Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Bài viết của học giả người TQ:

Kẻ thù của người Trung Quốc

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại.

image
Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo ngược, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.

image

Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương - thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: "Làm người Trung Quốc ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa". Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.

image

Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ đồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận. 

Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!

image

Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn "chói tai", có một người đứng dậy nói: "Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?". Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: "Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!" Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: "Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!" Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: "Tiền đồ Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!"

image

Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời ? Đến đời nào thì mới thật khá lên được ? 

Tại Trung Quốc đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, dầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú.

Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng-Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.

Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế? 

Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Trung Quốc (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?

image

Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái. 

Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:
"Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!"

Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: "Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử". Lại nhìn về trẻ con ở Trung Quốc lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?

image

Người ta thường nói: "Mình nắm tương lai mình trong tay mình". Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.

Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi-măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.

Lúc chết, Chúa Giê-Su (Jesus) bảo: "Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu". Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Trung Quốc sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.

image

Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì ? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.

Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn?

Nguyên do vì sao? 

image

Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh. 

Có người sẽ bảo: "Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!". Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng "Quần ma" (Những con ma) của Ibsen (íp-sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: "Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?" Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta. 

Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Trung Quốc chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!

image

Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Trung Quốc đến ở là những người khác phải dọn đi. 

Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Pa-ri sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: "Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!" (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Trung Quốc). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: "Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?" Cô ta đáp: "Làm sao nổi!"

image

Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn. 

Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: " Chúng tôi đang thì thầm với nhau".

image

Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?

Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Trung Quốc bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.

Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Trung Quốc. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.

Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại người Trung Quốc không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Trung Quốc mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.

image

Cho nên, có thể nói, mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Trung Quốc ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi - nơi không cần quan hệ với người khác - thì lại có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Quốc có biệt tài đấu đá lẫn nhau.

Chỗ nào có người Trung Quốc là có đấu đá, người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Trung Quốc không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: "Anh có biết người Trung Quốc vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!" Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.

Người Trung Quốc không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.

image

Ở Trung Quốc có câu: "Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống". Người đông thì dùng để làm gì? Người Trung Quốc trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết. 

Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học - anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước... 

Ngày hôm sau tôi bảo:

"Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!". Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: "Anh đưa tôi đi một lát nhé!". Anh ta bảo: "Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!". 

Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Hoa cắn xé nhau là một đặc trưng nghiêm trọng.

Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Trung Quốc với nhau. Bán rẻ người Trung Quốc, hăm dọa người Trung Quốc lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Tại Ma-lai-xi-a có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Ma-lai-xi-a tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: "Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?". Người kia bảo: "Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?"

Cho nên kẻ thù của người Trung Quốc lại là người Trung Quốc.  

image

Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Trung Quốc với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói "người Trung Quốc và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù". Điều này phải chia làm hai phần:

Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy nghìn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ "Tứ nhân bang" (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.

Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Trung Quốc thường đăng: "Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau", nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng I-xra-en vẫn tổ chức bầu cử. 

Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.

Tại Trung Quốc chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco. Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở I-xra-en cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Trung Quốc thì một người sẽ bảo: "Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!"

image

Người Trung Quốc không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Trung Quốc ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ. 

Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: "Chết cũng không chịu nhận lỗi". Có ai nghe thấy người Trung Quốc nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Trung Quốc nói: "Việc này tôi đã sai lầm rồi!" Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.

Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào.Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: "Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!" Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.

image

Người Trung Quốc không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che dấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: "Đóng cửa suy gẫm lỗi lầm" (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai ? Dĩ nhiên của đối phương.

Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: "Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!". Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu? 

Người Trung Quốc không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Trung Quốc không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Trung Quốc thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.

Họ liên miên khoa trương về dân Trung Quốc, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Trung Quốc, nào là có thể khuếch trương thế giới,v.v...Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.

image

Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Trung Quốc thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu "Em yêu, em cưng" [Bá Dương dùng chữ "đường mật" và "ta linh" để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh -ND] thì người Trung Quốc gọi nhau là "kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc" (sát thiên đao đích). 

Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: "Tại sao người Trung Quốc lại độc ác và hạ lưu đến thế?"

Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: "Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!". 

Còn người Trung Quốc sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là "Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!" Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời. 

Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: "Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!" Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.

image

Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.

Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi. 
Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Trung Quốc có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Trung Quốc không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao? 

Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.

Mọi người Trung Quốc đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: "Bỏ qua cho rồi!" 

Mấy chữ "bỏ qua cho rồi" này đã giết hại không biết bao nhiêu người Trung Quốc và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn mọn. 

Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi. 

Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa bạo quan ở Trung Quốc không bao giờ bị tiêu diệt. 

Trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, các vị có thể xem ở "Tư trị thông giám" (Một pho sử của Tư Mã Quang tóm hết chuyện hơn 2.000 năm để làm gương cho người đời sau), cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Trung Quốc mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế.

image

Nơi nào người Trung Quốc đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Trung Quốc trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được?  Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật "thích xem" (người khác đau khổ), hoặc "chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác". 

Họ luôn mồm "nhân nghĩa" mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: "Phải tử tế với người và súc vật!", trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.

Tóm lại, người Trung Quốc đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm?

Bá Dương
http://baomai.blogspot.com/2014/05/ke-thu-cua-nguoi-trung-quoc.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không biết thì không trách, biết mà cố ý sai lạc cần phải xem lại:

Việt Nam " thuộc Trung Quốc" bao giờ?

Hoàng Tuấn Phổ
Ảnh bên:Quỷ môn quan (Chi Lăng) với giặc Tàu xâm lược-“Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn”
Báo Pháp luật Việt Nam số ra ngày 24-5-2014 đưa tin: Hãng thông tấn RIA Novosti ngày 19-5-2014 đăng bài của ông Dmitry Kosirev, một nhà bình luận về chính trị của Nga viết: “Việt Nam là vùng đất thuộc Trung Quốc từ cách đây 2.000 năm”, và nhiều điều bịa đặt, xuyên tạc chung quanh vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, khiến dư luận Việt Nam phẫn nộ!
Chúng ta dễ hiểu ông Dmitry Kosirev chỉ là một nhà bình luận về chính trị mà chính trị lại không phải sử học, nhưng ông đã tỏ ra thông thái hạ đặt một câu hoàn toàn sai lầm như Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại vùng biển Việt Nam! Có lẽ vấn đề đặt ra phải ngược lại: Trung Quốc xâm lược Việt Nam từ bao giờ mới đúng tinh thần của bài bình luận.
Lịch sử Trung Quốc bắt đầu từ nhà Hạ 2140 năm trước Công nguyên (TCN) cùng thời với thời đại Hùng Vương nước ta được ghi chép rõ ràng trên những trang “sử đồng”, đó là nền văn hóa đồng thau Đông Sơn, sau khi phát hiện, thế giới phương Tây đã phải nghiêng mình về phương Đông, về Việt Nam! Nhà Hạ, trải qua nhà Thương, nhà Ân, nhà Chu (Tây Chu) rồi đến thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc, chia năm xẻ bảy, chư tử đua nói, quần hùng so gươm. Trong khi ấy, Việt Nam vẫn thống nhất một nhà, giang sơn một giải, lần lượt từ Hùng vương thứ nhất đến Hùng vương mười tám, gồm nhiều đời vua, cha truyền con nối, không cần đổi hiệu thay tên, vì chính trị nước ta buổi đầu lập quốc ưa giản dị, chuộng tiện lợi.
Sau thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc, nước Tần vốn chỉ là một chư hầu yếu. Tần Trang Tương vương phải sang nước Triệu làm con tin. Tương vương thích người thiếp yêu của Lã Bất Vi xin lấy làm vợ, sinh ra Tần Doanh Chính. Khi Tương vương chết, Doanh Chính được lập làm Tần vương (-217 TCN) giao chức Thừa tướng cho Lã Bất Vi, mưu đồ bá chủ thiên hạ. Bấy giờ Việt Nam trước tình hình các cường quốc phương Bắc nổi lên đánh giết lẫn nhau, hai quốc gia nhỏ bé Lạc Việt và Âu Việt (Tây Âu) phải hợp nhất để chống ngoại xâm. Sự kiện chiến tranh Hùng - Thục không nói lên mâu thuẫn dân tộc, chỉ là cách giải quyết quyền lợi của hai tập đoàn lãnh đạo: Hùng vương 18 với An Dương vương Thục Phán. Họ Thục đại diện cho lực lượng mới trỗi dậy giành thắng lợi, xây dựng nhà nước Âu Lạc mới hùng mạnh với quốc đô Loa Thành độc đáo, kỳ vĩ, với vũ khí kỳ diệu “nỏ thần” mỗi phát bắn ra trăm mũi tên khiến kẻ địch vô cùng sợ hãi. Chuyện này không phải chỉ là truyền thuyết Việt Nam, chính sử sách xưa Trung Quốc thường nhắc tới một cách kính phục.
Tần vương xâm lược các nước chư hầu, tàn sát dã man, trải 25 năm núi xương sông máu để mở rộng đất đai, vơ vét vàng ngọc, tận thu gái đẹp, đem thân người xây trường thành Vạn Lý, dùng mỡ dân dựng hàng trăm cung điện tráng lệ… Tần vương xưng tôn hiệu Tần Thủy Hoàng đế, lấy “thủy” chế “hỏa”, vị hoàng đế con trời khởi đầu của đế chế phương Bắc, coi nước mình là trung tâm thế giới, văn minh, hùng mạnh không ai bằng!
Đặc biệt về văn hoá, Tần Thuỷ Hoàng cũng đạt tới đỉnh cao sự nghiệp tàn bạo là “phần thư khanh nho” (đốt sách chôn sống học trò). Tất cả sách sử của liệt quốc, các học thuyết của bách gia chư tử đều phải đốt hết ! Thậm chí Kinh thư,Kinh thi cũng không ngoại lệ. Đến nỗi hai người dám bàn nhau về nội dung của chúng thì bắt chém giữa chợ! Kẻ nào lấy việc đời xưa mà chê đời nay sẽ bị giết cả họ! Thuỷ Hoàng sai ngự sử xét tất cả các nhà Nho và chôn sống một lúc hơn trăm người ở Hàm Dương và đày nhiều người ra biên giới làm lính thú... Nói theo ngôn ngữ hiện đại, Tần Thuỷ Hoàng là nhà lãnh đạo đầu tiên của Trung Quốc làm “cách mạng tư tưởng văn hoá”, tiêu diệt tất cả những gì không phải của nhà Tần, không thuộc ý muốn Hoàng đế!
Tần Thuỷ Hoàng ở ngôi 37 năm, truyền cho Hồ Hợi (Tần Nhị thế) được 3 năm thì mất. Trung Quốc đại loạn. Mầm mống chiến tranh đã phát sinh từ lúc Thuỷ Hoàng đang ngất ngây chiến thắng. Bái Công khởi nghĩa, Hạng Vũ diệt Tần, chia đất Tần làm ba, làm chủ thiên hạ, phong vương các chư hầu. Rồi cả Trung Hoa thành biển lửa chiến tranh!...
Sử gia Trung Quốc ca ngợi Tần Thuỷ Hoàng có công thống nhát nước Trung Hoa vĩ đại. Nhưng nước Trung Quốc, sự thực, suốt hơn 2.000 năm phong kiến chưa bao giờ xứng danh giang sơn thống nhất. Tần Thuỷ Hoàng “thống nhất giang sơn” không dùng uy đức để thu phục, ân huệ để vỗ về, mà bằng lưỡi gươm bạo ngược, ngọn lửa hung tàn, đáng được tôn thờ làm ông tổ bành trướng xâm lược của các thiên triều Trung Quốc muôn đời sau.
Tư Mã Thiên, nhà sử học vĩ đại nhất của Trung Quốc, sống cùng thời với Hán Vũ đế, biết rõ hơn ai hết âm mưu bành trướng xuống phương Nam của nhà Hán. Ông viết trong Sử ký:
Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đầy đến ở lẫn với người Việt (Dương Việt)... Triệu Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, quận Nam Hải. Đến đời Tần Nhị thế, quan uý ở Nam Hải là Nhâm Ngao ốm sắp chết, khuyên Triệu Đà nhân lúc thiên hạ đại loạn chiếm lấy 3 quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải, tự lập làm vua.
Triệu Đà nghe lời Nhâm Ngao, giết trưởng lại nhà Tần, dùng đồng đảng thay thế.
Năm 206 TCN, Bái Công diệt Hạng Vũ, lập triều Hán, biết Triệu Đà cát cứ 3 quận phía Nam, nhưng còn bận nhiều việc, tạm để lại, hỏi tội sau. Triệu Đà đem binh lực, một mặt uy hiếp biên giới, mặt khác dùng thủ đoạn cướp chiếm hai nước láng giềng: Mân Việt và Âu Lạc. Nhà Thục An Dương vương lập quốc từ năm 306 TCN. Ông chủ quan, mất cảnh giác, tưởng có thể đánh bạn được với Triệu Đà để tạo phúc cho nhân dân, nào ngờ mắc mưu sâu kế hiểm bị mất nước trắng tay. Năm 179, Triệu Đà chia nước ta làm 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sáp nhập với các quận khác thành quốc gia Nam Việt. Ông ta tự xưng Nam Việt Vũ vương.
Nhà Hán sai sứ Lục Giả sang Nam Việt hỏi tội Triệu Đà. Triệu Đà búi tóc, đầu không đội mũ, áo không đai, chân đất, ngồi xổm tiếp sứ Hán. Lục Giả trách Triệu Đà tại sao quên hết lễ nghĩa? Triệu Đà giật mình thưa: “Tôi ở xứ Man đã lâu nên quên hết lễ nghĩa!” Rồi cúi đầu xin lỗi. Tiếp theo, sứ Hán hạch tội Đà tự lập làm “đế” mà không hề phái người sang báo tin. Triệu Đà lựa lời chống chế: “Phương Nam đất thấp, ẩm, ở giữa là dân man-di. Phía đông là đất Mân Việt, chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”. Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự mua vui nơi xa xôi hẻo lánh, đâu dám để thiên tử bệ hạ phải nhàm tai!”
Triệu Đà dập đầu xuống đất tạ tội, xin mãi mãi làm phiên thần nhà Hán, đời đời dâng lễ cống.
Trước đây nhân dân Mân Việt và Âu Lạc lầm tưởng Triệu Đà lập nước riêng nên theo ông ta để chống lại âm mưu bành trướng xâm lược của nhà Hán, nay mới biết ông ta xảo trá, hèn hạ. Năm 137 TCN, Triệu Đà mất. Con trai là Trọng Thuỷ tự biết tội đánh lừa Mỵ Châu, giết hại An Dương vương để cướp nước Âu Lạc, đã nhảy xuống giếng chết theo vợ. Cháu Triệu Đà (con Trọng Thuỷ) là Hồ làm Nam Việt vương. Nhân cơ hội họ Triệu suy yếu, vua cũ của nước Mân Việt bị Đà xâm chiếm là Dĩnh đem binh đánh phá các huyện ấp: Hồ vương dâng thư lên vua Hán nói: Mân Việt đem binh xâm lấn đất của thần, xin thiên tử đưa quân đến giúp! Nhà Hán tiêu diệt xong Mân Việt, muốn lấy luôn Âu Lạc, sai sứ giả thuyết phục Anh Tề (mới thay Hồ vương). Mẹ Anh Tề là người Hán muốn đem nước nội thuộc Hán. Thừa tướng Lữ Gia không đồng ý, giết cả Anh Tề và Cù thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán, lập Kiến Đức lấy vợ người Việt lên thay.
Năm 111 TCN, nhà Hán sai Lâu Thuyền tướng quân và Phục Ba tướng quân đem binh đáng Lữ Gia. Ông tuổi cao sức yếu, quân ít, đánh không lại kẻ địch quá mạnh nên bị bắt và bị giết.
Về cuộc kháng chiến của quân dân Âu Lạc (Việt Nam) vô cùng anh dũng chống lại đến cùng đại binh xâm lược nhà Hán. Thái sử công (Tư Mã Thiên) nhận xét trong tác phẩm Sử ký vĩ đại: “Âu Lạc đánh nhau làm rung động nước Nam Việt”.
Tần Thuỷ Hoàng đánh chiếm cả Trung Quốc nhưng chưa bao giờ dám sai quân tiến vào Âu Lạc. Một số sách sử, địa chí viết “Thời Tần nước ta thuộc Tượng Quận” là sự nhầm lẫn đáng trách. Kẻ xâm lược đầu tiên nước ta là Triệu Đà. Nhưng kể từ năm 111 TCN, nước ta mới chính thức “nội thuộc” Trung Quốc.
Các nhà chép sử thường dùng danh từ “nội thuộc” với “nghìn năm Bắc thuộc” là xét về phương diện hành chính. Thực tế, trong khoảng nghìn năm ấy, nước Việt Nam chưa bao giờ “thuộc” Trung Quốc. Ngọn lửa yêu nước luôn luôn cháy âm ỉ trong lòng dân tộc, để chờ cơ hội lại bùng lên thành những cuộc bạo động giết giặc, những phong trào khởi nghĩa lớn đánh đuổi chính quyền đô hộ, giành quyền độc lập, tự chủ. Bà Trưng năm 40 SCN. Bà Triệu năm 248. Lý Nam đế 571-603 (32 năm). Triều vua Tiền Lý đến Hậu Lý, cộng 59 năm, thời gian tồn tại dài hơn rất nhiều triều đại Trung Quốc, như Tiền Nguỵ 45 năm (220-265), nhà Thục thời Tam Quốc 43 năm (221-264), Đông Ngô 58 năm (222-280), Tây Tấn 52 năm (265-317), Tiền Tống 59 năm (220-279), Nam Tề 23 năm (479-502), Nam Lương 55 năm (502-557), Hậu Lương 30 năm (557-587), Trần 33 năm (557-589), Đông Nguỵ 16 năm (534-558), Tây Nguỵ 21 năm (535-556), Bắc Tề 28 năm (550-578), Bắc Chu 24 năm (557-581), Tuỳ 37 năm (581-618), Hậu Lương 16 năm (907-923), Hậu Đường 13 năm (923-936), Hậu Tấn 11 năm (936-947), Hậu Hán 4 năm (947-951), Hậu Chu 9 năm (951-960)... Các cuộc khởi nghĩa xây dựng nền tự chủ: Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-789), Phùng An (789-791), Dương Thanh (819-820), Họ Khúc (907-930), Dương Đình Nghệ (931-937)... cộng 215 năm liên tục đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang, cuối cùng năm 939, Ngô Quyền kết thúc “nghìn năm Bắc thuộc”, trừ đi thời gian Việt Nam độc lập tự chủ, chỉ còn hơn 700 năm dưới ách đô hộ tàn bạo của phương Bắc. Cho nên, “nghìn năm Bắc thuộc” chỉ là con số phiếm chỉ.
Trong khoảng thời gian hơn 700 năm, thực tế Trung Quốc đặt ách thống trị hà khắc lên đất nước Việt Nam, chính quyền đô hộ không một ngày ăn ngon ngủ yên. Chính sách cai trị của chúng càng bạo ngược càng đào sâu mồ chôn lũ cướp nước.
Trung Quốc và Việt Nam tuy lớn nhỏ khác nhau, cùng thời gian lịch sử hơn 4.000 năm. Nước Trung Quốc chưa bao giờ được thống nhất. Những danh xưng Tàu, Trung Hoa, Trung Quốc,... chỉ là đại diện. Đất nước luôn luôn chiến tranh, thành trì luôn luôn bị làm cỏ, nhân dân lầm than đói khổ, các tập đoàn phong kiến xâu xé lẫn nhau, xưng hùng xưng bá. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX, Trung Quốc bị nước Liêu cai trị 305 năm, nước Kim đô hộ 122 năm, nước Mông Cổ chiếm đoạt 162 năm, người Mãn Thanh thống trị tới 329 năm, tổng cộng 921 năm, chiếm 1/4 lịch sử Trung Quốc. Thời gian này, trên cơ sở đã lấy lại hoàn toàn độc lập, tự chủ, Việt Nam vùng dậy như con rồng vàng Thăng Long tung cánh bay lên, bay lên, khiến mọi kẻ thù xâm lược (Tống, Nguyên, Minh, Thanh) đều kinh hồn khiếp vía!
Câu chuyện “Việt Nam là vùng đất thuộc Trung Quốc từ cách đây 2.000 năm” là hoàn toàn bịa đặt, khả năng hư cấu hạng bét!
Không cần nói 4.000 năm, chỉ nhìn 2.000 năm trở lại đây, chúng ta thấy rõ nhất một nước Trung Quốc đầy tham vọng to lớn nhưng không vượt nổi cửa ải Quỷ môn quan (Chi Lăng) “Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn”. Lý tưởng đế chế phong kiến phương Bắc là xâm lược bành trướng để đất đai rộng tới chân trời. Cái dạ dày vĩ đại không biết no này luôn luôn nghĩ đến đất, đất và đất, chưa bao giờ hướng ra biển Đông, một thế giới khác chỉ có sóng gió, nhấp nhô mấy hòn đảo sỏi đá hoang vu không một bóng người!
Giấc mơ bá chủ địa đầu chợt tỉnh giấc! Thời đại biển đảo quý hơn vàng ngọc, kim cương. Ông khổng lồ Trung Quốc chợt nhận ra người tý hon Việt Nam “bé mà bé hạt tiêu”, từ cách đây mấy trăm năm đã nắm lấy chủ quyền suốt dải Hoàng Sa - Trường Sa dài dằng dặc. May quá, ông nhanh tay cướp được Hoàng Sa (1974) rồi vẽ ra cái “đường lưỡi bò” có thể thè ra thè mãi... Mới đây ông đặt giàn khoan, vẽ mới bản đồ, viết lại lịch sử, những bài học của bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng đã thuộc làu làu./.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp tục đưa ra những lập luận cũ kỹ và thiếu tính lập luận khi nói về tình hình căng thẳng hiện nay ở Biển Đông, xuất phát từ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam.

(Dân trí) 
 >>  Đại sứ Việt Nam đăng đàn, phản pháo luận điệu xuyên tạc của Trung Quốc 
 >> Trung Quốc đối đáp vô lý về phát biểu của Tổng thống Obama

Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Malaysia Najib Razak họp báo chung sau hội đàm.
Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Malaysia Najib Razak họp báo chung sau hội đàm.
Tại cuộc gặp với Thủ tướng Malaysia Najib Razak ngày hôm qua ở Bắc Kinh, ông Tập Cận Bình khẳng định Trung Quốc trân trọng hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Ông cũng nói rằng Trung Quốc sẽ có những phản ứng “ở mức độ cần thiết” đối với tình hình hiện nay ở vùng biển này và tái khẳng định quan điểm của Bắc Kinh phản đối quốc tế hóa các tranh chấp trong khu vực.
Đây là lần đầu tiên Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trao đổi trực tiếp về vấn đề Biển Đông với Thủ tướng Malaysia Najib Razak, một trong 4 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có tranh chấp tại Biển Đông với Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong các phát biểu đưa ra, ông Tập Cận Bình không đưa ra được các lập luận sắc bén, mà chỉ lập lại những quan điểm phi lý cố hữu của Trung Quốc tại vùng biển có ý nghĩa chiến lược quốc tế này.
"Tình hình hiện tại Biển Đông nói chung ổn định, song các dấu hiệu đáng để lưu ý cũng bắt đầu xuất hiện... Chúng tôi sẽ không bao giờ gây rối, song sẽ phản ứng ở mức độ cần thiết đối với những hành động gây hấn của các nước hữu quan", ông Tập nói.
Với những căng thẳng ở Biển Đông hiện nay, với các vụ tàu Trung Quốc đâm va và bắn vòi rồng gần như hàng ngày vào các tàu chấp pháp của Việt Nam, và gần đây nhất là vụ đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, thì việc Chủ tịch Tập Cận Bình nói rằng “tình hình tại Biển Đông nói chung ổn định” và Trung Quốc “không bao giờ gây rối” chẳng khác nào hành động lảng tránh sự thật. Sự lảng tránh đó xuất phát từ việc Bắc Kinh không thể giải thích được về những hành vi ngang ngược này cũng như việc nước này ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng biển của Việt Nam.
Không chỉ chối bỏ sự thật, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình còn lảng tránh các cuộc đàm phán đa phương về căng thẳng tại Biển Đông khi kiên quyết phản đối việc phức tạp hóa, mở rộng và quốc tế hóa các tranh chấp khu vực về chủ quyền.
Lâu nay, Trung Quốc vẫn kiên trì quan điểm chỉ đối thoại về tranh chấp Biển Đông với từng quốc gia liên quan hòng tận dụng lợi thế nước lớn để gây ảnh hưởng và sức ép lên các nước này.
Trong cuộc gặp với Thủ tướng Malaysia Najib Razak cũng vậy, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tranh thủ kêu gọi tăng cường đối thoại song phương nhằm duy trì ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên, Thủ tướng Najib Razak khẳng định việc đối thoại cần được thực hiện giữa các bên có tuyên bố chủ quyền.
“Các bên tuyên bố chủ quyền sẽ giải quyết bất đồng một cách phù hợp thông qua trao đổi thông tin và đối thoại trực tiếp”, Thủ tướng Najib nhấn mạnh.
Thủ tướng Najib đang có chuyến thăm chính thức 6 ngày tới Trung Quốc. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh tình hình Biển Đông hết sức căng thẳng sau khi Trung Quốc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Đây là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Thủ tướng Najib kể từ sau vụ mất tích máy bay mang số hiệu MH-370 chở 239 người, trong đó phần lớn là hành khách Trung Quốc.
Vũ Anh 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhật thách ra tòa, Trung Quốc tái mặt


Đăng Bởi  - 
Thủ tướng Abe muốn cảnh báo với thế giới vì thái độ độc đoán của Trung Quốc
Thủ tướng Abe muốn cảnh báo với thế giới vì thái độ độc đoán của Trung Quốc
Trong bài phát biểu tại Hội nghị đối thoại Shangri-La, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã dùng những lời lẽ đanh thép nhắm vào phía Trung Quốc. Ngoài việc bóc trần các hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông trong thời gian qua, ông Abe còn có một nước cờ khiến Trung Quốc phải tái mặt.
Thủ tướng Abe lặp đi lặp lại nhiều lần, rằng tất cả các quốc gia phải tôn trọng "luật pháp" trong những lời chỉ trích hầu như không che đậy đối với hành vi của Trung Quốc trên quần đảo Senkaku và các vùng lãnh thổ khác. Nhưng không chỉ kêu gọi chung chung, Thủ tướng Abe đã đưa ra lời  “tuyên chiến pháp lý” với Trung Quốc ngay trước đông đảo phóng viên.
Senkaku là một "phần lãnh thổ của Nhật Bản", và có lẽ Trung Quốc nên nộp đơn khiếu nại lên tòa án nếu họ tin theo cách khác, ông nói. "Trung Quốc là một trong những thách thức hiện trạng", ông Abe nói. "Nhật Bản đang kiểm soát hiệu quả Senkaku".
Khi ông Abe thách Trung Quốc ra tòa, ông Abe đã cho thấy Nhật rất tự tin về phương diện luật pháp trong việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Đây là lần đầu tiên, người đứng đầu Chính phủ Nhật thách Trung Quốc theo đuổi một biện pháp mang tính pháp lý để giải quyết vấn đề trong khu vực.
Ngược lại, Trung Quốc từ xưa đến giờ luôn tuyên bố lãnh thổ, lãnh hải theo kiểu tùy ngôn, bất chấp luật pháp quốc tế và quyền lợi của láng giềng. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ dám theo đuổi những biện pháp mang tính tôn trọng pháp lý như đưa ra tòa án quốc tế.
Bối cảnh Thủ tướng Nhật Abe đưa ra lời thách thức pháp lý với Trung Quốc là ngay sau khi Philippines đưa ra những yêu cầu tương tự. Philippines đã đệ đơn ra tòa án quốc tế đòi phân xử về chủ quyền trên bãi Scarborough ngay sát bờ biển Philipppines. Trung Quốc dù nói họ có quyền lịch sử với khu vực này nhưng không dám cùng Philippines ra tòa để đấu pháp lý mà dùng "cơ bắp" để thách thức tại bãi Scarborough.
Vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hoạt động phi pháp trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gần quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Sau nhiều lần kêu gọi tôn trọng luật pháp quốc tế nhưng Trung Quốc tỏ ý bất hợp tác, Việt Nam đang xem xét khả năng đưa vụ việc ra tòa án quốc tế để làm rõ chủ quyền hợp pháp của Việt Nam. 
Cũng như với Philippines, Trung Quốc tìm những cách để từ chối biện pháp này vì Trung Quốc rất "sợ hãi"  khi không đủ chứng lý.
Nhật và ASEAN đang thắt chặt quan hệ trên nhiều lĩnh vực 
Khi Philippines lên tiếng ra tòa, Trung Quốc không dám đáp ứng thì quốc tế có thể chưa thấy hết được sự đuối lý của Trung Quốc trong tranh chấp với láng giềng. Nhưng nếu Việt Nam và Nhật đồng loạt đòi Trung Quốc giải quyết bất đồng bằng việc ra tòa thì quốc tế sẽ phải đặt nghi ngờ về những tuyên bố vô lý của Trung Quốc và thái độ bất tuân thủ luật pháp quốc tế của nước này.
Trung Quốc từ bỏ phương thức giải quyết bất đồng bằng con đường luật pháp quốc tế, thế giới sẽ càng hiểu vì sao các nước trong khu vực phải liên kết pháp lý với nhau để đối phó với thái độ hung hăng của Bắc Kinh. 
Không phải ngẫu nhiên mà ông Abe tuyên bố Nhật đồng ý viện trợ cho Philippines 10 tàu tuần tra phục vụ ở biển Đông, cho Indonesia 3 tàu và thúc đẩy việc cung cấp cho Việt Nam tàu tuần tra. Nhật đang bước đầu hình thành “liên minh pháp lý” để chống lại thái độ hung hăng bất chấp luật pháp của Bắc Kinh trên biển.
Trong tương lai gần, nếu Nhật và các nước ASEAN đồng khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế mà Bắc Kinh vẫn không dám ra tòa thì e rằng họ khó ngẩng mặt trên trường quốc tế.
Anh Tú (theo Stripes)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014

Biển Đông với mánh 'đục nước béo cò'

Trước đây, vì quan tâm vấn đề không phận - hải phận - biên giới lãnh thổ nên Lana đã tìm đọc ít nhiều thông tin về Trường Sa, Hoàng Sa ở nhiều thời điểm: Về Hải chiến Trường Sa 1988, Hoàng Sa 1974, về 'Công hàm 1958' TQ thâm nho diễn bài anh-em lừa cậu hàng xóm ngây ngố đang lục đục trong nhà để rồi lấy đó làm cớ vẽ đường lưỡi bò bao bọc 2 quần đảo này gom làm của mình. Vì những thông tin đọc được đều kiểu chắp nối, không có nguồn chính thống nào nên đành mình biết cho mình, nay đọc được bài này khá đầy đủ xin trích về đây chia sẻ. Người Việt nam yêu đất nước mình cần được biết mọi sự thật trong lịch sử của mảnh đất ấy, biết để thương hơn và nếu tình yêu còn đó thì sâu hơn, không để bắt lỗi, đơn giản thế thôi.


(Nguồn: ĐƠN ĐỘC - Huy Đức, Quechoa Blog)
... Hơn 300 năm trước, các Chúa Nguyễn đã đưa người đến Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1816, Gia Long chính thức thiết lập chủ quyền Việt Nam đối với cả hai quần đảo. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, bản vẽ năm 1838 của Nhà Nguyễn đã thể hiện hai quần đảo này với tên gọi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa. Năm 1920, Chính quyền Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ ở Đông Dương đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền và từ đó người Pháp hiện diện ở đây liên tục. Tháng 11-1946, khi người Pháp bắt đầu chiến tranh trở lại với Việt Minh, chỉ có thể đưa quân kiểm soát cụm phía Tây Hoàng Sa, Tưởng Giới Thạch đã cho đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa và tháng 12-1946, đổ bộ lên Itu Aba, thuộc Trường Sa. Sau khi bị Mao đuổi khỏi lục địa Trung Hoa, năm 1950, quân Tưởng rút khỏi hai hòn đảo mà họ giữ gần 4 năm trước đó.

Năm 1954, theo Hiệp định Geneve, Hoàng Sa ở phía Nam Vĩ tuyến 17 sẽ thuộc về chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng, tháng 4-1956, khi lực lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa ra tiếp quản, hai đảo lớn nhất đã bị "Quân giải phóng Trung Quốc" chiếm mất. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trên thực tế, cai quản liên tục bốn đảo chính: Pattle (Hoàng Sa); Robert (Cam Tuyền); Duncan (Quang Hòa Đông) và Drummond (Duy Mộng). Riêng đảo Pattle, Việt Nam còn có một đài khí tượng thuộc hệ thống quốc tế. Từ năm 1956, Việt Nam Cộng hòa, về mặt pháp lý, vẫn khẳng định chủ quyền trên phần bị Bắc Kinh chiếm đóng.

Tháng 4-1972, khi miền Bắc dồn lực trong một chiến dịch thảm khốc ở Quảng Trị. Người Mỹ cần Bắc Kinh làm ngơ để họ dội bom ra vĩ tuyến 20. Ngày 4-4-1972, Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để "trao một bức điện bằng lời", nhắn Trung Quốc: "Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách 12 dặm". Người Trung Quốc hiểu, nếu họ đánh Hoàng Sa, người Mỹ sẽ án binh bất động. Từ ngày 16-1-1974, Trung Quốc bắt đầu cho tàu ép sát Hoàng Sa. Theo Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: "Các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam". Nhưng, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã phải đơn độc chống lại Trung Quốc xâm lăng. Theo tướng Thoại: "Hạm Đội Bảy của Mỹ đã không làm gì kể cứu vớt các đồng minh lâm nạn". Kể từ ngày 19-1-1974, phần còn lại của Hoàng Sa Việt Nam bắt đầu bị Bắc Kinh chiếm đóng.

Tướng Giáp nhận được tin mất Hoàng Sa khi ông đang điều trị bệnh sỏi mật ở Liên Xô. Năm 1975, sau "chiến thắng Buôn Ma Thuột", Tướng Giáp kiến nghị Bộ Chính trị "tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo" mà miền Nam đang chiếm giữ. Ngày 2-4-1975, Tướng Giáp trực tiếp chỉ thị cho Tướng Lê Trọng Tấn lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng: "Tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa". Trước đó, ngày 30-3, Quân ủy cũng điện cho Võ Chí Công và Chu Huy Mân yêu cầu thực hiện. Chiều 4-4-1975, Quân ủy điện tiếp cho Quân khu V: "Kịp thời đánh chiếm các hòn đảo vùng Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết". Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo có tin quân đội Sài Gòn rút khỏi các đảo, Quân ủy gửi điện "tối khẩn" cho Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái: "Các anh cho kiểm tra và hành động kịp thời... Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện này một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm". Từ ngày 14-4-1975 đến ngày 28-4-1975, Quân Đội Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản tất cả những hòn đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ.

Cho dù, theo lệnh ngày 13-4-1975 của Tướng Giáp, Quân đội miền Bắc đã không đụng vào các hòn đảo do Trung Quốc khi ấy đang chiếm giữ. Nhưng, ngày 5-5-1975, khi Đài Tiếng nói Việt Nam công bố, "Hải quân Việt Nam đã giải phóng quần đảo Trường Sa", một phóng viên Tân Hoa Xã tên là Ling Dequan đang thường trú tại Hà Nội đã thấy "đắng chát ở trong miệng". Ling Dequan, sau đó, nói Nayan Chanda: "Tin Việt Nam chiếm các hòn đảo đến như một cú shock vì trước đó họ đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên những hòn đảo ấy". Mân Lực, tác giả cuốn sách "Mười năm chiến tranh Trung-Việt", cũng gọi hành động tiếp quản Trường Sa của Hải Quân Việt Nam là "ngang nhiên chiếm đóng 4 đảo trong quần đảo Nam Sa của Trung Quốc". Vì theo Mân Lực: "Từ năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai, rõ ràng xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng hiện nay họ tiền hậu bất nhất ngang nhiên tuyên truyền đây là lãnh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam".

Ngày 4-9-1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: "Hải phận 12 hải lý kể từ đất liền là của Hoa Lục". Ngày 14-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai công hàm mà đời sau có thể đọc được toàn văn trên báo Nhân Dân số ra ngày 22-9-1958: "Thưa đồng chí Tổng lý/ Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng".

Cho dù, theo Mân Lực, Tuyên bố của Chu Ân Lai "có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải rất rõ ràng (trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa)". Cho dù, theo ông Trần Việt Phương, người có 25 năm làm thư ký riêng cho Phạm Văn Đồng: "Lúc bấy giờ quan hệ Việt-Trung đang rất tốt. Về phía Việt Nam, đang có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản; quan niệm ngây thơ từ người cao nhất của Ta chứ không phải ở cấp độ vừa. Về phía Trung Quốc hiểu ra sự ngây thơ đó và đã có ý đồ không tốt. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam có trong máu hàng nghìn năm kinh nghiệm với Trung Quốc để, cho dù có sự 'ngây thơ quốc tế vô sản' cũng không đến mức có thể dẫn tới sự nhầm lẫn hoàn toàn".
"Công hàm 1958" là tuyên bố của một đồng minh, được đưa ra khi Mỹ đưa Hạm đội 7 hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe dọa chủ quyền của "đồng minh" Trung Quốc. Cho dù, "Công hàm 1958" tuyên bố những gì thì nó cũng hoàn toàn không có giá trị công nhận Hoàng Sa là của Bắc Kinh. Từ năm 1954 đến trước ngày 30-4-1975, theo Hiệp định Geneve được ký bởi các bên trong đó có Hà Nội và Bắc Kinh, thì Hoàng Sa và Trường Sa – ở thời điểm 1958 – không phải là phần thuộc về miền Bắc mà đang là lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc.

Sở dĩ những nhà văn, nhà báo như Ling Dequan, Mân Lực, bị shock khi nghe tin Việt Nam lấy lại Trường Sa, theo nhà nghiên cứu Dương Danh Di, với chính sách bưng bít thông tin, người dân Trung Quốc không hề biết Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ mà Việt Nam đã có chủ quyền liên tục hàng trăm năm, là phần lãnh thổ mà Chính quyền của họ mới "dùng vũ lực để cưỡng đoạt" trong thế kỷ 20 như những tên xâm lược.

Báo chí chính thống của Việt Nam, từ năm 1958, chưa bao giờ nhắc lại "Công hàm" của Phạm Văn Đồng, chưa giải thích "nội hàm" của tuyên bố ấy. Chính quyền, đã tới lúc nên tuyên bố về giới hạn pháp lý của Công hàm này, nên thừa nhận bản hiệp định (Geneve) mà mình đã đặt bút ký vào theo đó, Hoàng Sa và Trường Sa từ trước 30-4-1975 là phần lãnh thổ thuộc về Chính quyền Sài Gòn, nên dẫu Hà Nội có đưa ra tuyên bố gì thì cũng phải bị coi là "vô giá trị".
Đây không còn là chuyện "ăn-thua" với người anh em miền Nam mà là "mất-còn" với ngoại xâm. Đây cũng là lúc mà người dân tạm gác các bức xúc thường nhật để tập trung vào mối đe dọa đến từ phương Bắc.

*** Đọc thêm:
CHO MÌNH
MÌNH NÊN BIẾT

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ý kiến của Jonathan ( Bài đọc tham khảo )

Vài giải pháp cho Việt Nam

china's attacks, fishing vessesl, east sea, hoang sa
Viet Nam News
Những hỗn loạn và bạo lực bùng nổ ở Việt Nam cách đây hai tuần đã hút sự quan tâm của thế giới khỏi các nguyên nhân căn bản của căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam, và thật ra là giữa Trung Quốc và khu vực. Về bản chất, chúng xuất phát từ yêu sách vô căn cứ pháp lý của Bắc Kinh, đòi chủ quyền đối với hơn 80% biển của khu vực, và từ ý đồ của Bắc Kinh nhằm áp đặt tính chính đáng cho các yêu sách đó thông qua các biện pháp vũ lực.
Trên bình diện quốc tế, việc Bắc Kinh cho quân đội canh giữ giàn khoan dầu khổng lồ của họ trong vùng biển tranh chấp được hiểu là một hoạt động mang tính chính trị, nhằm thay đổi hiện trạng ở Đông Á. Còn đối với Việt Nam, hành động của Bắc Kinh buộc giới lãnh đạo Việt Nam phải suy nghĩ lại một cách cơ bản về tầm nhìn chiến lược của họ – một công việc vừa nguy hiểm vừa mang lại cơ hội. Hiện tại, lãnh đạo Việt Nam đối mặt với ba thách thức.
Thách thức thứ nhất là dọn dẹp và tái thiết, để giải quyết và vượt qua những hậu quả còn tồn đọng của các cuộc bạo loạn hai tuần trước. Rất cần phải nhấn mạnh rằng nguyên nhân chính xác của vụ hỗn loạn vẫn chưa được xác định, và trên thực tế, nguyên nhân đó có vẻ khác nhau tùy theo ba nơi xảy ra biến cố. Cũng cần phải lưu ý rằng bạo loạn xảy ra ở ba tỉnh chứ không phải 21, như nhiều nơi đã đưa tin sai. Chết chóc, thương tật, và thiệt hại như xảy ra đã không có lợi chút nào cho hình ảnh Việt Nam. Và những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm gia tăng áp lực, thông qua các biện pháp chính trị, kinh tế và quân sự, cũng vậy.
Liên quan đến các vụ bạo loạn, khó khăn lớn nhất của Hà Nội là mở rộng điều tra và đưa ra được một cách giải thích rõ ràng về nguyên nhân gây bạo loạn, tiến hành bồi thường nhanh chóng, và bằng mọi cách cần thiết, thể hiện cho toàn thế giới thấy tại Việt Nam vẫn sẽ là một môi trường đầu tư hấp dẫn. Người ta có thể hy vọng là những việc làm cụ thể theo hướng này đang được tiến hành.
Căn bản hơn, người dân Việt Nam đang đối diện với những quyết định về tương lai của đất nước. Trên thực tế, có hai nhóm câu hỏi khác nhau nhưng có liên quan đến nhau. Thứ nhất là nhóm các câu hỏi về những chiến thuật mà Việt Nam nên sử dụng để đáp lại lối hành xử của Bắc Kinh. Thứ hai là nhóm các câu hỏi về tầm nhìn chiến lược xa hơn của Việt Nam, các mối quan hệ và các điều kiện mà nước này cần để có thể sống trong hòa bình, thịnh vượng, và an ninh trong những năm tới và thập kỷ tới.
Việc Hà Nội phản ứng với Bắc Kinh một cách thận trọng và thăm dò là điều có thể thấy trước, khi mà sức mạnh của hai bên không cân xứng và thực tế là Việt Nam hiện tại không có đồng minh. Có quá ít lựa chọn, lãnh đạo Việt Nam cho thấy – ngày càng rõ ràng hơn – rằng họ không chấp nhận các yêu sách của Trung Quốc, và họ sẽ phản ứng chỉ bằng các biện pháp ngoại giao và pháp lý. Mặc dù mọi nước đều có quyền tự vệ, nhưng Việt Nam đã đúng khi nhấn mạnh yêu cầu phải tránh đối đầu quân sự. Quân sự hóa xung đột sẽ chỉ gây ra thất bại.
Nếu không có một đột phá về mặt ngoại giao thì theo quan điểm của chúng tôi, Hà Nội nên tiến hành ba bước sau đây:
1. Trước tiên, Hà Nội nên đề nghị Tòa án Quốc tế về UNCLOS ra một phán quyết rằng mọi cấu trúc tự nhiên trên biển Hoa Nam đều là đá và như vậy thì chỉ được hưởng 12 hải lý lãnh hải. Trong trường hợp đó, phần biển còn lại trong khu vực (trừ các vùng đặc quyền kinh tế – EEZ – của các nước) sẽ đều có quy chế của biển quốc tế. Yêu sách của Bắc Kinh, cho rằng quần đảo Paracel [tức là Hoàng Sa trong tiếng Việt] (mà họ chiếm đóng trái phép) xứng đáng có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý chắc chắn sẽ bị tuyên vô hiệu lực. Điều đó có nghĩa là, các đảo thuộc quần đảo Paracel mà hiện tại đang bị Bắc Kinh kiểm soát sẽ đều chỉ có lãnh hải 12 hải lý, và việc triển khai giàn khoan dầu tuần trước và tuần này sẽ là bất hợp pháp.
2. Thứ hai, Việt Nam nên tham gia vụ kiện của Philippines, kiện đường 9 đoạn, dựa trên căn cứ rằng không thể có vùng nước lịch sử nào cả, trừ phi đó là một cái vịnh; mọi yêu sách về chủ quyền trên biển đều phải đặt cơ sở trên đất.
3. Thứ ba, Hà Nội nên xem xét hủy bỏ tất cả các yêu sách đối với những cấu trúc đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và Malaysia, và ngồi vào bàn đàm phán, thỏa thuận với các quốc gia ASEAN khác cũng có yêu sách chủ quyền, để công nhận chủ quyền đối với những cấu trúc đá mà hiện tại các nước đó đang nắm giữ. Căng thẳng trên biển Hoa Nam chưa hề có dấu hiệu giảm bớt. Hà Nội và Manila có thể hiện ra rằng họ muốn hữu nghị với Trung Quốc đặt trên cơ sở tôn trọng, hợp tác, tuân thủ các điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế. Hà Nội và Manila nên đi trước để làm gương, và nên ngay lập tức giải quyết tranh chấp giữa chính họ với nhau, đồng thời tìm cách kết nối với Malaysia, Indonesia và các đối tác khác.
Quay trở lại với chuyện tương lai của Việt Nam. Việc căng thẳng gia tăng trên Biển Đông của Việt Nam đã gây ra một loạt diễn biến, buộc Hà Nội và thật ra là toàn thể người dân Việt Nam phải đánh giá lại tầm nhìn chiến lược của nước mình. Rất nhiều người ở Việt Nam tin rằng cách bảo vệ đất nước tốt nhất là thoát Trung, bằng cách tiến hành những cải cách thể chế “thay đổi cục diện” – vốn dĩ cần thiết để giành được sự ủng hộ của khu vực và quốc tế. Những cải cách đó bao gồm cả cam kết thực thi nhà nước pháp quyền, thực thi các sửa đổi hiến pháp căn bản, và làm cho Việt Nam phù hợp một cách nhanh chóng và thực chất với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền mà chính Nhà nước Việt Nam đã cam kết.
Mặc dù các bước đi táo bạo đó có thể bị nhiều người cho là bất khả thi về chính trị, hay nói đơn giản là không thể thực hiện được, nhưng các bạn hãy dành một phút để nhớ lại rằng, Việt Nam hiện đang đối đầu Trung Hoa một cách cô độc. Tuy Việt Nam vẫn phải theo đuổi quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, nhưng họ chỉ có thể sống trong an toàn, an ninh, được thế giới tôn trọng và ủng hộ, mà điều đó chỉ có thể có được nếu các lãnh đạo và nhân dân của họ xây dựng một tương lai trong đó Việt Nam được độc lập, tự do, và có một trật tự xã hội dân chủ hơn, minh bạch hơn. Cũng giống như với Myanmar, thế giới có thể ủng hộ Việt Nam ngay lập tức.
Điều mà Trung Quốc, Việt Nam, và toàn thể khu vực cần là năng lực lãnh đạo tốt hơn và có trách nhiệm hơn. Từ Đông Bắc Á cho đến Đông Nam Á, các nhà lãnh đạo của Đông Á phải phối hợp thúc đẩy hòa bình và trật tự trong khu vực trên cơ sở hợp tác thay vì hăm dọa.
Giới lãnh đạo chính trị Trung Hoa đã liên tục nói về sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Nhưng chỉ có chính họ phải chịu trách nhiệm về việc Trung Quốc nhanh chóng bị các nước láng giềng trong khu vực căm ghét và làm cho Mỹ cũng như các siêu cường khác trên thế giới lo ngại. Nếu muốn có hòa bình và trật tự ở châu Á Thái Bình Dương, Bắc Kinh phải áp dụng các chuẩn mực quốc tế, phải từ bỏ đường 9 đoạn vô căn cứ pháp lý, và phải bắt đầu công việc đàm phán, thương lượng một cách chính trực hơn. Khi đó và chỉ khi đó, Trung Quốc mới giành được sự tin tưởng và tôn trọng của khu vực và thế giới.
Người viết: Jonathan Đ. London và Vũ Quang Việt

Phần nhận xét hiển thị trên trang