Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

Mikhail Gorbachev sẽ được nhớ đến như một vĩ nhân chính vì thất bại của ông.


 Mikhail Gorbachev

Gorbachev: Anh hùng bất đắc dĩ


NVTPHCM- Hai mươi năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Mikhail Gorbachev được phương Tây âm thầm ca ngợi, nhưng lại bị phớt lờ ở Moscow. Tuy nhiên ở cả hai nơi này, danh tiếng của ông đều dựa trên việc cải tổ thất bại một hệ thống đang hấp hối mà ông ta từng đặt trọn niềm tin.

Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên cách đây không lâu, Mikhai Gorbachev hồi tưởng lại những năm tháng của ông trên đỉnh cao quyền lực ở Liên Xô. Khi đã vào luồng vấn đề thì thường rất khó để ngắt lời ông. Nhưng lần này thì ông lại ngập ngừng, im lặng trong một lúc lâu và nhìn chằm chằm vào người phỏng vấn một cách khó chịu với cặp mắt soi mói. “Anh biết không, bây giờ tôi có thể vẫn đang ở đó, trong điện Kremlin”, ông nói. “Nếu tôi bị thôi thúc chỉ vì quyền lực cá nhân, có lẽ tôi vẫn còn sở hữu nó… Nếu trước đây đơn giản tôi chẳng làm gì cả, chẳng thay đổi gì ở Liên Xô trong tình trạng thời đó, chỉ ngồi yên và tiếp tục như trước, thì ai biết được…”. Rồi ông phá lên cười. Nếu ông cảm thấy chua xót, ông đã che dấu điều này khá tốt.

Đây thường một phần là do sự tự ảo tưởng của những nhà lãnh đạo đã về hưu, bị đánh bại, hay bị phế truất. Nhưng ở Gorbachev còn có một điều sâu thẳm hơn, và đặc biệt là rất có liên quan trong năm nay – kỷ niệm lần thứ 20 sự kiện năm 1989[1] , năm bắt đầu dẫn tới sự kết thúc quyền hành của ông. Ngay cả khi hồi tưởng lại, thật khó để tin là đế chế Xô-viết – một người khổng lồ mà hai thế hệ người dân phương Tây phải nể sợ – lại biến mất trong thoáng chốc. Những nhà phân tích từng nghĩ rằng Liên Xô có thể tiếp tục ì ạch tồn tại trong vài thập niên nữa, cố gắng rồi thất bại trong việc cải tổ nền cộng sản (nhưng sẽ không sụp đổ ngay): một xứ Thượng Volta[2] có hạt nhân, nhưng không phải là một cường quốc đáng gờm nữa.

Gorbachev trông vẫn khỏe mạnh ở tuổi 78, độ tuổi mà đa số những người tiền nhiệm của ông được cho là vẫn đang ở thời đỉnh cao quyền lực. Trong những năm 1980, Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Liên Xô có thể gần như nắm trọn quyền lực độc tài nếu ông ta muốn. Gorbachev đã có thể nắm vững quyền lực và tiến hành những thay đổi lặt vặt. Ông có thể đã đưa ra những cải tổ nhỏ cho hệ thống vốn hầu như không có thay đổi gì từ thời Stalin và không mạo hiểm đối với vị trí của các nước thuộc Hiệp ước Warsaw ở Trung và Đông Âu. Nhưng ông lại tham vọng nhiều hơn thế. Mục tiêu của ông là cứu vãn và phục hưng chủ nghĩa cộng sản – chủ nghĩa cộng sản “chân chính” của những nhà khởi lập cho đức tin mà ông tin tưởng đó. Cũng với nhiệt huyết đó, ông tin tưởng vào đất nước mình – không phải Nga, mà là Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết. Nhưng chính Gorbachev hơn ai khác đã là người khai tử chủ nghĩa cộng sản.

Thay vì điều hành từ Phòng Óc chó (Walnut Room)[3] ở điện Kremlin như một phần trong ông vẫn tin là mình có thể tiếp tục làm được như vậy, thì giờ đây Gorbachev đi khắp nơi hăng say không nghỉ, và đương nhiên ông vẫn bận com-lê của Louis Vuitton, thứ ông giúp quảng cáo khắp thế giới. Ông kiếm được những khoản kếch sù từ các buổi nói chuyện vòng quanh thế giới, và còn nhiều những thứ bên lề khác. Mới tháng 6 vừa rồi ông đã ghi âm một vài bài dân ca mình thích nhất rồi dành số tiền lớn thu được cho từ thiện. Đúng ra ông sống ở Moscow, nhưng ông dành rất ít thời gian ở Nga. Bạn bè thân nhất của ông là những ông trùm tỉ phú, những người tài trợ cho hai Quỹ Gorbachev, một nhằm lưu giữ những tư liệu của ông, và một để giúp chống bệnh ung thư trẻ em, được lập ra để tưởng nhớ người vợ quá cố Raisa của ông. Ông gần như là một nhân vật bị phớt lờ ở Nga, mặc dù ông có phần hùn trong một tờ báo của Moscow với một trong những người ủng hộ giàu có – cựu nhân viên KGB Alexander Lebedev – người mới đây đã làm cho truyền thông dậy sóng khi mua lại tòa báo Evening Standard.

Khi Gorbachev được nhớ đến ở quê nhà, ông thường bị chỉ trích vì là người đã làm tan vỡ một đế chế mà chẳng cần có cuộc chiến nào, và làm cho nền kinh tế sụp đổ khi liên bang tan rã vào năm 1991. Đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc xung quanh Vladimir Putin, đây là một thảm họa nhục nhã mà Gorbachev là người trực tiếp chịu trách nhiệm. Và nước Nga giờ đây mới chỉ phục hồi lại từ thảm họa đó. Trong những sách giáo khoa mới, Gorbachev hiếm khi được nhắc đến, hoặc chỉ xuất hiện một cách chẳng hay ho gì ở dòng chú thích cuối trang, trong khi Stalin được ca ngợi là một “nhà lãnh đạo Nga vĩ đại” (mặc dù ông là người Gruzia).

Ở ngoài nước Nga, lịch sử sẽ tử tế hơn. Gorbachev sẽ được nhớ đến như một nhân vật đi đầu trong cuộc giải phóng một phần ba châu Âu khỏi sự chiếm đóng quân sự và chủ nghĩa toàn trị, một trong những nhân vật chính yếu của những tuần lễ rối ren trong cuộc cách mạng năm 1989, cũng như vì vai trò của ông trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh. Hơn nữa, những năm cuối dưới quyền cai trị của ông và vài năm đầu dưới quyền của người kế nhiệm Boris Yeltsin có thể được xem như là một giai đoạn tự do ngắn ngủi và thanh bình ở Nga.
***

Dĩ nhiên Gorbachev không có ý định gây ra những điều này. Ông được chọn lựa bởi một nhóm 18 ông trùm cộng sản già nua phần lớn là vì ông còn khá trẻ, có sức sống và sự hấp dẫn. Đã có 3 đám tang của các lãnh đạo Liên Xô diễn ra trong vòng 2 năm rưỡi trước khi Gorbachev được chọn vào ngày 10/3/1985. Leonid Brezhnev nắm quyền trong vòng 20 năm và đã trở thành tên gọi để chỉ thứ mà ngay cả những người phụ tá của ông khi nói chuyện riêng đã gọi là “thời đại trì trệ”. Trong những năm cuối cùng của mình, Brezhnev đã quá yếu đến nỗi phải được đưa lên Lăng Lenin bằng một cái thang cuốn trong những buổi diễu hành ở Quảng trường Đỏ.

Yuri Andropov thì mắc bệnh nan y khi ông nhậm chức. Trong gần hết 13 tháng cầm quyền, ông đã điều hành đất nước trên giường bệnh. Konstantin Chernenko, người đã từng có nhiệm vụ chính trong chính phủ là châm thuốc cho người bạn thân nhất của mình là Brezhnev, trở thành người thay thế đầy bệnh tật ở độ tuổi 70. Sự già yếu của ông ta tượng trưng cho tình trạng đất nước bấy giờ.

Những người đứng đầu đảng hồi năm 1985 hẳn đã từng muốn chọn một trong số những người đồng chí cao niên của mình.  Nhưng không có ứng cử viên nào phù hợp, và ngay cả họ cũng từng nghe những câu chuyện châm biếm lan truyền cả nước – “Các đồng chí, chúng ta sẽ bắt đầu đại hội theo cách truyền thống – bằng việc khiêng đồng chí tổng bí thư vào”. Sự lựa chọn Gorbachev được ấn định bởi Andrei Gromyko, một ngoại trưởng cứng rắn, có vẻ mặt trông nghiêm nghị, và qua bốn thập kỷ đã được xem là “Mr. Nyet” (Ngài nói Không) của ngoại giao Nga. Ông đảm bảo với các đồng sự rằng Gorbachev, thành viên Bộ Chính trị trẻ nhất ở tuổi 54, là người theo khuôn khổ của họ, nhưng có nhiệt huyết để phục hồi danh tiếng của Liên Xô.

Họ chọn Gorbachev không phải vì việc vài tháng trước đó Margaret Thatcher từng nói bà có thể làm việc được với ông ta. Họ chọn vì nghĩ rằng ông có năng lượng để hồi sinh một hệ thống Liên Xô đã cũ nát. Gromyko nói rằng Gorbachev tin vào sự cần thiết của một nền quốc phòng mạnh và việc duy trì đế chế châu Âu của Liên Xô. Ông kết luận: “Anh ta có một nụ cười đẹp. Nhưng thưa các đồng chí, Mikhail Sergeyevich (tức Gorbachev) có hàm răng thép.”

Ông dường như mang tới một làn gió mới, ngay cả ở Washington. Jack Matlock, cố vấn chính cho Ronald Reagan về vấn đề Liên Xô ở Cục An ninh Quốc gia (NSA), và không lâu sau được bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Moscow, cũng chia sẻ niềm hứng khởi ban đầu. “Ở cả trong và ngoài nước, ai nấy cũng mệt mỏi khi chứng kiến đế chế Xô-viết loạng choạng dưới tay những kẻ yếu ớt bất tài”, ông nói. “Gorbachev đi lại, nói chuyện, bộ com-lê của ông ta vừa vặn…thế nên ông ta làm cả thế giới ngỡ ngàng”.

Gorbachev là lãnh đạo Liên Xô đầu tiên được sinh ra sau Cách mạng tháng 10. Câu chuyện của ông là đặc trưng của một chú bé nhà nông đến từ vùng nông thôn của Liên Xô dưới thời Stalin. Vùng Bắc Caucasus quê ông chịu thiệt hại khủng khiếp từ những nạn đói do con người gây ra trong những năm 1930. Gorbachev sau đó từng nhắc lại việc ông đã chứng kiến những người hàng xóm chết đói như thế nào. Ban đầu ông được bảo vệ khỏi những điều tồi tệ nhất: ông ngoại của ông, một người cộng sản thời kỳ đầu, đứng đầu một trang trại tập thể ở địa phương. Nhưng sau cuộc thanh trừng của Stalin năm 1937, ông ngoại ông đã bị bắt với tội “thành phần Trotskyist phản cách mạng hữu khuynh”. Trong vòng 14 tháng sau đó, gia đình ông trở thành những người ngoài rìa xã hội cho đến khi ông ngoại ông được thả ra tù.

Gorbachev đã học cách thích ứng. Ông trở thành đảng viên – và đảng cho ông mọi thứ. Khi ông dần thăng tiến, ông không hề tỏ ra có dấu hiệu nào đi ngược với đường lối chính thống. Ông nổi tiếng là một người chuyên bợ đỡ trong một bộ máy quan liêu mà ở đó sự nhún nhường lót đường cho mọi thứ. Gorbachev sau đó nói rằng: “Tất cả chúng tôi đều liếm đ*t Brezhnev, tất cả chúng tôi”. Chỉ đến lúc vào được Bộ Chính trị thì ông mới cho phép mình thể hiện ra một trong những tính cách khác thân thiện hơn, đó là tính hài hước. Lúc riêng tư thì ông thể hiện là một người giỏi sưu tầm và kể các câu chuyện hài cộng sản, và thậm chí tự nghĩ ra một vài câu chuyện của riêng mình.

Ngoài việc kể chuyện hài, Gorbachev còn khiến những cộng sự của mình ngạc nhiên bởi niềm tin chân thành của ông vào chủ nghĩa xã hội. Khi ấy sự hoài nghi đã ăn sâu vào hồn cốt của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô đến nỗi mà chỉ có vài người trong hệ thống thực sự tin tưởng vào hệ tư tưởng đó. Gorbachev tin là Lenin đã vạch ra con đường, và phận sự của ông là hướng Liên Xô quay lại con đường đó sau “khúc cua sai lầm” của Stalin. Ông thường nhắc đến Lenin như một “thiên tài đặc biệt” và đọc các tác phẩm của Lenin đều đặn ngay cả trong những ngày cuối của mình ở điện Kremlin.

Nhà ngoại giao Sergei Tarasenko, người làm việc cận kề với Gorbachev, nói rằng hầu hết đảng viên (apparatchiks) trong toàn bộ đế chế chỉ nói ngoài miệng về những lời giáo huấn như thế: “Việc có sách của Lenin trong thư viện là điều đúng đắn về mặt chính trị. Nếu anh phải viết một bài nói chuyện mà anh muốn tìm một trích dẫn của Lenin thì cứ lật sang phần mục lục”. Gorbachev là người hiếm hoi, một tín đồ thật sự nghĩ rằng (những tư tưởng của) người sáng lập Liên bang Xô-viết vẫn còn đặc biệt phù hợp với vị trị ông đang nắm giữ, mãi tận 70 năm sau.

Chính vào một buổi “vi hành” diễn ra ở Leningrad vào tháng 5/1989, khoảng 2 tháng sau khi nhậm chức, thì hai cụm từ được gắn liền mãi mãi với kỷ nguyên của Gorbachev mới bắt đầu gia nhập vào từ điển các thuật ngữ chính trị. Cải tổ (perestroika) và công khai hóa (glasnost) trở thành những thuật ngữ toàn cầu, nhưng trong tiếng Nga thì chúng có những định nghĩa riêng. Khi Gorbachev dùng những từ này thì chúng có ý nghĩa đúng như những gì ông muốn.

Trong thời gian đầu, perestroika – “cải tổ” – nghĩa là một quá trình cải cách khiêm tốn để cải thiện kỷ luật nơi làm việc. Gorbachev đưa ra hàng loạt những biện pháp năng động để cho phép các công ty thể hiện tính chủ động cao hơn và đưa ra vài thay đổi trong việc phân phối sản phẩm. Ông đã sa thải hàng tá thân hữu của Brezhnev và những quan chức tham những “thời kỳ đình đốn”. Ông cũng từng bước đưa một ít quy tắc dân chủ vào hệ thống bằng cách tái sắp xếp các danh sách bầu cử, nhưng vẫn trong hệ thống nhà nước một đảng. Nhưng không biện pháp nào trong số này mang tính cách mạng. Ông không hề có ý định bãi bỏ quản lý tập trung, áp dụng nền kinh tế thị trường, tự do hóa giá cả và tiền lương, hay là bãi bỏ quyền lực độc tôn của những người cộng sản.

Tuy nhiên, sau 4 năm cầm quyền ông cũng đã có một bước đi cấp tiến: ông cho phép bầu cử đối với Đại hội Đại biểu Nhân dân (Congress of People’s Deputies) – theo lý thuyết là cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước. Và dù bảo đảm những người cộng sản được “sắp xếp” để giành số đông thắng cử, ông cũng cho phép một vài người chỉ trích được trúng cử, như nhà vật lý bất đồng chính kiến Andrei Sakharov. Gorbachev nói rất nhiều về dân chủ, nhưng ông không bao giờ mạo hiểm đặt mình vào cuộc tranh cử. Ông muốn “cải tổ” mọi thứ nhưng không muốn động tới những gì thuộc về nền tảng.

Glasnost – “công khai hóa” – cũng là một “bữa tiệc di động”. Việc này bắt đầu một cách thận trọng nhưng, như những người chỉ trích bảo thủ của ông đã lo sợ, một khi giới nhà báo được khuyến khích xuất bản những câu chuyện về các cán bộ bất tài, về một giai cấp bần cùng ở những thành phố thuộc các tỉnh, hay về sự đàn áp phong trào dân tộc chủ nghĩa và những người bất đồng chính kiến, quá trình này sẽ trở nên khó kiểm soát.

Liên Xô của Gorbachev không có tự do báo chí hoàn toàn, nhưng cũng phóng khoáng hơn bao giờ hết. Gorbachev thật sự nghĩ rằng việc xuất bản ấn phẩm của các tác giả như Solzhenitsyn và Pasternak, và những tiết lộ về sự khủng khiếp của lịch sử Xô-viết, sẽ khiến người dân cố gắng làm cho Liên Xô vận hành một cách chân thực và hiệu quả hơn. Tất nhiên việc đó chỉ làm cho họ căm ghét chủ nghĩa cộng sản nhiều hơn, và chỉ có một tín đồ thực thụ mới tưởng tượng ra điều ngược lại. Glasnost có những hiệu ứng cấp tiến cả ở Liên Xô và những nước Đông Âu vệ tinh gần kề hơn cả sự mong đợi của ông. Cũng chính nhờ ông mà quá trình này không bị dừng lại và giới truyền thông không bị đàn áp.

Ngay cả một vài trong số những người ngưỡng mộ Gorbachev nhiều nhất, những trợ lý thông minh và có tài đã làm việc không mệt mỏi cùng ông, thỉnh thoảng cũng thất vọng với phương pháp của ông. Có một ví dụ kinh điển diễn ra trong những ngày đầu ông nắm quyền.

Gorbachev quyết tâm sẽ giải quyết một tật xấu ám ảnh nước Nga: rượu vodka. Năm 1984 hơn 9 triệu kẻ nghiện rượu đã được gom về từ các đường phố của Liên Xô. Những cái chết yểu, tình hình tội phạm, nghèo đói và những gia đình tan nát có thể thấy ở khắp nơi. Ngày 4/4/1985, sau 3 tuần làm “Gensek” (Tổng Bí thư), ông triệu tập Bộ Chính trị và tuyên bố rằng từ nay trở đi, giá bán rượu vodka sẽ tăng gấp ba lần. Sản xuất bia và rượu sẽ bị cắt giảm 75%.

Vladimir Dementsev, Bộ trưởng Tài chính, cảnh báo với ông rằng điều này sẽ dẫn tới một lỗ hổng lớn trong ngân sách quốc gia. Gorbachev ngắt lời ông và tuyên bố: “Những điều ông nói không có gì là mới. Chúng ta biết là không có tiền để bù đắp vào khoản thâm hụt đó. Nhưng ông chẳng đề nghị được gì ngoài việc tiếp tục để người ta say xỉn. Có phải ông đề nghị xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên vodka chăng?”

Không ai nghi vấn thẩm quyền của Tổng Bí thư. Gorbachev theo đuổi việc cấm vodka của mình một cách cương quyết – và dẫn đến thảm họa. Đã có những hàng người khổng lồ trước các cửa hàng rượu và một chợ đen vodka đã nhen nhóm hình thành chỉ sau một đêm. Cái hố đen tài chính mà Dementsev đã cảnh báo càng trở nên sâu hơn những gì ông ta đã dự đoán. Tỉ lệ người chết tăng vọt vì việc tiêu thụ thứ rượu tự chế độc hại. Sau 3 năm Gorbachev thừa nhận sai lầm của mình và bãi bỏ chiến dịch đó, nhưng đã để lại thiệt hại nặng nề. Đó là cách điều hành đặc trưng của ông trong suốt 6 năm rưỡi.

Gorbachev có thể khơi gợi sự trung thành và lòng khâm phục mạnh mẽ bằng tầm nhìn, trí tuệ và sự chân thành của mình. Những suy nghĩ và bản năng về “đại cục” của ông là tử tế và thật thà, ngay cả khi chúng được dựa trên những phân tích không chính xác. Ông muốn bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Châu Âu, xóa bỏ rủi ro chiến tranh Đông-Tây, cắt giảm chi tiêu quân sự và cải thiện kinh tế trong nước của Liên Xô. Việc ông nghĩ những điều này sẽ giúp củng cố chủ nghĩa cộng sản có quan trọng không? Không lâu sau khi nắm quyền, ông và những cố vấn chính, đặc biệt là người chủ chốt thúc đẩy perestroika, Alexander Yakovlev, đã đi đến kết luận rằng những nước trong Hiệp ước Warsaw là gánh nặng hơn là một phần thưởng. Nhưng ông không bao giờ nghĩ ra một chiến lược nhất quán để dỡ bỏ gánh nặng đó.

***

Vì sao người Liên Xô lại từ bỏ đế chế của họ một cách bình yên như thế, chẳng hề một chút thở than? Và vì sao chỉ trong vòng vài tháng cuối những năm 1980? Ba trong số những yếu tố quan trọng nhất lại ít được nhắc đến, nhất là ở Mỹ và châu Âu, có lẽ bởi chúng không nhấn mạnh vai trò của những giáo hoàng, tổng thống và thủ tướng phương Tây.

Về cơ bản là người Đông Âu đã tự giải phóng họ. Nhưng trong số những nguyên nhân khiến họ có thể làm được điều đó có sự thất bại của Liên Xô ở Afghanistan, tình trạng nợ nước ngoài ngập đầu của các nước cộng sản trong khối Hiệp ước Warsaw, và việc giá dầu rớt đột ngột trong những năm 1980, điều đã khiến Liên Xô bị phá sản. Gorbachev đã hết mình đối phó với những sự kiện này không kém việc thương lượng lại những thỏa thuận địa chính trị với người Mỹ.

Khi xét đến yếu tố đầu tiên, có một nguyên nhân bao trùm là vào lúc khởi đầu cuộc cách mạng của Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan những năm 1980-81, Liên Xô đã không gửi xe tăng vào Warsaw và Gdansk – như đã từng làm ở Budapest năm 1956 và Praha năm 1968. Câu trả lời đến từ người biện hộ cứng rắn nhất cho chủ nghĩa đế quốc Liên Xô trong nhóm lãnh đạo điện Kremlin, trùm tư tưởng Mikhai Suslov. “Chúng ta đơn giản là không thể đủ sức có thêm một Afghanistan nữa trong tay chúng ta”, ông nói thế trong một cuộc tranh luận gay gắt của giới lãnh đạo.

Người Liên Xô nhận ra họ đã phạm sai lầm trong việc xâm lược Afghanistan không lâu sau khi quân đội của họ đặt chân đến đây vào cuối năm 1979. Gorbachev không nhúng tay vào quyết định này. Ông ta lúc đó là một đảng viên cấp thấp và đã nghe đến việc này qua radio. Ông là một trong những cán bộ Liên Xô đầu tiên gọi cuộc chiến này là “vết thương đang rỉ máu của chúng ta”, và so sánh nó với Việt Nam. Đến lúc ông lên nắm quyền thì gần 10.000 quân Liên Xô đã tử trận. Ông và những người phụ tá đã quyết tâm chấm dứt chiến tranh – đặc biệt là khi các tướng chỉ huy nói rằng họ không thể thắng và điều tốt nhất mà quân đội Liên Xô có thể làm là “ổn định tình hình”. Câu hỏi đặt ra là làm sao để làm được điều này mà không bị mất mặt.

Ông có thể đã cho rút quân ngay trong vài tháng đầu mới cầm quyền, và đổ lỗi cho những người tiền nhiệm vì đã tiến hành một cuộc chiến ngày càng không được lòng dân. Nếu vậy thì hành động đó chắc sẽ nhận được sự tung hô rộng khắp từ phương Tây. Nhưng ông đã gạt cơ hội này đi. Ông không thể chấp nhận sự thất bại nhục nhã của Liên Xô trước một đám “khủng bố” cỏn con. Và ông nói: “Những người bạn của chúng ta…sẽ quan ngại…Họ nghĩ đây sẽ là một đòn giáng mạnh vào uy thế của Liên Xô”.

Vì thế nên trong vòng 4 năm ông thoái thác và quanh co, làm khoảng hơn 6.000 quân Liên Xô và 200.000 người Afghanistan thiệt mạng và khả năng ứng biến của Liên Xô ở những nơi khác đã bị suy giảm. Tới lúc hồng quân rời khỏi Afghanistan, những người bất đồng chính kiến ở Trung và Đông Âu đã không còn lo lắng nhiều là quân Liên Xô sẽ dùng vũ lực chống lại họ nữa.

Về yếu tố thứ hai, Miklós Németh, thủ tướng Hungary trong những năm cuối 1980, giải thích là đất nước của ông đã dùng khoản nợ 1 tỉ Mác Đức từ Tây Đức năm 1987 như thế nào. Số tiền này đúng ra được dùng vào việc cải cách kinh tế, nhưng “Chúng tôi đã dùng 2/3 trong số đó để trả lãi [của những khoản nợ trước] và dùng phần còn lại vào việc nhập khẩu hàng tiêu dùng để xoa dịu cảm giác về một cuộc khủng hoảng kinh tế.”

Tất cả những chế độ của khối đông Âu (ngoại trừ Romania) nợ phương Tây một khoản khồng lồ: khoảng 150 tỉ đô la vào cuối năm 1989. Họ liên tục nói dối về nền kinh tế của mình. Đông Đức, nơi mà Ngân hàng Thế giới đã bị hố khi liệt kê là nước giàu thứ 11 của thế giới, đã phải chi hơn 70% thu nhập quốc dân để trả những khoản nợ nước ngoài và cảm thấy rất khó khăn để trả lãi suất. Những lãnh đạo cộng sản như Eric Honecker và János Kádár từng nghĩ rằng cách duy nhất để cầm cự là vay mượn từ các ngân hàng phương Tây. Các ngân hàng xem Đông Âu như một ván cược an toàn – họ nghĩ là “sự bảo đảm” của Liên Xô sẽ loại trừ tình trạng vỡ nợ.

Nhưng Gorbachev không còn sẵn sàng, hay có khả năng, để bảo đảm về kinh tế hay chính trị cho các chế độ thuộc khối Warsaw. Như Németh, người sau này trở thành một nhà kinh doanh ngân hàng, đã giải thích, “việc giết chết hệ thống cộng sản bắt đầu vào thời điểm các ngân hàng phương Tây…cho các nước như Hungary vay. Chúng tôi đã cắn câu.”

Yếu tố thứ ba, sự sụp đổ của giá dầu từ năm 1985-86, đã dẫn đến sự khủng hoảng chung cuộc của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Thu nhập từ xuất khẩu của Liên Xô giảm mạnh, làm cho nhiều người trong nhóm lãnh đạo hoang mang về cách mà hệ thống kinh tế của đế chế đang vận hành. Có đáng trợ cấp dầu và khí thiên nhiên rẻ cho các nước thuộc khối Warsaw để đổi lại những hàng tiêu dùng kém chất lượng không?

Các kinh tế gia và viện nghiên cứu chính sách ở Moscow đang bắt đầu đặt dấu hỏi về mối quan hệ giữa Liên Xô và các nước vệ tinh. Và rồi một vụ xì-căng-đan nhỏ đã thúc đẩy hành động. Đồng minh thân nhất của Liên Xô, Bulgaria, đã đem dầu giá rẻ nhận được từ Liên Xô bán cho phương Tây với giá thị trường và bỏ túi phần tiền chênh lệch. Khi Gorbachev hay tin, ông đã hết sức giận dữ đối với Todor Zhivkov, lãnh đạo độc tài đã nắm quyền ở Sofia trong ba thập kỷ. Điều này làm thay đổi thái độ của ông đối với Đông Âu, nơi mà dẫu sao ông cũng đã dần mất thiện chí. Ông thay đổi các điều khoản thương mại giữa Liên Xô và các nước Đông Âu và nói với các lãnh đạo rằng họ hãy tự lo liệu lấy, rằng Liên Xô sẽ không còn có thể giúp sức cho họ chống lại chính người dân của mình. Những người cũ cứng đầu như Honecker không tin lời ông ta và nghĩ rằng Đông Âu quá quan trọng đến mức Liên Xô không thể từ bỏ.

Phương Tây đã trở thành sự cuốn hút lớn hơn đối với Gorbachev – không chỉ về mặt địa chính trị mà còn về mặt cá nhân. Ông ghét việc chuẩn bị cho những chuyến đi đến thủ đô của các nước khối Warsaw, nhưng lại trở nên hào hứng với những hội nghị ở London, Paris hay Rome. Đầu óc của ông đã bị xoay chuyển bởi hiện tượng “phát cuồng vì Gorbachev” (“Gorbymania”) của những năm 1980. Ông chán nản với những buổi thảo luận với các quan chức Bộ Chính trị tối dạ ở Praha. Các buổi thảo luận đó có là gì khi so với một đoàn xe hộ tống dọc Đại Lộ thứ Năm được tung hô bởi những người Mỹ đang vẫy cờ Liên Xô và mang những dòng biểu ngữ ngợi ca “Chúa phù hộ người mang lại hòa bình”?

Gorbachev cũng không bao giờ có kế hoạch rút lui khỏi Đông Âu, hay duy trì quyền lực của Liên Xô ở đó. Ông tưởng tượng rằng mình có thể khuyến khích những “tiểu Gorbachev” để thay thế những nhà độc tài bất lực già nua đang bị quần chúng căm ghét. Tính toán sai lầm lớn của ông là những nước này sẽ lựa chọn được tiếp tục nằm trong quỹ đạo của phe xã hội chủ nghĩa, điều mà ông chỉ nhận ra sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Nhưng ông từ lâu đã quyết định là sẽ không dùng vũ lực để duy trì đế chế. Khoảng chục nhà lãnh đạo khác trong lịch sử cũng đã làm như vậy.

Xét theo những thành tích của của mình thì Gorbachev là một thất bại. Ông đã tin rằng ông có thể cứu vãn chủ nghĩa xã hội. Ông là một nhà ái quốc của một quốc gia đã ngưng tồn tại khi chính ông đang đứng mũi chịu sào lèo lái đất nước đó. Con người ông đầy những mâu thuẫn trong vai trò một con người và một nhân vật lịch sử – và điều mâu thuẫn lớn nhất là Mikhail Gorbachev sẽ được nhớ đến như một vĩ nhân chính vì thất bại của ông.

VICTOR SEBESTYEN - NGUYỄN PHƯƠNG TÚ BIÊN DỊCH
LÊ HỒNG HIỆP HIỆU ĐÍNH/ THEO NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ

____________
[1] Bản gốc tiếng Anh bài viết này xuất bản năm 2009 (NBT).
[2] Tức nước Burkina Faso ngày nay (NBT).
[3] Phòng làm việc của Tổng Bí thư trong Điện Kremlin, được lát bằng gỗ cây óc chó.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tứ Trụ Lung Lay

Nguyễn-Xuân N





    * Chúng em vào Đại hội, vui đáo để... *


Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới mà nỗi sợ hãi ngàn năm có thể được thấy từ... mặt trăng.


Đó là Vạn Lý Trường Thành, do nhiều đời xây dựng từ thời Chiến Quốc đến nhà Đại Minh - trải dài trên hai chục thế kỷ. Trung Quốc cũng là một xứ mà việc phòng thủ đã trở thành bản năng, xuất phát từ địa dư, văn hóa lẫn lịch sử.

Trên một quốc gia bát ngát tới 10 triệu cây số vuông, đa số diện tích lại là vùng trái độn quân sự vây quanh khu vực tương đối trù phú là các tỉnh duyên hải miền Đông. Theo chiều kim đồng hồ từ dưới lên thì đó là Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông và phân nửa đất Mãn Châu ngày xưa, nay là ba tỉnh Đông Bắc có tên là Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh.

Nếu chú ý đến tin tức kinh tế hay lương thực, chuyện chiến lược của xứ này, ta có thể nhắc đến nạn hạn hán khiến sản lượng nông phẩm của Hắc Long Giang bị hại nặng từ đầu năm. Nếu chú ý đến tin ngoại giao quốc tế, người ta để ý đến sự chuyển mình của Miến Điện để ra khỏi bóng rợp u ám của Trung Quốc và hội nhập với thế giới bên ngoài. Nếu chú ý đến an ninh hay tâm linh, việc chư tăng Tây Tạng tự thiêu để phản đối ách cai trị hà khắc và thực tế là tội diệt chủng lẫn thủ tiêu văn hoá cũng là biến cố ta cần tìm hiểu....

Nếu lùi lại mà nhìn trên toàn cảnh, người ta còn thấy rằng có cái gì đó đang làm Trung Quốc rung chuyển từ bên trong, mà không chỉ là nguy cơ suy trầm kinh tế hoặc bể bóng địa ốc.....

Bài này sẽ nói về những chỉ dấu tiên báo của một cơn địa chấn ngay trong vùng trái độn quân sự truyền thống của Trung Quốc.


***


Cái chữ "đồn điền" như ta dùng ngày nay xuất phát từ Trung Quốc, từ bản năng phòng thủ khi quân đội được phái đi trấn giữ các vùng biên vực xa xôi - mà Thiên triều gọi là "phiên trấn", đất của ngoại bang mà mình chiếm đóng: binh lính phải tự canh tác để nuôi hệ thống đồn binh trải rộng ở vòng ngoại vi khô cằn và hiểm trở. Lý do là bọn tứ di đáng khinh trong nền văn hoá duy chủng của tộc Hán đã từ bên ngoài tấn công và còn vào làm chủ Hán tộc trong nhiều đợt, qua nhiều thế kỷ.... Các Thuyền Vu hay Đại Hãn của dị tộc man rợ đã đem Công chúa Trung Hoa về làm tì thiếp, hoặc Hốt Tất Liệt, Hoàng Thái Cực hay Khang Hy, Càn Long đã lên ngôi Hoàng Đế ngay tại Trung Nguyên!

Ai lên lãnh đạo Trung Quốc cũng phải trước hết làm chủ khu vực Trung Nguyên tương đối trù phú, rồi khống chế được miền Tây hoang vu nghèo đói và kiểm soát được vùng biên vực để tránh ngoại xâm. Từ Tần Thủy Hoàng Đế đến Hán Vũ Đế hay Mao Trạch Đông, mối lo sinh tử của lãnh đạo xứ này đều dẫn đến việc bành trướng ảnh hưởng và kiểm soát được vùng trái độn quân sự ở vòng ngoài.

Vì vậy, sau khi vét đoàn dân đói rách từ miền Tây về làm chủ Trung Nguyên trong cuộc Vạn lý Trường chinh, Mao lập tức khống chế Tân Cương năm 1949, và tấn công Tây Tạng năm 1950. Việc thôn tính Tây Tạng đã hoàn tất vào Tháng Ba năm 1959, khiến vị lãnh đạo Tây Tạng là đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 phải lưu vong qua Ấn Độ....

Sáu mươi năm sau, là ngày nay, chế độ Cộng sản Trung Quốc đang thấy đất trời rung chuyển không chỉ vì nguy cơ kinh tế hay động loạn xã hội bên trong mà còn vì những chuyển dịch âm thầm mà dữ dội của vùng trái độn ở chung quanh.


***


Tháng 11 năm ngoái, mới gần đây thôi, đức Đạt Lai Lạt Ma bất ngờ thăm viếng nước Cộng hoà Mông Cổ trong bốn ngày. Chính thức là để thuyết pháp cho dân Mông Cổ, sắc dân chịu ảnh hưởng rất sâu và rất cao của Phật giáo Tây Tạng - mà họ gọi là Lạt Ma giáo. Đây là lần thứ tư mà vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng đặt chân vào xứ Mông Cổ, lần cuối là vào năm 2006.

Nhìn từ Bắc Kinh thì đấy là một... âm mưu mờ ám!

Vì Cộng hoà Mông Cổ nay là quốc gia dân chủ, thực sự, và trở thành một nguồn cám dỗ cho công dân Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc gốc Mông Cổ trong khu vực tự trị của họ, ở khu vực Nội Mông, có diện tích là hơn triệu cây số vuông! Tin đồn rằng hóa thân sau này của đức Đạt Lai Lạt Ma có thể là một người Tây Tạng hay Mông Cổ dĩ nhiên là làm Thiên triều đỏ thấy xanh mặt! Việc Cộng hoà Mông Cổ tăng cường hợp tác với Nhật Bản và Hoa Kỳ để khai thác tài nguyên khoáng sản trong lãnh thổ rộng lớn này càng làm Thiên triều mất ngủ.

Cái chuyện xa xôi ấy bỗng lại xảy ra cùng sự chuyển hóa của Miến Điện, xứ Myanmar trong thời sự quốc tế. Người dân Miến Điện đang tự giải phóng khỏi hai tai ách nội ngoại. Bên trong là chế độ độc tài quân phiệt và bên ngoài là sự lệ thuộc vào Trung Quốc.

Miến Điện là quốc gia rộng lớn với diện tích gấp đôi Việt Nam, nằm trong khu vực chiến lược cho an ninh Trung Quốc vì tiếp cận với Ấn Độ dương và Thái bình dương, và là cửa thông thương của các tỉnh bị khóa trong lục địa như Vân Nam Quý Châu ra tới biển nóng ở bên ngoài.

Nhưng, y như Tây Tạng, Miến Điện có những liên hệ lịch sử, văn hoá và cả sắc tộc quá gần với... Ấn Độ và xưa kia nằm trong hệ thống cai trị của Đế quốc Anh, trải rộng từ rặng Indu Kush qua đến Vịnh Xiêm La. Ra khỏi chế độ độc tài quân phiệt – và sức hút của Bắc Kinh – Miến Điện sẽ có một tương lai kinh tế trù phú hơn, y như trong quá khứ, khi giao kết với thế giới văn minh bên ngoài.

Lãnh đạo Bắc Kinh phải triệt để kiểm soát Tây Tạng vì lý do nội tại của mình lẫn nỗi lo truyền thống trong tiềm thức.

Bên dãy Hy Mã Lạp Sơn cao như đỉnh trời, Cao nguyên Tây Tạng là nơi phát tích những con sông lớn nhất Á Châu và cung cấp một lượng nước tới gần một phần ba cho Trung Quốc, một xứ mà diện tích canh tác chỉ bằng một phần ba trung bình của thế giới. Khi khống chế Tây Tạng, Bắc Kinh kiểm soát được nguồn nước cho mình, từ Dương tử lên Hoàng Hà, và cho các nước vây quanh, quan trọng nhất là sông Mekong.... Cao nguyên Tây Tạng là tháp nước vĩ đại nhất Á châu với trữ lượng khoảng 400 tỷ thước khối. Thiếu nước là Thiên triều chết cạn.

Tây Tạng thật ra có diện tích bằng cả khu vực Tây Âu và có nhiều tài nguyên khoáng sản chưa khai thác. Với cái nhìn thiển cận và vô trách nhiệm, Bắc Kinh còn dùng nơi này làm chỗ lưu giữ phế vật của kỹ nghệ hạch tâm, thành một đống rác nguyên tử. Đó là chuyện bên trong.

Với bên ngoài, Tây Tạng lại giáp giới với Ấn Độ, một xứ cừu thù lâu năm của Thiên triều đỏ. Việc Ấn Độ tiếp tục yểm trợ chính quyền lưu vong của dân Tây Tạng, nay còn mở rộng quan hệ với các nước Thái bình dương, từ Nhật Bản, Úc tới Hoa Kỳ, khiến Bắc Kinh thấy mình như bị bao vây! Nỗ lực "Nam tiến" qua các dự án chiến lược với Pakistan và Miến Điện càng khiến Ấn Độ tăng cường hợp tác với các quốc gia bán đảo hay hải đảo vây quanh Trung Quốc. Khi Miến Điện chuyển hướng, Ấn Độ sẽ tích cực yểm trợ và càng làm Thiên triều mất ngủ.

Trong khi ấy, Tân Cương vẫn chưa êm! Sắc dân Duy Ngô Nhĩ theo Hồi giáo – "Rợ Đột Quyết" trong lịch sử Trung Quốc - vẫn đòi quyền độc lập và càng bị đàn áp họ càng thiên về giải pháp khủng bố, với sức yểm trợ đáng ngại của các lực lượng Hồi giáo quá khích.

Đã thế, Hoa Kỳ bỗng dưng lại quan tâm đến lưu vực sông Mekong, và yểm trợ các nước dưới hạ nguồn, từ Miến Điện, Thái Lan đến ba nước Việt, Mên Lào...

Một cách rất khách quan, Trung Quốc là trái bom nổ chậm về môi sinh với việc khống chế tháp nước Tây Tạng, xây dựng đập Tam Hiệp, điều tiết nguồn nước từ sông Dương tử lên Hoàng hà và gieo họa lũ lụt hay hạn hán cho 60 triệu dân dưới hạ nguồn Mekong.

Nhưng ngoài khía cạnh môi sinh khiến người ta cần chú ý đến Tây Tạng hay Miến Điện, an ninh mới là mối quan tâm đáng kể cho mọi quốc gia....


***


Quốc gia nào cũng có thể có tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ với các lân bang. Quốc gia nào cũng có thể gặp bài toán hội nhập các sắc tộc ở bên trong, kể cả Miến Điện hay Việt Nam.

Riêng Trung Quốc thì có nhiều tranh chấp nhất, ít ra với cả chục quốc gia, từ Ấn Độ qua Nhật Bản đến các nước Đông Nam Á. Mà nội tình thì chưa hề có hội nhập sắc tộc. Chỉ có biểu trưng trên lá "Ngũ tinh Hồng kỳ" với Hán tộc giữ vị trí Bắc đẩu, vây quanh là bốn ngôi sao tượng trưng cho bốn sắc tộc thiểu số là Mông, Mãn, Hồi, Tạng. Bây giờ, cùng với Miến Điện, hình như bốn ngôi sao ấy như đang muốn bung khỏi lá cờ!

Chuyện đáng theo dõi là vì sao Miến Điện đang thoát ra ngoài mà có kẻ lại chập chờn bay vào chốn đó? 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bài vỡ lòng xã hội học:


Nguyễn-Xuân N
Xã hội học về quyền lực bên Tầu


* Bốn thế hệ "hậu Mao" của bá tánh: Đặng, Giang, Hồ, Tập * 


Sau Đại hội 18 vào cuối năm kia và sau Nghị quyết Ba của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Hoa vào cuối năm ngoái, giới quan sát quốc tế vẫn phân vân về sự chuyển dịch quyền lực trong nội tình nước Tầu.

(Xin một ngặc đơn: Theo đúng phép chính danh của cụ Khổng nhà ta, hay nhà nó, cần ghi vài chữ về cách gọi tên nước Tầu, có đội mũ hay không thì tùy hỉ, Tầu hay Tàu đều đúng cả. Từ xưa rồi, dân ta vẫn gọi nước Trung Hoa hay Trung Quốc là nước Tầu. Gần đây nhất là trong bộ Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim! Mà căn bản về Hán văn hay Nho học thì cụ Trần không thiếu. Cái chữ thông tục về xứ láng giềng này là tầu còn khéo khắc đến quá khứ oai hùng của các thuyền nhân vượt biển tỵ nạn qua nước ta bằng tầu, trở thành khách trú. Bây giờ cái nước Tầu đó lại đòi làm chủ nước ta và muốn đòi thiên hạ gọi họ là quốc gia trung tâm của thế giới. Rồi những kẻ lười biếng hoặc bị nô lệ từ tiềm thức liền dùng chữ "Trung" để nói về Trung Quốc. Thí dụ như khẩu hiệu "Thoát Trung, Hướng Mỹ" mà nhiều người trong nước vừa đề ra sau khi suy nghĩ rất cạn. Họ quên chữ "Hoa" như Hoa kiều, Tân hoa xã, hay "Hoa quân nhập Việt" thời 1945, và gọi Hoa Kỳ là Mỹ. Họ cũng quên luôn chữ Tầu quá thông dụng trong dân ta. Dù mới chỉ là nói thì "Thoát Tầu, Hướng Mỹ" mới là cách nói đúng! Xin đóng ngoặc đơn).

Trở lại nội tình nước Tầu, Nghị quyết ba (Third Plenum) của khóa 18 được công bố từ Tháng 11 2013 - với 60 biện pháp cải cách mà chỉ có 20 biện pháp thuộc về lãnh vực kinh tế. Cho tới nay, việc tiến hành vẫn có vẻ ngập ngừng. Tác giả chính của tài liệu này, cũng là người chấp bút cho báo cáo chính trị trước Đại hội 18 của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sắp về hưu, là tân Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Tập Cận Bình.

Sau đó, chưa thấy họ Tập "đào sâu việc cải cách toàn diện" như tiêu đề của Nghị quyết Ba.

Ngược lại, dư luận thấy ông mở chiến dịch diệt trừ tham nhũng một cách sâu rộng và lên tới cấp đảng viên lãnh đạo, như nguyên Chủ tịch Ủy ban Chính pháp Trung ương Chu Vĩnh Khang, các đảng viên cao cấp trong khu vực năng lượng và thậm chí hai tướng lãnh đã từng là Ủy viên Bộ Chính trị của các khóa 16 và 17. Vì vậy, giới quan sát mới luận giải rằng Tập Cận Bình đang dồn nỗ lực thâu tóm quyền lực tới mức độ chưa từng thấy trong thế hệ lãnh đạo thứ ba là Giang Trạch Dân (1990-2002), hay thứ tư là Hồ Cẩm Đào (2002-2012). Có lẽ phải trở ngược lên Đặng Tiểu Bình trong thời kỳ 1980-1992 thì mới có hiện tượng tập quyền đến như vậy.

Trong khung cảnh ấy, các học giả quốc tế mới bình nghị về những xoay chuyển trong hậu trường chính trị nước Tầu để từ đó suy đoán ra động thái sắp tới của lãnh đạo Bắc Kinh. Bài này xin góp phần bình nghị về thiên đình quyền lực của "thiên triều".

Một cái sân đình rất to.


***


Có một cơ sở luận giải phổ thông mà không sai, là hệ thống quyền lực của nước Tầu cộng sản ngày nay vẫn mang màu sắc Trung Hoa.

Lãnh đạo là Hoàng đế ẩn mặt ở trên, ngày nay được gọi là Đảng, nhận thiên mệnh hiện đại từ "nhân dân". Cầm quyền là một triều đình được Đảng bố trí và chỉ chịu trách nhiệm với Đảng, như với Hoàng đế, chứ không phải là nhân dân hay bá tánh ở dưới. Triều đình ấy có mặt từ trung ương tới mọi địa phương để cai trị một lãnh thổ bát ngát và một dân số cực đông.

Họ cai trị qua các cấp đảng viên.

Nguyên tắc "dân chủ tập trung" có vẻ hiện đại hơn thời phong kiến xa xưa khiến các đảng viên dĩ nhiên là có quyền hơn người dân, nhưng họ không có quyền bằng nhau. Khái niệm "tập trung hàm nghĩa là chỉ có đảng viên thuộc vào thành phần cốt cán mới có thực quyền.

Trên cùng là loại 'cán bộ cao cấp', các đảng viên có tiềm năng lãnh đạo.

Nhiều công trình nghiên cứu về tổ chức đảng trong lịch sử từ đầu nguồn là năm 1921 cho tới gần đây có chỉ ra một sự phân bố khá phổ biến. Trong mấy chục triệu đảng viên, chỉ có hơn một phần trăm (1,1%) là thuộc loại đảng viên cốt cán, gọi là 'cán bộ'; tuyệt đại đa số tới hơn 90% của lớp cán bộ là người cầm quyền tại các cấp địa phương từ tỉnh trở xuống, chỉ có chưa đầy 0,1% là cầm quyền tại trung ương.

Trong thành phần cán bộ trung ương, có khoảng 0,7% là thành phần "cán bộ cao cấp', gaoli ganbu) phục vụ trong các ban ngành của đảng, các phủ bộ của  nhà nước, và chừng một phần ba của số này ngồi tại Bắc Kinh.

Suy ra từ số đảng viên là gần 87 triệu đảng viên tính đến Tháng Sáu năm nay, hệ thống "dân chủ tập trung" hay quyền lực tập trung cho phép ta tính nhẩm như sau: Chừng 1,1% (của 87 triệu đảng viên) tức là khoảng 950 ngàn là loại đảng viên cốt cán, trong số này gần 900 ngàn là cán bộ cấp tỉnh và các địa phương ở dưới. Số cán bộ của trung ương chỉ có chừng 50 ngàn, và trong thành phần này, số 'cán bộ cao cấp' trong các ban bộ chỉ có chừng nga ngàn năm trăm người, gồm có một ngàn ở tại Bắc Kinh.

Nếu đọc lại, ta thấy ra một sự lạ: lãnh đạo một xứ có một tỷ 350 triệu dân trên một diện tích 10 triệu cây số vuông là thẩm quyền của mấy ngàn người, dân số của một xã ấp.

Đã thế, trong số này, chỉ có 350 người là Trung ương Ủy viên. Họ chịu trách nhiệm trước 25 Ủy viên Bộ Chính trị và trên cùng là bảy đảng viên cấp lãnh đạo trong Thường vụ Bộ Chính trị. Chúng ta hiếm thấy mức độ tập trung quyền lực như vậy trong một quốc gia rộng lớn - nên cũng hiểu ra nhiều vấn đề của nước Tầu.


***


Những người ngồi trên thiên đình ngất ngưởng đó làm việc với nhau như thế nào? Chữ "làm việc" này cần được hiểu theo nghĩa cực rộng là tác động hay vận dụng, vì bao gồm việc ra chỉ thị, báo cáo, phê phán, thuyết phục, hăm dọa hay thậm chí mua chuộc bằng quyền và lợi.

Từ bên ngoài, giới quan sát thường xếp các đảng viên cán bộ cao cấp theo từng phe nhóm hay vây cánh.

Thí dụ như "cánh Thượng Hải" của Giang Trạch Dân, "Đoàn phái" của Hồ Cẩm Đào, "Thái tử đảng" của Tập Cận Bình, hay "nhóm Thanh Hoa" của giới chuyên gia trí thức tốt nghiệp trường đại học ưu tú tại Bắc Kinh, hoặc "tập đoàn dầu khí" của Chu Vĩnh Khang, v.v....

Cái sai lớn trong cách xếp loại ấy là chữ "của" vì thật ra quan hệ hay sự tác động giữa các đảng viên cán bộ cao cấp không thuộc vào một người hay một nhóm.

Quả thật Tập Cận Bình là con cháu đại công thần nên nằm trong thành phần "Thái tử đảng", mà cũng tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa lại đã phục vụ trong đảng bộ Thượng Hải. Và như nhiều đảng viên thuộc thế hệ lãnh đạo thứ năm, Tập Cận Bình còn chia sẻ một kinh nghiệm đau đớn là gia đình và bản thân từng là nạn nhân của 10 năm loạn lạc khi Mao Trạch Đông phát động Đại văn cách, Cách mạng Văn hóa Vô sản Vĩ đại, từ 1966 tới khi Mao tạ thế vào năm 1976.

Các lãnh tụ khác, như Tổng lý Quốc vụ viện là Thủ tướng Lý Khắc Cường hay Trương Đức Giang, Du Chính Thanh, v.v... cũng có những quan hệ chằng chéo như vậy. Vì thế, họ không lấy quyết định về chánh sách hay nhân sự căn cứ trên một khía cạnh riêng của quan hệ.

Nôm na, họ không là người của một nhóm, một phe hay một phái. Họ là một thiểu số ngồi trên thiên đình như một sân đình và giải quyết công vụ, hoặc đảng vụ của Hoàng đế lấn mặt, theo từng khía cạnh của nhiều quan hệ chằng chịt.

Chữ "quan hệ" này mới là chìa khóa vào thiên đình. Nó giải thích những vận động hay mua chuộc, thậm chí bán chác, giữa những người tập trung quyền lực của một quốc gia bát ngát có đầy vấn đề chồng chất.

Quan hệ ấy có thể thiên về nhận thức khi ta phân giải sự khác biệt từ khía cạnh chánh sách, tập quyền hay tản quyền, có tự do thị trường tới mức nào và cho những ai. Từ đó mới có những kết luận tạm bợ về phe cải cách hay thủ cựu. Tạm bợ mới là chính vì những đổi thay của tình hình.

Thay vì nhận thức, quan hệ ấy cũng có thể thiên về lợi tức, thiên về quyền lợi kinh tế của gia đình, thân tộc hay phe nhóm. Có lẽ đấy mới là chuyện then chốt vì dù có thuộc về hai phe tả hay hữu, cải cách hay thủ cựu, và dù luôn luôn nói về nhân dân hay giai cấp, các lãnh tụ trên sân đình đều có gia đình là đại phú, kể cả Tập Cận Bình.

Nếu có vẽ lại một cái thước đo tinh vi mà rắc rối như vậy, may ra chúng ta hiểu được tiến trình quyết định của lãnh đạo nước Tầu sau mỗi lần thay bậc đổi ngôi trên một thiên đình có mùi hương đảng của cái sân đình - và có kích thước xã ấp.

Rất Tẫu!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tiền nhân đánh giặc cứu nước:

Lý Thường Kiệt với chiến dịch quân sự táo bạo
(Đất Việt) -   Danh tướng Lý Thường Kiệt qua nét vẽ theo phong cách huyền sử. (Có tài liệu nói rằng, Lý Thường Kiệt là thái giám nên không để râu, tuy nhiên, để giữ hình ảnh võ tướng, ông thường đeo râu giả). (ĐVO)
 ...Sớm hơn rất nhiều, tổ tiên ta từ ngàn năm trước đã chủ động mở chiến dịch quy mô lớn với nhiều chục ngàn quân, đánh vào nơi xuất phát của các cánh quân xâm lược. Người chỉ huy các cánh quân ấy là Lý Thường Kiệt.
Lý Thường Kiệt là tôi trung của ba triều vua nhà Lý (Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông). Ông cũng là người chỉ huy của ba chiến dịch bất hủ: đánh vào Châu Khâm, Châu Liêm 1075-1076 và phòng thủ ở ở sông Như Nguyệt năm 1076, cũng như đánh đánh bại sự xâm lược của quân Chiêm Thành 1069.Nhà Lý ở nước ta hình thành từ khi vua Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009 và 1010 định đô ở Thăng Long. Các triều vua tiếp tục ổn định nhiều mặt trong nước, nhưng hai đầu biên giới phía Bắc, phía Nam thường bị dòm ngó, quấy nhiễu.Vốn từ năm 1070 vua quan nhà Tống đã tính kế xâm lược nước ta, chuẩn bị binh lực, lương thực, dùng người thông tỏ địa hình. Trước đó, ở phía Nam, qua việc Chiêm Thành đánh lên năm 1069, nhà Tống thu thập được số liệu về nước ta.Đối phó với kẻ thù hùng mạnh bấy giờ là quân Tống giai đoạn 1073 trở đi, Lý Thường Kiệt đang trông coi cả việc văn, việc võ, tức cả về chính trị lẫn quân sự của triều Lý Nhân Tông, đã coi sự đoàn kết, tập trung sức mạnh từ triều đình đến toàn dân, từ kinh đô đến biên ải là kế lâu dài. Từ tháng 10/1075 đến tháng 3/1076, quân dân nhà Lý đã triển khai tiến công trước để tự vệ vào các căn cứ quân sự của nhà Tống ở Châu Ung (Quảng Tây), Châu Khâm, Châu Liêm (Quảng Đông)... Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, vua Lý Nhân Tông lên ngôi còn nhỏ tuổi, vua Tống Thần Tông và đại thần Vương An Thạch quyết tâm nam chinh. Đến năm 1075 nhà Tống đã tập kết lực lượng ở các căn cứ trên. Về phía ta, năm 1075 đã khẳng định ý đồ của địch qua nhiều nguồn tin giá trị do có kế hoạch nắm địch từ xa và đi sâu.Ngày 27/10/1075, Lý Thường kiệt huy động hơn 100.000 quân, chia thành hai đạo tấn công: đạo quân bộ do các tù trưởng Tôn Đản, Lưu Kỉ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An chỉ huy đánh các trại biên giới; đạo quân thủy do Lý Thường Kiệt chỉ huy, vượt biển đánh Khâm Châu, Liêm Châu rồi cùng phối hợp tiến đánh Ung Châu.
Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa 
Trên đường tiến quân, Lý Thường Kiệt cho phân phát “Phạt Tống lộ bố văn” kể tội vua quan nhà Tống, kêu gọi nhân dân ủng hộ hành động tự vệ chính đáng của quân dân Đại Việt. Quân ta chiếm Khâm Châu 31/12/1075, Liêm Châu 02/01/1076, Ung Châu 01/03/1076 phá hủy căn cứ, kho tàng... sau đó chủ động rút về, gấp rút chuẩn bị kháng chiến.Mười tháng sau thất bại ở Ung Châu, dựng cầu phao đóng bè, chuẩn bị vượt sông tiến về Thăng Long. Nắm vững địa hình, có chuẩn bị sẵn, quân ta với 60.000 người do Lý Thường Kiệt chỉ hủy, lần lượt đánh bại hai cuộc vượt sông lớn của địch, buộc chúng phải co cụm và chờ tăng viện. Cuối tháng 2, quân ta phản công, đánh đêm, vượt sông đánh úp diệt quá nửa cụm quân địch ở Như Nguyệt, buộc địch vào thế cùng lực kiệt, phải xin rút quân, từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta.Chiến thắng Như Nguyệt còn đọng mãi với lời thơ Nam quốc sơn hà:Nam quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên định mệnh tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hưNghĩa là: Sông núi nước Nam, vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạm?Chúng bay sẽ bị đánh tơi bờiLý Thường Kiệt, cậu bé Ngô Tuấn ngày nào, đã trải qua bao gian khó trong suốt hơn 80 năm trên đời để có những chiến công trên.Nhà văn Hoàng Quốc Hải, trong tác phẩm “Tám triều vua Lý” xuất băn năm 2010, tập 2, trang 527, mượn lời một hòa thượng nói với tướng quân Ngô An Ngữ, bố Ngô Tuấn khi Ngô Tuấn lên 7 tuổi: “Cậu bé này quãng đầu đời gặp nhiều trắc trở với những nỗi buồn vĩ đại... Song cũng vì cái nhẽ trắc trở ấy mà cậu trở nên một bậc anh tài hiếm thấy trong lịch sử nước nhà. Chí làm trai đừng có ngại những thác ghènh và cả sự vấp ngã”.Ba năm sau lời nhà sư thì Ngô Tuấn mất cha, và bốn năm sau mất mẹ. Khi bước vào tuổi hai mươi, sắp đến ngày cưới thì nhạc phụ ốm nặng, phải cưới chạy tang, cưới vợ được ba ngày thì làm lễ tang nhạc phụ. Những tưởng tình vợ chồng của tuổi trẻ có thể làm vơi nỗi buồn, nhưng rồi giữa lúc đang hướng tới hạnh phúc lứa đôi thì vua có chiếu sung Ngô Tuấn vào chức Hoàng môn chi hậu (quan hoạn) và ban quốc tính-mang họ Lý.Cuộc đời vui buồn của Lý Thường Kiệt đem lại bao suy nghĩ cho nhiều thế hệ. Nhớ đến ông là nhớ đến bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt. Nhớ đến ông, một người mồ côi bố rồi mẹ khi 7 tuổi và 10 tuổi, đã không ngừng học tập, rèn luyện trong cuộc sống, công việc và chiến trận, vượt lên những trắc trở nhiều khi giằng xé tâm can. Nhớ đến tinh thần chủ động tấn công của quân dân nhà Lý và sự phòng thủ vững vàng từ thể hiện lòng dân. Đang trông coi cả văn võ triều đình, tính đến sự xâm lược của giặc, đã thuyết phục quan Lý Đạo Thành trở lại coi việc văn (chính trị) để ông tập trung cho giai đoạn chống giặc 1075-1076. Đấy chính là tâm nguyện đoàn kết vì nước của ông.

Phần nhận xét hiển thị trên trang