mức dân vừa đói vừa tiếc, đem nấu cao ăn. Cao đó gọi là cao Bành trướng” (tr. 121), chuyện người ăn thịt người – “năm 1942 (... ) ở Cao Bằng (... ) Bọn Nhật nghi mấy người này bắt trộm chó của chúng nên bắn chết ba người và bắt những người còn lại nấu thịt một người ăn ngay trước mặt chúng” (tr. 120), – chuyện phỉ ăn gan người: “Trảo Sành Phú, từ khi nổi phỉ cho tới lúc kết thúc cuộc đời, đã ăn cả thảy mười một buồng gan người” (tr. 121).
Nhưng nếu chỉ có xác chết thì Mình và họ khác gì báo Công An nhân dân?
Không phải ngẫu nhiên mà Hiếu, nhân vật chính - người kể chuyện, vừa ghê tởm vừa say sưa trước bạo lực và chết chóc. Những cảnh mô tả trong truyện đều do Hiếu hoặc trực tiếp nhìn thấy, hoặc đọc thấy, nghe thấy. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Hiếu là độc giả vô điều kiện của báo Công an Nhân dân. Thủ thư cho cơ quan, anh ta đặt dài hạn báo Công an Nhân dân (tr. 256). Ngồi hàng nước, anh ta đọc Công An Nhân dân (tr. 257). Đi chơi biển với Vân Ly, Hiếu mua báo Công an Nhân dân (tr. 15). Đi chơi núi với Trang, anh ta đọc “mấy tờ Công an Nhân dân cũ vứt lại ở giá báo của khách sạn” (tr. 98). Nghe kể chuyện Châu Quang Lồ, Hiếu hồi tưởng lại tấm ảnh toán phỉ đã xem trên báo Công an Nhân dân (tr. 74). Nghe chuyện miền núi, Hiếu nhớ “trong số báo Công an Nhân dân cách đây hai năm có đăng một vụ giết người ở Thái Nguyên, thủ phạm giết năm xe ôm, chôn trong vườn nhà hắn”(tr. 122). Khi xe ô tô xuống núi, Hiếu nghĩ tới tờ “Công an Nhân dân số ra thứ Bảy ngày hai mươi mốt tháng Tám có bài viết về vụ tai nạn do tài xế ngủ quên...” (tr. 205).
Dù tuyên bố đó là “loại báo chí rẻ tiền” (tr. 253), là “mấy cú nhòm ngó đê tiện vào đời tư của ai đó” (tr. 15), Hiếu thừa nhận là mình “háo hức xem” (tr. 98), thông thạo từng số báo (tr. 205), thuộc vanh vách các vụ giết người, nhớ như in nhiều tấm ảnh. Ngồi trong xe với bạn, Hiếu “kể trong số báo thứ nhất có vụ một cô gái làm tiền bị giết tại nhà nghỉ” (tr. 141). Ở một huyện miền núi, Hiếu đọc ngấu nghiến hai tờ đã cũ mà Trang kiếm được “tại khu trung tâm huyện” (tr. 138). Hiếu đọc báo Công an Nhân dân ngày thứ Năm (tr. 29), ngày thứ Bảy (tr. 15), theo dõi các vụ án đăng tải liên tiếp nhiều kỳ (tr. 162). Cuối cùng, Hiếu cho biết rằng đây cũng là tờ báo được nhiều người đọc (tr. 253-256).
Báo Công an Nhân dân có tần số xuất hiện không dưới 30 lần trong tiểu thuyết. Như một ám ảnh, một lời cảnh báo, một cái nháy mắt của Nguyễn Bình Phương. Nếu chỉ có ly kỳ và máu, thì văn học có lẽ cũng không hơn gì một tờ báo giật gân. Cùng lắm, nó là một cuốn trinh thám.

2. Vẻ đẹp của sự chậm rãi [3]
Vậy cái gì làm cho Mình và họ khác với Công an Nhân dân hay truyện trinh thám?
Ngay từ trang đầu, tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đã báo hiệu một lối viết độc đáo.
“Xe xuống chậm một cách thận trọng. Mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi. Đám người mặt lạnh đanh này cũng thở chậm dần. Những chớp mắt của Trang trở nên lờ đờ hơn. Tất cả đều chậm lại sau cú bay thảng thốt tuyệt mỹ của mình. Lúc ấy mình không hình dung đó là cú bay qua nhiều ngọn cây và đá. Mình cũng không ngờ rồi mọi thứ lại nhẹ nhõm đến thế này. Mình chỉ nghĩ anh đã sơ sểnh chủ quan, anh không quyết định dứt khoát nên mới bị họ vồ được. Mình không muốn lặp lại sai lầm của anh, cả của mẹ nữa. Đừng bao giờ để bị bắt, anh đã ghi câu ấy bằng nét bút dằn đậm.
Vừa mới đây, mình còn đứng sát cột mốc, hình dung xem anh quay lại bằng cách nào...”(tr. 7).
Người ta có cảm giác đang xem một đoạn phim quay chậm[4]. Các hình ảnh chuyển động thật chậm, chậm đến mức bất thường. Máy quay đi từ cảnh rộng: một chiếc xe đang xuống núi, mặt trời sắp lặn. Sau đó, nó chuyển sang cận cảnh, thậm chí cận tối đa, để diễn tả chi tiết những động tác và cử chỉ mà mắt thường khó nắm bắt: vẻ mặt lạnh đanh và nhịp thở chậm dần của đám người, cả những chớp mắt của Trang. Rồi đột ngột máy quay chuyển hướng theo “cú bay” xuyên qua “cây và đá” của người kể chuyện, kẻ xưng “mình”.
Trong tiểu thuyết, những dòng chữ này được in nghiêng, càng nhấn thêm sự chậm rãi. Đoạn văn mở đầu với một nhạc điệu trầm và chậm - nhờ sự có mặt của nhiều thanh nặng và thanh huyền, liên tiếp các từ “chậm”, nhiều từ láy và vô số phép điệp. Các câu ngày càng dài – từ 7 đến 16 âm tiết. Hình ảnh và sự kiện được kể lộn xộn, không được diễn dịch, phân tích, lý giải như trong một tác phẩm văn học truyền thống: “mình” là ai? đang làm gì? ở đâu? thời gian nào? “đám người” là ai? Trang là ai? “cú bay” là gì? tại sao “qua nhiều ngọn cây và đá”? “mình” như vậy là người, là chim, là thần thánh? “anh” là ai? “họ” là ai? “anh” và “họ” gặp nhau trong hoàn cảnh nào? “sai lầm của anh” cụ thể là gì? liên quan gì đến “mẹ” nữa? vân vân.
Nhưng rõ ràng đoạn văn không mang mục đích thông báo, kể chuyện, giải thích, thuyết phục. Chúng ta đang ở trong một độc thoại nội tâm. Sự rời rạc của các chi tiết mô phỏng hoạt động suy nghĩ và xúc cảm của nhân vật trong mạch chảy tự nhiên của nó. Những cảm nhận – xe xuống chậm, mặt trời chậm, đám người mặt lạnh thở chậm, chớp mắt lờ đờ của Trang, vân vân – được anh ta ghi lại theo cách chúng xảy đến. Vì thế, chúng không được xắp xếp, quản lý, kiểm soát, nhằm mang đến một thông điệp rõ ràng như trong một văn bản giao tiếp thông thường. Nguyễn Bình Phương không kể nội dung mà mô tả cái mạch chảy giữa ý thức và vô thức.
Tất cả báo hiệu một thử nghiệm văn chương. Không phải ngẫu nhiên mà từ “tuyệt mỹ” có mặt ở ngay đoạn mở đầu này – “cú bay thảng thốt tuyệt mỹ” (tr. 7). Như một lời tuyên bố về nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Với một sự áp đặt gần như tuyệt đối, nó chuẩn bị tâm thế cho người đọc trước khi bước vào khám phá tác phẩm mới của anh.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà “cú bay” sẽ trở lại ở mấy trang tiếp theo. Và một lần nữa, ngòi bút của Nguyễn Bình Phương thăng hoa:
“Mình nhắm mắt bay xuống. Trong luồng gió ù ú cuốn theo mình có những âm thanh méo mó: chản chồ, chản chồ, nghe hỗn hào, xấc xược. Và rồi cái âm thanh xấc xược ấy tan biến đi vì giọng không rõ của Trang hay của Hằng lảnh lói sau lưng mình:
- Đừng Hiếu ơi!
Bạt ngàn ức triệu lá với cành ràn rạt, thoạt đầu còn cứng, sau thì mọi thứ mềm mại, sau nữa thì mình không thể gọi tên chính xác bất cứ điều gì dính dáng tới cái vực thẳm hút ấy nữa” (tr. 11).
Vẫn là một đoạn phim “quay chậm”. Nếu hành động “bay” của nhân vật chỉ xảy ra trong khoảng thời gian cực ngắn – chúng ta biết rằng một vật thể rơi từ độ cao 2000 mét chỉ mất khoảng 20 giây để chạm đất – đoạn phim cho chúng ta cảm giác nó diễn ra lâu hơn thực tế, vẫn nhờ các hình ảnh chạy chậm, thật chậm. Nhưng khác với đoạn mở đầu, chúng kèm theo nhiều âm thanh vừa phong phú vừa tinh tế: tiếng gió “ù ù”, tiếng người nước ngoài “hỗn hào, xấc xược”, tiếng gọi của ai đó “lảnh lói”, tiếng cành lá “ràn rạt”.
“Cú bay” là một điểm xoáy trong số phận của nhân vật – từ một người sống, anh ta chỉ còn là một linh hồn chết. Và những âm thanh, màu sắc, những hình ảnh cùng sự chuyển hóa của chúng, trong khoảnh khắc chớp nhoáng đó, được nhân vật căng các giác quan ra đón nhận, bằng thị giác, thính giác và cả xúc giác – “thoạt đầu còn cứng, sau thì mọi thứ mềm mại”. Như một cách tận hưởng và nâng niu những giây phút cuối cùng của sự sống.
Vì vậy, cái chết, với nhân vật, là một giải thoát khỏi nỗi sợ bị săn đuổi truyền từ mẹ và anh, nhưng việc ra đi dường như không vội vã. Sau “cú bay” là cuộc trở về của linh hồn, cũng kỳ bí và không kém tuyệt mỹ, vẫn diễn ra trong một vận tốc chậm: “Ánh sáng dâng mình lên, thứ ánh sáng trắng tinh, nhẹ, bâng lâng, xóa bỏ hết mọi ngượng ngùng và phải mất một lúc mình mới nhận ra ánh sáng với mình chỉ là một” (tr. 11). Từ “vực thẳm hút” của cõi âm, hồn ngược lên chốn dương, nhưng vô hình vô ảnh, lẫn vào ánh sáng, trong một cảm giác “nhẹ”, “bâng lâng”, tinh sạch.
Như thế đó, giữa cuồn cuộn các sự kiện và chi tiết dày đặc của Mình và họ, giây khắc chuyển từ cuộc sống sang cái chết lại như ngưng đọng. Nó được mô tả chậm rãi, kỹ lưỡng, ngoạn mục. Bên cạnh hiện thực đầy bạo lực của tiểu thuyết, âm điệu dịu dàng và vẻ đẹp trinh nguyên của cõi vô hình làm chúng ta sửng sốt, khắc khoải.
Qua từng tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương không ngừng đặt câu hỏi về vô thức, trực giác, bản năng – thế giới hồng hoang, bí hiểm, thường trực trong mỗi chúng ta. Trí nhớ suy tàn mô tả một ký ức đang tan dần trong một cơ thể nguyên vẹn. Người đi vắng cho nhân vật Hoàn bị nạn nằm bất tỉnh nhưng hồn thì lang thang. Thoạt kỳ thủy là cuộc sống với những giấc mơ và những người điên. Mình và họ qui tụ tất cả những yếu tố đó, bằng cách cho câu chuyện được kể bởi một hồn ma, qua đại từ “mình”. Mình và họ là Tiểu Thuyết của các tiểu thuyết.
Và Nguyễn Bình Phương đặt tên cho vùng hoang hoang của vô thức là “cừ rừm”. “Cừ rừm” vắng bóng trong từ điển tiếng Việt, nhưng xuất hiện 35 lần trong Mình và họ. "Cừ rừm" chỉ có mặt trong ngôn ngữ của ba cha con Hiếu, vào những lúc cảm xúc bị đẩy lên cao trào. Người sử dụng đầu tiên là ông bố:
“Bố gằm mặt như con trâu chuẩn bị húc nhau:
- Còn gì nữa đâu mà xử lý. Thằng em tôi chưa kịp chạm vào cái dải rút quần của nó... cừ rừm . Tôi về đây”(tr. 42).
“Cừ rừm” chi chít trong cuốn sổ người anh viết khi tham chiến và sau này, ở trại điều dưỡng. Nó có thể đứng một mình:  Cừ rừm . Đại trưởng lắp đạn vào khẩu B41 cho thằng Tấn bắn” (tr. 178). “Đại trưởng bảo tao, đánh nhau mà không có xe tăng nó cứ nhàn nhạt thế nào ấy. Cừ rừm  (tr. 180). Nhưng nó thường đứng giữa câu: “Đại trưởng lắc đầu, cừ rừm bảo thám báo thường đi theo nhóm ba thằng”(tr. 181). Ở ví dụ trên, “cừ rừm” là ngôn ngữ của người anh (tức người viết nhật ký) xen vào khi chép lại lời nói của kẻ khác. Rõ ràng cách đệm này có nguy cơ làm nhiễu loạn cấu trúc ngữ pháp, quấy rối ngữ nghĩa. Nguy cơ đó càng lớn khi “cừ rừm” lặp lại 3 lần liên tiếp: "Thằng chỉ huy xổ ra một tràng cừ rừm cừ rừm cừ rừm , rồi hất hàm ra hiệu cho phiên dịch" (tr. 224). Ở đây, “cừ rừm” vẫn thuộc về phát ngôn của anh chứ không phải của “thằng chỉ huy”. Trong đoạn sau, một câu là tập hợp của 4 lần “cừ rừm”: “Thực ra tao cũng hoang mang, không hiểu bọn Tàu làm quái gì với những người kia. Cừ rừm cừ rừm cừ rừm cừ rừm ...” (tr. 267).
Rất khó định nghĩa “cừ rừm”, nhưng hai âm đó không thể không gợi đến tiếng gầm gừ của loài thú dại. Nó như tiếng vọng về từ một chốn hoang liêu. Trong Mình và họ, "cừ rừm" là tiếng tức giận của người cha. Sau này, nó là tiếng kêu hoảng hốt của người anh, là dấu hiệu tâm thần len lỏi trong suốt cuộc chiến, cho đến khi bị bắt làm tù binh, thả về, vào trại an dưỡng và hóa điên.
“Cừ rừm” cũng là hai chữ cuối cùng của Mình và họ, được chọn để kết thúc tiểu thuyết. Lần này do hồn ma của Hiếu, người em, thốt ra. Nó thể hiện một tâm thần bấn loạn, một tiếng kêu tuyệt vọng.
Mình và họ là câu chuyện của một hồn ma trong khi còn lơ lửng giữa hai cõi, âm và dương, vô thức và ý thức. Xác thì đã nằm dưới vực, nhưng hồn còn phiêu diêu ít nhất một đêm trước khi thuộc hẳn về bên kia. Tiểu thuyết được tổ chức thành hai phần - một phần gồm những đoạn in thẳng, phần kia gồm những đoạn in nghiêng – nhưng “thẳng” và “nghiêng” không tách bạch mà đan xen nhau. Những đoạn in thẳng thường dài hơn nhưng có vận tốc gấp gáp hơn. Một bên là toàn bộ cuộc sống trước khi chết, trong khoảng 30 năm, từ tuổi thơ “bẻ cây múa kiếm” với anh trai đến khi bay xuống vực thẳm tự vẫn. Bên kia là cuộc sống sau cái chết, trong khoảng 12 giờ, từ lúc “mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi” đến “trước ban mai” hôm sau. Một bên là dĩ vãng, bên kia là hiện tại.
Và Nguyễn Bình Phương đã chứng tỏ một khả năng đặc biệt trong thao tác thủ pháp lắp ghép. Ở hai trang cuối, các đoạn in nghiêng và in thẳng được nối với nhau như sau:
“... Trang không ngồi ghế trước mà ngồi giữa mình với thằng Hiệp, đó là chỗ Vân Ly vừa mới ngồi.
Không một chiếc xe ngược chiều.
Mình nhớ là mình đã nghĩ như thế và giờ thì chắc hẳn cũng sẽ không còn xe ngược chiều nữa bởi đã gần sáng.
Trước ban mai bao giờ cũng vắng ngắt...”.
Sự vắng mặt của “xe ngược chiều” trong đêm là mô típ duy nhất kiên kết hai sự việc độc lập, xảy ra trong hai không gian và hai thời gian khác nhau – một bên là cuộc trở về Hà Nội sau khi đã thanh toán Vân Ly, còn bên kia là giây phút hiện tại của linh hồn đang lơ lửng trên núi cao. Đúng là thông tin này không mang giá trị đặc biệt nào trong nội dung của hai sự kiện, nhưng rõ ràng nó gợi một hình ảnh, một chuyển động, một ánh sáng, một cảm xúc. Và chính những chi tiết này mới là lực đẩy nội tại của liên tưởng và ký ức.
Vì vậy có thể đọc Mình và họ như một hành trình đi tìm thời gian đã mất, cuộc phiêu du trong“cái vùng ẩm ướt thoang thoảng gọi là trí nhớ” (tr. 258).Mình và họ có những đoạn tuyệt vời về trí nhớ, đúng hơn về phương pháp vận hành của nó. Lúc gặp người phụ nữ gốc Nam Định, Hiếu chỉ thấy, qua thị giác, một “người đàn bà (... ) rất khó đoán tuổi, to cao, tóc bạc thành từng vệt, mặt nhiều nếp nhăn, má và cằm đã xệ xuống”(tr. 112). Nhưng sau đó, qua tầng tầng tiềm thức và ký ức của nhân vật, người đàn bà dường như biến xác, hơn thế nữa, có khả năng đánh thức xúc giác của anh ta, biến thành ám ảnh nhục dục: “Mình nhớ lại khuôn mặt người đàn bà ấy, thấy gò má của bà ta như có than ở bên dưới. Trí nhớ lần xuống cổ , xuống cánh tay để trần của bà ta, và nhận ra rằng vẫn có sự mịn màng, vẫn còn gì đó mướt mát lắm, ở cái tuổi trên dưới năm mươi” (tr. 124).
Trong Mình và họ, hai từ “mình nhớ” có tần số xuất hiện đáng kinh ngạc - hơn 40 lần - chưa kể “mình còn nhớ”, “mình sực nhớ”:  Mình nhớ thứ Bảy mình rủ Trang đi Quảng Ninh” (tr. 14),  Mình nhớ là mình quyết định về Hà Nội ngay. Vân Ly cự lại” (tr. 17). Trong đoạn sau, từ “nhớ” xuất hiện ở hai câu liền nhau: “Và mình còn nhớ khi rời khỏi cuộc rượu của đám cựu binh, những nét chữ nguệch ngoạc của anh cứ chờn vờn hiện ra trong đầu mình.Mình nhớ như thế  (tr. 2013). Chưa hết, hai lần “nhớ” được dùng trong một câu, như cố gắng chạm tới quá khứ của quá khứ:  Mình nhớ lúc ấy mình nhớ cậu nói với mình rằng cuộc Bảy chín sông Bằng cũng đỏ lừ máu” (tr. 131).
Mình và họ khảo sát cái đẹp trong sự chậm rãi. Khác với văn bản báo chí và tiểu thuyết trinh thám, văn bản nghệ thuật không đi đường thẳng, không suy luận logic, mà lần theo những ngóc ngách của vô thức, bản năng và ký ức, những mạch ngầm của cảm xúc và liên tưởng, những con đường “vờn vẽo, quanh co” (tr. 302).
Mình và họ không tìm thấy, nó là một cuộc đi tìm.

3. Đi tìm Tà Vần
Trong Mình và họ, nhiều nhân vật khá quan trọng nhưng không có tên riêng. Có hai lái xe, một Land Cruiser của chuyến lên và một xe màu đen, loại bảy chỗ” của chuyến xuống, nhưng chỉ được gọi chung là “lái xe”, được nhắc tới 217 lần và lần nào độc giả cũng phải ngắc ngư hơn một giây để phân định được ai là ai. Vô số các nhân vật khác chỉ được định danh bằng một đại từ, như “cậu”, “cô”, “chú”, “thím”, “anh”, “hắn”. Nếu có “bác Lâm”, “bác Song”, thì “chú” chỉ là “chú”. Người anh của nhân vật chính, kẻ thương yêu nhất, cũng không có tên, chỉ được gọi là “anh” trong suốt tác phẩm. Bạn của nhân vật chính, kẻ đi cùng anh ta suốt chuyến “xe lên”, cũng chỉ được gọi là “hắn”. Nhưng dù sao đi nữa, họ đều là những nhân vật có gốc tích, hình thức, quan hệ cụ thể, rõ ràng.
Trong nhóm những nhân vật “vô danh” này, “họ” (hay “bọn họ”) và “nó” gây cho độc giả nhiều hoang mang nhất.
“Bọn họ” là lính Trung Quốc trong chiến tranh biên giới: “anh cũng không thể biết rằng bọn họ đã phục sẵn ở đó” (tr. 8), nhưng ngay sau đó, “bọn họ” lại là nhóm công an đến bắt Trang và Hiếu:  Bọn họ xăm xăm tiến lại, mặt ai cũng lầm lừ”(tr. 10). “Bọn họ” là các chính trị gia: “Mình từng nghĩ bọn họ làm bằng thép không gỉ” (tr. 34). “Họ” cũng là đám người dân tộc gặp trên đường: “Vài ba người dân tộc say rượu gật gà, lầm lầm đi, mỗi khi thấy xe họ lại nép vào vệ đường, giương đôi mắt sầm sì, vô cảm nhìn theo. Giữa mình với họ là ngàn trùng” (tr. 124).
Riêng đoạn sau xuất hiện hai “bọn họ” có vẻ như không cùng căn cước: “Khi dẫn Trang về lấy đồ, bọn họ tảng lờ coi như không thấy chiếc ba lô ấy (... ) // Nghe tiếng lốp, mình biết mặt đường đang dần ướt. Bọn họ đã đến từ lúc nào, lờ mờ ở bên ngoài, đến vì mình, chính xác hơn là đón mình đi” (tr. 22).
“Bọn họ” thứ nhất dễ đoán: đó là nhóm công an áp tải Trang. Nhưng “bọn họ” thứ hai dường như vô hình vô ảnh, chỉ có “mình” - thực chất là một linh hồn - nhìn thấy, phân định được. Với “mình”, có “đám bên trong” và “đám bên ngoài”: “Mình bị kẹp giữa bọn họ đám bên ngoài không mang theo gì cả, ngoài sự kiên trì ghê gớm, và đám bên trong này với sức mạnh của súng và còng số tám” (tr. 29). “Bọn họ” ảo sẽ ẩn hiện suốt những đoạn in nghiêng, luôn gắn với cuộc sống sau cái chết, với “bên ngoài” và sự câm lặng: “Bọn họ sẽ không bao giờ trả lời, bởi bên ngoài còn lạnh hơn nhiều”(tr. 26), “Trang vẫn lạnh lùng im phắc. Bọn họ bên ngoài cũng thế”(tr. 85), “Bọn họ dạt ra, lẫn vào với màn sương đùng đục” (tr. 126), “Bên ngoài, bọn họ xem ra còn bình thản hơn, đeo đẳng, kiên nhẫn”(tr. 163).
“Bọn họ” lặng lẽ chờ đợi, cho đến khi linh hồn Hiếu nhập hẳn vào cõi âm, để “mình” thành “họ”.
“Nó” cũng là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bình Phương. “Nó” là một hồn ma, nhưng trái với “bọn họ”, “nó” được phấp phỏng đón chờ: “Nhưng thì mình vẫn chưa thấy đến” (tr. 22). Chưa xuất hiện, “nó” đã đồng nghĩa với sự tinh nguyên:   đang đến, mình cảm nhận thế, muốt trắng, ru ru giữa không trung vắng lặng” (tr. 30). Và “nó” chỉ đến ở trang cuối cùng của tiểu thuyết, cùng với “ban mai”, kết thúc cuộc rong ruổi giữa hai cõi của linh hồn Hiếu:   đã ở phía trên mình, bông bênh, vô sắc khí.  đấy, khuôn mặt yểu ớt, cái miệng xinh xinh bợt bạt tỏa hương quỳnh thơm dịu thủa nào” (tr. 302).
Nếu “bọn họ” là những hồn ma vô danh, “nó” có màu sắc, có “khuôn mặt”, có “cái miệng”, có mùi “hương”. Đặc biệt, “nó” gắn với kỷ niệm về hoa quỳnh. “Nó” là ai?
Trong Mình và họ, trường đoạn 5 trang về hoa quỳnh được đặt trang trọng chính giữa trung tâm tác phẩm: “Tầm chín rưỡi thì hoa đồng loạt mở cánh. Khóm cây như người lên đồng, chao đảo, run bần bật. Những cái cánh hoa trắng muốt được bọc bởi lớp vỏ hồng hồng giờ rung rung hé lộ bên trong những chiếc nhuỵ vàng mơ, nhoà nhạt, lẩy bẩy như những cánh tay vươn lên từ trong bóng tối sâu thẳm nhưng sạch sẽ. Mỗi bông quỳnh như một đám mây trắng đính trên chậu quỳnh lá vàng xanh cong cong. Mùi thơm ngào ngạt, ngây ngất toả ra” (tr. 148). Dưới nét bút của Nguyễn Bình Phương, quỳnh là loại hoa mang nhiều mâu thuẫn. Quỳnh vừa nở đã tàn, tinh sạch dù vươn lên từ đêm đen, trắng muốt nhưng lại khơi gợi dục tính – quỳnh “run bần bật”“lớp vỏ hồng hồng (... ) rung rung hé lộ”“lẩy bẩy”. Riêng “lẩy bẩy” chỉ xuất hiện hai lần trong tiểu thuyết, ở cảnh làm tình với Hằng và cảnh hoa quỳnh nở.
Quỳnh là kỷ niệm chung cuối cùng giữa Hiếu, anh, bố và “thằng nhỏ”. Đêm đó, người anh hoang mang lên đường nhập ngũ, còn ông bố xem quỳnh nở và “trở lại thái độ hồi hộp mơ màng”. Cũng đêm đó, Hiếu biết mình là cha, đứa bé vừa chào đời là kết quả mối tình vụng trộm với Hằng, chị dâu:“Cả đám người đê mê, thiêm thiếp trong mùi hương ngọt ngào của những đoá quỳnh thì bỗng nhiên từ phía nhà anh vang lên tiếng trẻ khóc (... ). Thế là Hằng đã sinh. Ai thúc vào lưng, mình loạng choạng đứng dậy lao sang nhà anh”(tr. 148). Trong tâm tưởng của Hiếu, đứa bé vừa sinh chính là bông thứ một trăm của khóm quỳnh vừa nở “chín mươi chín bông”. Cũng theo Hiếu, đứa bé mất lúc tám tháng tuổi đúng dịp người anh bị bắt ở Tà Vần, và sự lụi tàn của khóm quỳnh.
Quỳnh là gạch nối giữa bốn người đàn ông cùng máu mủ. Bốn số phận oan nghiệt. Bốn cái chết thê lương. Như vậy, quỳnh vừa là sinh vừa là tử, vừa mong manh vừa mãnh liệt.
Quỳnh gặp trên đường đến Tà Vần.
Bản đồ mỹ học của Nguyễn Bình Phương dường như chỉ chấp nhận dạng địa hình lồi, có độ cao. Về lý do khai trừ biển, Mình và họ viết thế này: “Qua cửa kính xe nhìn ra núi cũng giống biển, nhấp nhô, gờn gợn xanh, chỉ có điều dào dạt ở đâu đó xa lắm”(tr. 14). Sự khát khao núi, chính là cảm giác xa xôi bí hiểm của nó. Vì vậy, trước khi lao vào kiến tạo chuyến đi núi định mệnh của nhân vật, Nguyễn Bình Phương đã để Hiếu cùng Vân Ly ra biển, Quảng Ninh. Và cảm xúc về thành phố biển này không là gì khác ngoài “chán”, “nhạt nhẽo”, đến độ nhân vật phải thốt ra với người tình: “Anh muốn tè mẹ nó một bãi vào mặt cái thành phố này” (tr. 18). Kỷ niệm thú vị duy nhất của Hiếu về Quảng Ninh là con gián và con thạch sùng nhìn thấy khi ngồi trên bồn cầu trong khách sạn!
Điều đó giải thích vì sao hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương đều có bối cảnh là vùng trung du Thái Nguyên, từ Người đi vắng đến Thoạt kỳ thủy. Nhưng có lẽ với anh, những đỉnh núi chót vót vẫn là giấc mơ lớn nhất. Vì thế Mình và họ mở ra bằng hình ảnh “xe xuống chậm (... ) mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi”. “Xe lên xe xuống”, tựa đầu tiên của tiểu thuyết, trên hết phải được hiểu như là một giá trị mỹ cảm, bởi tôi đồ rằng chính mỹ cảm về chiều cao mới là xuất phát điểm của sáng tạo, nội dung ý tưởng chỉ là cái đến sau.
Trong Mình và họ, vùng biên ải “hoang hoang bồng bềnh”, nơi vừa là lên vừa là xuống, Nguyễn Bình Phương gọi là Tà Vần.
Phải nói ngay rằng trong Mình và họ, nếu biển mang một cái tên hoàn toàn có thật – Quảng Ninh, núi được Nguyễn Bình Phương âu yếm chọn cho một địa danh hư cấu, Tà Vần. Trong tiếng Việt, “Tà Vần” không có nghĩa gì mà chỉ gợi lên cảm giác hoang vu, nguyên sơ, hơi chút ma tà. Và chính Tà Vần quyết định số phận của Hiếu và người anh.
Với người anh, Tà Vần vang lên như mơ ước, ám ảnh, hy vọng, sự sống. Bởi khi cùng đồng đội bị lạc trong chiến tranh Việt Trung, điều mà người anh mong ngóng sau nhiều ngày lẩn trốn là tìm được Tà Vần, “ranh giới giữa mình với họ”“Tìm về tới đấy là thoát” (tr. 279). Nhưng cùng lúc, Tà Vần đi mãi không đến và sự tồn tại của nó luôn là một nghi vấn của những chiến binh bị săn đuổi: “Tao thắc mắc đây có đúng là chân Tà Vần không. Thằng chinh sát lúng túng nói lảng...” (tr. 281), để rồi khi về đến nơi tưởng là Tà Vần, tất cả sẽ bị giết còn người anh bị bắt: “Tao nghĩ thế là mình sẽ chết ở Tà Vần này” (tr. 277). Đây chính là ý nghĩa kép của Tà Vần, nó vừa là sự sống và cái chết, niềm tin và tuyệt vọng, là mình và họ. Tà Vần khốc liệt và bi thương, nhưng Tà Vần dường như chỉ là một ảo ảnh: “Mình hỏi: Có đỉnh Tà Vần thật không? Anh ngẩn ra: Tao cũng không rõ” (tr. 166).
Có lẽ vì sự mâu thuẫn đó mà Tà Vần ám ảnh Hiếu những năm tuổi trẻ. Cũng như với người anh, suốt chuyến đi vừa là chạy trốn vừa là phiêu lưu của nhân vật, Tà Vần vang lên như một lời vẫy gọi, một sự hướng tới: “làm sao tới được địa danh Tà Vần” (tr. 105). Tà Vần luôn ở “phía trước”: “Đỉnh Tà Vần vẫn chờn vờn phía trước” (tr. 277). Để rồi khi đạt đến nơi tưởng là Tà Vần, Hiếu sẽ bị bắt và nhảy xuống vực. Như vậy, giống với người anh, Tà Vần là sự sống và cái chết, là niềm tin và tuyệt vọng, với Hiếu. Nó là ảo ảnh.
Chỉ có điều, Tà Vần, trong con mắt Hiếu, trên hết tượng trưng cho cái đẹp: “Phía trước vẫn là dãy núi xanh óng” (tr. 214), “cái chóp núi xa hút, mờ mờ trong dải mù trắng” (tr. 276), “Những dẻ nắng xòa xuống làm dãy núi phía trước xanh óng, ngân vang, mê ly”(tr. 146). Chính ở trang cuối cùng của tiểu thuyết, tại nơi tưởng là Tà Vần, Nguyễn Bình Phương cho Hiếu qui tụ với “nó” – đứa con hoang đã chết, “ quỳnh” – loài hoa vừa nở đã tàn, và “cừ rừm” – tiếng kêu hoang thú.
Như vậy, nếu Tà Vần là cái đẹp, nó cũng là cái ác, là nơi ẩn chứa bạo lực và chết chóc. Tà Vần cũng là bí ẩn của vô thức, hồng hoang, nhục dục, tội lỗi. Tà Vần lẫn lộn mình và họ. Với Nguyễn Bình Phương, cái đẹp nằm ngoài vòng phong tỏa của đạo đức.
Tà Vần là một địa danh mới trong từ điển mỹ học của Nguyễn Bình Phương.

4. Mỹ cảm của bạo lực
Nguyễn Bình Phương, với bản lĩnh thực sự của người cầm bút, đã chạm tới, hơn nữa, đã phanh phui chất hoang bạo luôn len lỏi giữa cuộc sống vật chất và tinh thần người Việt. Trong Mình và họ, bạo lực triền miên qua bao cuộc chiến, từ người Kinh đến người dân tộc, ngay trong giải trí đời thường. Nếu “dân Mèo say rượu múa khèn giống như đánh võ ấy, vui ra phết” (tr. 271) thì Hiếu được bố múa võ cho xem vào những phút thư dãn (tr. 271). Hành động và ngôn ngữ các nhân vật cũng đầy bạo lực. Người tình đi dạo trên bờ biển và gọi nhau là “đểu” (tr. 14), anh cầm thanh củi quật em trai đã có vợ và gọi là “chó” (tr. 39), cậu nhận xét về bạn rượu: “giáo viên đéo gì, say cả ngày” (tr. 73.
Rõ ràng, Hiếu cũng như tất cả những người sống quanh anh ta đều rùng mình trước bạo lực nhưng không chống cự nổi. Dường như từ truyền kiếp, họ bắt đầu là nạn nhân, sau đó chấp nhận, rồi cuối cùng đi đến thực thi bạo lực và cuồng say bạo lực. Đây là ý nghĩa sự tồn tại xuyên suốt Mình và họ của cuốn sổ trong đó người anh ghi chép về chiến tranh, mà Hiếu luôn mang trong người như vật bất ly thân. Bạo lực từ những trang viết khát máu này đã thấm vào Hiếu đến độ anh ta thuộc lòng. Rất nhiều đoạn, Nguyễn Bình Phương cài nhật ký người anh giữa lời của người-kể-chuyện, để hai anh em thay phiên nhau hào hứng với những cảnh chém giết:
“Thằng ấy chạy xiên qua mép đá chỗ tao đứng. Tao đã xỉa nó, chỉ một phát. Thằng khựa thọat nhìn tưởng đô con hơn tao nhưng khi đè ra mới thấy nó cũng chỉ cỡ cỡ như tao thôi, có khi gầy hơn. Mày còn nhớ cái ông chuyên gia ngày xưa ở gần nhà mình không? Thằng này giống y thế, cả cái mũi hơi vẹo sang bên, cả đôi mắt một mí xếch ngược lên, cả cái cổ cao ngẳng gân chằng chịt”.
Anh xỉa vào đúng cái cổ đó, dao cắm lút cán, nếu không vướng xương cổ thì chắc chắn đã xuyên sang bên kia. Tay lính không kêu được, hai mắt trợn trừng toàn lòng trắng nhìn anh.
“Lúc ấy trông nó càng giống ông chuyên gia trợn mắt đóng Tôn hành giả cho anh em mình xem” (tr. 281).
Như vậy, Nguyễn Bình Phương không chỉ dừng lại mô tả mà đi tìm căn tính của bạo lực. Mục đích đến Tà Vần của người em cũng là để chạm tới được cái bạo lực của người anh. Tuy nhiên, khác với nhiều nhà văn, Nguyễn Bình Phương không coi văn chương là một bộ phận phụ của các môn lịch sử, xã hội học hay đạo đức học. Anh đối xử với bạo lực với như một nghệ sĩ. Nó bình đẳng như tình yêu, tình dục, hay mọi đề tài khác. Bạo lực, dưới ngòi bút của Nguyễn Bình Phương, như ta đã thấy, tạo ra một nguồn mỹ cảm đặc biệt. Nếu bạo lực thường là biểu hiện của dương tính, thì trong Mình và họ, nó được tra hỏi, khai thác, cân bằng với Tà Vần và sự chậm rãi, hai cơ tố, dưới thẩm mỹ của anh, dường như mang nhiều âm tính. Bạo lực, với Nguyễn Bình Phương, vì thế trở thành một đề tài nghệ thuật độc lập. Bằng cách này, nó được tách ra khỏi quan điểm “chân-thiện-mỹ” đã áp đặt và, đương nhiên, vẫn kìm chế văn học nghệ thuật Việt Nam từ bao thế hệ.
Và có lẽ đấy là mạch ngầm sâu nhất, ám ảnh nhất, còn đọng lại trong mỗi chúng ta sau khi đọc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương.

Đoàn Cầm Thi
Paris tháng 6 năm 2015

_________________________
[1]NXB Trẻ, 2014. Tất cả các lời dẫn trong bài đều trích ở bản này. Nhưng chỗ gạch chân trong đoạn trích là do tôi (ĐCT).
[2]Xem phỏng vấn Nguyễn Bình Phương của Hoàng Nhân, “Nhà thơ Nguyễn Bình Phương ra mắt tiểu thuyết Mình và họ”, trong Thể thao & Văn hóa, 20/09/2014.
[3]Tên một bài viết của Nguyễn Bình Phương, trong Thể thao & Văn hóa ra ngày 01/12/2013.
[4]"Quay chậm" là một từ dân dã để chỉ những đoạn hình ảnh trên phim chậm lại so với tốc độ bình thường. Nhưng trong thực tế, không phải là “quay chậm”, mà là quay nhanh và phát chậm. Thuật ngữ tiếng Anh là Slow motion.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lúc đói lòng, xin được bới ra ăn.

TỔ QUỐC, CON ÂM THẦM YÊU MẸ.

Mẹ mới dựng nổi mái tranh bé nhỏ
Lẽ nào con mơ nhà lầu
Bữa ăn mẹ mới dọn cho con cơm rau
Lẽ nào con đòi bơ sữa?
Có ai đó hay bàn về Tổ Quốc
Nằm trong vỏ ốc nói hy sinh
Ai mặc ấm mà ngồi thương Mẹ rét
Trước khi yêu Tổ Quốc họ yêu mình
Có kẻ một thời từng nhân danh Mẹ
Bán quê hương đổi lấy sướng giàu
Những tổng thống, những chủ tịch, những vương triều như chong chóng
Xoay bên nào lòng Mẹ cũng bầm đau
Có kẻ rên la nhà Mẹ nghèo mưa gió
Họ mơ những chân trời xanh đỏ sắc đô-la
Miệng yêu Mẹ mà bàn chân chối bỏ
Tổ Quốc là một cách để ba hoa
Cám ơn những người làm ca ba bình thường như đinh ốc
Miếng bánh mì ăn còn dính mỡ, dính dầu
Tay quai búa trước lửa hàn chói lọi
Tổ Quốc suốt đời như quặng dưới bề sâu
Những người đến cơ quan lĩnh đồng lương gió thổi
Dạ dày nhiều khi co bóp trong đầu
Họ lầm lũi không còn gì để nói
Tổ Quốc yêu Người nào có dễ gì đâu
Những người lính ngã trong hào biên giới
Tổ Quốc chảy trong dòng máu của mình
Người lính ấy không nhân danh la lối
Họ âm thầm lao tới nhận hy sinh
Mẹ ơi, bao người chưa từng nói về Tổ Quốc
Lấy mồ hôi gieo hạt lúa nhọc nhằn
Tâm hồn họ như khoai vùi trong bếp
Lúc đói lòng, xin được bới ra ăn.
Sài Gòn mùa thu năm 1985
T.M.H.

Phần nhận xét hiển thị trên trang