Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

Tư liệu:

Charles Fenn - Những ngày đầu ông Hồ tiếp cận OSS ở Trung Quốc

Bìa sách Ho Chi Minh – A Biographical Introduction
"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy..." 
Charles Fenn (Duy Việt dịch và chú thích) 

Ngày 2-11-1944, máy bay của trung úy Rudolph Shaw (thuộc Phi đội 51, Không đoàn 14 đóng căn cứ ở Côn Minh - Vân Nam - Trung Quốc) bị bắn. Viên phi công Mỹ phải nhảy dù xuống một nơi gần tỉnh lỵ Cao Bằng. Quân Pháp và quân Nhật lùng bắt anh, nhưng anh được du kích Việt Nam giải cứu và đưa đến gặp Bác Hồ.

Tháng 2-1945, Bác Hồ sang Côn Minh, có Shaw đi cùng. Tại đây, Bác gặp nhiều viên chức Mỹ như thiếu tướng Claire L. Chennault, đại tá Jacques de Sibour, thiếu tá Austin Glass, đại úy Archimedes Patti, trung úy Charles Fenn…

Fenn sinh năm 1909 ở Anh. Năm 22 tuổi, anh sang Mỹ, sau đó nhập quốc tịch Mỹ. Từ 1940 đến 1943, anh sang Trung Quốc, có lúc làm phóng viên nhiếp ảnh cho hãng thông tấn Associated Press. Nhờ biết tiếng Quan Thoại nên anh được cơ quan tình báo Mỹ OSS tuyển dụng.

Năm 1973, sách Ho Chi Minh – A Biographical Introduction (Hồ Chí Minh – Giới thiệu tiểu sử) được hai nhà xuất bản Charles Scribner’s Sons (ở New York - Mỹ) và Studio Vista Books (ở London - Anh) ấn hành cùng một lúc.

Sau đây, chúng tôi trích dịch chương 8 của sách nói trên, viết về những tiếp xúc đầu tiên giữa Bác Hồ và các viên chức Mỹ trong năm 1945. Chúng tôi lược bỏ một số đoạn không cần thiết (chẳng hạn công việc của OSS, của AGAS v.v…). Đầu đề và các chú thích là của người dịch.

Tôi làm việc cho OSS(1) ở Trung Quốc được một năm, đến năm 1944 được chỉ thị làm việc với một nhóm độc lập đang tổ chức một mạng lưới bên trong Đông Dương với các điệp viên dân sự của nước Pháp tự do(2). Nhóm này được biết dưới cái tên GBT ghép chữ đầu của tên ba người điều hành nhóm: Laurence L. Gordon (người Canada), Harry Bernard (người Mỹ) và Frank Tan (người Mỹ gốc Hoa). Trước đây, ba người này làm công cho một hãng dầu ở Sài Gòn, cả ba đều đáng khen theo kiểu của mình. Họ sử dụng những người Pháp mà họ tiếp xúc được một cách tuyệt vời đến độ không một nhóm tình báo nào, kể cả quân sự lẫn dân sự, có thể sánh với thành tích thu thập và phổ biến tin tức của họ.


…Thời gian sau, nhóm GBT nhận tiền và trang bị của OSS cũng như của một tổ chức khác của Mỹ là AGAS(3), công tác của tổ chức này gồm có giải cứu những phi công bị bắn rơi, liên lạc với tù binh chiến tranh và thu thập tin tình báo.

Khi OSS quyết định mở rộng hoạt động của họ vào Đông Dương, họ muốn tiếp quản nhóm GBT và bước đầu tiên của họ là chỉ định tôi làm việc với nhóm (…) Nhóm GBT chuyển về AGAS cùng với công việc của tôi.


Việc này vừa mới dàn xếp xong thì cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 khiến nhóm GBT và toàn bộ mạng lưới phải nằm im. Điều đó có nghĩa là không còn những thông tin về mục tiêu, về sự phòng không, về sự di chuyển của quân Nhật, cũng không còn những báo cáo thời tiết. Do đó, Tổng hành dinh [của Mỹ ở Trung Quốc] chỉ thị tôi phải thay những điệp viên người Pháp không còn nữa bằng một mạng lưới người Việt.


Ở Côn Minh có nhiều người Việt, nhưng vì trước đây chúng tôi được cảnh báo là không được dùng họ, nên chúng tôi không có ý niệm rằng ai là người có ích và đáng tin cậy. AGAS nói với tôi về một người Việt Nam lớn tuổi không chỉ đã cứu giúp một phi công bị bắn rơi mà còn có liên kết với một nhóm chính trị lớn. Người ta nói rằng ông ấy vẫn còn ở Côn Minh và đôi khi thấy ông ấy ở trụ sở AOWI(4) để đọc mọi thứ, từ tạp chí Time đến Từ điển Bách khoa Mỹ (The Encyclopedia Americana). Tôi nhắn với một người bạn của tôi cố dàn xếp một cuộc gặp với ông ấy. Một vài ngày sau, tôi được biết tin ông ấy. Ông tên là Hồ, muốn gặp tôi chiều nay. Nhật ký của tôi ngày 17-3 [1945] chép:


“Hồ đến cùng một người trẻ tuổi hơn là Phạm [Văn Đồng]. Hồ không như tôi tưởng. Trước hết, ông không thực sự “già”: chòm râu bạc cho ta biết tuổi của ông, nhưng gương mặt khỏe mạnh, đôi mắt sáng long lanh. Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Pháp. Dường như ông đã gặp Hall, Glass và de Sibour [các sĩ quan OSS] nhưng không đạt kết quả gì. Tôi hỏi ông muốn gì ở họ. Ông nói: chỉ muốn họ công nhận nhóm của ông (gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh hay Việt Minh). Tôi đã nghe phong thanh tổ chức này là cộng sản và tôi hỏi ông điều đó. Ông nói: Pháp gọi tất cả những người Việt Nam mong muốn độc lập là cộng sản. Tôi kể cho cho ông nghe công việc của chúng tôi và hỏi ông có thích giúp đỡ chúng tôi không. Ông nói nhóm của ông có thể làm được, nhưng không có người sử dụng điện đài và dĩ nhiên không có thiết bị gì cả. Chúng tôi thảo luận việc đưa vào [Việt Nam] một điện đài, một máy phát điện và một người sử dụng các máy đó. Ông nói máy phát điện có thể gây nhiều tiếng động, trong khi bọn Nhật luôn có mặt xung quanh; sao chúng ta không dùng loại điện đài chạy bằng pin như người Tàu vẫn dùng? Tôi giải thích: loại máy ấy quá yếu, không thể dùng cho khoảng cách xa, nhất là khi pin yếu. Tôi hỏi ông muốn những gì khi giúp chúng tôi. Ông nói: vũ khí và thuốc men. Tôi nói: vũ khí thì khó, vì e Pháp [phản đối]. Chúng tôi thảo luận vấn đề Pháp. Ông nhấn mạnh: Việt Minh chỉ chống Nhật(5). Tôi ấn tượng bởi cách nói dứt khoát của ông, ông điềm tĩnh như đức Phật, ngoại trừ những cử động của các ngón tay da nâu và nhăn của ông. Phạm [Văn Đồng] ghi chép. Chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp nhau một lần nữa. Họ ghi tên họ bằng chữ Tàu được La tinh hóa: Fam Fuc Pao và Ho Tchih Ming”.


Sau buổi gặp đó, Harry Bernard và Frank Tan đồng ý rằng: nếu có thể làm được một điều gì đó thì chúng tôi sẽ đưa ông Hồ về lại Việt Nam và một trong những nhân viên điện đài người Hoa của chúng tôi sẽ đi theo ông. Có người gợi ý rằng Tan sẽ đi cùng với ông. Ba ngày sau, tôi sẵn sàng để dàn xếp chuyện đó.


“Ngày 20-3:

Có một cuộc gặp gỡ lần thứ hai với những người Việt Nam ở quán cà phê Đông Dương trên đường Chin Pi. Hình như chủ quán là bạn của họ(6). Chúng tôi ngồi trên gác và uống cà phê phin theo kiểu Pháp, đậm và rất ngon. Căn phòng vắng người nhưng ông Hồ nói khách hàng có thể vào. Chúng tôi thỏa thuận dùng vài từ: người Tàu thì gọi là “bạn”, người Mỹ là “anh em”, người Pháp là “người trung lập”, người Nhật là “người chiếm đóng”, người Việt Nam là “người bản địa”. Ông nói về việc đưa hai người Hoa sang [Việt Nam], một trong hai người ấy là người Mỹ gốc Hoa, điều đó có thể gặp khó khăn vì chắc chắn họ sẽ dễ bị nhận diện. Nhóm của ông có khuynh hướng nghi ngờ người Hoa. Nhưng vì không có nhân viên điện đài người Việt Nam nên đành phải sử dụng người Hoa. Song thay vì lấy Frank Tan, ông sẽ đi với một người và sau đó chúng tôi sẽ thả dù một sĩ quan người Mỹ. Ông hỏi tôi có muốn đi [Việt Nam] không? Tôi đáp tôi muốn. Ông nói nhóm của ông sẽ hoan nghênh tôi. Rồi chúng tôi thảo luận chuyện tiếp tế. Phạm [Văn Đồng] đề cập tới “chất nổ mạnh” mà Hall đã nói với anh. Tôi cố làm nhẹ bớt chuyện này, nhưng đồng ý rằng chúng tôi sau này có thể thả dù xuống vũ khí nhẹ, thuốc men và thêm nhiều điện đài nữa. Nhân viên của chúng tôi có thể huấn luyện một vài người của ông Hồ sử dụng các máy móc đó. Ông cũng muốn gặp Chennault(7). Tôi đồng ý thu xếp việc đó, nếu ông Hồ đồng ý không yêu cầu Chennault điều gì: không đòi hàng tiếp tế, cũng không đòi [Mỹ] hứa hẹn ủng hộ [Việt Minh]. Hồ đồng ý. Ông già(8) mặc quần vải theo kiểu Tàu và áo cài nút đến cổ, màu vàng nhạt, chứ không phải màu xanh. Ông mang dép dây da theo kiểu thường dùng ở Đông Dương. Râu ông bạc và thưa, nhưng lông mày của ông màu nâu nhạt ngả sang màu xám ở cuối, tóc ông hầu như vẫn còn đen nhưng thưa. Người thanh niên họ Phạm mặc bộ đồ Tây, có xương gò má cao và cằm khỏe. Cả hai nói chuyện một cách nhẹ nhàng nhưng đôi khi họ phá lên cười khúc khích. Chúng tôi làm việc với nhau rất ăn ý”.


Áp phích của Việt Minh hướng dẫn nhân dân cứu giúp phi công Mỹ bị nạn: “Quân đội Mỹ là bạn ta/ Cứu phi công Mỹ mới là Việt Minh”


… Sau khi thu xếp để giới thiệu ông Hồ với Chennault như một “người bản xứ” đã cứu giúp Shaw, tôi đưa Tan cùng đi gặp ông tại nơi mà ông và Phạm [Văn Đồng] ở trong một căn phòng trên một cửa hàng bán nến. Tầng dưới đầy những cây nến nhỏ đủ màu: đỏ, trắng, cam với một chậu sáp sắp sôi đặt trên một bếp lò ở phía sau. Hồ và Tan hợp với nhau nên ông già đồng ý đưa Tan theo [về Việt Nam]. Tan bây giờ sẵn sàng cho chuyến đi. Bernard bảo anh ta chỉ mang theo những gì cần thiết: một điện đài, một súng lục, một ít quà nhỏ. Nhưng Tan khăng khăng đòi mang theo đủ thứ…


Buổi gặp Chennault diễn ra mấy ngày sau đó.


Bernard và tôi phải đi đón Hồ vào lúc 10 giờ 30 sáng 2-3 để tới chỗ hẹn vào lúc 11 giờ. Tôi để ý thấy ông đã thay một cái nút bị thiếu trên áo vải của ông, chắc chắn là vì dịp long trọng này. Khi chúng tôi tự giới thiệu ở phòng ngoài của Chennault, người ta bảo thiếu tướng đang bận. Lúc đó, cô thư ký [Doreen] xuất hiện và trấn an chúng tôi rằng ông ta không bận lâu lắm đâu. Năm phút sau, chúng tôi bước vào văn phòng của Chennault. Doreen mang ra hai ghế, còn Chennault đặt chiếc ghế thứ ba rất lịch sự. Rồi ông tới ngồi sau bàn giấy lớn bằng một cái giường đôi. Năm người, mỗi người một vẻ: Chennault mặc quân phục rất sang trọng, đeo huân chương; Bernard mặc quần soọc và áo sơ mi bằng vải kaki; tôi thì mặc áo có thắt lưng bằng vải gabácđin, đội nón Thủy quân lục chiến; ông già Hồ mặc áo dài bằng vải bông, mang dép săng đan; Doreen mặc đồ kaki có lẽ do Saks Fifth Avenue may và chở sang bằng máy bay đặc biệt.


Chennault nói với ông Hồ rằng ông ta rất biết ơn về việc cứu viện phi công. Ông Hồ nói ông luôn vui lòng được giúp người Mỹ và đặc biệt giúp tướng Chennault mà ông rất ngưỡng mộ. Hai người chuyện trò về đội Phi Hổ (Flying Tigers)(9). Chennault hài lòng về việc ông già biết chuyện đó. Chúng tôi nói về việc cứu thêm những phi công nữa. Không ai nói gì về Pháp hay về chính trị. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi chúng tôi chuẩn bị ra về. Bỗng ông Hồ nói ông xin thiếu tướng một ân huệ nhỏ. “Bây giờ chúng ta về thôi, cầm lấy mũ lên đi”, nét mặt của Bernard muốn nói lên câu đó. Tất cả những gì ông Hồ muốn là một tấm ảnh của thiếu tướng. Chennault chẳng thích gì hơn là tặng ảnh.


Vì vậy ông nhấn chuông và Doreen bước vào. Đúng lúc đó, một cô gái khác mang đến một tập ảnh bóng loáng cỡ 8x10. Chennault nói: “Ông hãy chọn đi”. Ông Hồ lấy một tấm ảnh và hỏi liệu thiếu tướng có vui lòng ký tên vào tấm ảnh. Doreen đưa một cây bút máy hiệu Parker 51 và Chennault viết ở dưới tấm ảnh: “Thân mến, Claire L. Chennault”. Và chúng tôi kéo nhau ra về trong không khí lấp lánh của Côn Minh.


… Bernard dàn xếp với Ban hành quân của Không đoàn 14 để có hai chiếc L-5, loại máy bay taxi nhỏ mà chúng tôi vẫn dùng lúc đó. Hồ bay xuống biên giới [Việt Nam – Trung Quốc] trong một máy bay với Mac Sin, nhân viên điện đài người Hoa. Một hay hai ngày sau, Tan bay trong máy bay thứ hai với tất cả thiết bị. Có một đường băng cho máy bay ở Tĩnh Tây(10) và từ đó họ sẽ đi bộ vào [Việt Nam]. Phạm [Văn Đồng] ở lại Côn Minh để làm công tác liên lạc. Khi tôi đến gặp Hồ để biết mọi chuyện dàn xếp này, ông đề nghị thêm một ân huệ nữa: 6 khẩu súng lục tự động hiệu Colt.45 mới tinh còn nguyên trong bao bì.


Khi Bernard và tôi tiễn Hồ ra sân bay và đưa ông lên chiếc máy bay sẽ mang ông vượt 300 dặm núi rừng, ông nói đây là lần thứ ba ông đi máy bay. Khoảng một tuần sau, Mac Sin liên lạc với chúng tôi bằng vô tuyến. Chúng tôi biết được: Hồ đã vượt biên giới và về tới căn cứ của ông đặt trong một hang đá. Ông đã gửi 20 người của ông đi hộ tống Tan và Mac Sin để bảo vệ họ không chỉ chống bọn Nhật mà còn chống lại bọn cướp nữa. Một thời gian sau, chúng tôi nhận được báo cáo đầu tiên của Tan: “Những người hộ tống đến ngày 15-4 và 4 giờ sáng hôm sau chúng tôi lên đường, ăn mặc như những người buôn lậu qua biên giới với toàn bộ thiết bị đựng trong các giỏ tre để người khác tưởng rằng chúng tôi là dân buôn bán bất hợp pháp ở vùng biên giới. Chúng tôi đi bộ dọc theo biên giới tới 15 giờ, ăn uống rồi chờ cho đến khi trời tối mới rẽ về phía biên giới. Chặng đường này nổi tiếng cướp bóc, vì vậy khi vượt biên, chúng tôi tháo súng ra khỏi bao và cầm sẵn trên tay”. Tan còn mô tả chuyến đi gian khổ và nguy hiểm đã đưa họ về tới căn cứ của Hồ trong hang Pác Bó(11), một túp lều ở lối vào một thác nước. Các thành viên của Việt Minh đến túp lều này để trao đổi ý kiến. Tan viết: “Tôi có thể đánh giá rằng Việt Minh rất mạnh và có cả mấy trăm hội viên. Trước khi rời Tĩnh Tây, tôi được nhà cầm quyền Trung Quốc cảnh báo rằng phần lớn họ là cộng sản và chúng tôi phải biết điều mà chúng tôi sẽ bị nhiễm. Dĩ nhiên người Tàu nhìn sự vật theo quan điểm của Quốc Dân Đảng [Trung Hoa]”. Bây giờ, Pháp cũng làm ầm lên chuyện chúng ta làm việc với Hồ và tôi bị AGAS yêu cầu phải viết báo cáo. Khi Tổng hành dinh nhận được báo cáo, chúng tôi được lệnh cứ tiếp tục công việc…



Chúng tôi thu xếp để Hồ gửi cho chúng tôi vài người của ông để chúng tôi huấn luyện. Thư ông viết: “Chúng tôi rất biết ơn ông đã chăm sóc các chàng trai của chúng tôi. Tôi mong họ có thể học về vô tuyến và các thứ khác cần thiết cho cuộc chiến đấu chung của chúng ta chống bọn Nhật. Tôi hy vọng ông sẽ sớm sang thăm chúng tôi ở căn cứ của chúng tôi. Điều đó sẽ trọng đại. Cho phép tôi gửi lời kính trọng đến tướng Chennault”.


Những lá thư đầu tiên do Hồ viết tay bằng ngòi bút thép trên giấy thông thảo Trung Quốc. Lá thư kế tiếp viết trên nửa trang giấy thông thảo có kẻ hàng mờ và nhuộm màu xanh nhạt:


“Ông Fenn thân mến,


Ông Tan và người trợ lý của ông ấy [Mac Sin] mạnh khỏe. Tôi hy vọng ông sớm đến thăm chúng tôi.


Ông làm ơn chuyển lá thư này đến bạn tôi là Tống Minh Phương ở quán cà phê Đông Dương. Mười hay mười hai ngày sau, họ sẽ trao cho ông một gói cờ của các nước Đồng minh. Tôi rất biết

ơn ông nếu ông gửi gói đó cho tôi bằng cách nhanh nhất.


Xin gửi tới ông bạn lớn [Chennault] và ông Bernard cùng toàn thể các bạn của chúng ta lời chúc tốt đẹp nhất của tôi.


Chúc ông sức khỏe và may mắn.


Thân mến,


Hồ


9-6-1945”


Người mang những bức thư này (nhân viên của ông Hồ) nói tiếng Pháp giỏi và chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu…


Không bao lâu sau đó, chúng tôi thả dù nhiều hàng tiếp tế, máy vô tuyến, thuốc men, đồ dùng, vũ khí. OSS cung cấp cho chúng tôi phần lớn những thứ ấy vì họ có một số lượng lớn hàng tiếp tế. Theo Tan, việc thả dù này làm dư luận xôn xao và kho hàng của Hồ tăng thêm mười điểm nữa. AGAS không đồng ý thả dù tôi [Fenn] xuống, do đó chúng tôi thả dù một sĩ quan AGAS còn trẻ là [trung úy Dan] Phelan. Anh ta miễn cưỡng đi làm nhiệm vụ đặc biệt này bởi vì anh ta nghe nói Hồ là cộng sản. Trong vòng một tuần sau khi đến [Việt Nam], anh gửi điện về, chứng minh rằng Hồ chẳng phải cộng sản chút nào hết. Chúng ta [tức người Mỹ] đều nhầm lẫn. Bức điện của anh ta viết: “Các anh hiểu lầm quan điểm của Việt Minh. Họ không chống Pháp. Họ chỉ là những người yêu nước, xứng đáng được chúng ta hoàn toàn tin tưởng và ủng hộ”.


Robert Shaplen trích dẫn một câu mà Phelan viết cho ông ta sau đó, mô tả doanh trại của Hồ: “Bốn túp lều, mỗi cái rộng 12 feet vuông, dựng trên các cột tre cách mặt đất 4 feet. Túp lều của Hồ cũng trống trơn như những túp lều khác”. Phelan kể rằng Hồ đề nghị anh ta cho ý kiến về câu mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ mà ông muốn đưa vào bản Tuyên ngôn Độc lập [của Việt Nam]. Phelan nói: “Nhưng hình như ông ta biết về điều đó hơn tôi”. Khi bắt đầu làm nhiệm vụ [ở Việt Nam], Phelan cứ cằn nhằn với chúng tôi rằng Hồ là cộng sản, nhưng Phelan kết thúc lời phát biểu bằng câu: “Ông là một người hết sức đáng mến. Nếu tôi phải chọn ra một đức tính nào về ông già ngồi trên đồi trong rừng thì đó là tính hòa nhã”(12).


… May thay, Tan và Hồ đã thiết lập một mạng lưới tình báo của người bản xứ để thay thế một cách rộng rãi mạng lưới của người Pháp bị cuộc đảo chính của Nhật làm cho biến mất. Mạng lưới của Việt Minh đã cứu thoát tổng cộng 17 phi công bị bắn rơi(13). Việt Minh cũng xây được một đường băng cho máy bay hạ cánh trong tổng hành dinh của họ. Nhờ vậy, chúng tôi có thể gửi sang một máy bay L-5 để đưa Tan [về lại Côn Minh]. Anh ta trở về với tình cảm chứa chan về Hồ.


… Tan mang về cho tôi một lá thư khác của Hồ, lá thư này được đánh máy bằng một máy đánh chữ cũ nhưng chữ vẫn rõ ràng:


“Tôi muốn viết cho ông một bức thư dài thật dài để cảm ơn tình hữu nghị của ông. Không may, tôi không thể viết nhiều được, vì sức khỏe của tôi hiện nay không tốt (bệnh của tôi không nặng lắm đâu, ông đừng lo lắng!). Những điều tôi muốn nói, ông Tan sẽ nói thay tôi. Nếu ông gặp các ông Bernard, Vincent, Reiss và Carlton (ở AOWI) và các bạn khác của chúng ta, xin vui lòng chuyển tới họ lời chúc thân ái nhất của tôi.


Phạm [Văn Đồng] nói ông sẽ tới đây. Chúng tôi sẵn sàng đón tiếp ông một cách nồng nhiệt nhất. Hãy đến càng sớm càng tốt nếu ông có thể”.


… Theo Tan, ông Hồ vẫn còn bệnh, nhưng ông nói ông không bệnh lắm để tôi an tâm, không phải lo.


… Lá thư cuối cùng của Hồ gửi tôi ghi “tháng tám 1945” được viết vào một thời gian ngắn sau khi Hiroshima bị ném bom nguyên tử (6-8-1945):


“Chiến tranh kết thúc. Điều đó tốt cho mọi người. Tôi chỉ lấy làm tiếc rằng tất cả những người bạn Mỹ phải rời chúng tôi quá sớm. Và việc họ rời đất nước này có nghĩa là quan hệ giữa các bạn và chúng tôi sẽ trở nên khó khăn hơn.


Chiến tranh kết thúc thắng lợi. Nhưng những nước nhỏ và chưa độc lập như chúng tôi chẳng được hưởng phần, hoặc hưởng một phần rất nhỏ trong thắng lợi của tự do và dân chủ. Nếu chúng tôi muốn có một phần đầy đủ, có lẽ chúng tôi vẫn phải chiến đấu. Tôi tin rằng ông và nhân dân Mỹ vĩ đại sẽ luôn luôn dành thiện cảm cho chúng tôi.


Tôi cũng tin chắc rằng, chẳng chóng thì chầy, chúng tôi sẽ đạt được mục đích của mình, bởi vì mục đích đó là chân chính. Và đất nước chúng tôi sẽ giành được độc lập. Tôi chờ mong sẽ có ngày hạnh phúc được gặp ông và các người bạn Mỹ của chúng tôi, hoặc ở Đông Dương, hoặc trên đất Mỹ!”.


Số mệnh đã định rằng chúng tôi sẽ không được gặp nhau. Với việc thả bom nguyên tử [xuống nước Nhật] và xung đột kết thúc, công việc của AGAS ở Đông Dương được xem như hoàn tất.



______


(1) OSS (Office of Strategic Services): cơ quan tình báo chiến lược của Mỹ, tiền thân của CIA ngày nay.


(2) Nước Pháp tự do (La France libre): chỉ những người Pháp theo tướng De Gaulle chống lại Đức Quốc Xã và chính phủ Vichy (do thống chế Pétain cầm đầu).


(3) AGAS (Air Ground Aid Services): cơ quan giúp đỡ không quân trên mặt đất.


(4) AOWI (American Office of War Information): Phòng Thông tin Chiến tranh của Mỹ.


(5) Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương viết: “Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt, duy nhất của nhân dân Đông Dương” và “đem khẩu hiệu Đánh đuổi phát xít Nhật! thay cho khẩu hiệu Đánh đuổi Nhật, Pháp!”.


(6) Chủ quán cà phê Đông Dương là vợ chồng Tống Minh Phương và Trần Việt Hoa.


(7) Claire Lee Chennault (1893-1958) từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới. Lúc đó, ông là thiếu tướng, tư lệnh Không đoàn 14 đóng ở Côn Minh. Thăng lên trung tướng trước khi về hưu.


(8) Fenn gọi Hồ Chí Minh là “Ông già” để phân biệt với một người khác trẻ hơn cũng mang họ Hồ.


(9) Đội Phi Hổ (hay Cọp Bay): biệt danh của Phi đoàn tình nguyện Mỹ số 1 (The First American Volunteer Group) thuộc Không lực Trung Hoa Dân quốc, gồm những phi công Mỹ đánh thuê cho Trung Hoa (lương cao gấp ba lần lương lãnh trong Quân đội Mỹ). Do Chennault chỉ huy. Thành lập năm 1941 trước khi Mỹ tham chiến ở châu Á – Thái Bình Dương. Sáp nhập vào Không lực của Lục quân Mỹ năm 1942.


(10) Tĩnh Tây: tên một huyện của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), gần biên giới với Việt Nam.


(11) Hang Pác Bó: đúng ra là hang Cốc Bó (tiếng Nùng, nghĩa là đầu nguồn) thuộc làng Pác Bó - xã Trường Hà - huyện Hà Quảng - tỉnh Cao Bằng.


(12) Robert Shaplen, The Lost Revolution, NXB André Deutsch, London, 1966, tr.33.


(13) Tạp chí Time số ra ngày 12-9-1969. 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những Lời Khuyên Cần Suy Ngẫm


dung-cao-hon-van-de-cua-ban-than-1373617062-650x0-large
Theo: Thúy Huỳnh – Tổng Hợp Từ Inc. -
Khởi nghiệp là một quyết định khó khăn. Và có rất nhiều ý tưởng đã không thể thành hiện thực, bởi chủ nhân của ý tưởng đó không đủ quyết tâm, tự tin.
16 lời khuyên – có thể xem là những bí quyết quyết khởi nghiệp của các doanh nhân thành đạt – sau đây sẽ tiếp thêm động lực để bạn bắt tay vào xây dựng sự nghiệp cho riêng mình.
1. Làm sao để bạn leo lên ngọn núi quan trọng hơn là việc lên đến đỉnh. (Yvon Chouinard, nhà sáng lập Patagonia)
2. Tôi không quan tâm bạn thành công hay thất bại, bạn là Bill Gates hay một doanh nhân chưa ai biết đến. Sự khác biệt của bạn chính là bạn đã dám mạo hiểm, chống lại bất cứ ai đang cố giữ bạn trong những suy nghĩ cũ kỹ, không để bạn tìm ra ý tưởng hay bắt tay làm một điều gì đó mới mẻ. (Chris Dixon, đồng sáng lập Hunch)
3. Hãy giữ vững lập trường để không bị cuốn theo bất cứ quy tắc hay hệ thống nào ngăn cản bạn khám phá ra những thế mạnh và sở trường của mình. (Ishita Gupta, người sáng lập tạp chí Fear.less)
4. Khi khởi nghiệp, người ta thường phân tích nhiều yếu tố, như thời cơ, tình hình tài chính… Những phân tích nhiều khi hơi thái quá. Đôi khi, bạn chỉ cần làm những gì bạn nghĩ, vì quá chần chừ sẽ đánh mất cơ hội. (Michelle Zatly, đồng sang lập CloudFlare)
5. Tôi ước gì tôi đã đọc sách nhiều hơn và cân nhắc những ưu và khuyết điểm của các triết lý khác nhau thay vì chỉ nhảy vào làm những gì tôi nghĩ là hợp lý về mặt đạo đức và tài chính. (Jason Cohen, nhà sáng lập phần mềm SmartBear)
6. Hãy trở nên thực sự tốt. Không một nỗ lực marketing hay truyền thông xã hội nào có thể thay thế được điều đó. (Anthony Volodkin, nhà sáng lập The Hype Machine)
7. Không có gì lãng mạn hơn cảm giác được trở thành một doanh nhân. Đó là một cuộc đấu tranh để “gìn giữ” sự sống cho công ty bạn, giống như bạn chăm sóc làn da của mình mỗi ngày. (Spencer Fry, nhà sáng lập CarbonMade)
8. Bạn chỉ cần chú ý quan sát nhu cầu của mọi người và những điều họ chưa làm được. (Russell Simmons, nhà sáng lập Def Jam)
9. Nhìn từ nhiều khía cạnh, tiền bạc không thể giúp bạn sáng tạo nhưng nó chắp cánh cho những ước mơ, ý tưởng và là phương tiện để giúp bạn đạt được những mục tiêu đã đề ra. (Travis Kalanick, nhà sáng lập Red Swoosh và đồng sáng lập Uber).
10. Tự hỏi xem khách hàng của bạn muốn gì. Hãy hỏi. Đừng nói. (Lisa Stone, đồng sáng lập và giám đốc điều hành của BlogHer)
11. Hãy chia sẻ và trao đổi thật cởi mở với mọi người về ý tưởng của bạn. Nếu mọi người thờ ơ và hoài nghi bạn, hãy tận dụng điều đó như một động lực thúc đẩy bạn sớm thực hiện các ý tưởng của mình. (Todd Garland, nhà sáng lập BuySellAds)
12. Tránh xa những người khiến bạn nhụt chí. Chỉ có những người thiếu tầm nhìn mới làm điều đó, trong khi, những người giỏi sẽ luôn mang đến cho bạn niềm tin rằng bạn có thể trở nên vĩ đại như họ. (Erica Nicole, nhà sáng lập tạp chí YFS)
13. Nghĩ lớn thôi chưa đủ, mà còn phải táo bạo. Ngay cả khi những người xung quanh cho rằng những ý tưởng thật hoang đường, bạn cũng đừng bao giờ từ bỏ sự táo bạo và khác biệt. (Josh James, nhà sáng lập Domo and Omniture)
14. “Hãy Kiên nhẫn, nỗ lực cùng với một chút sợ hãi”, Jack Nickell – đồng sáng lập Threadless mô tả cảm giác khi bắt đầu thành lập một công ty.
15. Bạn phải sẵn sàng cho công việc khó khăn và chi tiêu tiết kiệm để biến những ý tưởng trở thành hiện thực. (Garrett Camp, đồng sáng lập Uber và là nhà sáng lập của Stumbleupon and Expa)
16. Bạn sẽ học được nhiều điều bằng việc đương đầu với những thứ không mong muốn trong công việc. Tôi đã biết nhờ đến sự giúp đỡ từ người khác khi công việc làm tôi quá mệt mỏi. Và điều duy nhất tôi có thể khuyên bạn là tiếp nhận sự giúp đỡ trên phương diện thực tế để tiếp tục khởi nghiệp. Bạn không thể làm mọi thứ một mình. (Catharina Bruns, nhà sáng lập WorkisNotaJob).
THUÝ HUỲNH
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lật tẩy chiến lược dài hạn của TQ ở Biển Đông

Binh pháp Tôn Tử từng nêu, “Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt” hay “Thượng sách bao gồm cả việc triệt hạ sự kháng cự của kẻ địch mà không cần đánh”. François-Xavier Bonnet, nhà địa lý kiêm chuyên gia nghiên cứu Đông Nam Á người Pháp, đã có bài viết lật tẩy việc áp dụng chiến lược này của TQ ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.


Những giây phút cân não của vị Tướng Cảnh sát biển
Nhiều tác giả viết về tuyên bố chủ quyền của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa đã ghi cuộc viễn chinh chính thức đầu tiên của TQ tới quần đảo này là vào năm 1902. Tuy nhiên, không ai trong số họ có thể trưng ra bất kỳ hồ sơ nào về việc cuộc viễn chinh đó đã diễn ra. Trong thực tế, các tài liệu của TQ cho thấy, cuộc viễn chinh như vậy chưa bao giờ xảy ra.
Thay vào đó, một cuộc thám hiểm bí mật diễn ra vài thập niên sau đó nhằm cài cắm bằng chứng khảo cổ giả mạo trên quần đảo, nhằm bênh vực tuyên bố chủ quyền của TQ. Chiến lược tương tự đã được áp dụng đối với quần đảo Trường Sa: các cột mốc đánh dấu chủ quyền năm 1946 thực tế đã được sắp đặt 10 năm sau đó, vào năm 1956.
Biển Đông, TQ, chủ quyền, Hoàng Sa, Trường Sa, François-Xavier Bonnet
Phân tích hình ảnh vệ tinh bãi Chữ Thập, quần đảo Trường Sa của VN, với các cầu cảng do TQ xây dựng phi pháp. Ảnh: Inquirer
Trong cuốn sách “Contest for the South China Sea” (tạm dịch: “Tranh chấp Biển Đông”) nổi tiếng của mình, giáo sư Marwyn Samuels đã quở trách các học giả phương Tây từng viết rằng, cuộc viễn chinh đầu tiên của TQ tới quần đảo Hoàng Sa diễn ra vào năm 1909. Thay vào đó, ông quả quyết, cuộc viễn chinh này diễn ra vào năm 1902.
Theo ông Samuels, chuyến đi thị sát đầu tiên như vậy do Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy và là nỗ lực đầu tiên của TQ nhằm thực thi công ước 1887 giữa Pháp và TQ, khẳng định các quyền của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.
Kể từ khi cuốn sách gây ảnh hưởng mạnh mẽ của Samuels được xuất bản, nó dường như đã trở thành thông lệ khi nhắc tới sự kiện “không thể tranh cãi” này trong các cuốn sách và bài báo liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, không có bất kỳ tác giả nào về sau có thể chứng minh được khẳng định ấy.
Các chiến dịch khảo cổ những năm 1970 và tuyên bố chính thức
Từ năm 1974 tới 1979, quân đội giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) và các nhà khảo cổ TQ đã tiến hành nhiều chuyến đi khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa. Trong số các hiện vật được phát hiện trong những chuyến đi này có nhiều đồ tạo tác bằng sứ thuộc nhiều thời kỳ khác nhau, các di tích đền thờ và nhiều cột mốc chủ quyền. Các cột mốc đề năm 1902, 1912 và 1921.
Năm 1973, một tạp chí ở Hong Kong có tên The Seventies cho đăng tải bức ảnh chụp một phiến đá đề năm 1902, được tìm thấy trên một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa. Báo The Hong Kong Standard đưa tin về các khám phá vào ngày 6/3/1979, trong một bài báo nhan đề “Phiến đá chứng minh các quyền cổ xưa”. Cả hai bài báo này, vốn đều cho đăng hình một phiến đá năm 1902, đã trở thành các nguồn cung cấp thông tin duy nhất về cuộc viễn chinh “không thể bàn cãi” vào năm 1902, cho các học giả như Hungdah Chiu và Choon-ho Park hay Marwyn Samuels vào năm 1982.
Trước năm 1979, không có học giả TQ hoặc phương Tây nào từng đề cập tới sự tồn tại của cuộc viễn chinh năm 1902. Chuyến đi chính thức duy nhất tới quần đảo Hoàng Sa được ghi chép vào biên niên sử nhà Thanh là cuộc thị sát do Đô đốc Lý Chuẩn đứng đầu, vào năm 1909.
Chuyến thám hiểm “ma” tới quần đảo Hoàng Sa
Có một lí do đơn giản khiến không học giả nào từng có thể tìm thấy bất kỳ tài liệu lịch sử nào về cuộc viễn chinh năm 1902: nó chưa bao giờ diễn ra. Thay vào đó, bằng chứng về cuộc viễn chinh năm 1902 đã được tạo dựng rất lâu sau đó, vào năm 1937.
Tháng 6/1937, tư lệnh vùng quân sự số 9 của TQ, Hoàng Cường, đã được cử đến quần đảo Hoàng Sa với 2 sứ mệnh: Trước hết là kiểm tra các báo cáo rằng quân Nhật đang xâm chiếm quần đảo và hai là tái khẳng định chủ quyền của TQ đối với quần đảo này. Theo các ghi chép về sứ mệnh của ông Cường đề ngày 31/7/1937, ông đã rời Quảng Đông vào ngày 19/6 và tới quần đảo Hoàng Sa vào ngày 23/6. Cùng ngày, ông thăm 4 hòn đảo thuộc nhóm đảo An Vĩnh (đảo Phú Lâm, đảo Đá, đảo Linh Châu và đảo Bắc) của quần đảo Hoàng Sa. Ngày tiếp theo, 24/6, ông rời tới đảo Hải Nam.
Sứ mệnh ngắn ngủi và tối mật này đã được các nhà sử học TQ Hàn Chấn Hoa, Lâm Kim Chi, Ngô Phương Bân kể lại chi tiết trong cuốn “Tài liệu biên soạn các tư liệu lịch sử về quần đảo Hoàng Sa của chúng ta ở Biển Đông”, xuất bản năm 1988. Tuy nhiên, nếu họ đã công bố báo cáo ngày 31/7/1937, họ đã quên, một cách vô tình hoặc hữu ý, công bố phụ lục của báo cáo này. May mắn là, phần phụ lục tối mật của báo cáo này đã được Ủy ban các địa danh của tỉnh Quảng Đông cho công bố năm 1987, trong một cuốn sách nhan đề “Tài liệu biên soạn về tên tham khảo của tất cả các hòn đảo của chúng ta ở Nam Hải”. Phụ lục này nêu chi tiết các hành động của ông Huang Qiang ở Hoàng Sa.
Trong phần phụ lục này, ông Cường giải thích rằng, như kế hoạch, thuyền của ông chở theo 30 cột mốc chủ quyền. Trong số chúng có 4 cột mốc đề thời nhà Thanh, số còn lại đề năm 1912 (thời điểm đánh dấu sự ra đời của Trung Hoa Dân quốc) và năm 1921. Tuy nhiên, ông Cường không mang theo cột mốc nào đề năm 1937, vì sứ mệnh này là tuyệt mật. Đoàn công tác của ông đã phát hiện 4 cột mốc từ thời nhà Thanh, đề năm 1902 ở thành phố Quảng Đông. Theo phụ lục báo cáo, đoàn công tác đã chôn những cột mốc này, đánh dấu tọa độ địa lý của chúng trên 4 hòn đảo thuộc cụm An Vĩnh.
Trên đảo Bắc, họ đã chôn 2 cột mốc đề năm 1902 và 4 cột mốc năm 1912. Trên đảo Linh Châu, đoàn đã chôn 1 cột mốc đề năm 1902, một cột mốc đề năm 1912 và một năm 1921. Trên đảo Phú Lâm, họ đã chôn 2 cột mốc đề năm 1921. Cuối cùng, trên đảo Đá, họ chôn một cột mốc đề năm 1912.
Nói tóm lại, chuyến đi năm 1937 đã cài cắm tổng cộng 12 cột mốc trên các hòn đảo, kể cả 3 cột mốc đề năm 1902. Chúng đã bị lãng quên trong giai đoạn từ năm 1937 tới năm 1979, nhưng sau đó “được phát hiện” trong các cuộc nghiên cứu của PLA và các chuyên gia khảo cổ học. Đây gần như chắc chắn là lời giải thích cho một câu bí ẩn trong cuốn sách của Samuels, khi ông viết rằng, các cột mốc năm 1902 được cho là đã bị mất tích trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Bí ẩn các cột mốc chủ quyền ở quần đảo Trường Sa
Hầu hết các cuốn sách, bài báo và tuyên bố chính thức đề cập tới việc TQ tái giành lại quần đảo Trường Sa từ tay Nhật năm 1946 và cài cắm các cột mốc chủ quyền lên nhiều hòn đảo. Câu chuyện này được tác giả Đài Loan Trương Chấn Quốc đề cập tới lần đầu tiên trong cuốn sách “Chuyến đi tới Nam Sa” của ông, viết năm 1957 nhưng mãi tới năm 1975 mới xuất bản.
Trương, người đứng đầu cuộc thám hiểm của Đài Loan tới quần đảo Trường Sa năm 1956 (đối đầu với doanh nhân Thomas Cloma của Philippines), đã viết rằng, trong cuộc viễn chinh năm 1946 dưới sự chỉ huy của Mạch Uẩn Du, lực lượng này đã nắm quyền kiểm soát 3 hòn đảo có tên đảo Taiping (đảo Ba Bình), Nam Wei (đảo Trường Sa) và Xi Yue (đảo Bến Lạc). Trên 3 hòn đảo này, đoàn của Mạch đã cắm các cột mốc chủ quyền đề năm 1946.
Tuy nhiên, khi cuốn sách của ông Trương được xuất bản năm 1975, chỉ huy Mạch vẫn còn sống và đọc nó. Đây quả thực là một cú sốc với ông. Trong thực tế, ông Mạch thừa nhận, mặc dù đoàn của mình đã tới đảo Ba Bình vào tháng 12/1946, phá hủy các cột mốc của Nhật và cắm 2 cột mốc chủ quyền (phía bắc và nam của đảo), nhưng họ chưa bao giờ tới đảo Trường Sa và đảo Bến Lạc.
Trong thực tế, theo các tài liệu chính thức, khi doanh nhân Thomas Cloma của Phillipines tuyên bố quyền sở hữu của ông đối với quần đảo Trường Sa (Freedomland) năm 1956, Đài Bắc cử quân tuần tra 3 lần tới quần đảo này (2 tàu tuần tra từ ngày 2 – 14/6, 3 tàu từ 29/6 – 22/7 và 2 tàu từ 24/9 – 5/10). Trong những cuộc tuần tra này, các binh lính đã làm lễ thượng cờ và dựng các cột mốc chủ quyền trên 3 đảo Ba Bình, Trường Sa và Bến Lạc. Tuy nhiên, cũng lại một trò bịp bợm, các cột mốc này đề năm 1946, nhưng được đưa tới Nam Sa cài cắm 10 năm sau đó, vào năm 1956.
Khảo cổ học và chủ nghĩa ái quốc: Sự lèo lái chính trị của các cột mốc chủ quyền
Liệu các chuyên gia khảo cổ học có thành thật khi phát hiện các cột mốc ở quần đảo Hoàng Sa? hay họ đã bị PLA, những người biết rõ câu chuyện, “đạo diễn”? Chúng ta không thể biết được. Tuy vậy, nếu chúng ta tính đến tình tiết quan trọng về quần đảo Trường Sa, chúng ta có thể thấy một chiến lược có hệ thống và tinh vi hơn nhằm thao túng các tài liệu.
Hai tình tiết quan trọng này cho thấy những hạn chế của việc dựa vào các hiện vật khảo cổ khi cố gắng giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Bất kỳ hiện vật nào cũng có thể chân thực (chẳng hạn như từ bảo tàng), nhưng được chôn xuống đất ở một thời điểm sau đó rất lâu. Trong cuộc chiến tâm lý về các quần đảo ở Biển Đông, trò bịp bợm này có thể đã được thực hiện. Các câu chuyện hoang đường đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Anh và tiếp cận độc giả quốc tế. Trong khi đó, có vẻ như chẳng có mấy nhà nghiên cứu biết tiếng Quan thoại và một nhóm chuyên gia TQ đã biết rõ những chuyện hoang đường này.
Tóm lại, tất cả ám chỉ, “khảo cổ học ái quốc” có nhiều kẽ hở và rằng, các chuyên gia cần phải thận trọng cảnh giác trước khi dựa vào chúng để thông qua phán quyết về các tranh chấp lãnh thổ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phẹt tí cho vui!

BÀI CA PHÁ MẢ


Xứ sở chắt chiu từng giọt niềm tin
Đong đưa những số phận
Trận giả với hiện tại
Ăn mày ở tương lai

Quá khứ oai hùng sao lắm quái thai, 
Gióng giả, Sọ dừa, Cám bã...
Anh hùng là hình nộm
Thánh thần xương cốt nguyên phơi.

À ơi, lời ru còn bịa đặt
Hoa cải chẳng lên giời
Rau răm không ở lại
Sao chịu nhời đắng cay.

Khốn nạn trong cả cái bắt tay
Điếm trong từng nụ hôn lay động
Mộng một đêm trăng sao
Có lẽ nào...

Có lẽ nào em thành người xa lạ
Mãi đi tìm một nửa đời nhau
Ai đó nói thương đau
Là xạo...

Đêm lao xao
Đời thì thào
Bờ ao rả rích
Tiếc thay là tiếng...côn trùng.

Em ngửa cồn lên chơi vơi
Mặc mẹ đời khiếm nhã
Há há há thân ta vô ngã
Cồn đôi khi là chiếc...bích quy.

Âm thịnh ắt dương sẽ suy
Như thái cực, thái âm hâm hấp
Vũ trụ bị chập
Cả miền Nam mất điện bởi cây ngàn

Tất cả các gã say hay mang tiếng là gàn
Nhẽ di truyền tỉnh táo?
Nhiều vĩ nhân bố láo
Bảo điên...

Đêm nay thiếu tiền
Giotj diệu dính môi
Aí tình kêu ồi ồi
Được rồi...

Anh say cmnr. Máy phò, người phạch, cành cạch gõ dăm câu. Đcm mẹ cái cồn trâu.

À quên, đcm bọn con bò.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đông La oánh tiếp!

ĐÔNG LA
PHẠM ĐÌNH TRỌNG VỀ VỚI “Trính nghĩa Cuốc ra” CŨNG LẮM THÁC GHỀNH, VỰC XOÁY


Gần đây ông Phạm Đình Trọng có viết bài “Cần gọi đúng tên cuộc chiến này” nhân ngày 30-4 sắp tới.
Đất nước Việt Nam hiện có những chuyện quái đản. Nhà nước bỏ công, bỏ của lập ra một Hội Sử học, người ta còn cố gắn thêm hai chữ “khoa học” vào cho oai, rồi tạo ra bao tên này tuổi kia để hưởng danh, hưởng lợi, nhưng rồi họ chỉ bầy ra những trò ngược đời. Như ông GS Viện sĩ Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội, từng cho sự kiện lịch sử Lê Văn Tám đốt kho xăng chỉ là hư cấu; “Nhà Sử học” Dương Trung Quốc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội, cũng choHoàng Sa thuộc “đất” của VNCH theo Hiệp Định Hiệp định Genève1954! Rồi cả Hội còn đưa ra công cuộc “đổi mới” đánh giá lại Triều Nguyễn để rồi suy tôn Nguyễn Ánh ngang với Vua Quang Trung Nguyễn Huệ nữa!
Nhưng dù vậy, các nhà “xử học” loại đó vẫn không đáng xách dép cho những nhà văn “đổi mới” ở Việt Nam. Những nhà văn như Dương Thu Hương, Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Quang Lập, Phạm Viết Đào, Võ Thị Hảo, v.v… còn ngang nhiên hung hãn công kích trực diện thể chế. Họ phủ nhận thành quả cách mạng, thẳng thừng bác bỏ, bôi đen từ nền tảng tư tưởng của chế độ cho đến lộn ngược các giá trị. Sau mấy chục năm giải phóng lại có không ít người bấu víu vào mọi cớ, tìm mọi cách chiêu hồi hồn ma chế độ Việt Nam Cộng hòa. Một trong những nhân vật như thế là Phạm Đình Trọng.
Phạm Đình Trọng là nhà văn trưởng thành trong quân đội, từng gây ồn ào với những chuyện như thư gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chuyện làm đơn xin ra khỏi Đảng và các bài viết với tinh thần sám hối, “nhận thức lại”! Như đã viết, bạn đọc của tôi có nhiều bộ đội, công an, tướng, tá đủ cả. Không ít lần mấy ông công an rủ đi uống cà phê nói “Sao anh không ‘đánh’ cho thằng cha Phạm Đình Trọng một trận?” Với tôi có cái sướng là làm chủ được cuộc sống của mình nên thích thì viết không thích thì thôi, không ai bắt buộc được. Biết Phạm Đình Trọng sai quá lẽ ra phải viết từ lâu nhưng rắc rối ở chỗ là lại có quen biết sơ sơ nên tôi chưa viết. Tôi vốn ở cùng khu tập thể của Viện Công nghiệp Dược với ông Nhà thơ Thái Thăng Long (vợ là trưởng phòng tổ chức viện), lại có chút ân tình, ân nghĩa. Ông Long tính quảng giao, gần như chơi hết với các ông văn chương cùng lứa, trong đó có Phạm Đình Trọng. Tôi đã có lần gặp ông Trọng là vì thế.
***
Trong bài “Cần gọi đúng tên cuộc chiến này” nhân ngày 30-4 sắp tới, Phạm Đình Trọng viết:
Suốt 40 nãm qua, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của ðảng CSVN (Cộng sản Việt Nam) cầm quyền ðã ngốn quá nhiều tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên ðất nước vào việc tự huyễn hoặc mình và lừa dối người dân về ngày 30 tháng tư nãm 1975, ngày huy hoàng ðại thắng, ngày vẻ vang thống nhất ðất nước.
Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất ðất nước”, “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người Việt”.
Nhưng ngay trong lá đơn xin ra khỏi Đảng, tức lúc đã phản tỉnh, Phạm Đình Trọng vẫn viết:
Sinh ra trong không khí sôi sục của cuộc cách mạng đã khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa những người cộng sản lên nắm chính quyền. Cuộc cách mạng ấy như cũng khai sinh ra thế hệ chúng tôi, một thế hệ của cách mạng, của nhà nước mới… Lí tưởng của những người Cộng sản ấy đã trở thành lí tưởng, thành lẽ sống của thế hệ chúng tôi. Cốt cách lương thiện và dũng cảm của những người Cộng sản ấy cũng là khuôn mẫu cho cốt cách của lứa chúng tôi.
Rời trường trung học vào bộ đội rồi đi vào cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược, chúng tôi lại gặp những người Cộng sản bằng xương bằng thịt vô cùng cao đẹp ở mọi nơi gian nan ác liệt. Máy bay Mĩ tập trung đánh hủy diệt một trận địa pháo cao xạ ở miền Tây Quảng Bình. Người Cộng sản trẻ tuổi Nguyễn Viết Xuân bị đạn bắn nát đùi vẫn bám thành công sự phất lá cờ đỏ dõng dạc chỉ huy: Nhằm thẳng quân thù, bắn! Với cuộc sống anh hùng đó, với lí tưởng đã có, chúng tôi trở thành người Cộng sản như là lẽ đương nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, đảng phát động đợt kết đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Ngay sau lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi viết đơn xin vào đảng. Lễ kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh đầu tiên của cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh Thông tin tổ chức đúng vào ngày 19. 5. 1970.
Con vào đảng vào ngày sinh của Bác
Mười chín, tháng năm, năm một ngàn chín trăm bảy mươi
Ba mươi tuổi Bác thành người Cộng sản
Để cho con hai mươi sáu tuổi được là đồng chí của Người”
Thơ tôi ghi nhận ngày tôi trở thành người Cộng sản”.
Như vậy thật là buồn cười ở chỗ khi đã quay mặt ông Trọng vẫn còn giữ cái thói khoe khoang, kể công. Nó làm hại ông ở chỗ đã chỉ ra những ý của ông viết hôm nay là ba xạo! Nhưng sao lại như thế? Nếu hiểu bản chất vấn đề sẽ thấy ông Trọng viết ngược lại điều đã viết chính là để bày tỏ lòng thành của mình đối với những “ông chủ” mới. Bởi đã có không ít những lời phỉ báng, diễu cợt từ phía mà ông muốn đến đầu thú, vì khi chiêu hồi, ông chưa khôn ngoan xóa hết dấu tích của sự thật nên mới còn viết như trong đơn xin ra Đảng nói trên.
***
 Lê Tùng Châu (trên www.vietlandnews.net/) trong bài “Phạm đình Trọng vẫn còn bị nhiễm độc dù đã trả thẻ đảng” viết:
Mấy ngày vừa qua, các trang báo Web có đăng bài của người cộng sản ly khai Phạm đình Trọng về VN sau khi đi Mỹ thăm con gái du học bên ấy. Phạm Đình Trọng còn là nhà văn. Bài ông viết có tựa: Đi xa nhìn về … Đọc bài này mới thấy dù đã ly khai đảng tội đồ CS, ông Trọng vẫn chưa thoát ra cơn nhiễm độc thấm vào nội tạng bao lâu...
Dưới đây, tôi chỉ "nhặt" ra một ít cái độc còn nhiễm:
Mĩ đổ quân vào miền Nam Việt Nam làm cho cuộc chiến tranh có sức giục giã, thôi thúc rất lớn đối với tuổi trẻ miền Bắc(trích…)
Chẳng đúng”;
Thế nhưng, vì thiếu thông tin - bị bưng bít, nên bao lớp trẻ miền bắc đã dễ dàng bị lừa, cho tới nay đã luống tuổi, vẫn chưa nguôi cơn bị nhồi sọ xưa, vẫn còn hoang tưởng quá đà!!! Thật thương thay!
Cũng chính ông Trọng đã nói chính quyền miền Nam “…là một nhà nước chỉ là công cụ của nước ngoài” hay “…lá cờ của quá khứ chia rẽ dân tộc, lá cờ vàng!” đã chứng tỏ ông chẳng biết gì hết. Ông nên bỏ ra 10 năm nữa mà tìm hiểu cuộc chiến quốc cộng VN 20 năm 1954-1975 đi! sẽ hết còn dám nói bậy như vậy nữa, tôi đoan chắc!... Chứ không phải nói hay nghĩ cho sướng miệng sướng cái tư tâm, hay tệ hơn, nói một cách vô trách nhiệm như thể khạc ra độc tố vì chưa thải hết những của nợ đã lỡ nhiễm độc từ trước.
Ông Phạm đình Trọng là một người đảng viên VC vẫn còn bị nhiễm độc dù đã trả thẻ đảng”.
danchimviet viết:
Đơn xin ra đảng của PĐT có người cho là can đảm như Bùi Tín, Tô Hải, những người khác cho là cuội, là giả, tùy quan điểm chánh trị mỗi người. Vấn đề là những sự kiện quan trọng mà PĐT đưa ra và bênh vực thì không phải là sự thật! Phạm Đình Trọng viết: “Chiến thắng năm 1975 không phải là chiến thắng của miền Bắc với miền Nam mà là chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam”. Khi viết như vậy, PĐT đã phủ nhận Việt Nam Cộng Hòa, phủ nhận Hiệp định Genève năm 1954, phủ nhận công pháp quốc tế. Nhưng Phạm Đình Trọng gian mà không ngoan nên giấu đầu thì lòi đuôi với câu “đẩy hàng vạn người đã tham gia chánh quyền cũ vào những trại cải tạo”. Khi nói tới chánh quyền là nói tới quốc gia mà chánh quyền đó đại diện! Với thâm ý, PĐT lập lờ nói hàng vạn người mà không nói rõ là những sĩ quan, binh lính và viên chức VNCH. Phạm Đình Trọng nói chiến thắng năm 1975 là chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam thì tại sao sau chiến thắng đó thì hàng trăm ngàn (chớ không phải hàng vạn) người bị đi tù, vợ con họ bị đày đi “kinh tế mới”, nhà cửa, tài sản bị tịch thu? Họ là nhân dân miền Nam, là một thành phần của cả dân tộc chiến thắng. Vậy thì tội ác này ai gây ra cho họ? Đó chính là kẻ thù Cộng sản mà Phạm Đình Trọng là một…
Tại sao Phạm Đình Trọng chỉ là một đảng viên bình thường, lại lộng ngôn quá đỗi? Phạm Đình Trọng lếu láo trong nội bộ đảng thì được, sao lại nói điều này với người Việt hải ngọai?
Không có gì phi lý và dối trá cho bằng bản thân mình muốn thoát ra khỏi đảng nhưng lại muốn nó tiếp tục đè đầu cỡi cổ nhân dân”.
... bọn việt-gian-cộng-sản cứ mỗi ngày chúng lại đẻ thêm ra những tên «phản tỉnh – trả thẻ đảng». Và cho đến hôm nay, thì đã có thêm những thằng hèn Tô Hải, Phạm Đình Trọng, đã và đang được cả bọn phản tỉnh cuội và lũ tay sai của việt-gan-cộng-sản cùng nhau mặc áo thụng để vái nhau, qua những thư ngỏ, bài viết trên các trang mạng toàn cầu.
Một «tên tuổi» đang được nói đến nhiều nhất ở trong thời điểm này là Phạm Đình Trọng. Vậy, xin mọi người hãy suy gẫm về những lời của chính Phạm Đình Trọng theo sự hiểu biết của một phụ nữ yếu kém như tôi...
Trước hết, tôi xin trích đoạn những lời của Phạm Đình Trọng đã viết như sau:
Chiến thắng năm 1975 không phải là chiến thắng ý thức hệ cộng sản mà là chiến thắng của ý chí dân tộc Việt Nam ...
Do đó, không còn từ ngữ nào khác hơn, để gọi Phạm Đình Trọng là một trong những tên việt-gian-cộng-sản lưu manh và láo khoét nhất  ;
Chính vì thế, nên chúng ta hãy cùng nhau cảnh giác tối đa, đối với những tên việt-gian-cộng-sản... lừa bịp tất cả chúng ta, ở trong cũng như ngoài nước... Vậy, để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra, thì chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng để cảnh báo cho nhau, mỗi khi nhận biết bất cứ một tên giặc nào khi chúng chỉ vừa xuất hiện, để cùng nhau có biện pháp ngăn chận kịp thời, chứ không thể để cho bọn chúng tìm cách mà đi vào tận «căn nhà» của chúng ta, để chúng ta khỏi phải chết một cách oan uổng, vì chính mình đã rước giặc vào nhà”.
Đọc những lời lẽ cay cú, hằn học của những người thuộc chế độ cũ tôi thấy hoàn hoàn bình thường bởi cần phải thông cảm vì họ là dân “mất nước”. Họ chỉ là những chúng sinh lặn ngụp trong cơm áo gạo tiền, tầm nhìn của họ chỉ thấy được cuộc sống của mình và quanh mình nên họ đã không hiểu biết lịch sử một cách sâu sắc và toàn diện. Họ không biết từ khi Vua Thành Thái, Duy Tân bị Pháp bắt đi đầy, con cháu chắt chít của các ngài giờ toàn nói tiếng Tây, lai Tây, thì họ chẳng còn có cái nước nào để mà bị mất cả. Nếu hiểu được vậy thì họ mới hiểu tại sao đến ông Nguyễn Cao Kỳ cũng lại bảo chế độ VNCH chỉ là bù nhìn, mới thấy những miếng ăn sung sướng mà họ từng được hưởng là có dính máu, như Frances Fitgerald đã viết về “cái Thành phố Sài-Gòn”: “ đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương” (fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West).
 Như vậy hóa ra con đường trở về với “Trính nghĩa Cuốc ra” của ông Nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng (xin đừng nhầm với một ông Đại tá Nhà báo khác cũng tên là Phạm Đình Trọng) không phải là xuôi chèo mát mái mà cũng lắm thác ghềnh, vực xoáy; người ta đã không chỉ mang hoa thơm trái ngọt chào đón ông mà còn có cả cà chua và trứng thối; thành ra cái việc chiêu hồi của ông vừa thảm hại lại vừa buồn cười!
***
Tôi đã gặp Phạm Đình Trọng vài lần ở nhà anh Thái Thăng Long từ hồi ông còn ốm o gầy còm, không phải là tác giả để tôi chú ý nên ấn tượng duy nhất còn lại trong tôi là một gương mặt có nét u tối. Ông Trọng chắc cũng không nhớ vì giới nhà văn có tật khinh người. Cái tôi của họ rất cao, luôn “văn mình vợ người”, tuổi tác cũng là cái để họ xác lập vị thế đối với người khác. Chính vậy tôi đã “chối tỉ” không ít khi bị gặp những loại nhà văn dở ông, dở thằng đó. Chỉ những nhà văn lớn họ mới đủ thông thái nhận ra tài năng còn tiềm ẩn của những người mới viết. Đến F.Dostoevsky cũng phải cần đến sự phát hiện của nhà thơ Nekrasov và nhà phê bình Belinsky. Tài năng của Dostoevsky đã đúng như tiên đoán của Belinsky, rằng ông sẽ thành một trong những nhà văn Nga vĩ đại nhất. Còn tôi cũng có may mắn được gặp Nhà thơ Chế Lan Viên và được ông quý mến, nâng đỡ. Chính anh Thái Thăng Long khi làm đơn xin vào Hội Nhà Văn VN cũng từng nhờ tôi dẫn đến nhà Chế Lan Viên, dù chắc chắn anh làm ở nhà xuất bản cũng phải quen biết “cụ Chế”. Còn ông Trọng hồi gặp tôi có biết tôi hay không thì tôi cũng không biết. Ông ít nói, tôi cũng ít nói nên chưa nói với nhau câu nào. Mãi sau này, một lần chuông điện thoại reo, tôi đã quá ngạc nhiên khi thấy người gọi là Phạm Đình Trọng. Tôi nghe thì biết là ông ấy tỏ ý đồng tình với tôi trong vụ tôi và ông Triệu Xuân xung khắc với nhau. Tất nhiên là tôi mừng vì có người đồng tình nhưng tôi vẫn lờ mờ nhận ra có một nét đố kỵ gì đó trong tính nết của “cái nhà ông Trọng này” với những người có chút thành đạt như “cái nhà ông Triệu Xuân kia”. Đến khi đọc lá đơn xin ra khỏi Đảng của ông Trọng thì thấy cái nét đó đúng là rõ ràng hơn. Ông trình bầy “LÍ TRÍ CHO TÔI NHẬN THỨC LẠI” đã xuất phát từ chính cái chuyện ông bất bình với “ông Phó tổng biên tập Đào Ngọc Hùng đã đưa một người bị đào thải ở nơi khác và không viết nổi một mẩu tin lên trưởng chi nhánh phía Nam Thời báo Tài chính Việt Nam” rồi họ còn vội vã, độc đoán chuyển tôi về sinh hoạt đảng tạm tại nơi cư trú”. Bất bình với chuyện sai trái là đúng nhưng từ chuyện của một cơ quan ông lại phóng to tướng lên rồi còn quàng xiên sang những chuyện lớn lao khác, cho tổ chức Đảng mà ông từng thề nguyện xin vô là như thế này: “Vì tín điều Cộng sản, vất bỏ lợi ích dân tộc”; “Đưa giai cấp lên trên dân tộc làm cho dân tộc tan rã, li tán, suy yếu”.
Điều này dù tôi hoàn toàn không được hưởng một chút gì bổng lộc của Đảng, của chế độ nhưng tôi vẫn thấy hoàn toàn là sai trái . Bởi thành quả lớn nhất mà sự lãnh đạo của Đảng mang lại cho Đất Nước, cho Dân Tộc chính là hòa bình, độc lập, dân chủ; không chỉ “giai cấp” được hưởng mà toàn dân VN được hưởng, kể cả những người thuộc chế độ cũ. Tôi là chứng nhân vì gia đình vợ tôi là như vậy. Ông chú ruột vợ tôi còn là cha tuyên úy từng bị tù 13 năm nhưng cuối đời ông vẫn được làm cha sở Nhà thờ Chí Hòa. Một đứa em ruột vợ tôi giờ cũng là linh mục, còn hai đứa khác làm ngành điện lực lương rất cao, có tết tiền thưởng cả trăm triệu. Nghĩa là chúng nó được hưởng “lộc” của nhà nước hơn tôi rất nhiều, một “chiến sĩ giải phóng”. Đến thế hệ con cháu thì đứa du học Mỹ, đứa du học Đức, đứa Sinh-ga-po. Nghĩa là phúc đức ai thế nào thì được hưởng thế nấy, không nhà nước nào cấm người ta làm ăn, mưu cầu hạnh phúc cả. Ngay ông Trọng cũng khoe con được du học Mỹ kia mà! Còn chuyện cải tạo cải tiếc sau giải phóng thì cần phải hiểu là chế độ nào muốn đứng vững cũng cần phải có sự chuyên chính, công tội phải phân minh, nếu không sẽ lại là nội chiến, là nồi da xáo thịt, không thể giữ được sự ổn định cho đến hôm nay. Còn những chuyện tệ nạn, bất công thì đến ngay nước Mỹ giàu có, văn minh là thế cũng còn có không ít. Vì vậy không nên phóng đại!
Cũng cần phải hiểu nước ta là một nước còn yếu kém, không chỉ về khoa học công nghệ mà còn cả về chính trị, tức khả năng quản trị xã hội. “Quả báo” chính là cái “lỗi hệ thống” mà các nhà nghiên cứu, kể cả các nhà lãnh đạo thường nói đến. Đó chính là những yếu kém, tệ nạn, bất công, sai trái của xã hội hiện thời. Chúng được hình thành do sự tích tụ từ lỗi quản trị xã hội trong nhiều năm, bây giờ không dễ một sớm, một chiều xóa bỏ được. Cái bây giờ cần là từng bước chẩn bệnh, trị bệnh; điều này chắc chắn sẽ là tốt hơn ngàn lần sự đập bỏ, rồi mơ mộng hão huyền xây “lâu đài trên cát”; những tấm gương tầy liếp như Irắc, Lybi, Xyri, Ucraina… còn đang hiển hiện trước mắt chúng ta. Bản thân tôi đây từng là nạn nhân của những gì còn yếu kém đó, đó chính là tính cục bộ Bắc-Nam, là băng nhóm, phe cánh, là thói nịnh hót, xúc xiểm. Cần phải đấu tranh vì không có pháp luật nào dung túng những chuyện đó, còn chưa có điều kiện đấu tranh thì hãy tạm chấp nhận. Nhưng không vì thế mà nhìn cuộc sống toàn mầu đen cả, kể cả những điều cao cả, thiêng liêng mình từng tôn thờ. Ai cũng được hưởng cuộc sống thanh bình, chính sách của nhà nước cũng đã mở ra nhiều hướng đi cho tất cả mọi người. Nếu anh có khả năng thực sự thì không cứ làm công chức, quyền cao, chức trọng mới là thành đạt, mới là sung sướng. Tôi đã là như thế. Chứ không phải như nhiều người vì bất tài, như con bê trông mong duy nhất vào bầu sữa nhà nước, rồi trong cuộc tranh đoạt bú nhiều, bú ít, thấy thiệt thòi đã quay lưng cắn cả mẹ bò, cắn cả chủ (thuyết)! Như tôi đã viết trong bài Chế Lan Viên-trong hồi quang của ký ứcTrong cuộc tranh đoạt ấy, tất có người thành công, kẻ thất bại; và người thành công sẽ hể hả, còn người thất bại sẽ cay cú. Có nhiều sự cay cú, bản chất là tầm thường, nhưng sau này lại được sơn phết một cách có chủ ý một lớp sơn sang trọng là:đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ.
***
Như vậy chính sự bất mãn đã trở thành khối u ác tính trong não những người như ông Phạm Đình Trọng, đã gây ra cái hiện tượng “đấu tranh rân trủ” của mấy ông “chấy thức, rận sĩ, nhà văng, nhà láo” trong những ngày hôm nay. Quái đản ở chỗ là nó lại có cái “hay” có thể trở thành một cái nghề kiếm “đô” và kiếm “danh” được. Nên xem chừng nó còn phát triển, còn làm “mấy bố” công an mệt!
Viết nhân 40 năm Ngày Giải phóng 30-4
27-4-2015
ĐÔNG LA

Phần nhận xét hiển thị trên trang